Showing posts with label địa danh. Show all posts
Showing posts with label địa danh. Show all posts

Wednesday 13 April 2022

Bà Rôm là ai?



Lê Đức Dục và Phạm Xuân Dũng giải thích nguồn gốc địa danh đồn điền Bà Rôm / Mụ Rôm như sau:

Đường 9 hoàn thành, công cuộc khai thác thuộc địa của người Pháp cũng đã được cấp thời tiến hành với hàng loạt đồn điền mọc lên dọc đường 9 như đồn điền cà phê của một bà đầm người Pháp tên Camerom mà dân quen gọi là đồn điền “Bà Rôm” (nay thuộc xã Tân Hợp, huyện Hướng Hóa), các đồn điền mang tên các ông chủ Tây như Poilan, Lavan, Pecada, Alain, Auperi...

(Đường 9 - dâu bể trăm năm - Tuổi Trẻ Online (tuoitre.vn)

Xem giấy tờ của Phòng Nông Phố Trung Kỳ (Chambre Mixte d’Agriculture et de Commer de l’Annam) thấy Bà Rôm chính là Mme Rome. Tên đầy đủ của bà là Marie Rome. Có tên ông Rome, thường là bên trên tên bà, trong các danh sách của Phòng Nông Phố Trung Kỳ.

Tạp chí Journal d’Agriculture et de Botanique Appliquée (Nông Nghiệp và Thực Vật Học Ứng Dụng) năm 1935, số 167 và số 168 có đăng bài “Aperçu sur la culture du caféier en Indochine française”, trong đó tác giả A. Rome có nhắc đến đồn điền của mình ở vùng cao Quảng Trị (số 168, tr.612: Sur notre plantation du Haut Quang Tri – le Borer se comporte de même au Kontum et dans tout le Sud-Annam – nous avons remarqué que la galerie du Borer avant de s’enfoncer dans l’intérieur de la tige décrivait une ou plusieurs spires presque en surface du tronc sous l’écore). Nhiều khả năng ông A. Rome này chính là chồng của bà Rome.

Sunday 2 January 2022

Những giả thuyết về nguồn gốc tên gọi Cochinchine (Huỳnh K. Nho & Trần Thanh Ái - Nghiên Cứu Lịch Sử)

 

Đối với rất nhiều người Việt, cái tên Cochinchine(1) hoàn toàn xa lạ, vì nó là thuật ngữ địa lý mà người phương Tây áp đặt cho nước ta, còn nhiều độc giả trí thức thì thường nghĩ ngay rằng tên gọi này được người Pháp dùng để chỉ Nam kỳ thời Pháp thuộc. Thực ra vấn đề này không hề đơn giản như vậy, vì tên gọi ấy đã xuất hiện trước khi người Pháp đến Việt Nam hơn 300 năm: nhiều tác giả thế kỷ XVI đã từng gọi nước Đại Việt bằng cái tên ấy, như F. Xavier (1549), G. B. Ramusio (Ý, 1550), J. Barros (Bồ Đào Nha, 1552), F.L. Castanheda (Bồ Đào Nha, 1553), A. Thevet (Pháp, 1575), F. Belle-Forest (Pháp, 1575), Richarde Willes (Anh, 1577), G. Mendoҫa (Tây Ban Nha, 1585), H. Linschoten (Hà Lan, 1596). Nhưng mãi đến năm 1866, Legrand de la Liraye mới biết là Joao Barros đã dùng chữ Cauchy-china để chỉ vùng đất nằm trên lộ trình đi Trung Hoa của các sứ giả Bồ Đào Nha sau khi đã chiếm được Malacca năm 1511. Sau đó, trong các tài liệu của các nhà truyền giáo châu Âu vào đầu thế kỷ XVII như C. Borri, A. de Rhodes, chữ này chỉ được dùng để chỉ xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn. Nhưng thế rồi từ 1861 chữ này chỉ còn dùng để chỉ Nam Kỳ lục tỉnh mà thôi. Chính vì thế mà nó cũng gây ra không ít ngộ nhận khi người đọc phải tiếp xúc với tài liệu phương Tây, nhất là các tài liệu liên quan đến các thế kỷ XVI-XVII.

Tuy nhiên, sự ngộ nhận ấy chỉ xuất hiện khi người đọc không lưu ý đến năm phát hành tài liệu, còn nguồn gốc chữ Cochinchine lại là một nghi vấn từ hơn một thế kỷ nay, đến tận bây giờ vẫn còn thu hút sự quan tâm của nhiều người. Có lẽ người Việt Nam đầu tiên đề cập đến nguồn gốc tên gọi Cochinchine là Nguyễn Văn Tố trong bài viết “Quốc hiệu nước ta” đăng trên Tri Tân Tạp chí số 1 năm 1941, tuy nhiên ông cũng chỉ nêu vấn đề mà thôi. Còn ở phương Tây thì ngay từ thế kỷ XVII đã có nhiều người đưa ra nhiều lời giải thích khác nhau với mức độ thuyết phục khác nhau. Trong bài viết này chúng tôi sẽ tổng hợp các cách lý giải về nguồn gốc chữ Cochinchine, kể cả những cách ngây ngô, mà người ta gọi là từ nguyên học dân gian (folk etymology), để độc giả có cái nhìn toàn diện. Chúng tôi gọi tất cả những ý kiến đó là giả thuyết, kể cả những ý kiến đã được chứng minh một cách thuyết phục và ngày càng được củng cố bởi nhiều dữ liệu mới được phát hiện. Để độc giả tiện theo dõi, chúng tôi sẽ điểm lại các giả thuyết theo thứ tự thời gian xuất hiện của chúng.

Cũng cần nhắc lại là tên Đại Việt của nước ta đã có từ thế kỷ XI, nhưng trong ngôn ngữ đời thường, người ta thường gọi là nước Nam, hoặc An Nam, như A. de Rhodes đã ghi nhận trong từ điển của ông. Điều này cho thấy là chữ Cochinchine do người nước ngoài tạo ra để gọi nước ta, chứ không phải là kết quả của sự phiên chuyển từ cách gọi của người Việt.

Giả thuyết 1: Gọi theo sách địa lý cổ đại châu Âu

Tài liệu được biên soạn sớm nhất có đề cập đến nguồn gốc của chữ Cochinchine có lẽ là quyển Declaraçam de Malaca e India meridional com o Cathay do Godinho de Eredia viết vào năm 1613, nhưng mãi đến năm 1882 mới được biết đến qua bản dịch tiếng Pháp. Godinho de Eredia sinh ra và lớn lên ở Malacca, theo học ở trường dòng tên ở đây và sau đó được gởi đi học tiếp ở Goa (Ấn Độ). Có lẽ vì thế mà ông tiếp nhận được cả hai mảng kiến thức địa lý của Tây phương và Đông phương, nên ông có cái nhìn đối chiếu giữa kiến thức địa lý cổ đại châu Âu và thực tế phương Đông. Trong phần giới thiệu Trung Hoa, ông luôn liên hệ kiến thức địa lý mà hai nhà nghiên cứu Pline và Ptolémée đã để lại. Khi nói đến phần lãnh thổ Đại Việt, ông hé lộ thông tin liên quan đến nước ta ngày ấy như sau:

“Nước Trung Hoa ngày xưa được các nhà địa lý cổ đại [châu Âu] phân chia thành ba tỉnh: thứ nhất là Sim hoặc Chim, thứ hai là Mansim hoặc Machim, còn được gọi là Đại Trung Hoa, thứ ba là Coc Sim hay Cochim, còn được gọi là Tiểu Trung Hoa.” (Godinho de Eredia 1882, tr. 75)

Và ở chương sau đó Godinho de Eredia cung cấp thêm thông tin: “Người ta đã gán cái tên Coc Sim nghĩa là Tiểu Trung Hoa cho nước Coc Sim tức Cochim china, là thuộc quốc của Nam Kinh, mặc dù nó có vẻ lệ thuộc vào nước Sim” (tr. 79). Qua trình bày của Godinho de Eredia người đọc hiểu rằng tên gọi Cochim china xuất phát từ chữ Coc Sim mà ông cho là đã được ghi trong sách địa lý của Ptolémée. Vì Godinho de Eredia không nêu rõ chi tiết các trích dẫn nên chúng tôi chưa thể kiểm chứng được giả thuyết này.

Giả thuyết 2: Người Bồ Đào Nha gọi theo người Nhật

Có lẽ giáo sĩ C. Borri là người được biết đến sớm nhất về việc giải thích nguồn gốc của tên gọi Cocincina(2): năm 1631 trong quyển Relatione della nuova missione delli P.P. della Compagnia di Giesù al Regno della Cocincina xuất bản tại Roma, ông cho rằng chữ Cocincina là cách mà người Bồ Đào Nha gọi theo người Nhật:

“Xứ Cocincina, như người Bồ Đào Nha gọi, có tên bằng tiếng bản địa là An nam, nghĩa là vương quốc này nằm ở phía tây(3) so với Trung Hoa. Người Nhật cũng gọi xứ này là Coci, trong ngôn ngữ của họ cũng có nghĩa là An Nam như trong ngôn ngữ của người Cocincina. Nhưng khi người Bồ Đào Nha vào đây buôn bán, họ ghép chữ Coci với chữ Cina để tạo thành chữ Cocincina để gọi xứ này, như thể muốn nói là Cocin của Cina, để phân biệt với Cocin là một đô thị của Ấn Độ, là nơi mà người Bồ Đào Nha cũng thường tới lui.” (Borri C. 1631, tr. 5-6)

Có lẽ Borri nghe người Nhật phát âm chữ 交阯 hay 交趾 (Giao Chỉ) mà người Trung Hoa thường dùng để gọi nước ta, vì thời bấy giờ người Nhật còn chịu ảnh hưởng nặng nề của nền học thuật Trung Hoa như các nước đồng văn khác. Thật vậy, đến đầu thế kỷ XVII người Nhật vẫn còn gọi nước ta là Kochi (4)mà ngày nay chúng ta vẫn còn tìm thấy trên nhiều chứng cứ lịch sử. Về việc có nhiều cách viết khác nhau trên các tài liệu, Borri cũng giải thích như sau:

“Còn về việc trên các bản đồ thế giới Cocincina thường được ghi là Caucincina hay Caucina hoặc những chữ giống như vậy, đó chẳng qua là do hiện tượng phát âm sai lệch của danh từ riêng này, hoặc là vì các tác giả bản đồ ấy muốn nói là vương quốc này là cửa ngõ và là nơi bắt đầu của Trung Hoa.” (Borri C., tr. 6)

Gần hai thế kỷ sau, nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng như Malte-Brun cũng tán thành giả thuyết này, góp phần truyền bá rộng rãi cách giải thích này trên thế giới: “Người Nhật gọi xứ sở nằm ở phía Tây Trung Hoa là Cotchin-Djina, và thế là người châu Âu gọi theo họ.” (Malte-Brun 1827, tr. 282)

