Thursday, 18 November 2021

Tìm về quá khứ - Quê cũ năm xưa : Một thoáng quê hương xưa (Nguyễn Hữu Quyền - Di Cảo) - Kỳ 12

 

MỘT THOÁNG QUÊ HƯƠNG XƯA.

Từ ngày Cụ Nguyễn Hữu Hân làm Chánh tổng Thượng Hộ, có xảy ra những việc sau đây :

1.- Hồi đó, tổng Thượng Hộ có nhiều việc công ích cần làm, nhưng ngân sách của tổng lại không có. Cụ Nguyễn Hữu Hân là người đứng đầu, có trách nhiệm trong việc này. Cụ đã nghĩ ra kế để kiếm tiền cho tổng bằng cách bán quan chức trong tổng cho những ai muốn mua, để làm ngân sách cho tổng. Đầu tiên, Cụ đã khuyến khích ông em út trong nhà lả Cụ Nguyễn Hữu Lục ghi danh mua chức Tổng Hàm (có danh là Chánh Tổng), và sau đó được dân làng gọi là Cụ Tổng Lục. Kế đến là ông Trưởng nam của Cụ là ông Nguyễn Hữu Hưởng, sau đó cũng có tên là ông Tổng Hưởng, rồi đến ông con rể lớn của Cụ, người làng Gia Lạc, là ông Bùi Song Kiểm hay Bùi Đan Quế, sau đó gọi là ông Tổng Quế Gia Lạc, và rồi đến ông con rể thứ hai của Cụ là ông Nguyễn Hữu Thứ, làng Phú Hậu, sau đó tất nhiên cũng được gọi là ông Tổng Thứ. Như vậy, sau việc này, tự nhiên tổng Thượng Hộ có thêm ra bốn ông Chánh tổng. Những ông Tổng này, thực ra chỉ là Tổng Hàm, nghĩa là chỉ có tên gọi là Tổng, chứ không hề giữ chức vụ của một ông Chánh tổng ngày nào. Tuy không làm công việc của Chánh tổng, nhưng thế giá của các vị này cũng nhờ đó mà gia tăng. Cũng cần nên lưu ý, là về sau có những vị trong các vị này ra làm việc thực sự ở trong làng, như là Chánh Hương hội, một chức vị đứng đầu Hội đồng Hương chính của làng, thì lại gọi là ông Chánh mà không gọi là ông Tổng nữa, như trường hợp của hai ông Chánh Hưởng và Chánh Quế, mà không nghe thấy gọi là Tổng Hưởng và Tổng Quế nữa. Có nhiều người không hiểu, khi thì gọi thế này, khi thì gọi thế khác, chẳng biết tại sao ? Chánh Hương hội là chức vị ngang với Lý trưởng trong làng, cũng như ông Chủ tịch Quốc hội có ngang chức vị với Tổng thống hay Chủ tịch nước.

          2/ Trong khi Cụ Nguyễn Hữu Hân đang là đương kim Chánh Tổng tổng Thượng Hộ, thì người em kế Cụ là Cụ Nguyễn Hữu Hiên ở Hội Kê, lúc đó cũng đã được triều đình Huế ban cho tước hiệu Bát phẩm văn giai, cùng lúc với một người nữa ở làng Gia Lạc là Cụ Bùi Ngọc Quỹ (nội tổ của ông Bùi Đình Hòe Gia Lạc), nên dân làng gọi là Cụ Bát Gia Lạc và Cụ Bát Hội Kê, vì cả vùng này chỉ có hai cụ Bát mà thôi. Cụ Bát Hội Kê, lúc đầu cùng với anh mình là Cụ Nguyễn Hữu Hân đều là môn sinh của Cụ Bát Gia Lạc một thời (thời Hán học), nhưng sau này cả hai cụ đều là “thông gia” với thày học cũ. Ông Bùi Song Kiểm (tức ông Tổng Quế), con trai thứ hai của cụ Bùi Ngọc Quỹ, và con trai thứ ba của cụ Bùi Ngọc Quỹ là ông Bùi Kim Bảng (ông Lý Bảng), đều là rể của Cụ Nguyễn Hữu Hân. Sau cùng, ông Bùi Vân Thê, con trai thứ tư của Cụ Bát Gia Lạc (ông Chánh Thê  hay Chánh Tư) cũng là con rể của Cụ Bát Hội Kê.

