Showing posts with label giáo dục. Show all posts
Showing posts with label giáo dục. Show all posts

Thursday 7 April 2022

Lê nin nói chuyện học, học nữa, học mãi trong hoàn cảnh nào?

Ngày 2 tháng 9 năm 1792 Danton ứng khẩu diễn thuyết ở Quốc Hội Lập Pháp trong bối cảnh chiến sự hết sức bi đát. Trước khi kết thúc ông kêu gọi nhân dân và các nghị sĩ cần táo bạo, táo bạo hơn nữa, táo bạo mọi nơi mọi lúc thì mới cứu được nước Pháp (Il nous faut de l’audace, encore de l’audace, toujours de l’audace, et la France est sauvée). Câu nói nổi tiếng của Danton về sau chỉ còn De l’audace, encore de l’audace, toujours de l’audace (dịch sang tiếng Việt là Táo bạo, táo bạo [hơn] nữa, táo bạo mãi) để dùng cho mọi trường hợp cần đến sự táo bạo. Mệnh lệnh thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa của tướng Giáp ngày 7 tháng 4 năm 1975 là một trường hợp như vậy. Có hay không có nữa, có hay không có mãi, đều là phải táo bạo, miễn là có nhắc lại từ táo bạo.

Học trò trường Bưởi mang băng tang đen trên cánh tay kéo nhau ra khỏi trường đi dự lễ truy điệu ở một số chùa ngoại thành. Tôi còn nhớ là mình đã cùng bạn bè hô to khẩu hiệu của Danton thời Cách mạng Pháp: “Táo bạo! Táo bạo nữa! Táo bạo mãi!”.
(https://rosetta.vn/short/2018/10/04/su-hoc-cua-hai-ong-do-xu-nghe-nguyen-xien-va-hoang-xuan-han/)


Lenin đã đánh giá cao khẩu hiệu của đại cách mạng Pháp và muốn cuộc cách mạng vô sản Tháng Mười Nga áp dụng khẩu hiệu đó: Táo bạo, táo bạo, táo bạo hơn nữa.
(https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/sang-tao-va-tan-dung-thoi-co-dua-cuoc-tong-khoi-nghia-toan-dan-den-thang-loi-470795/)

Tiếng Nga có ít nhất ba bản dịch câu nói của Danton:

— нужно дерзать, и еще раз дерзать, дерзать всегда — и Франция будет спасена!
— нужна смелость, смелость и еще раз смелость, и Франция будет спасена !
— нужна смелость, еще смелость, всегда смелость, и Франция будет спасена !

(https://ru.wikiquote.org/wiki/%D0%96%D0%BE%D1%80%D0%B6_%D0%96%D0%B0%D0%BA_%D0%94%D0%B0%D0%BD%D1%82%D0%BE%D0%BD)

Người Nga và người Việt đều không gặp vấn đề gì khi dịch câu nói của Danton .

 

Ngày 06-04-2022 thầy Thiên Lương treo trên tường Facebook của thầy như sau:

Mấy hôm nay có chuyện ồn ào với câu khẩu hiệu "Học, học nữa, học mãi" của Lê Nin. Thầy muốn nói đôi lời thế này.

Thứ nhất là bản dịch tiếng Việt này không chuẩn lắm. Câu của cụ là: учиться, учиться и учиться - dịch nghĩa đen là: học, học và học. Thế thôi chứ cụ không có bảo học nữa học mãi đi. Đương nhiên bản dịch không tệ và không hẳn là sai nhưng không đúng. Câu gốc chỉ muốn nói đến một hành động kéo dài.

Thứ hai là ngay các nhà giáo dục Nga cũng lạm dụng câu này của Lê Nin. Cụ dùng nó trong ngữ cảnh khác. Cụ thể là trong một bài báo năm 1899, cụ viết đại ý là:

"Vào thời kỳ mà giới có học vấn đang đánh mất sự quan tâm đến văn chương trung thực bất hợp pháp thì giữa giai cấp công nhân lại phát triển khát vọng với tri thức và chủ nghĩa xã hội, giữa giai cấp công nhân lại nổi lên những anh hùng thực sự, những người bất chấp hoàn cảnh tệ hại của đời mình, bất chấp công việc khổ sai ngu muội ở nhà máy, vẫn tìm được trong mình biết bao ý chí và sức mạnh tinh thần để học, học và học..."

Vậy nên ý cụ Năm không phải hô khẩu hiệu mà dùng lặp từ ba lần chỉ để nhấn mạnh một hành động thôi. Câu dịch tiếng Việt coi như bị làm sai hai lần. Chính người Nga cũng cố tình tách câu của cụ ra khỏi ngữ cảnh để làm khẩu hiệu.

Dĩ nhiên về bản chất thì câu đó đúng, nhưng không phải vì nó đúng mà bỏ qua bối cảnh được

 

 

Thầy Thiên Lương nói đúng ở chỗ về bản chất thì câu đó đúng, nhưng không phải vì nó đúng mà bỏ qua bối cảnh được, nhưng thầy xác định sai bối cảnh của câu đó. Bối cảnh của câu đó  tác phẩm Thà ít mà tốt của chính Lê-nin, được giới thiệu ngắn gọn ở đây:

 

Tác phẩm Thà ít mà tốt có ý nghĩa thực tiễn cực kỳ quan trọng. Nó trang bị cho những người cộng sản lý luận về xây dựng nhà nước Xô viết đứng vững và phát triển. Thà ít mà tốt là một cống hiến lý luận của Lênin về xây dựng Nhà nước. Nội dung của tác phẩm được Người đọc cho thư ký ghi lại trong nhiều ngày và hoàn thành vào ngày 2-3-1923, công bố trên báo Sự thật số 49 ngày 4-3-1923. 