A. de Rhôdes cũng cho rằng chữ Cochinchine được người Bồ Đào Nha sáng tạo ra khi tiếp xúc với người Nhật, nhưng lại cho rằng thành tố Cochin- xuất phát từ tên kinh đô nước An Nam mà ông gọi là Che ce, có lẽ ông muốn nói đến tên Kẻ Chợ:

“Vì tên của kinh đô nước An Nam là Che ce, và các thương nhân người Nhật đã từng buôn bán ở đó gọi chệch nó là Coci nên những người Bồ Đào Nha buôn bán với họ đã tạo ra chữ Cocinchine [sic] để phân biệt Coci với Cocin gần Goa của Ấn Độ, như thể muốn nói Cocin gần Trung Hoa. Và tên gọi này không phải quá mới, vì xứ này đã được gọi như thế từ một thế kỷ qua.” (de Rhodes A., 1651, tr. 3)

Ngày nay người ta nhận ra ngay lập tức sự sai lệch về niên đại của giả thuyết này, nhờ nhiều tài liệu mới được công bố: ngay từ khi chưa đặt chân lên vùng Viễn Đông, người Bồ Đào Nha đã gọi nước ta là Chinacochim (bản đồ Cantino năm 1502), hoặc năm 1512-1515 Tomé Pires đã gọi nước ta là Cochin China, hay D. Barbosa gọi là Conchin Chinan lúc ấy họ chưa tiếp xúc với người Nhật. Hơn nữa, người đọc sẽ không khỏi thắc mắc: tại sao người Bồ Đào Nha vay mượn ở người Nhật chớ không phải là người Trung Hoa, vì ngay khi chiếm Malacca năm 1511, một số thương nhân người Trung Hoa đã liên lạc ngay với họ, thậm chí chở họ đi Xiêm và Quảng Đông? Những chi tiết ấy cho phép chúng ta bác bỏ giả thuyết này.

1

Bản đồ Cantino (1502) phóng to vùng Đồng bằng sông Hồng với ghi chú Chanocochim và bốn hàng chữ bằng tiếng Bồ Đào Nha giới thiệu nơi chốn và sản vật địa phương: “Chinacochim nằm ở [vị trí] 10 ngón tay (pulgadas), ở đây có trầm hương, gỗ huyết mộc và gỗ đàn hương, cánh kiến trắng, an tức hương, đại hoàng và hồng ngọc.” (dịch theo bản tiếng Pháp của P.-Y. Manguin 1972). Xem bản đồ gốc tại địa chỉ: https://commons.wikimedia.org/wiki/File:Cantino_planisphere_(1502).jpg

Giả thuyết 3: Người Bồ Đào Nha gọi theo tên Kẻ Chợ

M .Ferreira trong quyển Noticias summarias das perseguições da missam de Cochinchina xuất bản tại Lisboa năm 1700, cho rằng khi đến kinh đô nước Đại Việt mà tên gọi thông dụng lúc ấy là Kẻ Chợ, họ nhận thấy dân chúng tại đây giống với người Trung Hoa bèn gọi nước ta là Cochinchina: “Khi nghe gọi kinh đô của vương quốc này là Kecho, và nhận thấy rằng người bản xứ rất giống với người Trung Hoa, người Bồ Đào Nha đã kết hợp hai chữ Kecho và China thành chữ Cochinchina với cách phát âm lệch lạc” (Ferreira M. 1700, tr. 4).

Năm 1523 Toàn quyền Malacca đã cử một phái đoàn do Duarte Coelho dẫn đầu đi Đại Việt để thiết lập bang giao. Nhưng lúc ấy tình hình trong nước rối ren, nhà Mạc tiếm ngôi, vua Lê Chiêu Tông đã bị Trịnh Tuy đưa về Thanh Hóa, nên phái đoàn không dám đến gần, chỉ dừng chân ở Cù Lao Chàm. Tranh chấp Nam triều – Bắc triều giữa nhà Mạc và nhà Lê chỉ kết thúc vào năm 1592 khi Trịnh Tùng chiếm lại được Đông Đô. Theo Manguin (1972), mãi đến năm 1626 người Bồ Đào Nha mới đến kinh đô Thăng Long, thế mà như nói ở trên, từ năm 1502 họ đã có chữ để gọi tên nước ta, và tên gọi này cùng các biến thể đã được sách vở các nước châu Âu nhắc đến ngày càng nhiều trong nửa sau thế kỷ XVI. Thật vậy, ngoài những bản thảo được phát hiện và phổ biến vào các thế kỷ sau như của Tomé Pires, D. Barbosa, A. Pigafetta, F.G. Pinto…, vào thời ấy đã có nhiều sách xuất bản có nhắc đến nước Đại Việt như đã nói bên trên. Vì thế giả thuyết này không phù hợp với các dữ liệu lịch sử đã được kiểm chứng.

Giả thuyết 4: Người Bồ Đào Nha gọi theo tên của vùng Cochim (Ấn Độ)

Giả thuyết này được giám mục Isauropolis (tức Jean-Louis Taberd) nêu ra đầu tiên vào năm 1837 trong bài viết đăng trên tạp chí Journal of the Asiatic Society of Bengal. Theo giả thuyết này, một số nhà du hành Bồ Đào Nha thấy bờ biển nước ta giống với vùng đất Kuchin của Ấn Độ (người Bồ Đào Nha gọi là Cochim, người Anh gọi là Kochi, người Pháp gọi là Cochin) nơi mà người Bồ Đào Nha đã đặt thương điếm sau khi đặt chân đến bờ biển Malabar năm 1503.

“Nguồn gốc của tên gọi Cochin China(5)nằm ở hai chữ ChinaCochin. Người Bồ Đào Nha đến vùng Ấn Độ đầu tiên vì tưởng tượng ra những nét giống nhau giữa bờ biển An Nam và bờ biển Cochin ở vùng Malabar của Ấn Độ, và kết hợp nó với vị trí lân cận với China bèn đặt tên cho nó bằng chữ ghép Cochin China, có nghĩa là Cochin thuộc China” (Taberd J.-L., 1837, tr. 738)

Giả thuyết này được một số tác giả người Pháp ủng hộ, có lẽ vì chỉ có người Pháp mới viết tên vùng đất này là Cochin. Thế nhưng không thấy có tác giả nào cho biết hai vùng giống nhau như thế nào, và cũng không nêu ra tên tài liệu nào nói về nhà du hành Bồ Đào Nha nào nhận ra sự giống nhau này. Có lẽ đây cũng chỉ là sự suy đoán nhất thời khi thấy trong chữ Cochinchine có chữ Cochin mà thôi.  

Giả thuyết 5: người Bồ Đào Nha gọi theo người Mã Lai

Năm 1856, J. Crawfurd đã viết trong quyển từ điển A Descriptive Dictionary of Indian Islands & Adjacent Countries, rằng tên gọi Cochin-China do người Bồ Đào Nha đặt ra và có lẽ xuất phát từ chữ Kuchi mà người Mã Lai dùng để chỉ nước ta thời ấy. Ông viết: “Tên này do người Bồ Đào Nha đặt, và có lẽ nó được tạo ra từ chữ Kuchi, tên mà người Mã Lai dùng để chỉ xứ này”. Tuy nhiên, ông còn đi xa hơn khi nêu ra giả thuyết về nguồn gốc tên gọi xứ Kuchi:

“…rất có thể đó cũng là tên mà người An Nam dùng để chỉ kinh đô xứ Đàng Ngoài, tức là Kechao hay Kachao. Tuy nhiên, người Mã Lai gọi là Kuchi, mà người Bồ Đào Nha viết ra thành Cochin như tên một thành phố Ấn Độ trên bờ biển Coromandel, và để phân biệt với xứ ở Ấn Độ, họ thêm vào chữ China hoặc Chinese.” (Crawfurd J. 1856, tr.105)

Năm 1886, hai tác giả Yule H & Burnell A.C. trong quyển Hobson-Jobson… cũng công nhận rằng người Mã Lai gọi nước ta là Kuchi và chỉ ra bằng chứng là trong biên niên sử Mã Lai Sijara Malayu có dùng chữ này để gọi nước ta (Braddell T. 1851, tr. 729).

Một nhà Đông phương học khác là P. Pelliot cũng tìm thấy nguồn gốc Mã Lai trong tên gọi Cochinchine, tuy nhiên, ông không do dự như J. Crawfurd về từ nguyên của thành tố Cochin- mà quả quyết rằng nó chính là cách người Mã Lai phát âm tên chữ Hán 交阯 (Giao Chỉ):

“Tôi không hề nghi ngờ rằng Cauchi tương ứng với chữ Kutchi của người Mã Lai. […]. Về từ nguyên của chữ Kutchi, khác với suy nghĩ của Terrien de Lacouperie cho rằng nó xuất phát từ 九真 Kieou-tchen [Cửu Chân], đối với tôi gần như chắc chắn rằng đó là chữ 交阯 Kiao-tche [Giao Chỉ] được dùng để chỉ nước An Nam ít nhất là đến cuối thế kỷ XIII.” (Pelliot P. 1903, tr. 299)

Giả thuyết này được Aurousseau bổ sung và phát triển vào năm 1924, ông cho thấy tên gọi Cochinchine là kết quả của một mạng lưới giao tiếp liên văn hóa Á-rập – Mã Lai – Trung Hoa, và đã tìm ra nhiều bằng chứng thuyết phục (xem thêm ở đoạn sau).

Sau đó, năm 1947, GS. Boxer phát hiện một bản chép tay được cho là thực hiện vào năm 1595, và hiện được lưu giữ tại Lilly Library of the University of Indiana (thường được gọi là Boxer Codex) trong đó có hình một người đàn ông và một phụ nữ, với dòng chữ ghi trên đầu trang bằng chữ Hán 交趾 [Giao Chỉ] và chữ phiên chuyển sang tiếng Tây Ban Nha Caupchy như hình dưới đây. Điều đó cho thấy rằng người phương Tây gọi nước ta dựa theo cách gọi của người Trung Hoa và các nước khác trong khu vực.

2

Nguồn tài liệu:

http://webapp1.dlib.indiana.edu/metsnav/common/navigate.do?pn=323&size=screen&oid=VAB8326

Giả thuyết 6: người Bồ Đào Nha gọi theo tên quận Cửu Chân của Đại Việt

Hai tác giả Yule H. & Burnell A.C. trong tài liệu nói bên trên (1886) cũng giới thiệu một ý tưởng trong bản thảo của nhà Đông phương học Terrien de Lacouperie nói về nguồn gốc chữ Cochin-China: ông này cho rằng Kuchi chính là chữ Kuu-chӧn [Cửu Chân], tuy nhiên ông không cung cấp bằng chứng nào ngoài việc lưu ý là người Quảng Đông phát âm chữ này là Kau-chen và người Bắc Kinh là Kiu-ching. (Yule H. & Burnell A.C. 1886, tr. 226)

Năm 2007, Vu Dinh Dinh phát triển ý tưởng của Terrien de Lacouperie bằng cách đưa ra nhiều minh chứng bằng bản đồ do người châu Âu vẽ trong khoảng thời gian 1502-1653, nhưng lập luận không vững chắc và nhất là các bằng chứng đưa ra không có sức thuyết phục(6).