          3/ Khi Cụ Nguyễn Hữu Hân làm Chánh tổng Thượng Hộ thì Cụ Nguyễn Hữu Hiên – em trai Cụ - làm Tiên Chỉ làng Hội Kê. Làng Hội Kê, như trên ta đã biết, là một bãi đất tân bồi tiếp giáp với Ma-Kê-Xứ của làng Gia Lạc. Hằng năm, cứ đến mùa nước lũ sông Hồng, thì nhà cửa, ruộng nương trong làng đều chìm dưới biển nước mênh mông. Để tránh việc ngập lụt này, làng Hội Kê đã phải nghĩ đến việc đắp đê, nhưng là đê tư của làng, cùa địa phương mà không phải là quan đê của nhà nước. Sau khi đắp xong đê, một con đê khá dài đến mấy cây số, vì làng Hội Kê rất rộng, ngân quỹ của làng Hội Kê bỏ ra để đắp đê bị thiếu hụt trầm trọng. Thế là các nhà chức trách trong làng phải tìm ra cách bù đắp lại sự thiếu hụt này. Cụ Nguyễn Hữu Hiên bèn nghĩ ra cách trồng nhãn trên con đê vừa đắp xong. Cụ cho người sang tận Hưng Yên để đặt mua cây nhãn con bên đó về trồng, vì Hưng Yên là địa phương nổi tiếng về nhãn lồng đã được dùng làm nhãn tiến (để tiến vua). Thế là sau đó mấy năm, suốt trên dải đê làng Hội Kê, cứ cách một quãng ngắn lại có một cây nhãn, cành lá xum xuê, đến mùa có quả là trái nhãn nặng trĩu từng chùm trên cây. Đám nhãn này đã mang lại cho làng Hội Kê một nguồn lợi khá lớn. Cũng vì lý do này, mà từ đấy sinh ra một bọn hái trộm nhãn của làng. Cụ Bát Hiên phải lập ra một lệ rất khắt khe, kẻ nào bị bắt hái trộm nhãn của làng là bị phạt đánh đòn rất đau, nhẹ ra cũng phải phạt tiền rất lớn. Một hôm, bà Lý Biền, lúc đó chồng bà – ông Nguyễn Hữu Biền – chưa làm Chánh tổng, mới chỉ là Lý trưởng làng Hội Kê, đi thăm đồng trên đê, qua chỗ cây nhãn sai trĩu quả, đang trưa nóng bức, ghé vào hái một chùm để giải khát, bị tuần làng bắt được quả tang, đem về trình cụ Tiên chỉ. Cụ Bát đã buộc bà Biền (con dâu của Cụ) phải phạt vạ, nộp khoán và buộc phải giết lợn làm một bữa ăn thịnh soạn, mời tất cả các chức sắc trong làng đến dự, để xin lỗi và hứa sẽ không bao giờ tái phạm. Việc này thực ra đã có sự sắp đặt từ trước. Tuy nhiên cũng vẫn làm xôn xao dư luận trong vùng một thời gian, và kết quả là việc an ninh trật tự trong làng và trong vùng lân cận đã trở nên sáng sủa, ổn định hơn trước.

          Trên đây là những chuyện của người lớn trong quá khứ ở quê cũ của tôi năm xưa. Bây giờ xin kể thêm môt chuyện thật là trẻ con của chúng tôi cũng vào thời điểm đó. Đấy là câu chuyện tang lễ con Sáo Đen của chị em chúng tôi. Tôi có hai bà chị gái, chị lớn là Cô Nguyễn thị Báu và chị thứ hai là Cô Nguyễn thị Ngọc. Cô Báu sau này chính là Bà Phạm Bá Lợi, nàng dâu của gia đình ông Hàn Hòa nói trong chuyện VINH QUY BÁI TỔ của ông NGHÈ THĂNG ở Bách Tính, Thái Bình đã nói ở trên.   

