Monday, 9 November 2015

Giải huyền thoại thành Cổ Loa (Chu Mộng Long)


Giải huyền thoại thành Cổ Loa


mychau
Phút cuối của một vương triều
Chu Mộng Long – Bài viết là kết quả của một sự trải nghiệm – trải nghiệm lịch sử theo tinh thần giải huyền và lí thuyết diễn ngôn.
Huyền thoại cũng như mọi diễn ngôn bao giờ cũng tồn tại 2 mặt: nổi và chìm, phần bề mặt hình thức và chiều sâu bản chất của nó. Những đầu óc mộng mơ thường tin huyền thoại ở tính hợp lí của hình thức mà quên bản chất của nó là những mảnh ghép của sự thực. Chẳng hạn, người ta ghép nhà Ân ở xa lơ xa lắc bên kia sông Hoàng Hà trong quan hệ với Hùng Vương ở tận nước Nam để dựng lên chuyện Thánh Gióng; Trọng Thủy, người nước Tần, không dưng biến thành con trai của Triệu Đà trong thời “hòa tập Bách Việt” để sản sinh ra chuyện đánh cắp nỏ thần…. Kết quả là sự thực bị che lấp bởi tưởng tượng mông lung từ một hình thức huyền hồ, méo mó và xuyên tạc.
Có một nghịch lí là, đến khi các huyền thoại bị giải huyền để phơi trần sự thực, dễ bị quy chụp ngược là… làm méo mó, xuyên tạc sự thực.
Với câu chuyện thành Cổ Loa, tôi không tin có nhân vật Mỵ Châu nào trong sự thực. Mỵ Châu chỉ là một hư cấu trong chiến lược diễn ngôn để biện minh cho sự sụp đổ và mất nước của triều đại An Dương Vương.
Theo tôi, huyền thoại không hẳn sinh ra từ dân gian, đặc biệt là những huyền thoại có liên quan đến ngợi ca những nhân vật anh hùng. Vì sao phụ nữ và những người thấp bé không có vị thế nào trong anh hùng ca, theo chất vấn của F. Engels? [1]. Là bởi vì, anh hùng ca ra đời với mục đích ngợi ca kẻ mạnh, kẻ chiến thắng, bắt đầu từ thời đại phụ quyền. Ngay cả khi thất bại để trở thành bi kịch, người anh hùng vẫn thống trị trong các vở bi kịch với vẻ đẹp phi thường.
Rõ ràng huyền thoại ra đời từ miệng kẻ thống trị, một thứ diễn ngôn được hợp thức hóa bởi quyền lực. Kẻ nắm quyền lực đã bịa ra hàng loạt những huyền thoại nhằm tự ngợi ca sự thắng lợi lẫn thất bại của mình, chuyển cái hữu hạn nhất thời thành vạn tuế. Dân gian chỉ là công cụ cho sự lưu giữ và truyền bá tư tưởng của hệ tư tưởng thống trị.
Quay lại huyền thoại về thành Cổ Loa, tin chắc là đặc sản của xứ Giao Chỉ cổ xưa, đã được xào nấu bởi tinh thần tự tôn của thế hệ thống trị sau thời Bắc thuộc lần thứ nhất. Trong khi giương cao ngọn cờ độc lập, một điều dân gian dễ chấp nhận để lưu truyền, huyền thoại này đã hư cấu nên nhân vật Mỵ Châu để che lấp một sự thực bất lợi cho giới cầm quyền: sự mắc lừa ngu xuẩn bởi một âm mưu hơn là câu chuyện hòa hiếu thông qua một cuộc hôn nhân. Đó là, trong quan hệ giữa Bắc triều và Nam triều có cái gì na ná như các hiệp định kí kết trao đổi, mua bán mà bao bọc bên ngoài là sự hòa hiếu đầu môi chót lưỡi, thậm chí lấy cái “gen hòa hiếu” ra thề trước thần linh!
Oan hồn Mỵ Châu hay oan hồn dân đen?
Oan hồn Mỵ Châu hay oan hồn dân đen?
Huyền thoại thành Cổ Loa là bài học về sự cảnh giác. Nhưng tại sao lại phải cảnh giác với phụ nữ, trong khi phụ nữ thường chỉ là công cụ hiến tặng trong các cuộc chơi chính trị, mà vị thế của họ không khác dân đen, dù là con vua? Mấu chốt đáng nghi vấn nhất nằm ở đây.