Giả thuyết 7: người Bồ Đào Nha gọi theo người Trung Hoa

Cho rằng dựa vào sự giống nhau về hình thể bờ biển là không thuyết phục, E. Luro trong quyển Le Pays d’Annam (1878) nêu giả thuyết là:

“…chữ Cochinchine bắt nguồn từ các chữ Hán mà một hoa tiêu người Quảng Đông đã cho người châu Âu biết khi đi ngang qua bờ biển Chiêm Thành: Co Cheng Ching có nghĩa là Ancien Ciampa (Cổ Chiêm Thành). Vì Cheng Ching thường được dùng trong tiếng Hán để gọi nước Chiêm Thành vào những thế kỷ đầu công nguyên nằm dọc theo bờ biển từ xứ Đàng Ngoài đến Nam kỳ. Các nhà truyền giáo gọi phần lãnh thổ đã bị người An Nam sáp nhập là Cochinchine, nhưng vẫn gọi phần đất còn giữ được độc lập của vương quốc cổ này là Ciampa.” (Luro E. 1878, tr. 21)

E. Aymonier trong một bài báo đăng trên tạp chí The Imperial and Asiatic Quarterly Review năm 1893 cũng nói là Cochinchine có nguồn gốc từ chữ Cổ Chiêm Thành: “Người miền Nam Trung Hoa cũng gọi Tchampa là Tchen Tching, hay Co-Tchen Tching, và người châu Âu biến thành Cochin China; và họ dùng tên này để gọi Tchampa trong một thời gian dài” (tr. 141). Năm 1903, Aymonier cũng nhắc lại quan điểm này trong một bài báo đăng trên tạp chí Journal Asiatique và nêu nghi vấn là chữ Co– trong Co-tchen-tching có nghĩa là Cổ (tr. 113).

A. Schreiner, tác giả quyển Abrégé de l’histoire d’Annam xuất bản năm 1906 tán thành giả thuyết của E. Luro, và cho biết thêm đó cũng là ý kiến của Trương Minh Ký :

“Ý kiến của Luro có nhiều điểm gần với thực tế hơn, nhất là khi ta đọc những lời giải thích sau đây của Trương-Minh Ký(7): Cổ Chiêm Thành có nghĩa là Ciampa cổ mà cũng có nghĩa là dân cư xưa của Ciampa. Thế mà theo phương ngữ Bắc Kinh, Chiêm Thành được đọc là Tchin-Sh’ềng và phương ngữ Quảng Đông đọc là Tchiêm-Shềng; kết hợp với chữ Cổ nó cho ra cách đọc giống như là Cochinchine.”  (Schreiner A. 1906, tr. 66)

Tài liệu lịch sử cho chúng ta biết rằng người Bồ Đào Nha đầu tiên tháp tùng cùng thuyền buôn người Trung Hoa đi Quảng Châu vào năm 1513 tên là Jorge Alvares.  Nhưng cũng giống như một số giả thuyết đã được giới thiệu bên trên, Luro đã không hề biết đến chữ Cochinchine xuất hiện trước khi người Bồ Đào Nha gặp người Trung Hoa (dưới dạng chính tả Chinacochim), và nhất là chữ này ban đầu được dùng để chỉ cả nước Đại Việt đầu thế kỷ XVI chứ không phải chỉ riêng vùng đất được sáp nhập từ Chiêm Thành. Vả lại, không có chứng cứ nào cho thấy Alvares tiếp nhận chữ Cochinchine từ hoa tiêu người Trung Hoa cả. Hơn nữa, những tài liệu Bồ Đào Nha ghi chép về chuyến đi này gọi nước ta là Canchimchyna, Cocam china, Cauchij China… Vì thế, chúng ta có thể nhận ra ngay rằng giả thuyết này đơn thuần chỉ dựa vào sự đồng dạng về âm thanh của chữ Cổ Chiêm Thành với chữ tiếng Pháp Cochinchine, chứ không đồng dạng với những chữ mà người Bồ Đào Nha đã dùng để chỉ nước ta vào thời ấy. Điều này có nghĩa rằng chỉ có người Pháp mới tìm thấy sự gần gũi giữa Cổ Chiêm Thành và tên mà họ dùng để gọi nước Đại Việt để nêu ra giả thuyết này mà thôi.

A. Launay trong quyển Histoire ancienne et moderne de l’Annam (1884) cũng có ý kiến tương tự, nhưng lại diễn giải khác hơn:

“Chữ Cochinchine bắt nguồn từ chữ Chen-chin [tức Chiêm Thành], là tên mà người Trung Hoa dùng để gọi nước Ciampa, và sau này có lẽ họ thêm vào chữ Cao, là chữ viết tắt của từ Cao-tchi (Giao-chỉ). Từ chữ Cao-chen-chin, người châu Âu biến thành Cochinchine (Launay A. 1884, tr. 3).

Cách giải thích này ngày nay không còn sức thuyết phục, vì có nhiều điều không còn phù hợp với sự hiểu biết ngày nay. Khi giải thích như thế, chắc hẳn là A. Launay đã không biết rằng trong suốt thế kỷ XVI nhiều tác giả châu Âu (đã liệt kê bên trên) đã dùng chữ này và các biến thể của nó để chỉ nước Đại Việt, lúc ấy chủ yếu vẫn là vùng Bắc bộ. Vì vậy tên gọi Cochinchine thời ấy không hề có liên quan gì đến Chiêm Thành. Chỉ từ năm 1615, khi nước ta đã hình thành hai xứ Đàng Ngoài và Đàng Trong, thì Cochinchine mới được nhiều người phương Tây dùng để chỉ riêng xứ Đàng Trong (L. Aurousseau 1924). Hơn nữa, chưa bao giờ người Trung Hoa lại gọi phần lãnh thổ của nước Chiêm Thành bị sáp nhập vào Đại Việt là Giao Chiêm Thành cả.

Giả thuyết 8: Kochi có nghĩa là đầm lầy

I. Taylor trong quyển Names and their histories alphabetically arranged as a handbook of historical geography and topographical nomenclature xuất bản tại London năm 1896 cho rằng Cochin là một địa danh trên sông Cửu Long, được người Bồ Đào Nha gọi chệch thành Cochin-China để phân biệt với Cochin trên bờ biển Malabar (Ấn Độ). Theo tác giả, chữ này xuất phát từ chữ kochi, có nghĩa là ‘marsh’ (đầm lầy) (Taylor 1896, tr. 95). Nếu tác giả này biết rằng trong suốt thế kỷ XVI các tài liệu châu Âu dùng chữ Cochinchine để chỉ nước Đại Việt lúc ấy chủ yếu nằm ở phía Bắc sông Gianh, thì ông sẽ không nêu ra cách giải thích như thế, vì nó chỉ phù hợp với Nam kỳ lục tỉnh mà thôi.

Năm 1904, C. Gosselin cũng có cách giải thích tương tự như vậy:

“Đây là ý kiến của chúng tôi, cũng phù hợp với ý kiến của một số nhà thông thái An Nam chuyên nghiên cứu về lịch sử và từ nguyên, thì chữ Cochinchine có nguồn gốc như sau: khi người Bồ Đào Nha đến xây dựng cơ ngơi ở bờ biển Malabar (Ấn Độ), một trong những cơ sở của họ mang tên Cochin; sau này khi các nhà hàng hải gan dạ của họ đi đến vùng cửa sông Cửu Long, bờ biển có dáng vẻ giống như bên Cochin, và vì nó ở gần Trung Hoa nên họ đặt tên cho vùng đất mới này là “Cochin de Chine” hay “Cochinchina”, “Cochinchine” (Gosselin C. 1904, tr. 6)

Giả thuyết 9: từ tuyến giao thương Á-rập – Mã Lai – Trung Hoa

Giả thuyết này được L. Aurousseau phát triển trong bài viết “Sur le nom de Cochinchine” đăng trên tạp chí BEFEO năm 1924. Chẳng những tán thành ý kiến của Crawfurd về nguồn gốc Mã Lai của thành tố Cochin-, Aurousseau còn đi xa hơn nữa, khi hé lộ tuyến giao thương hàng hải giữa các dân tộc Á-rập, Mã Lai và Trung Hoa từ nhiều thế kỷ trước; nên khi tiếp xúc với tuyến giao thương này, người Bồ Đào Nha cũng học được tên của nước ta. Lập luận này có cơ sở vững chắc khi ta đối chiếu với các dữ liệu lịch sử: thật vậy, ngay từ đầu thế kỷ XV, người Bồ Đào Nha đã chuẩn bị mọi thứ có thể cho việc chinh phục đại dương, trong đó phải kể đến việc tiếp nhận kiến thức địa lý về phương Đông mà người Á-rập đã tích lũy được từ nhiều thế kỷ, như người dịch và giới thiệu nhật ký của Vasco de Gama đã viết:

“Việc khám phá ra đường biển đi về Ấn Độ không phải là kết quả của sự ngẩu nhiên như người ta thường nghĩ vì thiếu hiểu biết hoặc vì có ý dèm pha, mà là một kế hoạch dài hơi, được kiên trì theo đuổi suốt 80 năm, và hoàn thành với sự soi sáng của thế kỷ mà nghệ thuật hải hành đã có nhiều tiến bộ quan trọng, nhất là ở Bồ Đào Nha. Ngay từ năm 1415, hoàng tử Henri đã thành lập ở Sagres một học viện để dạy những kiến thức địa lý của người Á-rập, và là nơi người ta học cách sử dụng các dụng cụ hàng hải để tính toán thời gian và xác định vị trí tàu thuyền so với cực của trái đất.” (Morelet A. 1864, tr. iv-v)

Giả thuyết 10: Gọi theo người Tây Ban Nha và Ý

Trong quyển Việt sử tân biên (quyển 3, 1959), Phạm Văn Sơn viết như sau:

Cochinchine là do chữ Caunchi-china của Tây Ban Nha và chữ Caoci-china chữ Ý mà ra, bắt nguồn từ chữ Kiaoche (Giao-chỉ) rồi thêm vào chữ China để khỏi lầm với Cochin ở Ấn Độ. Chữ Cochinchine được người Pháp dùng để chỉ xứ Nam kỳ. Bắt đầu từ thế kỷ XVII người Ấn đã dùng chữ này để chỉ các tỉnh từ Linh-Giang trở vào thuộc quyền chúa Nguyễn. Chữ Tonkin hoặc Tonquin (Đông kinh) dùng để chỉ đất thuộc quyền chúa Trịnh. Sau này chúa Nguyễn lấy được đất Chân Lạp là lục tỉnh Nam Việt ngày nay. Pháp gọi miền này là Basse-cochinchine.” (tr.188)

Ngoài chi tiết Kiaoche và China được nhiều người đề cập đến như là nguồn gốc của chữ Cochinchine, trong đoạn văn trên đây tác giả đã gán ghép nhiều chi tiết với nhau một cách ngẩu hứng, lại không ghi tài liệu tham khảo nào cả. Có tác giả nào cho rằng người Tây Ban Nha là những người đầu tiên đặt tên cho nước ta không, khi mà người Bồ Đào Nha lại là người đầu tiên đặt chân đến vùng Viễn Đông, trước Tây Ban Nha mười năm? Còn nước Ý thì không có chút liên quan gì với Đại Việt thời ấy cả, thì làm sao có thể đặt tên cho vùng đất này? Nhưng nếu thông tin của tác giả Phạm Văn Sơn là đúng sự thật, thì làm sao Tây Ban Nha và Ý lại có thể áp đặt cách gọi của họ đối với người Bồ Đào Nha, rồi Pháp, Anh, Hà Lan? Chưa hết, tại sao lại liên quan đến người Ấn trong tên gọi này? Từ Linh Giang trở vào là vùng đất cai quản của Nguyễn Hoàng từ năm 1558, trong khi chữ Cochinchine đã có trước đó hơn 50 năm. Những chệch choạc trên đây cho thấy giả thuyết này không thể đứng vững khi đối chiếu với các dữ kiện lịch sử đã được kiểm chứng.

