MỘT THOÁNG QUÊ HƯƠNG XƯA.
Từ ngày Cụ Nguyễn Hữu Hân làm Chánh tổng Thượng Hộ, có xảy ra những việc sau đây :
1.- Hồi đó, tổng Thượng Hộ có nhiều việc công ích cần làm, nhưng ngân sách của tổng lại không có. Cụ Nguyễn Hữu Hân là người đứng đầu, có trách nhiệm trong việc này. Cụ đã nghĩ ra kế để kiếm tiền cho tổng bằng cách bán quan chức trong tổng cho những ai muốn mua, để làm ngân sách cho tổng. Đầu tiên, Cụ đã khuyến khích ông em út trong nhà lả Cụ Nguyễn Hữu Lục ghi danh mua chức Tổng Hàm (có danh là Chánh Tổng), và sau đó được dân làng gọi là Cụ Tổng Lục. Kế đến là ông Trưởng nam của Cụ là ông Nguyễn Hữu Hưởng, sau đó cũng có tên là ông Tổng Hưởng, rồi đến ông con rể lớn của Cụ, người làng Gia Lạc, là ông Bùi Song Kiểm hay Bùi Đan Quế, sau đó gọi là ông Tổng Quế Gia Lạc, và rồi đến ông con rể thứ hai của Cụ là ông Nguyễn Hữu Thứ, làng Phú Hậu, sau đó tất nhiên cũng được gọi là ông Tổng Thứ. Như vậy, sau việc này, tự nhiên tổng Thượng Hộ có thêm ra bốn ông Chánh tổng. Những ông Tổng này, thực ra chỉ là Tổng Hàm, nghĩa là chỉ có tên gọi là Tổng, chứ không hề giữ chức vụ của một ông Chánh tổng ngày nào. Tuy không làm công việc của Chánh tổng, nhưng thế giá của các vị này cũng nhờ đó mà gia tăng. Cũng cần nên lưu ý, là về sau có những vị trong các vị này ra làm việc thực sự ở trong làng, như là Chánh Hương hội, một chức vị đứng đầu Hội đồng Hương chính của làng, thì lại gọi là ông Chánh mà không gọi là ông Tổng nữa, như trường hợp của hai ông Chánh Hưởng và Chánh Quế, mà không nghe thấy gọi là Tổng Hưởng và Tổng Quế nữa. Có nhiều người không hiểu, khi thì gọi thế này, khi thì gọi thế khác, chẳng biết tại sao ? Chánh Hương hội là chức vị ngang với Lý trưởng trong làng, cũng như ông Chủ tịch Quốc hội có ngang chức vị với Tổng thống hay Chủ tịch nước.
2/ Trong khi Cụ Nguyễn Hữu Hân đang là đương kim Chánh Tổng tổng Thượng Hộ, thì người em kế Cụ là Cụ Nguyễn Hữu Hiên ở Hội Kê, lúc đó cũng đã được triều đình Huế ban cho tước hiệu Bát phẩm văn giai, cùng lúc với một người nữa ở làng Gia Lạc là Cụ Bùi Ngọc Quỹ (nội tổ của ông Bùi Đình Hòe Gia Lạc), nên dân làng gọi là Cụ Bát Gia Lạc và Cụ Bát Hội Kê, vì cả vùng này chỉ có hai cụ Bát mà thôi. Cụ Bát Hội Kê, lúc đầu cùng với anh mình là Cụ Nguyễn Hữu Hân đều là môn sinh của Cụ Bát Gia Lạc một thời (thời Hán học), nhưng sau này cả hai cụ đều là “thông gia” với thày học cũ. Ông Bùi Song Kiểm (tức ông Tổng Quế), con trai thứ hai của cụ Bùi Ngọc Quỹ, và con trai thứ ba của cụ Bùi Ngọc Quỹ là ông Bùi Kim Bảng (ông Lý Bảng), đều là rể của Cụ Nguyễn Hữu Hân. Sau cùng, ông Bùi Vân Thê, con trai thứ tư của Cụ Bát Gia Lạc (ông Chánh Thê hay Chánh Tư) cũng là con rể của Cụ Bát Hội Kê.