 

(https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/v-i-lenin/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/tha-it-ma-tot-3154)


Khi
bàn về yêu cầu và điều kiện cải tiến bộ máy Xô Viết, Lê nin viết:

Phải đổi mới thành phần của bộ máy ấy bằng những lực lượng ưu tú của Đảng trong giai cấp công nhân và giới tri thức. Vì thế, để đổi mùi  (sic) bộ máy nhà nước, theo Lênin cần phải: “Một là học tập, hai là học tập, ba là học tập mãi, và sau nữa, phải làm sao cho học thức ở nước ta không nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa...”. 

 

Tiếng Pháp như thế này:

Pour rénover notre appareil d'Etat, nous devons à tout prix nous assigner la tâche que voici : premièrement, nous instruire ; deuxièmement, nous instruire encore ; troisièmement, nous instruire toujours.
(https://www.marxists.org/francais/lenin/works/1923/03/vil19230304.htm)

 

Các cán bộ tuyên truyền cô đặc ý của chính chủ Lê-nin trong Thà ít mà tốt thành учиться, учиться и учиться. Trong bản chính lẫn bản cô đặc đều không có nữa mãi, nhưng người đọc có vốn văn hóa rộng và người dịch có tay nghề vững đều cảm nhận được hiện tượng đa thanh ở câu đó. Chỉ người dịch theo trường phái Google 2022 mới hì hục dịch thành học, học và học rồi hí hửng, hớn hở và hồ hởi. Chỉ giỏi huênh hoang, huênh hoang nữa, huênh hoang mãi.


Không cóp được nguồn, chụp ảnh để lưu.

 

 



 

 

 


(https://forum.wordreference.com/threads/all-slavic-learn-learn-learn.3423886/)

Tuesday 11 January 2022

Nguyễn Thành Nam có thể làm việc gì có ích cho đời?

 

Ông Cao Xuân Hạo từng than rằng ở ta có hai ngành mà nhiều người quan niệm là không cần học một chữ nào cũng có thể làm được: đó là Văn và Ngữ.


Ông Nguyễn Thành Nam là một trong số nhiều người đó, đồng thời là một trong số ít người dám lên YouTube để dạy cái ông không cần học một chữ cũng có thể làm được” (ngữ).

Cái nốt này không nói chuyện “chủ trương đưa trẻ em đi lại con đường mà nhà ngữ âm học đã đi” là đúng hay sai. Tôi chỉ ghi nhận mấy chuyện sau:

-Ông Nguyễn Thành Nam không biết nhà ngữ âm học nào đã chế tác ra chữ quốc ngữ;

-Ông Nguyễn Thành Nam không biết chữ quốc ngữ đã được chế tác như thế nào;

 

-Ông Nguyễn Thành Nam chỉ biết tiếng Pháp và tên của cha Đắc Lộ, còn ngoài ra ông không biết cha Đắc Lộ đã làm gì;

-Ông Nguyễn Thành Nam không biết gì về ngữ âm học ngoài cái tên tiếng Việt của môn học này.

Cả cái video dài gần nửa tiếng của ông Nguyễn Thành Nam chỉ có ba câu sau đây là đúng:

Đôi khi mình không biết mà mình phát biểu ý kiến thì nó sẽ gây hại... Thầy thấy nhiều người thà rằng họ im đi họ đừng nói thì họ sẽ làm việc tốt chứ còn nếu mà họ nói họ sẽ làm hại...  Nhiều người có thể làm việc tốt bằng cách im đi...

(https://www.youtube.com/watch?v=pY5qs3JkCpE)

Monday 26 July 2021

Nhớ trường Kiểu Mẫu (Phanxipăng - Chim Việt)

 

Nhớ trường Kiểu Mẫu

Phanxipăng

Trước đây, Việt Nam có ba trường trung học cùng mang tên Kiểu Mẫu. Cả ba trường đều trực thuộc Đại học Sư phạm tại địa phương chứ  không do Ty Giáo dục quản lý như hầu hết  các trường trung học khác.  Kiểu Mẫu ở Huế khai giảng khoá đầu tiên năm 1964. Năm kế tiếp, 1965, Kiểu Mẫu ở Thủ Đức hình thành. Kiểu Mẫu ở Cần Thơ xuất hiện vào năm 1968.
Năm 1964, Đại học Sư phạm Huế có cơ ngơi mới rất khang trang: tòa nhà chữ Y ở hữu ngạn dòng Hương. Bên cạnh, một tòa nhà chữ Y giống đúc là Trung học Kiểu Mẫu Huế, cơ sở thực nghiệm lẫn thực hành của Đại học Sư phạm Huế. Được thực hiện theo đồ án của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (1), cả hai tòa nhà ba tầng nọ tọa lạc trong khuôn viên rộng 39.000m2, xưa là Toà Khâm sứ của Pháp.

Ngày 4-8-1964, nghị định 1352GP/PC/NĐ được ban hành nhằm "thiết lập trường Trung học Kiểu Mẫu Huế trực thuộc trường Đại học Sư phạm Huế". Ngày 20-9-1964, Trung học Kiểu Mẫu Huế khai giảng niên khóa đầu tiên với 8 lớp (gồm 4 lớp đệ thất (2) và 4 lớp đệ lục (3)), 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, do nhà giáo Trần Kim Nở làm Hiệu trưởng.