Không phải ngẫu nhiên mà cả trăm huyền thoại như một, từ thần thoại Hy Lạp đến Kinh Cựu Ước, đều quy hết mọi tội lỗi cho đàn bà, rằng họ là nguyên nhân của chiến tranh và sự tàn phá. Không thể có cách giải thích nào khác hơn là chính nhân tố này mới có thể ngụy trang được tội lỗi của giới cầm quyền với bản chất muôn đời của nó là tranh chấp, cướp đoạt, chia chác quyền lợi, kể cả cướp đoạt phụ nữ như là cướp đoạt tài sản vật chất.
Huyền thoại mất cắp nỏ thần bề ngoài là sự vô ý của Mỵ Châu, nhưng bên trong là sự cố ý của kẻ cầm quyền. Dù bị cắt bỏ ra khỏi bề mặt ngôn từ của diễn ngôn để đánh tráo sang sự cả tin của Mỵ Châu trong ứng xử với chồng, nhưng dấu tích của sự cố ý vẫn còn nguyên: hai bên vương triều đã kết tình môi răng sau khi đã trải qua những cuộc tranh chấp đẫm máu. Và để có được cái tình môi răng ấy, cái gì được mang ra thế chấp bị giấu kín bên trong cuộc hôn nhân vờ vịt dễ dãi kia?
Không thể là cái gì khác, chiếc nỏ thần, cái được mang ra trao đổi trong cuộc chơi hòa hiếu ấy thành biểu trưng cho toàn bộ gia sản của dân tộc, ngang hàng với lãnh thổ. Bởi lẽ, nó là cái đã biểu đạt rõ nhất trong cuộc xung đột, tranh chấp máu xương giữa Nam – Bắc triều. Mỵ Châu thành con bài tẩy được bịa/ lật ra để bào chữa, che đậy, đúng hơn là tạo cớ đổ thừa cho người khác.
Nước mất nhà tan, cơ đồ rơi vào tay giặc, nhưng tội nhân lịch sử lại là người phụ nữ hay đám dân thấp cổ bé họng. Trong khi kẻ cầm quyền lại mang báu vật lâu nay vơ vét được từ xương máu của dân lên đường tẩu thoát.
Mỵ Châu là một hình tượng dân oan sau ngàn năm vẫn chưa rửa sạch. Chính Tố Hữu viết: Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu/ Trái tim lầm chỗ để trên đầu/ Nỏ thần vô ý trao tay giặc/ Nên nỗi cơ đồ đắm bể sâu. Trong khi An Dương Vương với bộ ngọc sừng tê trên tay, báu vật của quốc gia, trốn chạy ra biển để tiếp tục cuộc sống vương giả? Bộ ngọc sừng tê ấy chính là phần chìm ẩn sau chiếc nỏ thần, đích thị là chiếc ghế vương quyền được mang ra thế chấp lãnh thổ, bị lộ diện ở cuối diễn ngôn khi nó được mang ra làm biểu tượng bất tử, sáng chói cho kẻ cầm quyền!
Huyền thoại thành cú lừa xuyên thế kỉ. Giới quyền lực tham lam lừa nhau và dùng huyền thoại để lừa dân. Chính mặc cảm bị trị đã biến thành mặc cảm tội lỗi trong lòng dân và từ đó, một cách vô thức, một tập thể rộng lớn trong dân gian đã chấp nhận huyền thoại như là sản phẩm của mình để tự răn dạy mình. Thế giới mộng mơ trong huyền thoại tồn tại như một ác mộng.
Thế mới biết dân gian muôn đời vẫn bị mắc lừa khi tiếp tay lưu truyền cái câu chuyện tình lãng mạn của đôi trai gái kia làm nhòe mờ đi những sự thật ẩn giấu bên trong quan hệ giữa hai kẻ cầm đầu.
Tất nhiên, khi tạo tác ra huyền thoại về bài học cảnh giác, có một bài học vĩ đại hay cái giá phải trả rất đắt đằng sau câu chuyện mà kẻ thống trị không bao giờ dám chạm đến: mất cả giang sơn thì vương quyền cũng mất theo chứ không phải ngược lại. Bộ ngọc sừng tê kia dù là ngọc thật cũng chỉ còn là đồ rởm khi nó hết chức năng lịch sử!
Huyền thoại thành Cổ Loa là màn chót lấp lửng của vở bi kịch đầy sắc màu lừa dối, phía sau sự ru ngủ cho một thất bại nhục nhã là một màn kịch khác rất hài hước bắt đầu lộ diện, màn hài kịch cười ra nước mắt. Vì sao? Vì quyền lực cố tình kéo dài lê thê bằng cách đánh bóng thứ đã mục rữa thảm hại thành ngọc! (K. Marx) [2].
Phần nổi và phần chìm của diễn ngôn thành Cổ Loa
Phần nổi và phần chìm của diễn ngôn thành Cổ Loa
—————-