3/ Khi Cụ Nguyễn Hữu Hân làm Chánh tổng Thượng Hộ thì Cụ Nguyễn Hữu Hiên – em trai Cụ - làm Tiên Chỉ làng Hội Kê. Làng Hội Kê, như trên ta đã biết, là một bãi đất tân bồi tiếp giáp với Ma-Kê-Xứ của làng Gia Lạc. Hằng năm, cứ đến mùa nước lũ sông Hồng, thì nhà cửa, ruộng nương trong làng đều chìm dưới biển nước mênh mông. Để tránh việc ngập lụt này, làng Hội Kê đã phải nghĩ đến việc đắp đê, nhưng là đê tư của làng, cùa địa phương mà không phải là quan đê của nhà nước. Sau khi đắp xong đê, một con đê khá dài đến mấy cây số, vì làng Hội Kê rất rộng, ngân quỹ của làng Hội Kê bỏ ra để đắp đê bị thiếu hụt trầm trọng. Thế là các nhà chức trách trong làng phải tìm ra cách bù đắp lại sự thiếu hụt này. Cụ Nguyễn Hữu Hiên bèn nghĩ ra cách trồng nhãn trên con đê vừa đắp xong. Cụ cho người sang tận Hưng Yên để đặt mua cây nhãn con bên đó về trồng, vì Hưng Yên là địa phương nổi tiếng về nhãn lồng đã được dùng làm nhãn tiến (để tiến vua). Thế là sau đó mấy năm, suốt trên dải đê làng Hội Kê, cứ cách một quãng ngắn lại có một cây nhãn, cành lá xum xuê, đến mùa có quả là trái nhãn nặng trĩu từng chùm trên cây. Đám nhãn này đã mang lại cho làng Hội Kê một nguồn lợi khá lớn. Cũng vì lý do này, mà từ đấy sinh ra một bọn hái trộm nhãn của làng. Cụ Bát Hiên phải lập ra một lệ rất khắt khe, kẻ nào bị bắt hái trộm nhãn của làng là bị phạt đánh đòn rất đau, nhẹ ra cũng phải phạt tiền rất lớn. Một hôm, bà Lý Biền, lúc đó chồng bà – ông Nguyễn Hữu Biền – chưa làm Chánh tổng, mới chỉ là Lý trưởng làng Hội Kê, đi thăm đồng trên đê, qua chỗ cây nhãn sai trĩu quả, đang trưa nóng bức, ghé vào hái một chùm để giải khát, bị tuần làng bắt được quả tang, đem về trình cụ Tiên chỉ. Cụ Bát đã buộc bà Biền (con dâu của Cụ) phải phạt vạ, nộp khoán và buộc phải giết lợn làm một bữa ăn thịnh soạn, mời tất cả các chức sắc trong làng đến dự, để xin lỗi và hứa sẽ không bao giờ tái phạm. Việc này thực ra đã có sự sắp đặt từ trước. Tuy nhiên cũng vẫn làm xôn xao dư luận trong vùng một thời gian, và kết quả là việc an ninh trật tự trong làng và trong vùng lân cận đã trở nên sáng sủa, ổn định hơn trước.
Trên đây là những chuyện của người lớn trong quá khứ ở quê cũ của tôi năm xưa. Bây giờ xin kể thêm môt chuyện thật là trẻ con của chúng tôi cũng vào thời điểm đó. Đấy là câu chuyện tang lễ con Sáo Đen của chị em chúng tôi. Tôi có hai bà chị gái, chị lớn là Cô Nguyễn thị Báu và chị thứ hai là Cô Nguyễn thị Ngọc. Cô Báu sau này chính là Bà Phạm Bá Lợi, nàng dâu của gia đình ông Hàn Hòa nói trong chuyện VINH QUY BÁI TỔ của ông NGHÈ THĂNG ở Bách Tính, Thái Bình đã nói ở trên.