Trên một quả đồi thuộc xã Linh Xuân Thôn, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định, trường Đại học Sư phạm Sài Gòn và Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức được xây dựng trong khuôn viên 5.107m2 theo đồ án cũng của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức được thành lập theo nghị định 840GP/PC/NĐ, khai giảng niên khóa đầu tiên vào ngày 11-10-1965 với 8 lớp (cũng gồm 4 lớp đệ thất và 4 lớp đệ lục), 280 học sinh, do nhà giáo Dương Thiệu Tống làm Hiệu trưởng.

Trung học Kiểu Mẫu Cần Thơ được thành lập theo nghị định 2072GP/PC/NĐ ngày 4-12-1968, xây dựng hoàn tất ngày 30-12-1969.

Xét thực tế, rõ ràng Trung học Kiểu Mẫu Huế trở thành "trưởng tràng" trong hệ thống các trường Trung học Kiểu Mẫu tại Việt Nam (4). Điều đó từng được tạp chí Thế Giới Tự Do tập XXI số 2 khẳng định: "Trong vụ khai trường năm nay (1965), một trường trung học phổ thông Kiểu Mẫu thứ hai đã được khánh thành tại Thủ Đức, cách phía đông bắc Sài Gòn 14 cây số, gần xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa. Trường trung học phổ thông Kiểu Mẫu thứ nhất cũng thuộc loại này đã xây cất tại Huế và đã khai giảng từ năm 1964." Vả lại, kỷ yếu Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức niên khóa đầu tiên 1965 - 1966 tam ngữ Việt - Anh - Pháp (5) hiện vẫn còn bảo lưu.

Thời đó, hầu hết học sinh các trường phổ thông phải tuân theo quy định về đồng phục: nam mặc áo trắng, quần xanh sẫm; nữ mặc áo dài trắng. Riêng học sinh Kiểu Mẫu hơi đặc biệt: nam mặc áo xanh da trời, quần xanh sẫm; nữ mặc áo dài hoặc váy xanh da trời. Ấy là hình thức. Còn nội dung và phương pháp học hành, thi cử của học sinh Kiểu Mẫu có gì khác lạ?

Trước tiên, về quy chế, trường Trung học Kiểu Mẫu không do Ty Giáo dục quản lý như tất cả trường công lập, bán công và tư thục trên địa bàn, mà trực thuộc Đại học Sư phạm. Tuy nhiên, trường Trung học Kiểu Mẫu vẫn giữ quyền tự trị nhất định: có ban giám hiệu độc lập và đội ngũ nhà giáo riêng đạt trình độ chuyên môn xuất sắc.

Triết lý giáo dục của trường Trung học Kiểu Mẫu dựa trên 3 nguyên tắc và 4 phương thức. 3 nguyên tắc: nhân bản, dân tộc, khai phóng. 4 phương thức: toàn diện, thích nghi, thực dụng, tân tiến.

Đường lối giảng dạy mà Trung học Kiểu Mẫu chủ trương và áp dụng là chú trọng việc hướng dẫn từng cá nhân. Do đó, sĩ số mỗi lớp thường không quá 45 học sinh. Yêu cầu đặt ra: trang bị cho học sinh một số kiến thức tổng quát tối thiểu và phổ thông để sau đủ khả năng theo đuổi bậc đại học, đồng thời cung cấp một số kiến thức thực dụng giúp học sinh hiểu biết để lựa chọn nghề nghiệp phù hợp trong tương lai hoặc bất đắc dĩ thì có thể mưu sinh nếu chẳng may không tiếp tục được việc học ở trường ốc.

Cần lưu ý rằng nội dung chương trình giảng dạy của trường Kiểu Mẫu thường xuyên được sửa đổi trên tinh thần linh động uyển chuyển nhằm thích ứng kịp thời với những khám phá mới trong lĩnh vực khoa học giáo dục Việt Nam và thế giới.

Từ thập niên 1960, học sinh Trung học Kiểu Mẫu đã được làm quen tân toán học, nhập môn lớp 6 liền "vui chơi" với lý thuyết tập hợp của Georg Cantor (1845 - 1918) thông qua tập hợp rỗng và tập hợp chứa ít nhiều phần tử với mấy mối quan hệ giao hoặc hội được thể hiện trực quan bằng giản đồ Venn. Các môn khác gồm Việt văn, sinh ngữ lẫn cổ ngữ (Anh, Pháp, Hán), lịch sử, địa lý, vật lý, hoá học, vạn vật (tức sinh học) cũng có nhiều đổi mới so với các trường khác cùng thời, thể hiện qua bài học ngắn gọn với các kiến thức cập nhật, đề cao suy luận sáng tạo hơn ghi nhớ máy móc, chăm chú rèn giũa kỹ năng thí nghiệm và thực hành. Học sinh Kiểu Mẫu còn học âm nhạc, hội hoạ, thể dục thể thao, lại được huấn luyện thêm nhiều môn mà các trường phổ thông khác không dạy như võ thuật, canh nông, chăn nuôi, công kỹ nghệ, doanh thương, kinh tế gia đình.