          Chuyện “Tang lễ con Sáo Đen” của chị em chúng tôi (bà Ngọc và tôi) như sau :

          Không biết ai đã đem con sáo đen cho chị em chúng tôi ngày đó. Tôi chỉ còn nhớ rằng chị em chúng tôi đã vô cùng thích thú con sáo đen ấy, và đã kiếm được một chiếc lồng thật đẹp, nan tre sơn vec-ni bóng loáng. Muốn nuôi con sáo này, nhất là để cho nó tập nói, người ta bảo chúng tôi phải lấy giấy báo dán kín chung quanh lồng, mua hai chiếc gương nhỏ để bên trong cho sáo soi gương tập nói. Hằng ngày, mỗi ngày mấy lần,  chị em tôi đều ra thăm xem sáo đã bắt đầu tập nói chưa ? Con sáo cũng có vẻ mến chúng tôi lắm. Mỗi lần chúng tôi đến ngồi coi bên lồng là nó tung tăng, nhảy nhót rối rít, ra vẻ khoái chá vô cùng. Nó ở trong lồng được mười ngày, bỗng nhiên một hôm nó bỏ ăn, rồi lăn ra chết. Thật là chuyện oái oăm ghê gớm, một tai họa lớn lao đến với chị em tôi, không khác gì như một người thân trong gia đình bỗng nhiên mất đi một cách đột ngột. Chúng tôi buồn đến thẫn thờ cả người, quên ăn, mất ngủ. Chị em tôi đã quyết định tổ chức tang lễ cho con sáo một cách long trọng để tỏ lòng thương tiếc. Một vỏ hộp bích-quy LU hình chữ nhật bằng thiếc của Pháp rất đẹp mà chúng tôi đã cất giữ từ lâu, được đem ra để làm quan tài cho sáo. Thi hài sáo cũng được khâm liệm đàng hoàng với những miếng vải vụn trắng mới toanh, xin được của ông Phó Sính, một thợ may thân thiết với gia đình tôi. Lúc khâm liệm cũng có kèn Tàu, cuộn bằng lá chuối và vòng hoa tươi của đám trẻ hàng xóm là Vàng, Hợi (con ông Tròn), và cô Xuân (con ông Trân) mang đến phúng điếu, chỉ thiếu có trống thôi. Cũng có điếu văn đàng hoàng, do tôi đọc : « Em sáo ơi ! Sao em nỡ bỏ chị, bỏ anh mà ra đi sớm thế ! Anh chị chưa kịp nghe em nói lời nào !  Chưa có lời từ biệt nào với anh chị và mọi người chung quanh ! Nhưng thôi, nghĩa tử là nghĩa tận. Sự thương nhớ em sáo biết thuở nào nguôi, thật không lời nào tả xiết v. v … và v. v … ». Chị tôi và các bạn hàng xóm của tôi cũng rất cảm động, bùi ngùi, suýt nữa tôi cũng không cầm được nước mắt. Lỗ huyệt an táng cho sáo cũng được đào theo lối tam cấp, nghĩa là có ba bậc rồi mới đến chỗ đặt quan tài. An táng xong, chúng tôi đắp mộ cẩn thận, có đặt một thánh giá trên đầu cùng với một số hoa tươi, rồi ngày hôm sau, cũng ra viếng mộ và cầu nguyện. Chẳng biết phách hồn của sáo có được siêu sinh tịnh độ, hay linh hồn sáo có được bay về thiên đàng hay không, nhưng sau đó ít hôm, chị em chúng tôi cũng nguôi ngoai dần. Gia lúc đó thì « ông già » của tôi ở nhà trong (nhà tôi có hai nhà, một nhà ở trong làng và một nhà ngoài bến sông) có lệnh phong tôi làm  cận vệ điếu đóm, thế là tôi vào nhà trong bắt đầu một cuộc sống mới với sách vở và với cha tôi như đã nói ở trên.

Wednesday, 17 November 2021

Tìm về quá khứ - Quê cũ năm xưa : Kỷ niệm thời ấu thơ (Nguyễn Hữu Quyền - Di Cảo) - Kỳ 11

 

KỶ NIỆM THỜI ẤU THƠ.

C âu chuyện về làng Vị Xuyên đã hơi dài. Vậy xin chuyển sang một mục khác, cũng vẫn chỉ là nói về thời ấu thơ của tôi thôi.

Người ta, khi hồi tưởng lại công ơn sinh thành, dưỡng dục của mẹ cha, thường thường nhiều người hay nghĩ đến mẹ rồi mới nghĩ đến cha, hay tưởng nhớ đến mẹ nhiều hơn là đến cha. Nhưng tôi thì lại hơi khác một chút, nghĩ đến cha nhiều hơn nghĩ đến mẹ. Có lẽ vì giữa tôi và  cha có nhiều kỷ niệm hơn với mẹ. Cả thời thơ ấu, tôi đã gần gũi với cha, và là “tiểu đồng điếu đóm” cho cha và được cha giáo huấn nhiều hơn. Sau đây là một kỷ niệm của thời thơ ấu, giữa cha tôi và tôi, cho đến bây giờ tôi cũng đã xấp xỉ đến tuổi bát tuần, nghĩa là đã vượt qua cái ngưỡng “xưa nay hiếm” được 10 năm ! Chuyện như sau :

