Showing posts with label giáo dục. Show all posts
Showing posts with label giáo dục. Show all posts

Sunday, 1 December 2024

Bi kịch ở đâu?

Học Viện Quốc Gia Nghệ Thuật Sân Khấu và Điện Ảnh (National Academy of Theatre and Film Arts) ở Sofia (Bun-ga-ri) có hai chuyên ngành bậc tiến sĩ là Sân Khấu Học và Nghệ Thuật Sân Khấu (mã số 05.08.01) và Điện Ảnh Học, Điện Ảnh và Truyền Hình (mã số 05.08.03). Văn bằng tiến sĩ số 24248 cấp ngày 15 tháng 8 năm 1996 thuộc mã ngành nào? Dĩ nhiên mã ngành có thể thay đổi vì ranh giới giữa các ngành có thể biến động, nhưng luận án ở NATFA không thể không có mã ngành.

Nghiên cứu sinh ở NATFA phải học tập, nghiên cứu và trình bày luận án bằng tiếng Bun. NATFA không có chương trình nghiên cứu sinh bằng tiếng Anh và cũng không có chế độ đào tạo cá nhân hay hàm thụ. Bạch Tuyết đã có mặt ở NATFA trong thời kỳ nào ? Chị học tiếng Bun đến trình độ nào ? Có thể đi shop bằng tiếng Bun được không ? Và ai viết bản luận án được cấp bằng số 24248? 

Theo báo Pháp Luật (và nhiều báo khác):

Vì đồng bảo vệ luận án ở cả Viện Sân khấu và Điện ảnh quốc gia Sofia nên Viện này đã trao bằng Tiến sĩ (số 24248) vào ngày 15-8-1996 cho NS Bạch Tuyết.

Theo phía NS Bạch Tuyết, ngày 31- 10 -1995, Đại sứ quán Việt Nam tại Anh, Bungaria có công văn báo cáo cho Bộ Văn hóa Thể thao và Thành ủy TP.HCM xác nhận NS Bạch Tuyết đã bảo vệ luận án nói trên và được các thành viên của Học viện Hàn lâm Kịch nghệ Anh (và Sofia, Bungaria) đánh giá cao.

Đồng bảo vệmột khái niệm rất lạ, chỉ Bạch Tuyết mới nghĩ ra được. Không nghiên cứu sinh nào vác một công trình đi bảo vệ hết chỗ này sang chỗ khác. Đó là gian lận. Làm sao tác giả và giám khảo có thể chỉ ra cái mới trong luận án nếu nội dung đó đã được công bố ở một nơi khác?

Khi giữa hai cơ sở đào tạo có thỏa thuận đồng hướng dẫn nghiên cứu sinh, nghiên cứu sinh chỉ cần bảo vệ luận án ở một nơi (nhưng vẫn tuân thủ mọi quy định hành chính ở cả hai nơi) và nhận bằng ở cả hai nơi. Trong trường hợp trường RADA và trường NATFA có thỏa thuận đồng hướng dẫn thì luận án đã bảo vệ thành công ở RADA bằng tiếng Anh đương nhiên được công nhận kết quả ở NATFA. Đồng bảo vệ (lại) để làm gì? Nhưng, có hay không một thỏa thuận như vậy giữa RADA và NATFA lại là một câu chuyện khác. Cả trăm năm nay RADA chưa từng đào tạo tiến sĩ thì thỏa thuận làm gì cho rách việc? Bây giờ hỏi Bạch Tuyết số hiệu của bằng tiến sĩ RADA chắc bà lại đẩy người đại diện ra tuyên bố:
Từ một bài viết của một cá nhân để xảy ra vụ việc ồn ào như trên, chúng tôi cũng đành chịu, không biết giải thích gì thêm. Chúng tôi đã cung cấp giấy tờ, bằng chứng, còn việc tin hay không là của dư luận" - đại diện NSND Bạch Tuyết nói.

Ông gì đó đã nói rằng một người nghệ sĩ tài danh mà trình độ học vấn không tương đương với cái văn bằng mình mơ ước thì sự chông chênh ấy thật sự là một bi kịch. Đúng quá. 


Saturday, 30 November 2024

Có phải là mục hạ vô nhân không?

Bạch Tuyết nổ chuyện viết luận án tiến sĩ ở đây. Ngay trong mấy phút đầu của video, Bạch Tuyết đã nhắc đến tựa luận án bằng tiếng Anh (dịch ra tiếng Việt là Sự thích nghi của nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam Á...) và tên trường Royal Academy of Dramatic Arts (RADA). Bà không tường thuật chi tiết chuyện bảo vệ luận án ở Anh, nhưng bà nói rõ rằng hội đồng chấm luận án ở Bun-ga-ri có những mười bốn vị tiến sĩ (không có tên họ nào đáng nhớ). Đặc biệt đáng lưu ý là các giáo sư ở cả hai trường đều mù tịt về lĩnh vực mà bà nghiên cứu và viết luận án. Bà không tiết lộ cho cử tọa biết luận án ở Bun-ga-ri viết bằng tiếng gì và được trình bày bằng tiếng gì.


Người học tiến sĩ thường kiếm chỗ nào có uy tín trong lĩnh vực cần nghiên cứu, có chuyên gia (đầu ngành càng quý) hướng dẫn, có sách vở tham khảo... Nhiều khi mình chỉ cần khoe cái tên ông thầy dạy mình hay ông thầy ngồi hội đồng cho mình là người ta đủ hiểu rồi, chưa cần hỏi tới luận án của mình nói cái gì. Bà Bạch Tuyết không chọn những chỗ như thế. Lạ không?