Lề lối thi cử của trường Kiểu Mẫu được cải tiến đáng kể: bãi bỏ thi lục cá nguyệt (học kỳ), bãi bỏ hệ số các môn thi cuối cấp (tú tài). Điều đó xuất phát từ quan niệm: cần trang bị kiến thức nền một cách toàn diện và không xem thi cử là quyết định tối hậu.

Hồi ấy, các trường trung học chấm bài theo thang điểm 20, riêng Kiểu Mẫu không dùng điểm số mà áp dụng điểm chữ: A (giỏi), B (khá), C (trung bình), D (kém), L (loại / liệt). Đề thi nhập học (tuyển sinh vào lớp 6 được áp dụng ngay từ niên khoá đầu tiên), thi tú tài và cả nhiều bài kiểm tra bình thường ở trường Kiểu Mẫu đều được soạn chủ yếu dưới dạng trắc nghiệm với nhiều kiểu khác nhau: điền khuyết, chọn lựa, trả lời vắn tắt, v.v.

Trung học Kiểu Mẫu Huế niên khoá thứ nhì 1965 - 1966 đã có 12 lớp, 476 học sinh, 30 nhà giáo, 12 nhân viên, với Hiệu trưởng Dương Đình Khôi. Năm học kế tiếp, trường được 15 lớp, 492 học sinh, 37 nhà giáo, 12 nhân viên, với Hiệu trưởng Trần Hữu Long. Niên khoá 1974 - 1975, nhà giáo Lê Bá Quân làm Hiệu trưởng Trung học Kiểu Mẫu Huế. Kể từ năm học 1975 - 1976, Trung học Kiểu Mẫu Huế chuyển tên thành Trung học Lê Lợi, do nhà giáo Trần Kiêm Tiềm (anh ruột của nữ ca sĩ Hà Thanh) làm Hiệu trưởng, tới mùa hè 1977 thì trường giải thể.

Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức niên khoá đầu 1965 - 1966 có 8 lớp (gồm 4 lớp đệ thất và 4 lớp đệ lục), 280 học sinh, do nhà giáo Dương Thiệu Tống làm Hiệu trưởng. Các vị Hiệu trưởng tiếp theo của trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức: Nguyễn Thị Nguyệt giai đoạn 1966 - 1969, Phạm Văn Quảng giai đoạn 1969 - 1972, Dương Văn Hoá giai đoạn 1972 - 1973, Huỳnh Văn Nhì giai đoạn 1974 - 1975. Từ niên khoá 1975 - 1976, Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức đổi tên thành Trung học Thực Dụng, tới mùa hè 1981 thì cũng giải thể.

Nhiều học sinh Kiểu Mẫu đã theo học đại học và sau đại học ở trong lẫn ngoài nước, ngày nay đang cống hiến năng lực ở bao lĩnh vực: giáo dục, y tế, báo chí, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, giao thông vận tải, sản xuất kinh doanh, v.v.

Thầy trò của Kiểu Mẫu vẫn thường xuyên liên hệ để thăm nom giúp đỡ nhau rất nghĩa tình, đã tổ chức một số đợt cứu trợ nạn nhân bão lụt và trợ cấp học bổng, thực hiện các trang web và ấn hành kỷ yếu, giai phẩm, đặc san (6), v.v.

Kiểu Mẫu Huế hội ngộ, liền vang vọng Kiểu Mẫu ca của Đặng Văn Nhuận:

Trong lòng miền Trung, Kiểu Mẫu ta hiên ngang
Hồn thiêng rền vang tiếng nung nấu bao lòng trai tráng
Sức ta khơi mạch nguồn, ý ta luôn trường tồn
Cho ngày mai huy hoàng Việt Nam.

Kiểu Mẫu Thủ Đức gặp mặt, vui tươi đàn hát Học sinh hành khúc - bài ca chính thức của trường này được Lan Đài (7) soạn nhạc, Bàn Thạch (8)đặt lời:

Đây đoàn học sinh lên đường cầm tay dưới nắng hồng
Reo lên vui tươi kết đoàn cùng một tấc lòng
Xây dựng ngày mai non Việt hạnh phúc tràn nơi nơi
Quốc dân no ấm, thương yêu tấm tình đầy vơi.

Được biết thời gian qua, Đại học Sư phạm Huế có lúc mong muốn tái lập Trung học Kiểu Mẫu Huế để làm cơ sở thực tập lẫn kiến tập, đồng thời làm nơi phát hiện và bồi dưỡng học sinh năng khiếu. Vì muôn vàn lý do, kế hoạch đó đến bây giờ vẫn chưa thể triển khai (9).

Quả thật, các trường Trung học Kiểu Mẫu Huế, Thủ Đức, Cần Thơ thuở nào vẫn là mô hình rất đáng tham khảo cho công cuộc chấn hưng sự nghiệp giáo dục của nước nhà hiện nay.