Chuyện “Tang lễ con Sáo Đen” của chị em chúng tôi (bà Ngọc và tôi) như sau :
Không biết ai đã đem con sáo đen cho chị em chúng tôi ngày đó. Tôi chỉ còn nhớ rằng chị em chúng tôi đã vô cùng thích thú con sáo đen ấy, và đã kiếm được một chiếc lồng thật đẹp, nan tre sơn vec-ni bóng loáng. Muốn nuôi con sáo này, nhất là để cho nó tập nói, người ta bảo chúng tôi phải lấy giấy báo dán kín chung quanh lồng, mua hai chiếc gương nhỏ để bên trong cho sáo soi gương tập nói. Hằng ngày, mỗi ngày mấy lần, chị em tôi đều ra thăm xem sáo đã bắt đầu tập nói chưa ? Con sáo cũng có vẻ mến chúng tôi lắm. Mỗi lần chúng tôi đến ngồi coi bên lồng là nó tung tăng, nhảy nhót rối rít, ra vẻ khoái chá vô cùng. Nó ở trong lồng được mười ngày, bỗng nhiên một hôm nó bỏ ăn, rồi lăn ra chết. Thật là chuyện oái oăm ghê gớm, một tai họa lớn lao đến với chị em tôi, không khác gì như một người thân trong gia đình bỗng nhiên mất đi một cách đột ngột. Chúng tôi buồn đến thẫn thờ cả người, quên ăn, mất ngủ. Chị em tôi đã quyết định tổ chức tang lễ cho con sáo một cách long trọng để tỏ lòng thương tiếc. Một vỏ hộp bích-quy LU hình chữ nhật bằng thiếc của Pháp rất đẹp mà chúng tôi đã cất giữ từ lâu, được đem ra để làm quan tài cho sáo. Thi hài sáo cũng được khâm liệm đàng hoàng với những miếng vải vụn trắng mới toanh, xin được của ông Phó Sính, một thợ may thân thiết với gia đình tôi. Lúc khâm liệm cũng có kèn Tàu, cuộn bằng lá chuối và vòng hoa tươi của đám trẻ hàng xóm là Vàng, Hợi (con ông Tròn), và cô Xuân (con ông Trân) mang đến phúng điếu, chỉ thiếu có trống thôi. Cũng có điếu văn đàng hoàng, do tôi đọc : « Em sáo ơi ! Sao em nỡ bỏ chị, bỏ anh mà ra đi sớm thế ! Anh chị chưa kịp nghe em nói lời nào ! Chưa có lời từ biệt nào với anh chị và mọi người chung quanh ! Nhưng thôi, nghĩa tử là nghĩa tận. Sự thương nhớ em sáo biết thuở nào nguôi, thật không lời nào tả xiết v. v … và v. v … ». Chị tôi và các bạn hàng xóm của tôi cũng rất cảm động, bùi ngùi, suýt nữa tôi cũng không cầm được nước mắt. Lỗ huyệt an táng cho sáo cũng được đào theo lối tam cấp, nghĩa là có ba bậc rồi mới đến chỗ đặt quan tài. An táng xong, chúng tôi đắp mộ cẩn thận, có đặt một thánh giá trên đầu cùng với một số hoa tươi, rồi ngày hôm sau, cũng ra viếng mộ và cầu nguyện. Chẳng biết phách hồn của sáo có được siêu sinh tịnh độ, hay linh hồn sáo có được bay về thiên đàng hay không, nhưng sau đó ít hôm, chị em chúng tôi cũng nguôi ngoai dần. Giữa lúc đó thì « ông già » của tôi ở nhà trong (nhà tôi có hai nhà, một nhà ở trong làng và một nhà ngoài bến sông) có lệnh phong tôi làm cận vệ điếu đóm, thế là tôi vào nhà trong bắt đầu một cuộc sống mới với sách vở và với cha tôi như đã nói ở trên.