Người học tiến sĩ thường thu hẹp đề tài đến mức không thể thu hẹp hơn nữa. Phạm vi đề tài cần rất hẹp để nghiên cứu sinh có thể xử lý đủ sâu trong thời hạn quy định. Tên đề tài mà bà Bạch Tuyết nêu trong video là tên của một lĩnh vực đủ cho nhiều người nghiên cứu trong nhiều kiếp. Thế mà cũng được công nhận là đề tài luận án. Sợ không?


À, hồi năm 95, trường RADA không có bậc tiến sĩ. Trường chỉ mới bắt đầu đào tạo bậc cao học (MA) từ năm 2010 và hiện giờ cũng chưa có bậc tiến sĩ. Không có thầy nào dạy tiến sĩ nhưng có một trò bậc tiến sĩ. Người duy nhất trong lịch sử cả trăm năm của nhà trường. Và lại là người Việt Nam. Đáng tự hào không?

Friday, 29 November 2024

Sao Bạch Tuyết chỉ trưng ra ba tờ giấy ấy?

Trên mạng đang lưu truyền mấy tờ giấy này, được cho là bằng chứng không thể tranh cãi về bằng tiến sĩ nghệ thuật học của Bạch Tuyết. Ba tờ giấy này không dùng được vào việc gì cả.

Tờ giấy số 1 được cấp cho một nhân vật nào đó tên Nguyen Thi Bach Tuyet. Không có dấu hiệu nào cho thấy đó là Bạch Tuyết cải lương chi bảo, sinh ngày ấy, tháng ấy, năm ấy, ở nơi ấy. Các ông bà fan cuồng của Bạch Tuyết gào rằng Tây nó thế, rằng mỗi trường có cái đặc thù của nó, muốn ghi sao là quyền của nó. Khổ nỗi Tây nó không mập mờ chuyện quyền lợi và nghĩa vụ. Trường nào cấp một văn bằng cho bất cứ ai tên Nguyen Thi Bach Tuyet đều có thể dùng được? Và văn bằng nào (từ tiểu học trở lên) không kèm với một tệp hồ sơ dày cộp để chống gian lận?

Tờ giấy số 2 và số 3 còn ngáo hơn và cũng chẳng có một giá trị nào với các cơ quan có thẩm quyền về bằng cấp.
Các ông bà fan cuồng của Bạch Tuyết lại gào rằng Bạch Tuyết không cần cơ quan nào công nhận. Chỉ là nói phét cho sang thôi, kiểu nho còn xanh lắm, ta đây đếch thèm. Thôi thì, nói phét cũng chẳng chết ai. Có điều tiến sĩ không ở đâu công nhận (ngoại trừ sứ quán, thành ủy và Wikipedia) là tiến sĩ gì?


 


 

Saturday, 10 August 2024

Về tên gọi môn học Ngữ văn cũng như mô hình CT và SGK mà chúng ta đang triển khai (Bùi Mạnh Hùng)

 Cách đây mấy hôm, anh Thái Hạo, nguyên là một nhà giáo dạy Ngữ văn và hiện là một cây bút được rất nhiều người theo dõi trên mạng xã hội, có nêu một ý kiến quan trọng trên trang FB của anh ấy: Cần tách môn Văn học ra khỏi môn Tiếng Việt.