Giả thuyết 11: Người Pháp gọi theo người Kampuchea

Lê Hương trong quyển Việt kiều ở Kampuchea (1971) có ghi lại một cách giải thích nguồn gốc chữ Cochinchine được lưu hành trên báo chí Kampuchea sau khi quốc vương Sihanouk bị đảo chánh năm 1970: “Tài liệu Cao Mên cho rằng Công Chúa Ngọc Vạn tên CÔ CHÍNH XINH nên vị Quốc Vương ấy mới đặt cho miền Nam và Pháp gọi là Cochinchine” (tr.10). Tác giả không cho biết “tài liệu Cao Mên” là tài liệu nào, nhưng chúng ta có thể phát hiện ngay lập tức là nó không phù hợp với những sự kiện lịch sử. Theo A. Leclère (1914, tr. 339), cuộc hôn nhân xảy ra vào năm 1620, còn cái tên Chinacochim hay Cochinchina xuất hiện từ đầu thế kỷ XVI, và đến năm 1575, học giả người Pháp A. Thevet là người đầu tiên chuyển sang tiếng Pháp là Cochinchine, lúc ấy được dùng để chỉ cả nước Đại Việt. Chỉ từ năm 1861 người Pháp mới dùng chữ Cochinchine để chỉ sáu tỉnh Nam kỳ. Vì vậy chúng ta có thể phán đoán mà không sợ nhầm lẫn đó là những lời truyền miệng được ai đó ghi lại, một loại từ nguyên học dân gian chỉ dựa trên sự gần giống nhau của tên gọi thuộc hai ngôn ngữ khác nhau, để gán bừa cho nguồn gốc của một từ ngữ nào đó.

Giả thuyết 12: gọi theo tên cửa sông Cổ Chiên

Trên Wikipedia có mục từ “Nam Kỳ”(8) đề cập đến nguồn gốc chữ Cochinchine, có trích dẫn một tài liệu của Lý Đăng Thạnh tên là Lịch sử Đông Dương tập 7 – Nước Việt thời Nam – Bắc phân tranh ghi là xuất bản năm 1994. Mục từ này không cung cấp thêm chi tiết nào nữa về tài liệu trích dẫn này, và trên Google thì cũng không có bất cứ thông tin nào có liên quan đến sách này. Điều này có nghĩa là quyển sách nói trên chưa hề được nhà xuất bản nào công bố chính thức trong cộng đồng; có thể đó chỉ là tài liệu do cá nhân tự in ấn và phổ biến cho bạn bè mà thôi. Tuy nhiên, vì bài viết có nêu ra một giả thuyết mới về nguồn gốc chữ Cochinchine, nên chúng tôi vẫn cứ liệt kê ra đây để độc giả tham khảo, mà không câu nệ về nguồn gốc không rõ ràng của quyển sách nói trên.

“Theo Lý Đăng Thạnh, trong ‘Lịch sử Đông Dương tập 7 – Nước Việt thời Nam – Bắc phân tranh’ (1994), thì tên gọi Cochinchine bao gồm hai từ tố là ‘Cochin’ và ‘Chine’. Trong đó, ‘Cochin’ có nguồn gốc từ tên gọi sông Koh Chin (កោះជីន), là một đoạn sông của Thủy Chân Lạp thuộc hệ thống sông Mekong (sông Cửu Long), chảy qua nhiều cù lao (đảo nhỏ trong châu thổ) từ địa phận thành phố Vĩnh Long ngày nay, qua các tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, rồi đổ ra biển Đông tại Cửa Koh Chin. Các nhà thám hiểm hàng hải châu Âu vào thế kỷ XV [sic!] khi đến vùng đất đồng bằng sông Cửu Long để mua nước ngọt và lương thực, thực phẩm, có thể đã lấy tên cửa sông Koh Chin và sông Koh Chin của dải đất có cư dân đông đúc nhất đồng bằng sông Cửu Long thời ấy để gọi tên chung cho cả vùng đồng bằng sông Cửu Long là: Vùng Cochin. Do sợ nhầm với thành phố cảng Ấn Độ Cochin, nên người phương Tây thêm hậu tố chine vào thành Cochinchine.”

Khi xây dựng giả thuyết này, chắc chắn là tác giả không hề biết rằng đầu tiên tên gọi Cochinchine đã được dùng không phải để chỉ vùng đồng bằng sông Cửu Long như đã nói bên trên. Hơn nữa, chẳng những tác giả không đưa ra chứng cứ nào để chứng minh Cochin chính là Koh Chin, mà còn suy diễn bất chấp tài liệu lịch sử: ngay từ thế kỷ XVI, nhiều tài liệu cho biết rằng người phương Tây gọi sông Cửu Long là sông Mecon (J. Barros 1563, F. Belle-Forest, A. Thevet 1575) hoặc sông Mecom (L. Camões 1572), hoặc sông Camboja (Linschoten 1595). Các bản đồ trong thế kỷ XVI như của Giacomo Gastaldi vẽ năm 1561 hay Gérard de Jode năm 1578 ghi tại vị trí Biển Hồ là Lago Camboja (Hồ Camboja), tại vùng cửa sông là Capo de Camboia (mũi Camboia). Các bản đồ thế kỷ XVIII như của Covens & Mortier (1760), R. Bonne (1770), Laurie Whittle (1802) vẫn còn ghi Riv. de Camboja (sông Camboja) hoặc Camboge. Qua thế kỷ XIX, bản đồ của Ambroise Tardieu năm 1819 vẫn còn ghi Bouches du fleuve de Camboge (các cửa sông Camboge), với 7 cửa nhưng chỉ ghi tên 2 cửa là Bassak và Canal d’Orient (kênh Đông). Còn bản đồ của John Walker tên Map of the Kingdoms of Siam and Cochin China vẽ năm 1828 nhằm minh họa cho quyển Journal of an Embassy from the Governor-General of India to the Courts of Siam and Cochin China của Crawfurd mới có tên khá đầy đủ các cửa sông Cửu Long (từ dưới lên): Cua Bassac, Cua tchavan, Cua Cotchiene, Cua Milong eu Bay Ngau, Cua Baray, tương ứng với các tên Cửa Ba Thắc, Cửa Cha Vang, Cửa Cổ Chiên, Bãi Ngao, Ba Ray trong An Nam họa đồ của Taberd vẽ năm 1838.

Kết luận

Việc có nhiều giả thuyết về một vấn đề chưa sáng tỏ là chuyện bình thường, vì trong hành trình tìm kiếm sự thật, loài người luôn cố gắng dựa vào những manh mối dù nhỏ nhất để phát hiện những điều còn ẩn chứa bên trong. Nhưng chỉ có giả thuyết nào đứng vững được qua nhiều lần kiểm chứng, đối chiếu trên nhiều khía cạnh thì mới trở thành chân lý, còn những giả thuyết tùy tiện sẽ nhanh chóng bị thải loại. Như chúng tôi đã trình bày bên trên, đa số các giả thuyết về nguồn gốc tên gọi Cochinchine chỉ đưa ra ý kiến cá nhân cùng với lý lẽ sơ sài mang tính chất phỏng đoán chứ không có minh chứng để lập luận của mình được vững chắc. Thậm chí có những ý kiến mang tính chất “từ nguyên bình dân” cố gán ghép giữa hai từ ngữ có hình dạng gần nhau để giải thích nguồn gốc địa danh như ta thường thấy. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến được xây dựng chặt chẽ, dựa trên nhiều bằng chứng đa dạng, phong phú, được các nhà nghiên cứu chuyên sâu tán thành, nhưng vẫn chưa thuyết phục được công chúng rộng rãi. Đó là trường hợp của giả thuyết Aurousseau, mà chúng tôi sẽ đề cập tỉ mỉ hơn trong bài viết sắp tới.

(Bài đã đăng trong tạp chí Xưa & Nay số tháng 11 năm 2021)


Tài liệu trích dẫn

Aurousseau L. 1924. Sur le nom de Cochinchine. Trong tạp chí Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient, số 24.

Aymonier E. 1893. The History of Tchampa. Trong tạp chí The Imperial and Asiatic Quarterly Review, Số 6 tháng 7 & 10 năm 1893.

Borri C. 1631. Relatione della nuova missione delli P.P. della Compagnia di Giesù al Regno della Cocincina. Roma.

Braddell T. 1851. Abstract of the Sijara Malayu, or Malayan Annals, with notes. Trong tạp chí The Journal of the Indian Archipelago and Eastern Asia, tập 5. Singapore.

Crawfurd J., 1856. A Descriptive Dictionary of Indian Islands & Adjacent Countries. London: Bradbury & Evans.

Ferreira M. 1700. Noticias summarias das perseguições da missam de Cochinchina. Lisboa: Migvel Manescal.

Godinho de Eredia M., 1882. Malaca, l’Inde méridionale et le Cathay (do L. Janssen dịch sang tiếng Pháp). Bruxelles: Librairie Muquardt.

Gosselin C. 1904. L’Empire d’Annam. Paris: Librairie Académique Didier.

Launay A. 1884. Histoire ancienne et moderne de l’Annam. Paris: Challamel Aîné Libraire-Editeur.

Lê Hương, 1971. Việt kiều ở Kampuchea. Sài Gòn: Trí Đăng.

Leclère A., 1914. Histoire du Cambodge. Paris: Librairie Paul Geuthner.

Luro E. 1878. Le Pays d’Annam: Etude sur l’organisation politique et sociale des Annamites. Paris: Ernest Leroux Editeur.

Malte-Brun 1827. Universal Geography or a Description of all the parts of the World, Vol. 2. Philadelphia: Anthony Finley.

Morelet A. 1864 (dịch và giới thiệu). Journal de Gasco da Gama. Lyon: Imprimerie de Louis Perrin.

Pelliot P. 1903. Le Fou-nan. Trong tạp chí Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient, số 3.

Phạm Văn Sơn, 1959. Việt sử tân biên, Quyển 3. Sài Gòn: Cơ sở xuất bản Đại Nam.

Rhodes A. de, 1651. Histoire dv Royavme de Tvnqvin. Lyon: Chez Iean Baptiste Devenet.