Saturday, 31 October 2015

Vài trăm là mấy trăm?


Vài chính là hai. (Huình Tịnh Paulus Của, 1896b:535). Có thể tìm thấy mối tương quan về mặt âm thanh giữa vh ở nhiều ví dụ khác: hòa / và, hoàng sắc / màu vàng, họa/vẽ, hoàn toàn / vẹn toàn,  hoàn thuốc / viên thuốc,  kế hoạch / vạch kế (hoạch),  va li / hoa li, đậu cô ve / đậu cô hoe v.v.

Vài/Haimột ít, số lượng độ hai ba, không chắc (Lê Văn Đức, 1971b:1741),  nói chung là số lượng không nhiều, khoảng hai, ba (Hoàng Phê, 2006:1095) cho nên người ta chỉ có thể nói một vài, vài ba mà không nói vài bốn, vài năm, vài sáu...


Đi khảo giá mà người ta nói cỡ vài trăm thì phải hiểu là chừng hai trăm, tối đa là ba trăm. Nhưng một số người Việt ở hải ngoại thích chơi trò ma là hiểu vài thành somesomean unspecified amount or number tức tha hồ. Nghe họ nói vài, anh phải cẩn thận, đừng ham rẻ mà bị bất ngờ, mất cả vui.

Monday, 12 October 2015

Học sử đâu phải để "kiếm ăn", không học sử là bất trung, bất hiếu (Phan Mạnh Hà - Giáo Dục))

Học sử đâu phải để "kiếm ăn", không học sử là bất trung, bất hiếu

(GDVN) - Học Lịch sử Việt Nam còn là để ghi nhớ biết ơn công lao vĩ đại của bao thế hệ tiền nhân đã hi sinh xương máu để gìn giữ đất nước Việt Nam cho thế hệ mai sau.
LTS: Gần đây, dư luận xôn xao xung quanh việc học sinh có thể chọn học hoặc không học môn Sử. Tác giả Phạm Mạnh Hà, đến từ Hải Dương, hành nghề luật, là một người hoàn toàn không liên quan đến chuyện trên nhưng đã nói lên suy nghĩ của mình.
Tòa soạn trân trọng gửi tới độc giả bài viết nêu quan điểm riêng này của tác giả. 

Bộ GD&ĐT vừa đưa ra dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, trong đó quy định học sinh có thể tùy chọn học hoặc không học môn Sử.

"Sáng kiến" này đã gây ra chuyện "động trời" trong dư luận cả nước. Nhiều người thì cho rằng quy định vậy là hợp lý vì theo như kỳ thi Quốc gia “hai trong một”vừa qua thì cả nước có rất ít thí sinh tự chọn thi môn Sử, nhiều nơi còn không có nổi 1 thi sinh nào chọn thi môn Sử mà quay sang chọn thi các môn khác, như vậy học sinh đã không thích học Sử thì bắt buộc học cũng chẳng tiếp thu được.

Nhưng nhiều người lại phản đối, với lo ngại về hệ lụy sẽ làm cho học sinh không biết đến gốc gác của mình, và bị thế lực xấu bên ngoài tuyên truyền xuyên tạc lịch sử để lừa bịp.

Nếu "khai tử" môn Sử, sẽ là một thảm họa lớn

Sau khi tìm hiểu đến tận cùng về vấn đề cần học hay không môn Sử, bài viết này phản ánh lại làm sáng tỏ thêm như sau:

Xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc đã cho thấy, Việt Nam là một nước nhỏ, nghèo, lại luôn bị nước lớn chèn ép tìm cách vừa dụ dỗ vừa đe dọa để thôn tính đất nước.

Cho nên để giữ được nước mà không bị dụ dỗ, không sợ đe dọa trước sự giàu mạnh của ngoại bang, thì mỗi người Việt Nam đã phải có lòng yêu nước nồng nàn, yêu nước như là yêu cha mẹ của mình, luôn quyết tâm chống lại sự thôn tính của ngoại bang, thì đất nước Việt Nam mới được trường tồn trên bản đồ thế giới cho đến ngày nay.
Học Sử Việt Nam là để làm người Việt Nam! (Ảnh: vietq.vn)
Mà để có lòng yêu nước được như vậy làm động lực mạnh mẽ quyết tâm giữ nước, thì từng người Việt Nam đã phải hiểu được cái giá trị vô cùng to lớn thiêng liêng của mảnh đất nơi mình đang đứng, là kết quả từ núi xương sông máu của biết bao thế hệ tiền nhân người Việt Nam đã ngã xuống để gìn giữ đất nước Việt Nam cho thế hệ về sau.

Mà để hiểu được như vậy, thì tất cả người Việt Nam đã đều phải học lịch sử nước nhà. Như vậy, học sử cha ông để có được quyết tâm giữ nước Việt Nam trường tồn, chống mọi âm mưu thâm độc đồng hóa sáp nhập nước Việt Nam vào ngoại bang, cho nên học sử Việt Nam còn là để làm người Việt Nam!