Cụ thể, anh Thái Hạo cho rằng, lâu nay trong dạy, học và thi cử, tiếng Việt đã bị xem thường và bỏ qua. Đây là một tai họa. Nó dẫn đến thực tế rằng đa số HS (và cả GV) không biết viết (và nói) tiếng Việt một cách thông thạo và hiệu quả. Để khắc phục tình trạng này, theo anh, môn Tiếng Việt (Việt ngữ/ Quốc ngữ) cần được dạy xuyên suốt chương trình (CT) phổ thông và đánh giá năng lực tiếng Việt trên phương diện quốc gia (ví dụ như đưa vào đề thi tốt nghiệp THPT). Còn Văn học/ Văn chương thì nên đối xử như đang đối xử với Âm nhạc, Mỹ thuật,... Tách môn Văn học ra khỏi Ngữ văn, lúc này, nó sẽ được những HS có năng khiếu hoặc có đam mê hoặc có nhu cầu chọn học để thỏa chí hoặc để theo đuổi nghề nghiệp.
Anh Thái Hạo là người có nhiều trải nghiệm về lĩnh vực dạy học Ngữ văn, viết văn rất có nghề và đặc biệt là rất sắc sảo trong việc phân tích, đánh giá nhiều vấn đề về giáo dục, văn hóa, xã hội,…. Do vậy, ý kiến đề xuất trên của anh Thái Hạo được hàng ngàn người bấm like, hàng trăm ý kiến thể hiện sự đồng tình. Với tư cách là “người trong cuộc”, tôi muốn chia sẻ với các đồng nghiệp, bạn bè và những ai quan tâm một số ý kiến về vấn đề được anh Thái Hạo nêu ra. Việc trao đổi này nhằm đáp ứng mong muốn của anh Thái Hạo là “thấy một cuộc thảo luận sâu rộng về vấn đề này, với sự tham gia của nhiều thầy cô và chuyên gia”. Vấn đề được bàn có thể coi là hệ trọng. Nếu chấp nhận giải pháp mà anh đề xuất thì môn Ngữ văn ở Việt Nam sẽ thay đổi hoàn toàn, có thể tốt hẳn lên hoặc kém hẳn đi. Nên nó xứng đáng được quan tâm và trao đổi thấu đáo.
Trước hết nói về tên gọi. Đúng như anh Thái Hạo nói trong một ý kiến trao đổi ngắn với tôi trên trang FB của anh ấy, cái môn mà ta gọi là Ngữ văn thì nhiều nước gọi bằng tên gọi tiếng mẹ đẻ. Ta có thể dẫn ra một số ví dụ như: Tiếng Anh (Anh, Australia, Canada, New Zealand), Tiếng Pháp (Pháp), Tiếng Đức (Đức), Tiếng Nhật (Nhật Bản),... Một số nước khác gọi bằng những cái tên tương tự, ví dụ Hàn Quốc gọi là Quốc ngữ, Hoa Kỳ gọi là Language Arts (đôi khi gọi đầy đủ hơn là Language Arts and Literature), có thể tạm hiểu là Kĩ năng ngôn ngữ (một số người dịch là Ngôn ngữ nghệ thuật, không biết vì sao lại có sự nhầm lẫn như vậy!). CT và SGK 2018 của chúng ta lần này thiết kế theo mô hình CT và SGK của các nước phát triển như Hoa Kỳ, Australia, Hàn Quốc, Anh,... (Tôi không có điều kiện nghiên cứu kinh nghiệm của Pháp vì không biết tiếng Pháp và được biết gần đây Pháp không có đổi mới gì đáng kể về CT và SGK). Thật ra, khi xây dựng CT Ngữ văn 2018, phương án gọi tên môn học này là Tiếng Việt (bên cạnh một số tên khác như Quốc ngữ, Quốc văn, Việt văn,…) thay cho tên Ngữ văn đã từng được đặt ra, nhưng phương án đó bị gạt đi nhanh chóng, vì chắc chắn sẽ bị phản đối do nhiều người nghĩ rằng môn Văn bị loại bỏ. Công cuộc đổi mới CT và SGK không tạo được sự đồng thuận chỉ vì cái tên môn học thì rất “thất sách”. Có thể CT mới chết từ trong trứng nước chỉ vì cái tên mới của môn học. Vì vậy, tên gọi Ngữ văn đã được giữ nguyên như chúng ta thấy.
Thứ hai là nói về cách tiếp cận. Không phải ngẫu nhiên mà các nước phát triển đều thiết kế CT và SGK theo cách tích hợp như CT và SGK Ngữ văn 2018 của Việt Nam. Nói chính xác là chúng ta học hỏi kinh nghiệm của họ. Nếu tách Tiếng Việt và Văn học thành hai môn riêng biệt thì Việt Nam sẽ "không giống ai" trong thế giới tiến bộ mà lại rất giống với ta đã cách đây mấy chục năm. Việt Nam từng có hai môn riêng biệt như thế (có một khác biệt đáng kể là có cả môn Tập làm văn). Nhiều người cứ chỉ trích GS. Nguyễn Đăng Mạnh và GS. Trần Đình Sử đã làm hỏng môn học này vì gộp Văn và Tiếng Việt vào một môn chung là Ngữ văn. Nghĩ vậy là chưa hiểu thực tế xây dựng CT, biên soạn SGK và dạy học Ngữ văn ở Việt Nam và oan cho các ông. Chất lượng của môn học này trong nhà trường phổ thông không phải vì cái tên. Việc tích hợp hai “mảng” Tiếng Việt và Văn học là tất yếu, còn cái tên là Ngữ văn hay Tiếng Việt không làm thay đổi bản chất của môn học. CT Ngữ văn được triển khai như hiện nay ở Việt Nam hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển CT trên thế giới; cho đến nay tôi chưa thấy có cách nào khác tốt hơn. Các nội dung anh Thái Hạo hình dung cho môn Tiếng Việt (nếu được tách thành môn độc lập) như dạy về nghĩa và cách dùng từ ngữ (Hán Việt, tục ngữ, thành ngữ,...); dạy về cách viết câu, viết đoạn, viết các loại văn bản; dạy về cách đọc các loại văn bản khác nhau (hành chính, chính luận, nghệ thuật,...); dạy về cách bình luận, tranh luận, bút chiến, hùng biện,... thì đều đã có trong CT Ngữ văn 2018. Theo CT Ngữ văn mới này, hoạt động thực hành đọc, viết, nói và nghe được triển khai dựa trên nguồn ngữ liệu đa dạng, có văn bản văn học, văn bản nghị luận, văn bản thông tin (nghĩa là đủ các loại văn bản thông dụng mà con người tiếp xúc hằng ngày). Việc đọc tác phẩm văn học không chỉ giúp HS phát triển năng lực thẩm mỹ (chẳng lẽ có những người không cần đến năng lực này?), giáo dục cho các em nhiều phẩm chất quan trọng (tình yêu gia đình, lòng nhân ái, niềm trắc ẩn đối với tha nhân,...) mà còn giúp HS học hỏi được cách sử dụng ngôn ngữ một cách tinh tế; giúp HS mở rộng vốn sống, trải nghiệm để các em có cái để viết, để trao đổi, tranh biện,...; qua đó phát triển kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Khó mà kể hết những tác dụng của việc học văn học. Nhưng chỉ chừng ấy thôi thì cũng đủ để khẳng định rằng, không thể coi Văn học chỉ là môn tự chọn, là môn năng khiếu hay môn có vị trí "ngang bằng" với Âm nhạc, Mỹ thuật,... được. Tách Tiếng Việt thành môn riêng còn có nguy cơ dạy nhiều kiến thức ngôn ngữ học, biến môn học này thành một món rất hàn lâm. Còn nếu đưa một phần Văn học vào đây thì có khác gì cách xây dựng CT 2018 như hiện nay đâu? Lại có thêm câu hỏi đặt ra: Vậy thì phần văn học nào thì đưa vào môn Tiếng Việt (bắt buộc), phần văn học nào thì làm thành nội dung của môn Văn học (tự chọn)? Lưu ý là CT Ngữ văn 2018 cũng đã có hệ thống chuyên đề (3 chuyên đề/năm) cho HS lựa chọn, trong đó có tám chuyên đề về văn học dành cho HS có năng khiếu, sở thích hay định hướng nghề nghiệp có liên quan đến môn Ngữ văn.
Tôi đồng tình với đánh giá sau của anh Thái Hạo: Trong thi cử, tiếng Việt đã bị xem thường và bỏ qua khi đánh giá chất lượng của bài thi, bằng chứng là tỉ lệ điểm dành cho kĩ năng diễn đạt của HS trong các bài thi theo đáp án chấm bài của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như của các sở lâu nay là không đáng kể. Nói rằng cách ứng xử đó đối với tiếng Việt góp phần dẫn đến tình trạng sử dụng tiếng Việt yếu kém đến mức “thảm họa” như hiện nay cũng không sai. Tuy nhiên, giải pháp cho vấn đề không phải là tách Tiếng Việt thành môn riêng như anh đề xuất.
Tiện thể, xin chia sẻ một ý nhỏ: Có người cho rằng Tiếng Việt là môn khoa học còn Văn học là môn nghệ thuật. Nói như vậy là hiểu chưa đúng về vai trò, vị trí của môn học này ở phổ thông. Chỉ có Việt ngữ học (học ở đại học) mới là môn khoa học. Chỉ có sáng tác văn chương (có thể học ở trường viết văn) mới thuộc lĩnh vực nghệ thuật. Còn môn Ngữ văn (hiểu nôm na là gồm Tiếng Việt và Văn học) ở phổ thông trước hết là môn học công cụ giúp HS phát triển kĩ năng đọc, viết, nói và nghe, đúng tính chất là môn học công cụ như anh Thái Hạo kì vọng. Thành công của việc đổi mới CT và SGK Ngữ văn lần này tùy thuộc vào rất nhiều thứ, nhưng riêng cách tiếp cận về CT và SGK mà chúng ta lựa chọn thì có thể khẳng định là đúng đắn. Dĩ nhiên, cách tiếp cận đúng đắn không đảm bảo sản phẩm chắc chắn sẽ tốt. Cụ thể, CT và các bộ SGK Ngữ văn kì này tốt hay chưa tốt cần chờ thêm thời gian, không ai dám quả quyết trước điều gì.
Vấn đề này nói cho hết nhẽ thì cần có một cuộc hội thảo như anh Thái Hạo mong muốn (thật ra đã từng có những cuộc trao đổi rộng rãi). Tuy vậy, hi vọng những gì tôi nêu ở trên sẽ là thông tin hữu ích cho những ai quan tâm và bàn luận về tên gọi môn học Ngữ văn cũng như mô hình CT và SGK mà chúng ta đang triển khai.
(Facebook của tác giả: https://www.facebook.com/hung.bui.3975012)