Schreiner A. 1906. Abrégé de l’histoire d’Annam. Saigon: Chez l’auteur.

Taberd J.-L., 1837. Note on the Geography of Cochin China. Trong tạp chí Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol. VI. Calcutta.

Taylor I., 1896. Names and their histories alphabetically arranged as a handbook of historical geography and topographical nomenclature. London: Rivington, Percival & Co.

Yule H. & Burnell A.C. 1886. Hobson-Jobson: A glossary of colloquial Anglo-Indian words and phrases, and of kindred terms, etymological, historical, geographical and discursive. London: J. Murray.

Chú thích:

(1) Các tài liệu tiếng Anh ngày nay thường viết Cochin-China, Cochin China, hoặc Cochinchina, còn các dạng chính tả sơ khai ban đầu thì rất nhiều. Để bài viết không rườm rà, khi không cần phải đi sâu vào chi tiết, chúng tôi sẽ chỉ viết Cochinchine hoặc Cochinchina thay vì liệt kê tất cả các dạng chính tả khác.

(2) Khi dịch từ nguyên văn tiếng Ý sang tiếng Pháp, linh mục Antoine de la Croix chuyển thành Cochinchine.

(3) Nhiều người phương Tây thời ấy nhầm lẫn ở chi tiết này, ngay cả những người biết chữ An Nam có nghĩa là “phương Nam an bình”. Nguyên nhân là nước An Nam nằm ở phía Nam so với nước Trung Hoa, nhưng lại ở phía Tây – Tây Nam so với Quảng Đông, Macao, là trung tâm giao lưu quốc tế thời bấy giờ.

(4) Như trong tên gọi của bức tranh 朱印船交趾渡航図巻 Shuin-sen Kochi toko zukan (Châu ấn thuyền Giao Chỉ độ hàng đồ quyển) hoặc 交趾国貿易渡海図 Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ của 茶屋新六 Chaya Shinroku.

(5) Theo chú thích của ban biên tập, bài viết bằng tiếng Pháp gây khó khăn không ít cho việc in ấn, nên đã dịch sang tiếng Anh để thuận tiện hơn.

(6) Chúng tôi đã có bài viết trong Xưa & Nay tháng 10/2021 chỉ ra nhiều khiếm khuyết trong lập luận của Vu Dinh Dinh.

(7) Chúng tôi chưa tìm ra Trương Minh Ký đã nói như thế trong tài liệu nào.

(8) Bài viết tại địa chỉ https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_K%E1%BB%B3, tham khảo lần cuối cùng ngày 26/5/2021.

Nguồn: https://nghiencuulichsu.com/2021/12/08/nhung-gia-thuyet-ve-nguon-goc-ten-goi-cochinchine/


Wednesday 20 October 2021

Cochinchina có liên quan gì đến Cửu Chân không? (Trần Thanh Ái - Nghiên Cứu Lịch Sử)

 

Trần Thanh Ái

Trong bài viết có tựa là “Cochinchina: Reassessment of the Origin and Use of a Westernized Place Name”(1) công bố năm 2007 tại Hoa Kỳ, tác giả Vu Dinh Dinh đã cố chứng minh rằng tên gọi Cochinchina là do ghép từ hai chữ Cửu ChânChina, chớ không phải Giao ChỉChine (tức China) như L. Aurousseau đã công bố trong một nghiên cứu năm 1924. Gần đây, một số nhà nghiên cứu Việt Nam chỉ dựa vào bài viết của Vu Dinh Dinh để phản bác Aurousseau, mà không đưa ra thêm được bằng chứng nào mới mẻ, như thể lập luận của Vu Dinh Dinh đã hoàn hảo. Thế nhưng trong lập luận của Vu Dinh Dinh còn rất nhiều sơ hở, nên không chắc chắn, và vì vậy kết quả không đáng tin cậy. Vì khuôn khổ một bài báo có hạn, nên trong bài viết này chúng tôi chỉ tập trung vào việc phân tích lập luận của tác giả Vu Dinh Dinh mà thôi, còn những cách giải thích khác về chữ Cochinchine/Cochinchina, chúng tôi sẽ đề cập đến trong một bài viết khác.

  1. Lịch sử vấn đề

Thật ra ý tưởng của Vu Dinh Dinh không phải là mới, vì khoảng năm 1886 vị giáo sư người Anh gốc Pháp Terrien de La Couperie đã có lần nêu ra nhưng chưa chứng minh, và thỉnh thoảng một số tác giả phương Tây cứ thế mà trích dẫn. H. Yule & A. C. Burnell trong quyển Hobson-Jobson: A Glossary of Colloquial Anglo-Indian Words and Phrases, and of Kindred Terms, Etymological, Historical, Geographical and Discursive dựa vào một tham luận của giáo sư chỉ nêu ngắn gọn là Cochin-china được kết hợp từ Kuu-Chӧn kèm theo ghi chú về hai cách phát âm của người Trung Hoa “Chin. Kiu-Ching, South Chin. Kau-Chen” (Yule & Burnell A. C. 1886, tr. 174). Rất tiếc là mấy năm sau đó ông qua đời, nên ý tưởng ấy mãi mãi không được chứng minh. Khi viết bài “Sur le nom de Cochinchine” vào năm 1924, chắc chắn là Aurousseau đã có biết ý tưởng của Terrien de Lacouperie, vì ông đã tham khảo mục Cochin-China trong sách của H. Yule & A.C. Burnell. Nhưng Aurousseau không nhắc đến giả thuyết ấy, có lẽ vì chẳng qua đó chỉ là một ý kiến không dựa trên dữ liệu khoa học nào, nên không nhất thiết phải tranh luận. Trước đó, P. Pelliot trong một bài nghiên cứu về Phù Nam (1903, tr. 299) cũng đã bác bỏ ý kiến của Terrien de Lacouperie, nhưng cũng chưa đưa ra lập luận đầy đủ để bảo vệ quan điểm của mình.

Sử gia Trần Trọng Kim trong tác phẩm Dọc đường gió bụi (viết xong năm 1949, xuất bản năm 1969) cũng tỏ ra lúng túng về nguồn gốc chữ Cochinchine: “Người Pháp cũng biết thế nên mới dựng tiếng tàu là Tông Kinh (Ðông Kinh) gọi bắc kỳ, và dùng tiếng Cochinchine là tiếng gì chẳng biết để gọi nam kỳ cho ra vẻ ba nước khác nhau.” (Trần Trọng Kim 1969, tr. 62)

  1. Một số nhược điểm trong lập luận của tác giả

Khi đọc bài viết của Vu Dinh Dinh, chúng tôi phát hiện những nhược điểm có thể làm sai lệch trầm trọng kết quả nghiên cứu của tác giả. Những nhược điểm đó là:

2.1. Thiếu kiểm chứng trong các suy luận

Khi khảo sát các bản đồ cổ của châu Âu, Vu Dinh Dinh nhận thấy rằng từ 1502 các bản đồ ghi nơi lãnh thổ người Việt sinh sống là CHANOCOCHIM hoặc CHINACOCHIM (bản đồ Cantino 1502, Canerio c.1502), CHINACOCHIN (bản đồ Maiollo 1508), COCHIM DA CHINA (hải đồ Rodrigues c.1513)… Nhưng khi đọc bản đồ thế giới năm 1529 của Ribeiro, ông thấy tên của lãnh thổ người Việt được viết là CAUCHECHINA, ông bèn cho rằng Ribeiro đã điều chỉnh cách viết cho đúng với địa danh Cửu Chân sau khi người Bồ Đào Nha có những cuộc tiếp xúc trực tiếp đầu tiên với người Việt. Để đi đến kết luận này trước tiên ông nhận thấy chữ viết này gần với cách đọc chữ Cửu Chân (tên một quận ở Thanh Hóa), rồi ông cho rằng địa danh này tồn tại đến khi người Bồ Đào Nha đặt chân tới nước ta(2), còn địa danh Giao Chỉ bị người Việt bỏ đi, không dùng lại.

Sự suy luận này tưởng chừng như là đúng, vì nó phù hợp với một vài chi tiết lịch sử, nhưng thật ra chỉ là võ đoán, vì tác giả không nêu ra được bằng chứng nào để củng cố suy luận đó cả: chỉ cần nêu ra vài câu hỏi đơn giản cũng đủ thấy sự chông chênh của suy luận ấy. Người Bồ Đào Nha đầu tiên cập thuyền vào cảng nào của nước ta? Cửu Chân có phải là trung tâm giao thương trong khu vực không, nhất là trong các thập niên đầu thế kỷ XVI? Ngay cả khi thuyền của họ cập vào một địa điểm nào đó thuộc quận Cửu Chân xưa, tại sao người Bồ Đào Nha chỉ biết tên xưa của nơi đó, mà lại không biết tên Thanh Hóa, Thiên Xương, Tây Đô hay tên nước được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân lúc ấy là nước Nam như Lý Thường Kiệt đã gọi (từ điển A. de Rhodes có ghi các cách gọi này), hay nước Đại Việt như chính sử thời ấy đã dùng?

Chưa hết, nếu có chút ít kiến thức về cuộc chinh phục vùng Viễn Đông của người châu Âu thời ấy, chắc chắn không ai có thể tin được suy luận trên đây, vì Ribeiro không thể có được thông tin về những cuộc tiếp xúc trực tiếp đầu tiên ấy để mà điều chỉnh tên nước Việt. Lý do đơn giản là vì phái đoàn Bồ Đào Nha đầu tiên được cử đi tiếp xúc với Đại Việt vào năm 1523, trong khi ngay từ năm 1518 ông đã chạy sang phục vụ cho vua Tây Ban Nha (Vigneras L.A. 1962, tr. 76), đối thủ cạnh tranh quyết liệt của Bồ Đào Nha, đặc biệt là trong vụ tranh chấp quần đảo hương liệu mà ngày nay ta gọi là Maluku. Cũng cần nhắc lại là vào thời ấy, các thông tin liên quan đến lộ trình vòng qua mũi Hảo Vọng để đến Viễn Đông được Bồ Đào Nha giữ bí mật gắt gao, với khung hình phạt tử hình. Hơn nữa, việc công bố bản đồ Ribeiro 1529 nằm trong chiến dịch giúp Tây Ban Nha giành quyền khai thác quần đảo Maluku, nên nhiều vùng khác không được tác giả quan tâm đầy đủ, như một số đoạn trên bờ biển của Vịnh Thái Lan và Vịnh Bắc bộ còn bỏ trống. Chỉ từ khi người Tây Ban Nha đã chiếm được Philippines và thành lập thành phố Manila năm 1571, và nhất là khi Bồ Đào Nha nằm dưới sự cai trị của hoàng gia Tây Ban Nha năm 1580, thì mới bắt đầu có người Tây Ban Nha đi lại trên vùng biển Đông của Việt Nam, mà trước đây là độc quyền của người Bồ Đào Nha. Hơn 100 năm trước, L. Fournereau đã cho chúng ta biết như sau:

“Điều khiến chúng tôi quan tâm đến bản đồ của Ribeiro, đó là tác giả này mặc dù là gốc người Bồ Đào Nha, nhưng từ khi đến Tây Ban Nha và định cư tại Séville, ông đã không hay biết gì về những phát hiện của đồng bào mình. Ông ta đã hoàn toàn trở thành người Tây Ban Nha và bản đồ này phản ánh kiến thức của các nhà vẽ bản đồ ở Casa de Contratacion” (Fournereau L. 1895, tr. 11).