Hôm ấy, một buổi trưa mùa hè ở thôn quê, cha tôi thường nghỉ hay ngủ trưa, và trước khi đi nằm, ông thường chỉ cho tôi một bài học nào đó và hẹn đến chiều thì “trả bài”. Sau khi cha tôi đi nằm thì hai “đồng chí” Bách và Chương là hai gia nhân của gia đình tôi, hơn tôi một vài tuổi, cũng là hai tay cự phách trong việc “xúi trẻ ăn cứt gà”. Các hắn rủ tôi đi tắm bãi sông (gần nhà) và còn hứa dạy cho tôi biết bơi nữa. Tôi đã bị gãi trúng chỗ ngứa nên mau chóng quên những điều cha dặn, rồi cùng Bách và Chương đi tắm sông, tập bơi và nô giỡn vô cùng vui vẻ, quên phắt ngay những lời dặn dò của cha tôi, đến lúc khi nhớ ra thì đã trễ mất hơn tiếng đồng hồ. Thế rồi việc phải đến đã đến. Dĩ nhiên là hôm đó tôi không thể trả bài và một hình thức kỷ luật cha tôi dành cho tôi hôm đó là “Đứng quay mặt sát vào tường. Miệng phải đọc to và rõ từng tiếng – giống như ông sư tụng kinh, gõ mõ ở trong chùa – câu “BẤT  HỌC DIỆN TƯỜNG, VI DONG VI NÔ”, cứ đọc đi đọc lại mãi, đến khi nào coi là đủ thì sẽ được tha cho đi chơi. Câu tôi phải tụng như tụng kinh nói trên có nghĩa là “Không học thì giống như người quay mặt vào tường, không hiểu biết gì. Suốt đời chỉ đi làm đầy tớ cho người, nô lệ cho người mà thôi”. Đấy là kỷ niệm sâu sắc nhất trong thời thơ ấu của tôi, và đây cũng là lần đầu tôi ghi lại những kỷ niệm này lên giấy, vì sợ rằng một ngày nào đó tôi không còn đủ minh mẫn để nhớ lại nữa. Hiện giờ, tôi vẫn chưa dám khẳng định đây là một kỷ niệm hay hay dở, mà chỉ chắc chắn rằng những gì mà tôi đã có, đang có của con người tôi bây giờ, chính là nhờ ở những kỷ niệm này. Chắc nhiều bạn đọc cho là tôi có thiên kiến, ý nghĩ lạc hậu, cổ hủ, lẩm cẩm của tuổi già nên nói thế chăng ? Tôi xin thêm là, cho đến hiện giờ, sau trên 40 năm trong nghề GODAUTRE, đầm mình, hụp lặn trong bể nước ngoại ngữ Anh văn, chứng kiến nhiều đường lối giáo dục mới, cách dạy dỗ mới, không áp đặt, không dùng hình phạt (vì làm cho đứa trẻ mất tính tự trọng, tự tin), luôn chiều theo ý thích của học sinh v. v… đều vẫn chỉ là một đường lối, một ý kiến mới, đối với tôi chỉ có tính cách thể nghiệm và là một sự xu mị học sinh quá lố mà thôi.

          Tôi vẫn còn nhớ hai câu thơ mà tôi được biết hồi đó là :

          “Kinh công hạ mã bái kinh tùng[1]

          Cảm tạ kinh tùng giáo huấn công”

          KINH CÔNG là một ông quan lớn đầu triều, khi về thăm nhà cũ, đi qua một bụi cây mây ở đầu ngõ mà thày giáo cũ của ông vẫn chặt về để làm roi phạt ông những khi ông không nghe lời. Ông đã xuống ngựa, sụp lạy bụi mây này để cảm tạ cái công ơn ngày xưa thày đã làm cho ông được thành đạt như ngày nay. Chúng ta hẳn còn nhớ câu tục ngữ này của người Anh trước đây ít năm trong việc dạy dỗ học sinh : “Spare the rod and spoil the child” (Để cho cái roi được nhàn rỗi là đã làm cho đứa trẻ hư hỏng). Tục ngữ Việt Nam ta cũng có câu “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”, giống y như câu của người Trung Hoa xưa : “Liên nhi đa dữ bổng, tăng nhi đa dữ thực” (của Thái Công). Đến đây tôi lại liên tưởng đến câu “Nội vô hiền phụ huynh, ngoại vô nghiêm sư hữu, nhi năng hữu thành giả, tiến hỷ”. Quả thực là như vậy. Cho đến tận bây giờ, tôi mới hiểu một cách sâu sắc hai chũ nghiêm phụ hơn lúc nào hết, và cũ g thấy cảm nhớ công ơn của cha tôi vô cùng, và cũng tự nhủ với niềm tự hào rằng mình đã may mắn có được một người cha như thế. Hai bài cổ thi dưới đây mà cha tôi đã dạy cho tôi lúc nhỏ là Bài thứ nhất:  CAO THÁP, THANH TÙNG  