Thursday, 7 April 2022

Lê nin nói chuyện học, học nữa, học mãi trong hoàn cảnh nào?

Ngày 2 tháng 9 năm 1792 Danton ứng khẩu diễn thuyết ở Quốc Hội Lập Pháp trong bối cảnh chiến sự hết sức bi đát. Trước khi kết thúc ông kêu gọi nhân dân và các nghị sĩ cần táo bạo, táo bạo hơn nữa, táo bạo mọi nơi mọi lúc thì mới cứu được nước Pháp (Il nous faut de l’audace, encore de l’audace, toujours de l’audace, et la France est sauvée). Câu nói nổi tiếng của Danton về sau chỉ còn De l’audace, encore de l’audace, toujours de l’audace (dịch sang tiếng Việt là Táo bạo, táo bạo [hơn] nữa, táo bạo mãi) để dùng cho mọi trường hợp cần đến sự táo bạo. Mệnh lệnh thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa của tướng Giáp ngày 7 tháng 4 năm 1975 là một trường hợp như vậy. Có hay không có nữa, có hay không có mãi, đều là phải táo bạo, miễn là có nhắc lại từ táo bạo.

Học trò trường Bưởi mang băng tang đen trên cánh tay kéo nhau ra khỏi trường đi dự lễ truy điệu ở một số chùa ngoại thành. Tôi còn nhớ là mình đã cùng bạn bè hô to khẩu hiệu của Danton thời Cách mạng Pháp: “Táo bạo! Táo bạo nữa! Táo bạo mãi!”.
(https://rosetta.vn/short/2018/10/04/su-hoc-cua-hai-ong-do-xu-nghe-nguyen-xien-va-hoang-xuan-han/)


Lenin đã đánh giá cao khẩu hiệu của đại cách mạng Pháp và muốn cuộc cách mạng vô sản Tháng Mười Nga áp dụng khẩu hiệu đó: Táo bạo, táo bạo, táo bạo hơn nữa.
(https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/sang-tao-va-tan-dung-thoi-co-dua-cuoc-tong-khoi-nghia-toan-dan-den-thang-loi-470795/)

Tiếng Nga có ít nhất ba bản dịch câu nói của Danton:

— нужно дерзать, и еще раз дерзать, дерзать всегда — и Франция будет спасена!
— нужна смелость, смелость и еще раз смелость, и Франция будет спасена !
— нужна смелость, еще смелость, всегда смелость, и Франция будет спасена !

(https://ru.wikiquote.org/wiki/%D0%96%D0%BE%D1%80%D0%B6_%D0%96%D0%B0%D0%BA_%D0%94%D0%B0%D0%BD%D1%82%D0%BE%D0%BD)

Người Nga và người Việt đều không gặp vấn đề gì khi dịch câu nói của Danton .

 

Ngày 06-04-2022 thầy Thiên Lương treo trên tường Facebook của thầy như sau:

Mấy hôm nay có chuyện ồn ào với câu khẩu hiệu "Học, học nữa, học mãi" của Lê Nin. Thầy muốn nói đôi lời thế này.