Tình trạng giấu bí mật thông tin hàng hải là rất phổ biến giữa các cường quốc trong thời đại “khám phá”. Thế mà khi có nhận định trái ngược với sự hiểu biết phổ biến trong cộng đồng, tác giả Vu Dinh Dinh đã không viết dòng nào để chứng minh là Ribeiro đã lấy thông tin mới từ đối phương của mình để cập nhật cho bản đồ 1529.

Trong bài viết, tác giả đã diễn dịch không chút thận trọng khi đọc chữ QVÃCII thành “Giao Chỉ” trong bản đồ thế giới của Petrus Plancius vẽ năm 1592 mà không chứng minh được cách gọi này có thật hay không. Chúng tôi đã mất không ít thời gian để tra cứu, nhưng vẫn không tìm ra tài liệu nào gọi đất Giao Chỉ xưa là QVACII như tác giả nói cả! Thật ra, thay vì viết QVANCII (Quảng Tây), tác giả lại viết QVÃCII, nhưng do chất lượng bản đồ quá kém nên tác giả không nhận ra dấu ( ᷉ ) bên trên chữ A, rồi bèn gán cho đó là “Giao Chỉ”, để phù hợp với lập luận của mình. Đã thế, tác giả còn “nhìn ra” ở phía Bắc vùng CAVCHINCHIN và QVÃCII có chữ QVANCII nữa! Thật ra phía Bắc của vùng này chỉ có chữ “Quancyo”(3) (?) trong bản đồ này được viết thường, dùng để chỉ một địa danh nhỏ như thị trấn, khác với địa danh viết chữ lớn để chỉ một vùng rộng lớn như Quảng Tây của Trung Hoa.

1

Hình 1: Bản đồ thế giới của Petrus Plancius 1592 (phóng to miền Bắc Việt Nam). Có thể xem đầy đủ tại https://nla.gov.au/nla.obj-2880952242/view

Những kết luận vội vã như thế không thiếu trong bài viết của Vu Dinh Dinh, chẳng hạn như ông rất quả quyết rằng chưa bao giờ Giao Chỉ được xem là “country” hay “kuo” (quốc): trong phần tiếp theo ngay bên dưới đây chúng tôi sẽ cung cấp thông tin về chi tiết này.

2.2. Xem nhẹ sự lưu hành kiến thức địa lý trong khu vực

Thiếu sót quan trọng trong cách tiếp cận của Vu Dinh Dinh là không hề quan tâm đến tên mà các nước trong khu vực dùng để gọi đất nước của người Việt như thế nào trước khi người Bồ Đào Nha tới. Trong việc định danh các nước trong vùng, Trung Hoa có vai trò không thể phủ nhận được, vì nó đã từng là trung tâm văn hóa, chính trị thương mại trong khu vực; và vì nước ta lại nằm ngay cửa ngõ phía Tây Nam của thương cảng Quảng Châu của họ, nên tàu thuyền các nước thường đi ngang qua vịnh Bắc bộ để tránh Thất Châu dương đầy bất trắc. Hơn nữa, phải nhìn nhận sức lan tỏa rất lớn của sách vở Trung Hoa thời ấy ra ngoài biên giới quốc gia, qua đó cách gọi tên của họ đối với các nước lân bang được phổ biến khắp nơi, còn chúng ta ngay cả khi đã giành được độc lập, chúng ta đã lần lượt đặt tên nước như Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Ngu, Đại Việt, nhưng thời ấy không nước ngoài nào biết đến các tên đó. Vì thế, dù muốn dù không, tên mà người Trung Hoa dùng để gọi đất nước chúng ta vào thời bấy giờ đã được các dân tộc khác dựa vào đó mà mô phỏng theo. Hệ quả là mặc dù tên gọi Giao Chỉ không được người Việt ưa chuộng như Cửu Chân, nhưng nó lại được sách vở của người Trung Hoa sử dụng trong nhiều thế kỷ, từ Hán thư (thế kỷ V) đến Minh sử (soạn xong năm 1739), và chắc chắn rằng các nước có giao dịch với họ như Nhật, Cao Ly, Xiêm, Mã Lai, Ba Tư, Á-rập… không thể không biết đến tên đất Giao Chỉ. Để chứng minh cho việc này, chúng ta chỉ cần lướt qua một số tài liệu Trung Hoa được biên soạn từ lúc mà các cuộc giao lưu Đông Tây bắt đầu phát triển, từ đầu thiên niên kỷ thứ 2, cũng đủ rõ.

Sách Lãnh Ngoại Ðại Ðáp 嶺外代答 do Chu Khứ Phi biên soạn năm 1178 gọi Vịnh Bắc bộ là 交阯洋 Giao Chỉ dương, tức biển Giao Chỉ (Hồ Bạch Thảo 2010). Sách Chư Phiên chí 諸蕃志 (khoảng 1225) của Triệu Nhữ Quát 趙汝适 đời Tống dành chương đầu tiên nói về Giao Chỉ Quốc 交趾國 (nước Giao Chỉ).

2

Hình 2: Chương Giao Chỉ quốc 交趾國 trong Chư phiên chí quyển thượng 諸蕃志卷上 thuộc bộ Khâm định tứ khố toàn thư 欽定四庫全書

Sách Văn hiến thông khảo 文獻通考 (1317) của Mã Đoan Lâm bắt đầu bằng chương nói về Giao Chỉ(4): “Đầu nhà Hán, Giao Chỉ thuộc Nam Việt. Sau khi đã chinh phục được Nam Việt, Hán Vũ đế chia xứ này ra thành 9 quận: 澹耳 Đam Nhĩ, 珠崖 Châu Nhai, 南海 Nam Hải, 蒼梧 Thương Ngô, 鬱林 Uất Lâm, 合浦 Hợp Phố, 交趾 Giao Chỉ, 日南 Nhật Nam và 九真 Cửu Chân. Có nghĩa là thời nhà Hán, Giao chỉ vừa là tên của một xứ, vừa là tên của một quận, còn Cửu Chân chỉ là tên quận mà thôi.

Đến Tống sử (1346) trong Liệt truyện 247, Ngoại quốc tứ (Nước ngoài, phần 4) thì mới đề cập đến nước Giao Chỉ (cùng với nước Đại Lý), nghĩa là xem Giao Chỉ là nước ngoài. Trong phần này, Tống sử nhắc đến hai chữ 交趾 (Giao Chỉ) tổng cộng 21 lần, và chỉ 1 lần nhắc đến chữ 九真 (Cửu Chân) là một quận của Giao Chỉ.

Nguyên sử (1370) “Liệt truyện 96 Ngoại di nhị” có chương nói về An Nam mở đầu bằng cụm từ 安南国,古交趾也 (An Nam quốc, cổ Giao chỉ giã). Đặc biệt là phần này không hề nhắc đến Cửu Chân, mặc dù lúc bấy giờ địa danh này vẫn còn được người Việt dùng để chỉ một đơn vị hành chính. Và trong thời đô hộ của nhà Minh (1407-1427), họ lại bỏ tên An Nam mà dùng lại tên Giao Chỉ để gọi nước ta.

Năm 1618, Trương Tiếp biên soạn Ðông Tây Dương Khảo 東 西洋考. Trong quyển 7 có đoạn ghi lại việc Tuần phủ đô ngự sử Phúc Kiến tên là Đồ Trạch Dân xin bỏ lệnh cấm biển năm Long Khánh nguyên niên và được triều đình chuẩn phán(5) năm 1567: “Chuẩn phán Đông Tây nhị dương, cái Đông dương nhược Lữ Tống, Tô Lộc(6) chư quốc, Tây dương nhược Giao Chỉ, Chiêm Thành, Xiêm La chư quốc” (Đồng ý cho các nước ở biển Đông là Lữ Tống, Tô Lộc, các nước ở biển Tây là Giao Chỉ, Chiêm Thành, Xiêm La). Như vậy chữ Giao Chỉ cũng được dùng để gọi nước ta, cùng với Chiêm Thành, Xiêm La. Điều đó có nghĩa là vào thời nhà Minh, các công văn giấy tờ của Trung Hoa vẫn gọi nước ta là Giao chỉ quốc. Ngoài ra, trong Ðông Tây Dương Khảo cũng có nói về vịnh Bắc bộ mà họ gọi là 交阯洋 Giao Chỉ dương. Sách này còn cho biết rằng Giao Chỉ là đầu cầu trong tuyến đường thương mãi và ngoại giao giữa Trung Hoa và các nước Đông Nam Á (Hồ Bạch Thảo, 2010).

Về phát âm, tưởng cũng nên nhắc lại rằng “Trung Cổ Hán Ngữ” (Middle Chinese, Ancient Chinese) phát âm 交阯 là /kˠau  t͡ɕɨX/(7).

Còn các nước lân bang khác gọi nước ta như thế nào? Người Nhật thời ấy gọi nước ta là Kochi, mà ta có thể tìm thấy dấu tích trên nhiều tài liệu, trong đó phổ biến nhất là tên gọi các cuộn tranh còn lưu giữ đến ngày nay(8), hoặc Kochi-koku, tức Giao Chỉ quốc (Gunn G. 2017, tr. 146). Người Mã Lai gọi nước ta là Kuchi (Yule H. & Burnell A.C., 1886, tr. 174), hoặc Kochi (Wilkingson 1901, tr. 545). Còn người Indonesia gọi là Kotji(n)tjina (Manguin P.Y., 1972, tr. 42). Trong nhật ký hải hành của Sidi Ali Celebi năm 1554, một đô đốc của đế quốc Ottoman, có ghi hải trình đi đến Trung Hoa qua nhiều chặng, trong đó chặng từ Singapore được mô tả như sau:

“Từ Sahr-i-naw(9) đến mũi Kambusa(10), nơi mà ngôi sao bắc cực nằm ở độ cao 5 độ về hướng Đông Nam-¼ Đông; từ Kambusa đến Samba(11) nơi mà sao bắc cực ở độ cao 7 độ về hướng Bắc Đông Bắc; từ Samba đến Vịnh Kawčī, nơi mà sao bắc cực ở độ cao 10 độ Bắc-Tây Bắc, và thêm nữa, từ Samba đến cảng Hải Nam nơi sao bắc cực ở độ cao 12 độ ¼, hướng Bắc-Đông Bắc.” (Ferrand G. 1913, tr. 500-501)