          Cao tháp, thanh tùng lập tại Tê[2]

          Thanh tùng, cao tháp bất tương tề

          Hành nhân mạc tiếu thanh tùng đoản

          Tha nhật ùng cao, tháp hựu đê.

Tạm dịch như sau :

          Ngọn tháp cao và cây thông xanh đều ở phía tây đường đi. Cây thông xanh và ngọn tháp cao, độ thấp cao không bằng nhau. Người qua đường chớ có cười cây thông sao không cao như ngọn tháp. Vì một ngày kia, cây thông sẽ lại cao hơn ngọn tháp cho mà xem.

          Cha tôi giảng rằng : Người từ lúc còn nhỏ cũng giống như cây thông xanh này, lúc nhỏ đứng bên cạnh ngọn tháp cao. Người đi qua đường thấy vậy, chớ chê cười cây thông thấp hơn ngọn tháp, vì một ngày kia cây thông sẽ cao hơn ngọn tháp. Người bảo tôi rằng : “Con phải thấy mình cũng giống như cây thông xanh, đừng bao giờ nghĩ rằng mình sẽ mãi mãi thấp hơn ngọn tháp. Phải có một ngày nào mình sẽ cao hơn ngọn tháp mới được”.


Bài thứ hai :            

    DANH LỢI THUYỀN

          Ngạn thượng nhân khiên danh lợi thuyền

          Thuyền trung danh lợi bị nhân khiên

          Thao thao lưu thủy khứ bất phản

          Bất tri khiên đáo kỷ hà niên.

 

Tạm dịch như sau :

          Trên bờ người ta kéo một thuyền danh lợi

          Danh lợi ở trong thuyền bị người ta lôi kéo

Dòng nước cứ liên tục chảy đi mãi, không chảy ngược trở lại

Không biết đến bao giờ thuyền danh lợi này mới khỏi bị lôi kéo nữa.

Cha tôi giảng và khuyên rằng : “Đừng nên bắt chước người đời mà đi lôi kéo thuyền danh lợi, nghĩa là đừng chạy theo danh lợi. Vì người đời chẳng biết đến bao giờ mới tỉnh ngộ để mà không ham danh lợi”.

---o0o---

Người thứ hai trong gia đình quan trọng đối với tôi lúc còn nhỏ, không phải là ai khác, mà lại là bà chị lớn của tôi. Tôi  có hai bà chị, một bà chị lớn, con của mẹ già tôi là Cô Nguyễn thị Báu, hơn tôi mười tuổi. Bà chị này tuy không nổi trội về ngoại hình, nhưng duyên dáng và khôn ngoan rất mực, nói năng phải lời và rất thương tôi. Bà chị thứ hai là Cô Nguyễn thị Ngọc, cùng cha mẹ với tôi, hơn tôi ba tuổi. Bà này khá xinh, nhưng không được đào tạo nhiều như bà chị, nên về sự khôn ngoan chưa được hoàn chỉnh như bà chị lớn. Tính nết bà rất hiền lành, thục thà, hay thương người. Bà chị này, tuy cùng mẹ với tôi, nhưng lại ít sống chung nên không thân thiết với tôi bằng bà kia. Đặc biệt bà Báu rất ngoan đạo, nên đã ảnh hưởng đến tôi nhiều, dạy dỗ và khuyến khích tôi học kinh, cầu nguyện và rất nhiều thứ khác linh tinh về tôn giáo nữa. Nhiều khi cao hứng bà còn dạy tôi dâng hạt và khuyến khích tôi học ngắm đứng (một cách đọc kinh và suy ngẫm trong dịp lễ Phục Sinh). Chữ ngắm ở đây là do đọc chệch từ chữ ngẫm, suy ngẫm mà ra. Bà đã xin với cha tôi tìm thày dạy ngắm đứng cho tôi. Thế là tôi được thụ huấn với hai sư phụ là hai nhân vật ngắm đứng hàng đầu trong xứ đạo GIA LẠC. Đó là các ông Lương Huy Đô (tức Phó Đô) và ông Lưong Huy Tự (tức Hương Tự). Hai sư phụ của tôi đều là giáo dân họ giáo HỘI KÊ, mỗi người một vẻ. Sư phụ “Phó Đô” thì giọng ngắm rất điêu luyện và nghệ thuật. Sư phụ “Hương Tự” thì tiếng lớn, giọng ngâm trong và vang, phát âm tròn vành rõ nét, nên có nhiều người rất ưa thích. Nếu có phải so sánh tài nghệ của hai sư phụ này, thì ta có thể nói giống như tiếng hát của danh ca Thái Thanh và tiếng hát của danh ca Khánh Ly hay Lệ Thu (Lệ Thu lớn, lớp trước).