_________________
(1) - Ngô Viết Thụ (1926 - 2000) gốc làng Lang Xá, nay thuộc thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Năm 1955, Ngô Viết Thụ đạt giải khôi nguyên La Mã / giải thưởng lớn Roma về kiến trúc, đồng thời nhận bằng kiến trúc sư tại Paris. Một số thiết kế của Ngô Viết Thụ đã được xây dựng: Dinh Độc Lập, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Nhà thờ chính tòa Phủ Cam, Khách sạn Hương Giang và Century ở Huế, Thương xá Tam Đa / Crystal Palace, Đại học Nông nghiệp Thủ Đức, Trụ sở Ty Thủy lợi Đăklăk, Bệnh viện Sông Bé, v.v.
(2) - Lớp đệ thất tương đương lớp 6 hiện nay.
(3) - Lớp đệ lục tương đương lớp 7 hiện nay.
(4) - Một số thư tịch ghi nhận nhầm lẫn rằng Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức là trường đầu tiên trong hệ thống được gọi "giáo dục tổng hợp". Chẳng hạn kỷ yếu Tiền phong tổng hợp 1965 - 1971 có dòng: "Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức là trường trung học tổng hợp đầu tiên Việt Nam." Cần thêm: từ mô hình Trung học Kiểu Mẫu, chuỗi Trung học Dẫn Đạo xuất hiện gồm các trường Trung học: Gia Hội (Huế), Trần Quốc Tuấn (Quảng Ngãi), Ban Mê Thuột (Darlac / Đăk Lăk), Nguyễn Huệ (Tuy Hòa), Mạc Đỉnh Chi & Quốc Gia Nghĩa Tử (Sài Gòn), Phan Thanh Giản (Cần Thơ), Bến Tre (Kiến Hòa), Thoại Ngọc Hầu (Long Xuyên), Nguyễn Trung Trực (Rạch Giá), v.v.
(5) - Trung học Kiểu Mẫu: The Demonstration School (tiếng Anh), Le Lycée Pilote (tiếng Pháp).
(6) - Thống kê chưa đầy đủ các kỷ yếu, giai phẩm, đặc san cấp trường đã xuất bản: Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức niên khóa đầu tiên 1965 - 1966; Tiền phong tổng hợp 1965 - 1971; Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức niên khóa 1970-1971; Kiểu Mẫu Huế 1972; Kiểu Mẫu Thủ Đức xuân Quý Sửu 1973; Nhìn về trường xưa 2006; 45 năm Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức 1965-2010; Kiểu Mẫu Huế 2013; v.v.. Đau buồn tiếc xót thay! Đặc san Kiểu Mẫu Huế 2013 (NXB Thời Đại) mắc những lỗi lầm không đáng có, nghiêm trọng nhất là vi phạm bản quyền mà đây là một trường hợp: bài thơ Huế - tên của nỗi nhớ của Hoàng Phủ Ngọc Phan từng in tạp chí Đất Việt ở Canada cuối thập niên 1980, được tuyển vào sách Hai thập kỷ thơ Huế (NXB Văn Học, Hà Nội, 1995), được nhạc sĩ Nguyễn Viêm phổ thành bài hát và ca sĩ Minh Huyền trình bày; vậy mà Huỳnh Hữu Bi trộm 20/30 dòng, ghi địa điểm và niên điểm sáng tác là "Huế - Sài Gòn 96", đăng trên trang 135 đặc san Kiểu Mẫu Huế 2013. Sự cố ấy đã bị Cô Tú - một bút danh của Hoàng Phủ Ngọc Phan - vạch rõ trên bán nguyệt san châm biếm và trào phúng Tuổi Trẻ Cười 478 (15-6-2013).
(7) - Lan Đài: Nguyễn Kim Đài.
(8) - Bàn Thạch: Dương Thiệu Tống.
(9) - Tin vui: Trải qua nhiều vận động lâu dài tích cực, trường Trung học Kiểu Mẫu - Huế trực thuộc Đại học Sư phạm Huế đang được tái lập, dự kiến khai giảng vào mùa thu năm 2014 này.
Đã đăng Áo Trắng số 1 bộ mới (15-5-2007)

Huy hiệu Kiểu Mẫu Huế

Đại học Sư phạm Huế & Trung học Kiểu Mẫu Huế nhìn từ trên cao. 
Ảnh: Phanxipăng

Huy hiệu Kiểu Mẫu Thủ Đức

Mở đầu bài "Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức" 
trên tạp chí Thế Giới Tự Do tập XXI, số 2, năm 1965

Đại giảng đường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức. 
Ảnh: Phanxipăng

Dãy A & C trường Trung học Kiểu Mẫu Huế. 
Ảnh: Phanxipăng

Dãy B trường Trung học Kiểu Mẫu Huế. 
Ảnh: Phúc Đường

Một góc trường Kiểu Mẫu Thủ Đức. 
Ảnh: Phanxipăng

Đồng phục học sinh Kiểu Mẫu: áo màu xanh da trời. 
Ảnh: Phanxipăng

Huy hiệu Kiểu Mẫu Cần Thơ

Xe buýt đưa đón học sinh trường Trung học Kiểu Mẫu Cần Thơ

Wednesday 13 November 2019

Bàn về chuyện tự học (Cao Xuân Hạo - Học Thế Nào)

Bàn về chuyện tự học
Trước hết, cần phải nói rằng, tự học là một chuyện vạn bất đắc dĩ, vì ai cũng biết câu tục ngữ “Không thầy đố mày làm nên”. Một câu hoàn toàn đúng, đúng hơn là người ta tưởng rất nhiều.