Khi dịch tài liệu này và đối chiếu với các hải trình khác, G. Ferrand nhận ra rằng Vịnh Kawčī chính là Vịnh Giao Chỉ, tức Giao Chỉ dương đã nói ở trên. Thậm chí, Sidi Ali Celebi còn cho biết rằng cảng Kawčī chính là “cảng của vua chúa xứ này” (Ferrand G. 1913, tr. 515). Aurousseau cũng ghi rằng người Quảng Đông phát âm Giao Chỉ là Kawči (Aurousseau L., 1924, tr. 578). Có thể khẳng định rằng sự tương đồng trong những cách gọi tên này chính là kết quả của sự giao lưu trong khu vực trong nhiều thế kỷ: khi người Á-rập đến Quảng Đông buôn bán, hoặc khi họ tiếp đón thương khách Trung Hoa trên các cảng ở Ấn Độ dương, họ cũng tiếp nhận cách mà người Trung Hoa gọi nước ta trước khi người Bồ Đào Nha đến. Và tuyến đường thương mại ấy đã trở thành kênh truyền bá liên văn hóa giữa các nước nằm trên tuyến đường, trong đó có Indonesia, Mã Lai, Thái Lan. Khi gán nguồn gốc Cửu Chân vào địa danh Cauchinchina/Cochinchina, chắc rằng tác giả Vu Dinh Dinh không hề thắc mắc tại sao nhiều địa danh đã có mặt trên bản đồ Cantino 1502 trước khi người Bồ Đào Nha đặt chân đến vùng Đông Nam Á, và ai đã đặt tên cho những địa danh ấy? Bởi vì nếu quan tâm, ông sẽ biết rằng Vasco da Gama đã thừa hưởng được kiến thức hàng hải và địa lý của người Á-rập bằng nhiều nguồn, qua nhiều giai đoạn từ thời hoàng tử Henri thành lập một trung tâm nghiên cứu hàng hải ở Sagres năm 1415, và gần nhất là qua viên hoa tiêu thuê được ở Malindi năm 1498 để dẫn đường đến Calicut (Ấn Độ). Chính vì thế mà Ferrand kết luận là những hải đồ của người Bồ Đào Nha dựa trên những tài liệu hướng dẫn hàng hải của người Á-rập (Ferrand G. 1924, tr. 247). Ấy thế mà người Á-rập lại tiếp nhận cách định danh nước ta của người Trung Hoa, và biến 交阯 thành Kawčī theo cách phát âm của họ.

Ngoài ra, để khảo sát xem tài liệu trên thế giới chuyển ngữ chữ Cochinchina/Cochinchine ra tiếng Hoa như thế nào, ta có thể gõ các từ khóa (đặt trong ngoặc kép) “交趾支那” [Giao Chỉ Chi na], “交阯支那” [cách viết khác của Giao Chỉ Chi na] và “九真支那” [Cửu Chân Chi na] vào trang Google. Kết quả là tần số xuất hiện của từ khóa thứ nhất là 23.800 lần, tần số của từ khóa thứ hai là 1.110 lần, trong khi tần số của từ khóa “九真支那” [Cửu Chân Chi na] là 0, nghĩa là không có lần nào! Kết quả trên đây tuy không có tính chất quyết định, nhưng nó cũng nói lên được khá rõ nhận thức của cộng đồng về nguồn gốc của chữ Cochinchina. Vì thế thật là vội vã nếu cho là người Bồ Đào Nha đã dùng tên một quận không còn được dân bản địa dùng nữa từ hơn 100 năm là Cửu Chân để gọi nước Việt xưa.

2.3. Sai lầm khi đặt trọn vẹn niềm tin vào bản đồ cổ

Tác giả đã bỏ ra nhiều công sức để sưu tầm 37 bản đồ có thể hiện lãnh thổ của người Việt sinh sống, được vẽ từ 1502 đến 1665. Tuy nhiên, đó lại là loại bằng chứng duy nhất mà tác giả dùng để chứng minh lập luận của mình, mà không hề đắn đo về mức độ chính xác của bản đồ thời ấy. Chính vì thế mà tác giả đã nhận định: “bản đồ cung cấp nguồn thông tin tốt nhất về các địa danh [nguyên văn: “the best source of information on place names”]. Những ghi chú chính xác của dữ liệu bao gồm việc xác định vị trí, kích cỡ và hình dáng của nó, cách thức gọi tên nó, và ngày tháng tương đối mà nó được dùng”.

Thật ra, ngay cả những bản đồ hiện đại được cập nhật thường xuyên như Google Maps hay Mapcarta cũng vẫn có không ít dữ liệu thiếu chính xác, nhất là tên gọi những địa danh ít phổ biến, huống hồ chi các bản đồ thế kỷ XVI vẫn chỉ là những phát thảo còn rất thô sơ, dựa trên những thông tin ít ỏi thiếu chuẩn mực, tỷ lệ xích rất nhỏ, lại được thực hiện nhằm phục vụ chủ yếu cho giới đi biển. Tình trạng “độc quyền kiến thức hàng hải” của các cường quốc thời bấy giờ khiến nhiều bản đồ chỉ thể hiện kiến thức của từng quốc gia, như Gallois đã từng khái quát:

“Bồ Đào Nha cấm các hoa tiêu lưu truyền các tấm bản đồ mà người ta giao cho họ trong mỗi chuyến đi, với hình phạt tử hình. Vì vậy có hệ thống bản đồ của từng quốc gia, trong đó người Bồ Đào Nha chỉ biết được kết quả khám phá của người Bồ Đào Nha, và người Tây Ban Nha chỉ biết được những gì người Tây Ban Nha khám phá được.” (Gallois L., 1890, tr. 98)

Thử quan sát cách thể hiện bán đảo Đông dương trong các bản đồ xưa, chúng ta sẽ thấy nó rất đỗi xa lạ với các bản đồ hiện đại.

2.3.1. Hình dạng địa lý còn xa với thực tế

Về hình dạng bờ biển, các bản đồ từ 1502 đến 1653 ban đầu vẽ mũi Cà Mau nằm rất cao về hướng Bắc bán cầu, và lại rất hẹp như Cantino 1502, thậm chí nó không có mặt trong bản đồ Reinel 1519, dần dần được điều chỉnh lại cho gần với thực tế hơn, như bản đồ Blaeu 1640. Cửa sông Cửu Long, sông Hồng thì nằm rất sâu trong đất liền; đảo Hải Nam vẫn còn dị dạng ngay cả trong các bản đồ Blaeu (1648), de Rhodes (1653), bán đảo Lôi Châu (Trung Hoa) được vẽ như bờ biển bình thường, v.v. Mãi đến bản đồ Carte hydro-géo-graphique des Indes Orientales của R. Bonne vẽ năm 1771 thì hình dáng vùng bờ biển nước ta mới gần với ngày nay. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả, vì vào thời ấy kiến thức địa lý của loài người còn khiếm khuyết rất nhiều, nhất là đối với những vùng nằm xa châu Âu, kỹ thuật vẽ bản đồ lại rất thô sơ, phương pháp chiếu ảnh còn sơ khai, nên đương nhiên là có rất nhiều điểm không chính xác. Kiến thức địa lý, cũng như mọi kiến thức khác, đều đi từ sơ khai, đơn giản đến phát triển, ngày càng phong phú hơn, đầy đủ hơn, chứ không thể hoàn thiện ngay được.

Riêng đối với bản đồ Ribeiro 1529, chúng ta thấy còn bỏ trống nhiều đoạn bờ biển như phía Bắc và Tây Bắc Vịnh Thái Lan, cửa sông Hồng, v.v. Điều này đã được giải thích là sau khi đàm phán Badajoz-Elvas kết thúc vào tháng 1524 không có kết quả, Tây Ban Nha bèn chuẩn bị một bản đồ để tung ra nhằm giành lợi thế cho mình trong cuộc đàm phán mới, và đó là bản đồ Ribeiro 1529, ngay cả khi nó chưa hoàn chỉnh, vì Ribeiro chỉ tập trung vào vùng đang tranh chấp giữa hai cường quốc mà thôi.

2.3.2. Các địa danh còn hỗn độn

Về địa danh ghi trên các tấm bản đồ cổ thì đó còn là cả một kho bí hiểm mà đến nay còn nhiều chi tiết chưa giải mã được. Chẳng hạn như trong bản đồ Cantino 1502, khi nhìn vào biển Đông, người đọc bắt gặp những địa danh sau đây: a fulu Candora (tại vị trí đồng bằng sông Cửu Long), ylha dos Baixos Fullucandora (Pulo Condor, Côn Đảo), ylha de bareas (đảo ?), Ylha Sama (đảo ?), Ylha Adena (đảo ?). Hoặc như trong bản đồ Mercator do J. Hondius xuất bản năm 1613, ta có thể đọc được từ trên xuống nhiều địa danh lạ lùng: Binpuri (?), Choy (?), Charchi (?), Pulo St Polo (?), Pulo Otan (?), Cantam (Cù lao Ré?), Pulo Citi (Pulo Cécir), Pulo Candor (Pulo Condor, Côn đảo), Pulo Hube (Pulo Obi, Hòn Khoai)… A. de Rhodes là người sống nhiều năm ở nước ta, các địa danh mà ông ghi trong bản đồ Regnũ Annam (1653) phần lớn do chính ông tìm hiểu tại thực địa chứ không phải tham khảo từ các tác giả phương Tây, thế mà các địa danh ấy cũng còn gây không ít trở ngại cho người Việt. Từ Bắc xuống Nam ta thấy Ke ga (?), Ke Suoc (?), Ke Tay (Kẻ Tây. Hà Tây?), Ke fau (?), Ke Bac (Kẻ Bắc, Hà Bắc?), Trang tay (?), Ke Nam (Kẻ Nam, Hà Nam?), Ha hoy (?), Kemaoc (?), Kecio (Kẻ Chợ, Hà Nội ?), v.v.

Chỉ lướt qua một vài vị trí quen thuộc trên bờ biển nước ta được thể hiện trên vài bản đồ thôi, chúng ta cũng thấy rằng hoàn toàn không như Vu Dinh Dinh nói “bản đồ cung cấp nguồn thông tin tốt nhất về các địa danh”!

Tại sao có nhiều sai lệch trong cách ghi địa danh trên các bản đồ như thế? Trước tiên đó là kết quả của nhiều nguồn cung cấp thông tin bằng nhiều ngôn ngữ hoặc phương ngữ khác nhau, nên sự khác nhau trong các địa danh là không thể tránh khỏi. Mỗi người nhận thông tin trực tiếp tại thực địa sẽ ghi lại cách phát âm bằng ngôn ngữ xa lạ mà tai mình cảm nhận được, rồi viết ra bằng tiếng mẹ đẻ của mình, nên đó chỉ là sản phẩm sau khi đã qua “bộ lọc âm thanh” của người nhận thông tin. Kế tiếp phải kể đến hậu quả của việc “tam sao thất bổn”: người tham khảo các tài liệu sơ cấp đó lại đọc hiểu theo cách của mình, rồi viết lại bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ, khiến nhiều địa danh ngày càng xa với nguồn ban đầu. Ngay cả việc nhân bản cũng gây ra nhiều sai sót: mặc dù kỹ thuật in ấn đã phát triển khá tốt, nhưng các cường quốc hàng hải thời bấy giờ, đặc biệt là Bồ Đào Nha, đều cấm việc in ấn bản đồ; họ tổ chức sao chép bằng tay thành nhiều bản để hạn chế đến mức tối thiểu khả năng rò rỉ thông tin ra ngoài biên giới. Vì thế, độ chính xác của sản phẩm sao chép hoàn toàn tùy thuộc vào người chép. Trong công việc này, người ta chủ yếu tập trung vào hình dáng bản đồ, còn cách viết địa danh thường rất lôi thôi, do người chép viết dối không thể đọc hiểu được, hoặc do người sao chép không biết ngoại ngữ nên chỉ đồ lại bản gốc mà thôi, như  E.T. Hamy (1887, tr. 63) và L. Gallois (1890, tr. 101) đã từng lưu ý trong khi nghiên cứu các bản đồ châu Âu thế kỷ XVI.