          Ở nông thôn miền Bắc thời ấy (thời Pháp thuộc), lễ Phục Sinh (Pâques) là một ngày lễ lớn nhất trong tất cả mọi lễ, kể cả lễ Noel. Thời đó, vào dịp lễ này, nhà nước cho học sinh được nghỉ học một tuần lễ liền như nghỉ Tết Nguyên Đán bây giờ. Trong dịp lễ Phục Sinh này, có một loạt những lễ gần như liên tiếp nhau của nhà thờ, từ Ba Vua đến Lễ Lá, rồi Ném Đá, rồi Phục Sinh.

Mùa Phục Sinh năm ấy, vì là đệ tử của hai sư phụ hàng đầu về ngắm đứng trong xứ, tức đứng mà cầu nguyện và suy ngẫm về 15 sự thương khó của Chúa Giêsu trong những ngày Chúa bị quân dữ (quân lính La Mã) đánh đập, hành hạ và cuối cùng dẫn lên đồi Golgotha tức ĐỒI SỌ (còn gọi là Calvaire hay Calvario) để đóng đinh trên Thập Tự Giá, tôi được gia đình và các sư phụ khyến kh1ch ghi tên lên NGẮM NHÂN TÀI ở nhà thờ, mặc dù khi đó tôi mới chỉ là một chú bé 12 tuổi. Tôi cũng chưa ý thức rõ rệt được việc làm này, có lẽ giống như “một người điếc, không biết sợ súng”. Thực ra, cũng chưa hẳn đến nỗi như vậy, vì các ông thày của tôi và gia đình đã khuyến khích và trấn an tôi rằng tôi xứng đáng làm được việc này một cách dễ dàng. Đêm lễ hôm đó là đêm Thứ Sáu, phần nghi lễ trang trọng nhất trong mùa Phục Sinh, diễn lại sự tích Chúa chịu nạn, chịu chết chuộc tội cho thiên hạ như thế nào.  Cả nhà thờ được trang hoàng khác hẳn ngày thường. Ngoài đường chung quanh cũng dựng những cột đèn chai (bóng được làm từ những cái chai cắt ra) thắp bằng dầu, như những cột điện xưa ở trong thành phố. Trong nhà thờ được căng một ri-đô lớn bằng vải, cao quá đầu người, ngăn đôi nhà thờ, chia đôi phần có bàn thờ ngày thường với phần còn lại dành cho giáo dân ngồi dự lễ Phục Sinh. Phần giáo dân ngồi dự lễ lại chia thành lối đi hai bên theo chiều dọc như ở trong một nhà hát. Hai bên có bố trí cờ, trống và một phường bát âm để cử hành đón và tiễn những người lên NGẮM NHÂN TÀI, giống như ban quân nhạc của nhà nước khi đón một nguyên thủ quốc gia bạn đến thăm. Hôm đó, tôi mặc tang phục đại tang màu trắng, chân đi dép cói, một loại dép chỉ dùng trong tang lễ, với ý nghĩa là để tang Chúa, đã chịu nạn chịu chết vì loài người tội lỗi. Bắt đầu lên đường vào cuộc từ nhà Quan cư (một nhà phụ, nơi ngồi chờ trước khi vào nhà thờ), đối diện với cửa chính, qua một sân rộng. Trong tiếng trống rập rình của đoàn trống Ngũ Lôi và tiếng đàn sáo của ban nhạc Bát âm, tôi đã làm đúng như đạo diễn của các quân sư cố vấn ở nhà suốt một tuần lễ trước. Tôi ung dung, tề chỉnh, đĩnh đạc, đàng hoàng hiên ngang tiến lên với một tâm trạng vô cùng tự tin, phấn khởi…