Có lẽ không ai lại không muốn có thầy khi cần học một nghề gì, hay dù chỉ là một trò hay một mẹo vặt nào cũng vậy. Và dù không có thầy “chính danh” thì vẫn có thể học từ những người mình quen biết. Đôi khi những người này, chính nhờ cái số đông và tính đa dạng của họ, còn có thể dạy cho mình nhiều hơn và một cách có hiệu quả hơn cả thầy nữa. Học thầy không tày học bạn kia mà!
Viết đến đây tôi sực nhớ đến lời một nhà văn Pháp mà tôi không nhớ tên, nói rằng xưa nay chưa có và không thể có người nào thực sự tự học cả. Và chỉ có những kẻ cực kỳ hợm hĩnh và vô ân mới có thể nói khoác rằng mình là người tự học.
Quả đúng như vậy: ai mà chẳng học của người khác? Làm gì có ai không nhờ người khác mà biết được phần lớn những gì mình biết? Trước tiên, người ta học mẹ mình, rồi đến bố mình, rồi đến những người sống quanh. Và nếu không nhớ điều đó mà nói rằng tự mình tìm biết lấy mọi sự thì đúng là cực kỳ ngu dại, hợm hĩnh và vô ân.
Cho nên, phải hiểu hai chữ “tự học” theo một nghĩa hẹp hơn rất nhiều, kể cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Và nếu có ai không được một người thầy trực tiếp dạy bảo cho một cái gì đấy, thì cũng có những người thầy gián tiếp dạy mình bằng tấm gương của cách sống và cách hành động của họ. Tấm gương ấy có thể tích cực hay tiêu cực: những hành vi xấu xa hay đáng ghét mà ta chứng kiến và thể nghiệm từ người khác cũng bổ ích cho ta không kém gì những hành vi tốt đẹp, nếu ta nhờ cái “tính bản thiện” vốn có của con người mà biết ghét cái xấu và yêu cái tốt.
Sau khi đã hạn định khái niệm “tự học” như vậy, ta hãy trở về với hai chữ tự học đúng như số đông thường quan niệm. Người tự học là một danh từ (hay danh ngữ) có ít nhiều sắc thái “xấu nghĩa” trong nhiều thứ tiếng khác nhau. Cho nên ngay cả những người vốn tự hào rằng mình tự học mà thành tài cũng thấy khó chịu khi có ai giới thiệu mình bằng danh từ này. Vì, trong ý thức của phần đông, khó lòng có ai “tự học” mà thành tài thực sự, và chính những người “tự học” cũng có phần nào chia sẻ cái ý thức ấy, dù những người tự học có tự hào đến đâu về những nhân tố chủ quan và khách quan đã cho phép họ gây dựng lấy sự nghiệp của mình.
Cách đây bốn mươi năm, một người bạn học cũ, khi thấy tôi ngồi mỗi ngày mười tiếng trong Thư viện Khoa học ở phố Lý Thường Kiệt để đọc cho bằng hết các sách ngôn ngữ học, tri thức luận và logic học trong đó, có khuyên tôi thôi làm cái việc dã tràng xe cát ấy đi, vì nếu muốn học giỏi bằng một anh phó tiến sĩ của Nga, một người Việt Nam tự học phải thông minh gấp ba và đọc gấp mười mới được. Lòng tràn đầy tự ái, tôi đáp: “Sao anh biết tôi không thông minh gấp ba và sẽ đọc nhiều gấp mười nó?”
Thật ra, càng về sau, tôi càng hiểu là câu nói của bạn tôi hoàn toàn đúng.
Cố giáo sư Hoàng Tuệ có kể lại cho tôi và nhiều người khác nghe rằng, vào những năm 70, khi ông nhắc đến tên một nhà ngữ học Việt Nam có tiếng trong khi nói chuyện với A.G.Haudricourt, nhà ngữ học Pháp lừng danh này đã thốt lên một câu làm cho ông chột dạ: “Cái anh chàng tự học ấy sẽ không làm được gì nên thân đâu!”
Ông kể thêm rằng lúc bấy giờ, ông nghĩ bụng: “Chắc Haudricourt tưởng tôi là dân “chính quy”, tốt nghiệp đâu ở Liên Xô hay ở Mỹ về, mới nói như thế” (vì ông hiểu câu trên có hiệu lực đối với tất cả những người tự học). Ông quên mất rằng chính Haudricourt cũng là người tự học. Nhà ngữ học nổi tiếng này vốn là một kỹ sư Nông học, chưa hề được đào tạo chính quy về ngữ học bao giờ, nhưng đã viết nhiều sách và bài vở về ngành này, nhất là về ngữ học lịch sử. Và ngay sau khi chứng minh được nguồn gốc Môn-Khmer của tiếng Việt năm 1954, 1959 thông qua sự chuyển biến của các phụ âm thành thanh điệu, ông đã được toàn giới đồng nghiệp trên thế giới coi là một nhà ngữ học lớn, mặc dầu mãi đến năm 1984, nghĩa là khi đã thành một cụ già bảy mươi mấy, ông mới có bằng tiến sĩ.
Kinh nghiệm ấy của Haudricourt và của một số nhà bác học khác cho thấy rằng người tự học không phải bao giờ cũng kém cỏi. Và nếu đem số người tự học mà thành tài so với số người có bằng cấp hẳn hoi mà dốt nát, chưa chắc bên nào đông hơn. Nhưng cái định kiến làm cho hai chữ tự học có sắc thái coi thường tuyệt nhien không phải là vô căn cứ. Nói gì thì nói, chứ những khó khăn mà người tự học chắc chắn là lớn gấp bội so với những khó khăn của người được đào tạo chính quy.