Thứ nhất là bản dịch tiếng Việt này không chuẩn lắm. Câu của cụ là: учиться, учиться и учиться - dịch nghĩa đen là: học, học và học. Thế thôi chứ cụ không có bảo học nữa học mãi đi. Đương nhiên bản dịch không tệ và không hẳn là sai nhưng không đúng. Câu gốc chỉ muốn nói đến một hành động kéo dài.

Thứ hai là ngay các nhà giáo dục Nga cũng lạm dụng câu này của Lê Nin. Cụ dùng nó trong ngữ cảnh khác. Cụ thể là trong một bài báo năm 1899, cụ viết đại ý là:

"Vào thời kỳ mà giới có học vấn đang đánh mất sự quan tâm đến văn chương trung thực bất hợp pháp thì giữa giai cấp công nhân lại phát triển khát vọng với tri thức và chủ nghĩa xã hội, giữa giai cấp công nhân lại nổi lên những anh hùng thực sự, những người bất chấp hoàn cảnh tệ hại của đời mình, bất chấp công việc khổ sai ngu muội ở nhà máy, vẫn tìm được trong mình biết bao ý chí và sức mạnh tinh thần để học, học và học..."

Vậy nên ý cụ Năm không phải hô khẩu hiệu mà dùng lặp từ ba lần chỉ để nhấn mạnh một hành động thôi. Câu dịch tiếng Việt coi như bị làm sai hai lần. Chính người Nga cũng cố tình tách câu của cụ ra khỏi ngữ cảnh để làm khẩu hiệu.

Dĩ nhiên về bản chất thì câu đó đúng, nhưng không phải vì nó đúng mà bỏ qua bối cảnh được

 

 

Thầy Thiên Lương nói đúng ở chỗ về bản chất thì câu đó đúng, nhưng không phải vì nó đúng mà bỏ qua bối cảnh được, nhưng thầy xác định sai bối cảnh của câu đó. Bối cảnh của câu đó  tác phẩm Thà ít mà tốt của chính Lê-nin, được giới thiệu ngắn gọn ở đây:

 

Tác phẩm Thà ít mà tốt có ý nghĩa thực tiễn cực kỳ quan trọng. Nó trang bị cho những người cộng sản lý luận về xây dựng nhà nước Xô viết đứng vững và phát triển. Thà ít mà tốt là một cống hiến lý luận của Lênin về xây dựng Nhà nước. Nội dung của tác phẩm được Người đọc cho thư ký ghi lại trong nhiều ngày và hoàn thành vào ngày 2-3-1923, công bố trên báo Sự thật số 49 ngày 4-3-1923. 

 

(https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/v-i-lenin/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/tha-it-ma-tot-3154)


Khi
bàn về yêu cầu và điều kiện cải tiến bộ máy Xô Viết, Lê nin viết:

Phải đổi mới thành phần của bộ máy ấy bằng những lực lượng ưu tú của Đảng trong giai cấp công nhân và giới tri thức. Vì thế, để đổi mùi  (sic) bộ máy nhà nước, theo Lênin cần phải: “Một là học tập, hai là học tập, ba là học tập mãi, và sau nữa, phải làm sao cho học thức ở nước ta không nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa...”. 

 

Tiếng Pháp như thế này:

Pour rénover notre appareil d'Etat, nous devons à tout prix nous assigner la tâche que voici : premièrement, nous instruire ; deuxièmement, nous instruire encore ; troisièmement, nous instruire toujours.
(https://www.marxists.org/francais/lenin/works/1923/03/vil19230304.htm)

 

Các cán bộ tuyên truyền cô đặc ý của chính chủ Lê-nin trong Thà ít mà tốt thành учиться, учиться и учиться. Trong bản chính lẫn bản cô đặc đều không có nữa mãi, nhưng người đọc có vốn văn hóa rộng và người dịch có tay nghề vững đều cảm nhận được hiện tượng đa thanh ở câu đó. Chỉ người dịch theo trường phái Google 2022 mới hì hục dịch thành học, học và học rồi hí hửng, hớn hở và hồ hởi. Chỉ giỏi huênh hoang, huênh hoang nữa, huênh hoang mãi.


Không cóp được nguồn, chụp ảnh để lưu.

 

 



 

 

 


(https://forum.wordreference.com/threads/all-slavic-learn-learn-learn.3423886/)

Tuesday, 11 January 2022

Nguyễn Thành Nam có thể làm việc gì có ích cho đời?

 

Ông Cao Xuân Hạo từng than rằng ở ta có hai ngành mà nhiều người quan niệm là không cần học một chữ nào cũng có thể làm được: đó là Văn và Ngữ.


Ông Nguyễn Thành Nam là một trong số nhiều người đó, đồng thời là một trong số ít người dám lên YouTube để dạy cái ông không cần học một chữ cũng có thể làm được” (ngữ).

Cái nốt này không nói chuyện “chủ trương đưa trẻ em đi lại con đường mà nhà ngữ âm học đã đi” là đúng hay sai. Tôi chỉ ghi nhận mấy chuyện sau:

-Ông Nguyễn Thành Nam không biết nhà ngữ âm học nào đã chế tác ra chữ quốc ngữ;

-Ông Nguyễn Thành Nam không biết chữ quốc ngữ đã được chế tác như thế nào;

 

-Ông Nguyễn Thành Nam chỉ biết tiếng Pháp và tên của cha Đắc Lộ, còn ngoài ra ông không biết cha Đắc Lộ đã làm gì;

-Ông Nguyễn Thành Nam không biết gì về ngữ âm học ngoài cái tên tiếng Việt của môn học này.