          Trước khi lên bàn thờ chính, nơi có tượng Chúa bị đóng đanh to bằng người thật, một Thánh Giá dựng trên một bàn thờ cao, tượng trưng cho ngọn đồi Golgotha hay ĐỒI SỌ, tôi phải quỳ lạy trước tượng Đức Mẹ Maria – mẹ Chúa – gương mặt  sầu bi trong bộ đồ tang, rồi tiếp theo là bàn thờ Thánh Gioan, một tông đồ trẻ nhất và cũng được Chúa thương yêu nhất., cũng trong bộ đồ tang trong ngày đó. Sau cùng mới đến chỗ bàn thờ chính là nơi Chúa chịu khổ hình.   Trên Thánh Giá có thắp 15 ngọn nến, chỉ 15 sự thương khó tức 15 giai đoạn chịu nạn của Chúa trong những ngày này. Khi lên ngắm,  tôi phải trèo lên chỗ đứng bằng một chiếc ghế đẩu mà người ta để sẵn, dành cho ai không đủ chiều cao, có thể nhìn vào sách dễ dàng hơn. Một câu hỏi với vẻ nghiêm trang, trịnh trọng kéo dài và giọng nhừa nhựa ở bên trong ri-đô của thày già PHẨM cất lên: “Ngắm NHÂN TÀI về đâ … âu … đâu … ?” (tức là đại diện cho họ nào). Tôi trả lời trúng cách và được chấp nhận bằng ba tiếng KENG-BUNG-TÙNG.

Sau mỗi bài kinh ngắm, một ngọn nến lại được dập tắt đi, đến khi nến được tắt hết là đêm lễ sang phần khác. Trong lúc ngắm NHÂN TÀI, người ta đặt ra một ban cầm TRỊCH, giống như ban giám khảo của các kỳ thi ngày nay, gồm những người có thẩm quyền như các THÀY GIÀ (gọi như vậy, chứ các tu sĩ này cũng vẫn còn trẻ, chỉ vì có tu đến già cũng không bao giờ có thể trờ thành linh mục nữa), và một hai người có trình độ chuyên môn về ngắm. các vị này ngồi sau ri-đô, tức là ở hậu trường sân khấu để lắng nghe đương sự ngắm, để thưởng hay phạt. Đến chỗ nào mà người ngắm làm tốt, thì các vị giám khảo bèn trọng thuởng cho một điểm  bằng ba tiếng “KENG-BUNG-TÙNG”. “Keng” là tiếng thanh la được gõ lên với một bù-loong sắt, có âm thanh kim loại. “Bung” là tiếng trống khẩu, một thứ trống nhỏ, có cán để cầm giơ lên đánh, thường đi trước kiệu trong những đám rước, và “Tùng” là tiếng trống lớn. Ba âm thanh này phát ra lần lượt nghe cũng vui tai, giống như âm giai trưởng của âm nhạc. Còn nếu như khi NGẮM NHÂN TÀI mà có sai sót điều gì là bị ban giám khảo phạt ngay, tặng cho một tiếng mõ thật lớn ĐỐP hay CỐC,  là cứ việc đi xuống, nhường  chỗ cho người khác lên thay thế. Khi đã phải xuống thì không có trống phách gì tiễn đưa như lúc đi lên nữa, mà chỉ âm thầm một mình đi xuống thôi. Nếu hoàn thành được bài ngắm cho đến chỗ cuối thì có một hồi tiếng KENG-BUNG-TÙNG liên tục để chấm dứt. Tôi cũng không nhớ được là trong bài ngắm đã được khen thưởng mấy lần, chỉ nhớ rằng đã đi được đền cuối bài, và lúc xuống cũng đuợc om sòm tiễn đưa như lúc đi lên. Ông Đốc phủ xứ Nguyễn Hữu Biền lúc đó đã chờ đón tôi ở cuối nhà thờ và vỗ vai ban tặng tôi một lời khen : “Em làm tốt đó. Cố lên, kỳ lễ sau lại cứ thế lần nữa nhé”. Tôi thầm cám ơn ông, trong lòng vui sướng … tràn trề hạnh phúc !