Trên con đường học vấn của người tự học nhan nhản những cạm bẫy cực kỳ nguy hiểm khiến cho tri thức của họ có nguy cơ lệch lạc hoặc chứa những lỗ hổng rất lớn mà bản thân họ không hay biết. Tôi và các bạn đồng nghiệp đã từng nhiều lần giật mình toát mồ hôi lạnh mỗi khi nhận ra một lỗ hổng to tướng nằm trong vốn tri thức của mình, trong khi đang làm nhiệm vụ của người dẫn đường cho cả một lớp thanh niên đi theo với một lòng tin tuyệt đối.
Cố bộ trưởng Tạ Quang Bửu có một bài viết rất hay về giai đoạn khủng hoảng tinh thần mà một số nhà phát minh lớn trong lịch sử nhân loại đã trải qua, khi họ giật mình nhận thấy điều họ mới phát minh bác bỏ các bậc tiền bối của họ một cách quá phũ phàng. Vì lòng ngưỡng mộ và sùng kính sâu xa đối với những người mà xưa nay họ vẫn coi là thầy, họ thấy mình quá táo tợn và hỗn xược. Một câu hỏi khủng khiếp hiện lên trong tâm trí họ: “Chẳng lẽ những con người từng làm loé lên trong tâm trí mình cái tia sáng làm nên tất cả những gì giá trị nhất trong tri thức của mình, chẳng lẽ những con người ấy sai? Hay chính vì còn quá dốt mà mình nghĩ ra cái điều mới mẻ này, cái phát minh mà mình tưởng đã đủ để phủ định họ?”
Thế là các nhà cách tân bắt đầu soát lại từ đầu những luận điểm của mình để tìm cho ra cái chỗ sơ hở nào đó đã dẫn tới chỗ phủ định các bậc thầy. Cái việc đó làm thành một cơn vật vã kéo dài suốt một thời gian dài lao tâm lao lực. Hầu hết các nhà khoa học lớn, trước khi dám công khai phủ nhận những lời phàn truyền có tính chất Thánh kinh mà họ đã học thuộc lòng từ thuở bé từ những bậc tiền bối mà họ vẫn hằng sùng kính, đều phải trải qua cơn vật vã ấy.
Ở đây có thể có hai khả năng. Một là người làm khoa học, sau những cố gắng kiểm nghiệm lại, thấy rõ mình nhầm ở một cái khâu nào đó, bèn từ bỏ giả thuyết đã đề ra, trở lại điểm xuất phát và bắt đầu lại quá trình khảo sát. Hai là anh ta cảm thấy mình không nhầm, ngay cả khi nghe những lời phản biện của các bạn và các thầy, vì anh có được những lý lẽ căn cứ trên những dữ liệu đủ chắc chắn để bác bỏ những lời phản biện đó và xác nhận lý thuyết của mình như một bước cách tân thực sự. Dù kết quả của cuộc kiểm nghiệm ấy có đau xót ra sao, thì anh ta cũng trưởng thành lên một bước rất dài. Miễn sao anh trung thực với chính mình và với các sự kiện có liên đến vấn đề, để chấp nhận một kết luận đúng, dù nó có làm tổn thương đến lòng tự ái của anh đến đâu đi chăng nữa.
Với người tự học, khả năng vẫn nhầm lẫn ngay cả sau khi trải qua cuộc khủng hoảng ấy lớn hơn rất nhiều so với người được đào tạo chính quy. Vì sự phản biện trong cảnh cô đơn là việc cực kỳ khó khăn. Ở đây có một vực thẳm không đáy chờ sẵn người tự học: đó là thảm cảnh của chứng vĩ cuồng, mà tôi đã có dịp bàn ở một chỗ khác. Lâm vào thảm cảnh này, người tự học sẽ trở thành kẻ điên rồ không phương cứu chữa, một phế nhân không có lấy được niềm an ủi tối thiểu của các phế nhân là lòng thương xót của đồng loại: không ai có thể xót thương một kẻ giương giương tự đắc, tự cho phép mình khinh miệt mọi người chỉ vì mình học không đến nơi đến chốn.
Người trí thức chân chính không hẳn là người biết nhiều. Điều quan trọng hơn là họ biết rõ mình biết cái gì, và không biết cái gì. Biết rõ mình không biết cái gì khó gấp ngàn lần biết rõ mình biết cái gì. Và điều đó chính là thước đo chính xác nhất của cái gọi là “trình độ văn hoá”.
Người có học vấn thực sự, nhờ đã trải qua những bước đường gian nan, cực nhọc để có được những tri thức mà trước kia mình tưởng rất dễ, biết rằng những điều mình học được chỉ như hạt muối bỏ bể so với những điều mình chưa học. Và bao giờ cũng phải có học một cái gì đã, rồi mới bắt đầu biết là mình không biết cái gì. Cho nên người có học không bao giờ nghĩ rằng có những ngành nghề mà mình không cần giờ học nào cũng có thể bàn đến được, càng không bao giờ nghĩ rằng mình đủ sức viết hàng ngàn trang sách về những môn ấy để dạy mọi người.
Đáng tiếc là khá nhiều người đã thành công rực rỡ trong một lĩnh vực nào đó rất dễ có ảo giác là người lỗi lạc như mình học gì cũng giỏi và thậm chí không học cũng biết. Ngay từ cái giây phút mà ở người trí thức sinh ra cái ảo giác này, thì anh ta lập tức không còn là người trí thức nữa và trở thành con người lố bịch và ngu muội nhất thế gian: một kẻ vĩ cuồng. Đối với người tự học, cái hiểm hoạ này dễ trở thành hiện thực hơn đối với người học chính quy rất nhiều.