Mà không chỉ các địa danh không quan trọng mới có chuyện bí hiểm này: ngay cả tên các nước trong vùng cũng không tránh khỏi sự rối rắm trong cách viết tên. Ngay cả khi người viết đều cùng đặt chân đến Viễn Đông, nhưng cách ghi tên các vương quốc cũng khác nhau: bản đồ Ribeiro 1529 ghi nước Xiêm la thời ấy là Ansiam, Gastaldi 1561 và Mercator 1569 ghi là Sian, Ortelius 1584 ghi là Chiampa, Sĩao, Hondius 1636 ghi Tsiompa, de Rhodes 1653 ghi là Ciam…

2.3.3. Định vị địa lý sai lệch

Việc xác định vị trí các địa danh trên bản đồ cũng rất thiếu chính xác; điều này rất rõ ràng, ai cũng đều có thể nhận thấy. Thật vậy, với kỹ thuật định vị vĩ độ và kinh độ thời ấy còn rất sơ khai thì không thể nào xác định chính xác vị trí một địa điểm trên bản đồ được, đặc biệt là trên những bản đồ có tỷ lệ xích quá nhỏ mà địa danh lại phải được viết đủ lớn để có thể đọc được. Chẳng hạn đa số các bản đồ thời đó, từ bản đồ Ortelius 1584 đến bản đồ Petrus Plancius (1592), Linschoten 1596 đều định vị tỉnh Quảng Tây (Quancii) ở phía Đông Cochinchina, nhưng ngay từ các tài liệu xưa của Việt Nam như Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng đều biết là nước ta “phía Bắc giáp Quảng Tây”.

Vu Dinh Dinh đã bỏ công sưu tầm bản đồ cổ, nhưng tất cả đều là bản đồ do người phương Tây vẽ, mà không hề quan tâm đến bản đồ phương Đông. Ông sẽ nghĩ gì khi đọc bản đồ Trịnh Hòa Hàng Hải Đồ 鄭和航海圖 được vẽ vào thế kỷ XV và được in trong quyển 240 của bộ Vũ bị chí 武備志 xuất bản năm 1628, trên đó còn đọc rõ dòng chữ 交趾界 (Giao Chỉ giới) ở bên trên bản đồ (cạnh 欽州 Khâm Châu, thuộc Quảng Tây, Trung Hoa) và 交趾洋 (Giao Chỉ dương) ở phía dưới bản đồ?

3

Hình 3: Tấm thứ 10 của Trịnh Hòa Hàng Hải Đồ. Xem đầy đủ tại https://www.loc.gov/resource/g7821rm.gct00058/?sp=10

Được biết là bản đồ này đã được Francisco Rodrigues, một hoa tiêu trưởng của d’Abuquerque, dựa vào đó để phát họa hải trình đi từ Malacca đến Quảng Châu (Manguin P.Y. 1972, tr. 52) vào khoảng năm 1513-1514 nhằm mục tiêu chuẩn bị khám phá Trung Hoa của người Bồ Đào Nha.

Hoặc bản đồ Khôn Dư Vạn Quốc Toàn Đồ (坤輿萬國全圖) được in năm 1602, là bản đồ thế giới đầu tiên do người Trung Hoa vẽ với sự hỗ trợ về kỹ thuật của nhà truyền giáo Matteo Ricci. Nếu như đọc được bản đồ này, ông sẽ thấy trên phần đất nay là miền Bắc Việt Nam có ghi 安南 (An Nam) bằng chữ lớn, và bên dưới 舊交趾 (cựu Giao Chỉ) bằng chữ nhỏ hơn:

4

Hình 4: Vùng 安南 (An Nam) 舊交趾 (cựu Giao Chỉ) được phóng to. Xem ảnh gốc tại: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:Kunyu_Wanguo_Quantu_by_Matteo_Ricci_Plate_1-3.jpg

Tóm lại, trong hai bản đồ Trung Hoa nói trên, chỉ có chữ Giao Chỉ được dùng để chỉ lãnh thổ của người Việt, còn chữ Cửu Chân không hề có mặt, vì nó chỉ là một đơn vị hành chính nhỏ của Việt Nam, không nhất thiết phải ghi ra trong bản đồ khu vực hay thế giới. Nếu chỉ cần đọc được hai bản đồ này, thì có lẽ ông Vu Dinh Dinh đã phải nghiền ngẫm kỹ càng hơn trong việc đưa ra lời giải thích nguồn gốc chữ Cochinchina khác với những gì mà Aurousseau đã trình bày năm 1924.

  1. Kết luận

Địa danh 交趾 hoặc 交阯 (Giao Chỉ) đã được người Trung Hoa phổ biến khắp nơi, vừa bằng con đường văn bản hành chính, sách vở, vừa qua sự giao lưu trực tiếp giữa những người tham gia tuyến đường Trung Hoa đi Ấn Độ dương qua ngã eo biển Malacca. Khảo sát nguồn gốc tên gọi một địa danh do người nước ngoài đặt ra như chữ Cochinchina mà không quan tâm đến hệ thống bang giao giữa các nước trong vùng thì thật là vô cùng thiếu sót, vì khi giao thương, người ta còn trao đổi nhiều loại thông tin khác nhau, trong đó có kiến thức địa lý. Nhược điểm của bản đồ phương Tây được vẽ vào đầu thế kỷ XVI lúc mới đến Viễn Đông là họ vừa phát họa vừa bổ sung và chỉnh sửa dựa trên những thông tin thu thập được theo thời gian, nên không thể có ngay bản hoàn chỉnh được. Các bản đồ ấy chỉ phản ánh tình trạng kiến thức thô sơ vào thời ấy, với độ chính xác còn rất kém, nên không thể chỉ dựa vào các địa danh được ghi trên đó để phản bác lập luận của Aurousseau được.


(Bài đã đăng trên tạp chí Xưa & Nay số tháng 10 năm 2021)

Tài liệu tham khảo

Aurousseau L., 1922. Exposé de géographie historique du pays d’Annam, traduit du Cương mục. Trong tạp chí Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient, tome 22.

Aurousseau L., 1924. Sur le nom de Cochinchine. Trong tạp chí Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient, tome 24.

Ferrand G. 1913. Relations de voyages et textes géographiques arabes, persans et turks relatifs à l’ExtrêmeOrient du VIIIe au XVIIIe siècles, Tome I. Paris: Ernest Leroux Editeur.

Ferrand G., 1924. L’élénent persan dans les textes nautiques arabes. Trong tạp chí Journal Asiatique, số tháng 4-6 năm 1924.

Fournereau L. 1895. L’ancien Siam. Paris: Ernest Leroux Editeur.

Gallois L. 1890. Le portulan de Nicolas de Canerio. Trong tạp chí Bulletin de la Société de Géographie de Lyon, số 9. Lyon: Société de Géographie.

Gunn G. 2017. World Trade Systems of the East and West. Leiden, London: Brill.

Hamy E.T. 1887. Note sur la mappemonde de Diego Ribero (1529) conservée au musée de la Propagande de Rome. Trong tạp chí Bulletin de géographie historique et descriptive, số 2. Paris: Ernest Leroux Editeur.

Hồ Bạch Thảo 2010. Biển Giao Chỉ. Trên tạp chí điện tử Diễn Ðàn, ngày 9/4/2010, tại địa chỉ https://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/bien-giao-chi

Manguin P.Y., 1972. Les Portugais sur les côtes du Viêt-Nam et du Campa. Paris: Ecole franҫaise d’Extrême-Orient.

Pelliot P., 1903. Fou-nan. Trong tạp chí Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient, tome 3.

Trần Trọng Kim 1969. Một cơn gió bụi. Sài Gòn: Nhà xuẩ bản Vĩnh Sơn.

Vigneras L.A. 1962. The Cartographer Diogo Ribeiro. Trong tạp chí Imago Mundi, Vol. 16.

Wilkingson R.J. 1901. A Malay – English Dictionary. Singapore: Kelly & Walsh Limited.

Yule H. & Burnell A. C., 1886. Hobson-Jobson: A Glossary of Colloquial Anglo-Indian Words and Phrases, and of Kindred Terms, Etymological, Historical, Geographical and Discursive. London: JOHN MURRAY, ALBEMARLE STREET.

(1) Được đăng trên tạp chí THE WRITERS POST, ISSN: 1527-5467, số 9 ghép đôi hai kỳ tháng Giêng và tháng Bảy năm 2007. Đường dẫn của bài viết: http://www.thewriterspost.net/V9I1I2_ff6_vudinhdinh.htm. Theo thông báo của tòa soạn, các bài viết trong tạp chí này đã được xuất bản trong tạp chí in trên giấy Wordbridge magazine (ISSN: 1540-1723). Vì không có bản giấy nên chúng tôi sử dụng bài viết trong bản điện tử.

(2) Thật ra, các sách lịch sử Việt Nam như Đại Việt Sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Khâm định Việt sử Thông giám cương mục… không còn nhắc đến địa danh Cửu Chân từ khi Hồ Hán Thương đổi phủ Thanh Hóa thành phủ Thiên Xương năm 1403.

(3) Bản đồ Linschoten 1596 ghi là Quancjic (?), bản đồ Jodocus Hondicus in trong Samuel Purchas 1625 ghi là Quancyc.

(4) Xem bản tiếng Hán tại: http://chinesenotes.com/songshi/songshi488.html

(5) Xem bản tiếng Hán tại: https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=241709

(6) Theo Phạm Hoàng Quân (2011, tr. 122), đó là quần đảo Sulu, thuộc Philippines.

(7) Xem: https://en.wiktionary.org/wiki/%E4%BA%A4%E9%98%AF

(8) Như cuộn tranh Chaya Shinroku Kochi toko zukan (Trà Ốc Tân Lục Giao Chỉ độ hàng đồ quyển), hoặc Shuin-sen Kochi toko zukan (Châu ấn thuyền Giao Chỉ độ hàng đồ quyển (Xem: Trần Đức Anh Sơn, 2014)

(9) Theo Yule H. & Burnell, đó là tên mà người Ba Tư gọi thủ đô mới Ayodhya của Vương quốc Xiêm từ 1350.

(10) Tức Mũi Cà Mau của Việt Nam ngày nay.

(11) Tức Campa, Chiêm Thành.