          Cuối cùng, người ta tháo đanh Chúa xuống, mang đi táng xác trong hang đá. Chúa được đặt trong một quan tài sơn son thiếp vàng, có nắp ván thiên bằng kính, để trên kiệu rước đi quanh nhà thờ, với đầy đủ nghi thức y hệt như một tang lễ ngoài đời. Ngoài tiếng đọc kinh râm ran của bổn đạo, còn có tiếng kèn “lâm khốc” não nuột mà bất cứ ai nghe cũng phải mủi lòng ! Sau đó, quan tài Chúa được đưa vào một hang đá giả, bằng bìa giấy sơn vẽ như thật. Thi hài Chúa nằm trên đống “nẻ” (thóc rang nổ thành những bông gạo trắng đã được lược bỏ vỏ trấu), cùng với những hoa xoan tươi thơm ngát của tháng Ba, đặt thò hai bàn chân ra ngoài để giáo dân vào hôn chân. Đây là giai đoạn Chúa được các tông đồ táng trong hang đá. Những người vào hôn chân Chúa phải đi bằng cách quỳ gối từ ngoài vào đến trong cuối hang, miệng luôn đọc kinh cầu chịu nạn : “CHÚA GIÊSU ĐẦY TỚ TÁNG TRONG HANG ĐÁ … Á … À … THƯƠNG XÓT … Á … À … CHÚNG CON”, đọc đi rồi đọc lại. Có những đứa trẻ cùng trạc tuổi với tôi, đến hôn chân Chúa, cứ vào rồi lại ra đến năm sáu lần, vì mỗi lần lại được bốc một nắm NẺ để ăn. Có đứa nhét NẺ đầy cả hai túi áo. Lễ hôn chân này diễn ra suốt ngày thứ Bảy, sau ngày thứ Sáu là ngày Chúa chịu nạn. Đến 12 giờ đêm thứ Bảy, rạng sáng Chủ Nhật làm lễ mừng, được  gọi là ngày lễ Phục Sinh (Chúa sống lại).

          Sau lễ Phục Sinh đúng 40 ngày thì Chúa lên trời, ngự bên hữu ĐỨC CHÚA CHA, gọi là lễ THĂNG THIÊN (Ascension), rồi sau đó 10 ngày, CHÚA THÁNH THẦN lại xuống thế để an ủi các THÁNH TÔNG ĐỒ và loài người, được gọi là lễ HIỆN XUỐNG (Pentecôte). Sau lễ này, được coi như là chấm hết mùa PHỤC SINH. Hồi đó, lũ học sinh nhỏ là chúng tôi, sau lễ Phục Sinh, chúng tôi cứ như người mất hồn, nhớ lại những ngày “vui” qua mau của kỳ lễ Phục Sinh đã qua. Tâm hồn bâng khuâng như vừa mới mất một cái gì quý giá vô ngần, không biết đến bao giờ mới tìm lại được !

          Đúng như vậy, vì lẽ ra tuần Phục Sinh là để kỷ niệm những sự thương khó, đau buồn của Chúa, người ta đã dựng nên những hoạt cảnh y như thật của một phim trường đầy vẻ hấp dẫn, có đủ các nhân vật trong phim như quân dữ (lính La Mã), quan trấn thủ Philatô (Toàn quyền La Mã Ponce Pilate), vua Do Thái thời đó E-ro-de (Herode), tên hung đồ Ba-ra-ba (Barabba) và cả thằng Giu-đa (Judas) nữa v. v… Nhân vật Giu-đa này, vốn cũng là tông đồ của Chúa, còn có tục danh nữa là Iscariot, là đồng chí của thánh Phêrô (Peter) trong đảng Zealot, ngày Chúa còn sinh thời. Thánh Phêrô cũng đã từng có lúc dao động, và đã trong cùng một đêm, chối bỏ Chúa đến 3 lần : “Tôi chẳng biết người đó là ai” trước mặt kẻ thù (quân lính La Mã), cho mãi đến khi gà vừa gáy sáng mới ăn năn, hối hận. Nhưng Chúa đã tha tội và là người đầu tiên được Chúa giao cho cai quản Hội Thánh của Người dưới trần thế, và cũng là vị thánh tông đồ được Chúa giao cho giữ chìa khóa cửa Thiên Đàng 



[1] Kinh tùng là cây mây

[2] là một âm khác, đọc chệch của chữ Tây, tức là phía tây. Trong thơ, hai âm này là một.