Cho nên, người tự học không nên tự ti, chỉ nên cảnh giác đối với bản thân. Không có một người thầy để kiểm tra mình, để thường xuyên nhắc nhở cho mình nhớ rằng mình chưa trở thành vĩ nhân trong lĩnh vực của mình và không biết gì trong các lĩnh vực khác, thì chính mình phải thường xuyên làm việc đó thay cho người thầy.
Nhưng trong thực tế, nhất là ở nước ta, số người có năng khiếu mà được học chính quy xưa nay cực hiếm, cho nên việc tự học cần phải được khuyến khích và giúp đỡ bằng mọi phương tiện. Ở các nước tiên tiến, nơi mà điều kiện để học chính quy rất thuận lợi , những loại sách tự học vẫn được xuất bản rất nhiều, và cho rất nhiều ngành nghề khác nhau, trong khi ở ta loại sách này rất hiếm (trừ sách học tiếng Anh).
Nhưng bao giờ nói đi rồi cũng phải nói lại: người được học chính quy không phải bao giờ cũng thành tài, cũng trở thành người có học thức. Bên cạnh cái định kiến cho rằng người tự học không bao giờ học đến nơi đến chốn, lại có cái định kiến cho rằng chỉ cần tốt nghiệp từ một trường lớn, có một người thầy danh tiếng lừng lẫy, là đủ bảo đảm một vốn học thức uyên thâm.
Đến đây, lại phải nói ra một điều mà thoạt nghe có vẻ ngược đời. Đó là dù có học trường gì, thầy nào nổi tiếng đến đâu chăng nữa, thì nhân tố quan trọng nhất, quyết định kết quả mỹ mãn của quá trình đào tạo vẫn là cái công tự học của người học trò. Tự học ở đây chỉ cái phần tích cực, chủ động, quyết đoán của người học. Vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của quá trình học tập là vai trò của người học, tuy vai trò của người dạy không phải không quan trọng.
Ở nhà trường, dù chỉ nói đến môn học chính, người đi học chỉ học một tuần mươi giờ là cùng. Thì giờ còn dư dùng để tự học (tự quan sát thêm sự kiện, tự tìm dẫn chứng, tự kiểm nghiệm thêm các giả thuyết, tự đọc thêm sách vở, tự liên hệ thêm với thực tế . ) nhiều gấp mấy 2-5 lần so với thì giờ trên lớp. Cho nên ngay đối với người học chính quy, việc tự học vẫn là chính, kể cả khi lên lớp nghe giảng hay hoạt động trong những buổi thảo luận
Người thầy giỏi có thể lầm cho một số học trò trở thành một người say mê môn học mà vốn mình không thích thú gì. Nhưng với một người thầy không giỏi, người học trò ham học cũng có thể tìm thấy hứng thú như khi đọc một cuốn sách hay. Còn với một người học trò không ham học chút nào thì dù thầy có gíảng hay đến bao nhiêu cũng không gây được men say trong lòng người ấy. Và dĩ nhiên họ không hơi đâu mà tìm sách đọc thêm.
Vả chăng, ở đây cũng còn phải tính đến nhiều nhân tố khác nữa: gia đình, môi trường xã hội
Người lấy danh vọng của trường và của thầy làm niềm tự hào của mình cũng không khác bao nhiêu so với người lấy tấm bằng làm mục đích của đời mình. Đó là những người lấy danh vọng và địa vị làm mục đích, chứ không phải là những người ham học. Họ cũng giống những người lấy danh vọng tổ tiên làm niềm tự hào cho đời mình. “Ông nội tớ đỗ trạng nguyên, thì tớ đủ hơn mọi người trong tỉnh rồi, còn gì phải học nữa?”
Tôi không phủ nhận tầm quan trọng của di truyền. Cái gen tài năng rất có thể là một nhân tố không thể thiếu được trong sự nghiệp của một nghệ sĩ hay một nhà bác học. Nhưng xưa nay ai cũng biết không phải 100% con cháu dòng giống đều là những người tài năng. Như rất nhiều bậc thiên tài khác đã khẳng định, nhân tố di truyền chỉ cho ta điều kiện tiên quyết mà thôi. Là con nhà nòi, ta có đúng 10% khả năng trở thành nhân tài. Còn 90% nữa là do sức lao động bỏ ra trong ba bốn chục năm đèn sách. Con nhà nòi, dù có năng khiếu bẩm sinh đến đâu chăng nữa mà không dày công học hỏi, nghiên cứu và thực nghiệm, thì mãi mãi chỉ là kẻ thất học mà thôi.
Nói tóm lại, tự học là một cách học như mọi cách học khác, nhưng người không được học chính quy gặp khó khăn hơn nhiều, cho nên dễ nhầm lẫn hơn. Người đó cần hiểu hết những sự thiệt thòi mà mình phải chịu, và cố gắng lấp kín những kẽ hở có thể rất nhiều do không có người hướng dẫn.
Mặt khác, người được đào tạo chính quy cũng không thể không tự học, nghĩa là giữ vai trò chủ động trong việc tiếp thụ tri thức và bổ sung, chỉnh lí những tri thức đã được học từ những người thầy, trong đó không phải chỉ có những người thầy chính thức trực tiếp dạy mình, mà còn cả những người bạn và những người học trò của mình nữa.
Cao Xuân Hạo, Kiến thức ngày nay, số 396, năm 2001