Cả cái video dài gần nửa tiếng của ông Nguyễn Thành Nam chỉ có ba câu sau đây là đúng:

Đôi khi mình không biết mà mình phát biểu ý kiến thì nó sẽ gây hại... Thầy thấy nhiều người thà rằng họ im đi họ đừng nói thì họ sẽ làm việc tốt chứ còn nếu mà họ nói họ sẽ làm hại...  Nhiều người có thể làm việc tốt bằng cách im đi...

(https://www.youtube.com/watch?v=pY5qs3JkCpE)

Monday, 26 July 2021

Nhớ trường Kiểu Mẫu (Phanxipăng - Chim Việt)

 

Nhớ trường Kiểu Mẫu

Phanxipăng

Trước đây, Việt Nam có ba trường trung học cùng mang tên Kiểu Mẫu. Cả ba trường đều trực thuộc Đại học Sư phạm tại địa phương chứ  không do Ty Giáo dục quản lý như hầu hết  các trường trung học khác.  Kiểu Mẫu ở Huế khai giảng khoá đầu tiên năm 1964. Năm kế tiếp, 1965, Kiểu Mẫu ở Thủ Đức hình thành. Kiểu Mẫu ở Cần Thơ xuất hiện vào năm 1968.
Năm 1964, Đại học Sư phạm Huế có cơ ngơi mới rất khang trang: tòa nhà chữ Y ở hữu ngạn dòng Hương. Bên cạnh, một tòa nhà chữ Y giống đúc là Trung học Kiểu Mẫu Huế, cơ sở thực nghiệm lẫn thực hành của Đại học Sư phạm Huế. Được thực hiện theo đồ án của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (1), cả hai tòa nhà ba tầng nọ tọa lạc trong khuôn viên rộng 39.000m2, xưa là Toà Khâm sứ của Pháp.

Ngày 4-8-1964, nghị định 1352GP/PC/NĐ được ban hành nhằm "thiết lập trường Trung học Kiểu Mẫu Huế trực thuộc trường Đại học Sư phạm Huế". Ngày 20-9-1964, Trung học Kiểu Mẫu Huế khai giảng niên khóa đầu tiên với 8 lớp (gồm 4 lớp đệ thất (2) và 4 lớp đệ lục (3)), 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, do nhà giáo Trần Kim Nở làm Hiệu trưởng.

Trên một quả đồi thuộc xã Linh Xuân Thôn, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định, trường Đại học Sư phạm Sài Gòn và Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức được xây dựng trong khuôn viên 5.107m2 theo đồ án cũng của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức được thành lập theo nghị định 840GP/PC/NĐ, khai giảng niên khóa đầu tiên vào ngày 11-10-1965 với 8 lớp (cũng gồm 4 lớp đệ thất và 4 lớp đệ lục), 280 học sinh, do nhà giáo Dương Thiệu Tống làm Hiệu trưởng.

Trung học Kiểu Mẫu Cần Thơ được thành lập theo nghị định 2072GP/PC/NĐ ngày 4-12-1968, xây dựng hoàn tất ngày 30-12-1969.

Xét thực tế, rõ ràng Trung học Kiểu Mẫu Huế trở thành "trưởng tràng" trong hệ thống các trường Trung học Kiểu Mẫu tại Việt Nam (4). Điều đó từng được tạp chí Thế Giới Tự Do tập XXI số 2 khẳng định: "Trong vụ khai trường năm nay (1965), một trường trung học phổ thông Kiểu Mẫu thứ hai đã được khánh thành tại Thủ Đức, cách phía đông bắc Sài Gòn 14 cây số, gần xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa. Trường trung học phổ thông Kiểu Mẫu thứ nhất cũng thuộc loại này đã xây cất tại Huế và đã khai giảng từ năm 1964." Vả lại, kỷ yếu Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức niên khóa đầu tiên 1965 - 1966 tam ngữ Việt - Anh - Pháp (5) hiện vẫn còn bảo lưu.

Thời đó, hầu hết học sinh các trường phổ thông phải tuân theo quy định về đồng phục: nam mặc áo trắng, quần xanh sẫm; nữ mặc áo dài trắng. Riêng học sinh Kiểu Mẫu hơi đặc biệt: nam mặc áo xanh da trời, quần xanh sẫm; nữ mặc áo dài hoặc váy xanh da trời. Ấy là hình thức. Còn nội dung và phương pháp học hành, thi cử của học sinh Kiểu Mẫu có gì khác lạ?

Trước tiên, về quy chế, trường Trung học Kiểu Mẫu không do Ty Giáo dục quản lý như tất cả trường công lập, bán công và tư thục trên địa bàn, mà trực thuộc Đại học Sư phạm. Tuy nhiên, trường Trung học Kiểu Mẫu vẫn giữ quyền tự trị nhất định: có ban giám hiệu độc lập và đội ngũ nhà giáo riêng đạt trình độ chuyên môn xuất sắc.

Triết lý giáo dục của trường Trung học Kiểu Mẫu dựa trên 3 nguyên tắc và 4 phương thức. 3 nguyên tắc: nhân bản, dân tộc, khai phóng. 4 phương thức: toàn diện, thích nghi, thực dụng, tân tiến.

Đường lối giảng dạy mà Trung học Kiểu Mẫu chủ trương và áp dụng là chú trọng việc hướng dẫn từng cá nhân. Do đó, sĩ số mỗi lớp thường không quá 45 học sinh. Yêu cầu đặt ra: trang bị cho học sinh một số kiến thức tổng quát tối thiểu và phổ thông để sau đủ khả năng theo đuổi bậc đại học, đồng thời cung cấp một số kiến thức thực dụng giúp học sinh hiểu biết để lựa chọn nghề nghiệp phù hợp trong tương lai hoặc bất đắc dĩ thì có thể mưu sinh nếu chẳng may không tiếp tục được việc học ở trường ốc.

Cần lưu ý rằng nội dung chương trình giảng dạy của trường Kiểu Mẫu thường xuyên được sửa đổi trên tinh thần linh động uyển chuyển nhằm thích ứng kịp thời với những khám phá mới trong lĩnh vực khoa học giáo dục Việt Nam và thế giới.

Từ thập niên 1960, học sinh Trung học Kiểu Mẫu đã được làm quen tân toán học, nhập môn lớp 6 liền "vui chơi" với lý thuyết tập hợp của Georg Cantor (1845 - 1918) thông qua tập hợp rỗng và tập hợp chứa ít nhiều phần tử với mấy mối quan hệ giao hoặc hội được thể hiện trực quan bằng giản đồ Venn. Các môn khác gồm Việt văn, sinh ngữ lẫn cổ ngữ (Anh, Pháp, Hán), lịch sử, địa lý, vật lý, hoá học, vạn vật (tức sinh học) cũng có nhiều đổi mới so với các trường khác cùng thời, thể hiện qua bài học ngắn gọn với các kiến thức cập nhật, đề cao suy luận sáng tạo hơn ghi nhớ máy móc, chăm chú rèn giũa kỹ năng thí nghiệm và thực hành. Học sinh Kiểu Mẫu còn học âm nhạc, hội hoạ, thể dục thể thao, lại được huấn luyện thêm nhiều môn mà các trường phổ thông khác không dạy như võ thuật, canh nông, chăn nuôi, công kỹ nghệ, doanh thương, kinh tế gia đình.

Lề lối thi cử của trường Kiểu Mẫu được cải tiến đáng kể: bãi bỏ thi lục cá nguyệt (học kỳ), bãi bỏ hệ số các môn thi cuối cấp (tú tài). Điều đó xuất phát từ quan niệm: cần trang bị kiến thức nền một cách toàn diện và không xem thi cử là quyết định tối hậu.

Hồi ấy, các trường trung học chấm bài theo thang điểm 20, riêng Kiểu Mẫu không dùng điểm số mà áp dụng điểm chữ: A (giỏi), B (khá), C (trung bình), D (kém), L (loại / liệt). Đề thi nhập học (tuyển sinh vào lớp 6 được áp dụng ngay từ niên khoá đầu tiên), thi tú tài và cả nhiều bài kiểm tra bình thường ở trường Kiểu Mẫu đều được soạn chủ yếu dưới dạng trắc nghiệm với nhiều kiểu khác nhau: điền khuyết, chọn lựa, trả lời vắn tắt, v.v.

Trung học Kiểu Mẫu Huế niên khoá thứ nhì 1965 - 1966 đã có 12 lớp, 476 học sinh, 30 nhà giáo, 12 nhân viên, với Hiệu trưởng Dương Đình Khôi. Năm học kế tiếp, trường được 15 lớp, 492 học sinh, 37 nhà giáo, 12 nhân viên, với Hiệu trưởng Trần Hữu Long. Niên khoá 1974 - 1975, nhà giáo Lê Bá Quân làm Hiệu trưởng Trung học Kiểu Mẫu Huế. Kể từ năm học 1975 - 1976, Trung học Kiểu Mẫu Huế chuyển tên thành Trung học Lê Lợi, do nhà giáo Trần Kiêm Tiềm (anh ruột của nữ ca sĩ Hà Thanh) làm Hiệu trưởng, tới mùa hè 1977 thì trường giải thể.

Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức niên khoá đầu 1965 - 1966 có 8 lớp (gồm 4 lớp đệ thất và 4 lớp đệ lục), 280 học sinh, do nhà giáo Dương Thiệu Tống làm Hiệu trưởng. Các vị Hiệu trưởng tiếp theo của trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức: Nguyễn Thị Nguyệt giai đoạn 1966 - 1969, Phạm Văn Quảng giai đoạn 1969 - 1972, Dương Văn Hoá giai đoạn 1972 - 1973, Huỳnh Văn Nhì giai đoạn 1974 - 1975. Từ niên khoá 1975 - 1976, Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức đổi tên thành Trung học Thực Dụng, tới mùa hè 1981 thì cũng giải thể.

Nhiều học sinh Kiểu Mẫu đã theo học đại học và sau đại học ở trong lẫn ngoài nước, ngày nay đang cống hiến năng lực ở bao lĩnh vực: giáo dục, y tế, báo chí, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, giao thông vận tải, sản xuất kinh doanh, v.v.

Thầy trò của Kiểu Mẫu vẫn thường xuyên liên hệ để thăm nom giúp đỡ nhau rất nghĩa tình, đã tổ chức một số đợt cứu trợ nạn nhân bão lụt và trợ cấp học bổng, thực hiện các trang web và ấn hành kỷ yếu, giai phẩm, đặc san (6), v.v.

Kiểu Mẫu Huế hội ngộ, liền vang vọng Kiểu Mẫu ca của Đặng Văn Nhuận:

Trong lòng miền Trung, Kiểu Mẫu ta hiên ngang
Hồn thiêng rền vang tiếng nung nấu bao lòng trai tráng
Sức ta khơi mạch nguồn, ý ta luôn trường tồn
Cho ngày mai huy hoàng Việt Nam.

Kiểu Mẫu Thủ Đức gặp mặt, vui tươi đàn hát Học sinh hành khúc - bài ca chính thức của trường này được Lan Đài (7) soạn nhạc, Bàn Thạch (8)đặt lời:

Đây đoàn học sinh lên đường cầm tay dưới nắng hồng
Reo lên vui tươi kết đoàn cùng một tấc lòng
Xây dựng ngày mai non Việt hạnh phúc tràn nơi nơi
Quốc dân no ấm, thương yêu tấm tình đầy vơi.

Được biết thời gian qua, Đại học Sư phạm Huế có lúc mong muốn tái lập Trung học Kiểu Mẫu Huế để làm cơ sở thực tập lẫn kiến tập, đồng thời làm nơi phát hiện và bồi dưỡng học sinh năng khiếu. Vì muôn vàn lý do, kế hoạch đó đến bây giờ vẫn chưa thể triển khai (9).

Quả thật, các trường Trung học Kiểu Mẫu Huế, Thủ Đức, Cần Thơ thuở nào vẫn là mô hình rất đáng tham khảo cho công cuộc chấn hưng sự nghiệp giáo dục của nước nhà hiện nay.

_________________
(1) - Ngô Viết Thụ (1926 - 2000) gốc làng Lang Xá, nay thuộc thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Năm 1955, Ngô Viết Thụ đạt giải khôi nguyên La Mã / giải thưởng lớn Roma về kiến trúc, đồng thời nhận bằng kiến trúc sư tại Paris. Một số thiết kế của Ngô Viết Thụ đã được xây dựng: Dinh Độc Lập, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Nhà thờ chính tòa Phủ Cam, Khách sạn Hương Giang và Century ở Huế, Thương xá Tam Đa / Crystal Palace, Đại học Nông nghiệp Thủ Đức, Trụ sở Ty Thủy lợi Đăklăk, Bệnh viện Sông Bé, v.v.
(2) - Lớp đệ thất tương đương lớp 6 hiện nay.
(3) - Lớp đệ lục tương đương lớp 7 hiện nay.
(4) - Một số thư tịch ghi nhận nhầm lẫn rằng Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức là trường đầu tiên trong hệ thống được gọi "giáo dục tổng hợp". Chẳng hạn kỷ yếu Tiền phong tổng hợp 1965 - 1971 có dòng: "Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức là trường trung học tổng hợp đầu tiên Việt Nam." Cần thêm: từ mô hình Trung học Kiểu Mẫu, chuỗi Trung học Dẫn Đạo xuất hiện gồm các trường Trung học: Gia Hội (Huế), Trần Quốc Tuấn (Quảng Ngãi), Ban Mê Thuột (Darlac / Đăk Lăk), Nguyễn Huệ (Tuy Hòa), Mạc Đỉnh Chi & Quốc Gia Nghĩa Tử (Sài Gòn), Phan Thanh Giản (Cần Thơ), Bến Tre (Kiến Hòa), Thoại Ngọc Hầu (Long Xuyên), Nguyễn Trung Trực (Rạch Giá), v.v.
(5) - Trung học Kiểu Mẫu: The Demonstration School (tiếng Anh), Le Lycée Pilote (tiếng Pháp).
(6) - Thống kê chưa đầy đủ các kỷ yếu, giai phẩm, đặc san cấp trường đã xuất bản: Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức niên khóa đầu tiên 1965 - 1966; Tiền phong tổng hợp 1965 - 1971; Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức niên khóa 1970-1971; Kiểu Mẫu Huế 1972; Kiểu Mẫu Thủ Đức xuân Quý Sửu 1973; Nhìn về trường xưa 2006; 45 năm Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức 1965-2010; Kiểu Mẫu Huế 2013; v.v.. Đau buồn tiếc xót thay! Đặc san Kiểu Mẫu Huế 2013 (NXB Thời Đại) mắc những lỗi lầm không đáng có, nghiêm trọng nhất là vi phạm bản quyền mà đây là một trường hợp: bài thơ Huế - tên của nỗi nhớ của Hoàng Phủ Ngọc Phan từng in tạp chí Đất Việt ở Canada cuối thập niên 1980, được tuyển vào sách Hai thập kỷ thơ Huế (NXB Văn Học, Hà Nội, 1995), được nhạc sĩ Nguyễn Viêm phổ thành bài hát và ca sĩ Minh Huyền trình bày; vậy mà Huỳnh Hữu Bi trộm 20/30 dòng, ghi địa điểm và niên điểm sáng tác là "Huế - Sài Gòn 96", đăng trên trang 135 đặc san Kiểu Mẫu Huế 2013. Sự cố ấy đã bị Cô Tú - một bút danh của Hoàng Phủ Ngọc Phan - vạch rõ trên bán nguyệt san châm biếm và trào phúng Tuổi Trẻ Cười 478 (15-6-2013).
(7) - Lan Đài: Nguyễn Kim Đài.
(8) - Bàn Thạch: Dương Thiệu Tống.
(9) - Tin vui: Trải qua nhiều vận động lâu dài tích cực, trường Trung học Kiểu Mẫu - Huế trực thuộc Đại học Sư phạm Huế đang được tái lập, dự kiến khai giảng vào mùa thu năm 2014 này.
Đã đăng Áo Trắng số 1 bộ mới (15-5-2007)

Huy hiệu Kiểu Mẫu Huế

Đại học Sư phạm Huế & Trung học Kiểu Mẫu Huế nhìn từ trên cao. 
Ảnh: Phanxipăng

Huy hiệu Kiểu Mẫu Thủ Đức

Mở đầu bài "Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức" 
trên tạp chí Thế Giới Tự Do tập XXI, số 2, năm 1965

Đại giảng đường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức. 
Ảnh: Phanxipăng

Dãy A & C trường Trung học Kiểu Mẫu Huế. 
Ảnh: Phanxipăng

Dãy B trường Trung học Kiểu Mẫu Huế. 
Ảnh: Phúc Đường

Một góc trường Kiểu Mẫu Thủ Đức. 
Ảnh: Phanxipăng

Đồng phục học sinh Kiểu Mẫu: áo màu xanh da trời. 
Ảnh: Phanxipăng

Huy hiệu Kiểu Mẫu Cần Thơ

Xe buýt đưa đón học sinh trường Trung học Kiểu Mẫu Cần Thơ