Và, học Lịch sử Việt Nam còn là để ghi nhớ biết ơn công lao vĩ đại của bao thế hệ tiền nhân đã hi sinh xương máu để gìn giữ đất nước Việt Nam cho thế hệ về sau.
Cho nên nếu không học sử Việt Nam thì đó là sự vô ơn, bất trung bất hiếu đối với các thế hệ người Việt Nam đi trước. Mà tội bất trung bất hiếu thì không ở đâu loài người dung thứ được.

Đó là xét về việc giữ giá trị đạo lý truyền thống "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc, thì việc không học Sử là đã không còn.

Còn xét về giá trị hiện thực, thì lịch sử là những gì có thật đã xảy ra trong quá khứ theo quy luật của tự nhiên. Cho nên lịch sử là những bài học vô giá đã được rút ra từ hàng nghìn năm dựng và giữ nước. Mà để có được những bài học lịch sử vô giá đó, biết bao xương máu và nước mắt của dân tộc đã phải đánh đổi.

Như vậy là để hiện tại và tương lai không lặp lại sai lầm trong quá khứ thì người ta phải học Lịch sử, và để tiếp tục có được những thành công như trong quá khứ thì người ta cũng phải học Lịch sử. 

Vẫn cách dạy cũ thì có là môn thi bắt buộc cũng ít người hiểu về lịch sử

Thế cho nên nếu là người khôn ngoan, biết nhìn xa trông rộng thì là người phải biết coi trọng học Sử.
Nếu không, thì chỉ là đầu óc "hạt đậu" trí ngắn, tầm nhìn hạn hẹp, thì không thể làm nên việc lớn.

Lại có những người nhận thức rằng chỉ riêng ngành xã hội mới cần học Sử, còn những ngành nghề khác thì cần gì học Sử vì nhà tuyển dụng đâu có đòi hỏi.

Thì như đã nêu ở trên, học Sử là để ghi nhớ công ơn các thế hệ tiền nhân đi trước, và để hiểu được cái giá trị của mảnh đất nơi mình đang sống mà có ý thức bảo vệ Tổ quốc, chứ không phải học Sử để đi "kiếm ăn".

Mà tất nhiên công dân nào cũng phải có những trách nhiệm như vậy. Và cũng phải lưu ý rằng ngoài việc mưu sinh kiếm sống ra thì mỗi công dân đều góp phần tham gia vào việc xây dựng thể chế chính trị, mà để hiểu được phải xây dựng thể chế chính trị như thế nào là tối ưu nhất cho nước mình thì mỗi công dân đều phải học Lịch sử nước nhà, tránh bị các thế lực xấu tuyên truyền lừa bịp để dụ dỗ đi theo con đường sai trái.
Như vậy thì chẳng có người nào, làm ở ngành nghề nào mà lại không cần đến học Lịch sử.

Nhưng có một thực tế được đặt ra ở đây, là từ khi có quy định tùy chọn môn thi tốt nghiệp Trung học phổ thông vừa qua, đã có rất ít thí sinh chọn thi môn Sử, cho thấy xu hướng học sinh quay lưng với môn học này.

Đây là tình trạng cực kì báo động, mà đáng lẽ ra Bộ GD&ĐT phải có biện pháp "chữa bệnh" làm cho nhẹ đi, chứ không phải lại còn theo đó mà từ quy định "tùy thi" đã làm cho "bệnh nặng", nay có thêm cái quy định "tùy học" làm cho bệnh nặng thêm, đã ở vào mức nguy hiểm.

Cần phải nhận thức rằng Bộ GD&ĐT là nơi định hướng nhu cầu học tập cho học sinh, thì nay cái nơi định hướng này lại "học hay không thì tùy" coi nhẹ môn Sử như vậy thì đã nào cả thế hệ học sinh theo gương không học Sử, trên đã không coi trọng thì dưới coi trọng để thi cho ai nữa ?

Kiến nghị môn Lịch sử phải là môn học và thi bắt buộc

(GDVN) - Môn Lịch sử mà bị xóa sổ hoặc cho xuống hàng thứ yếu thì liệu con cháu sau này có nghĩ rằng chúng là người Việt Nam không?
Như vậy, đáng lẽ sau khi phát hiện bệnh chán học Sử của học sinh, thì Bộ GD&ĐT phải tìm cách chữa bệnh đó. Theo như học sinh phản ánh thì chương trình dạy Sử hiện nay của Bộ quá đi vào chi tiết số liệu, làm cho học sinh rất khó học, trong khi yêu cầu đặt ra đối với học sinh học môn Sử chỉ cần là hiểu biết về những diễn biến trong lịch sử nước nhà kể từ thời sơ khai đến nay, rút ra các bài học, nhằm giáo dục ý thức và trách nhiệm cho học sinh, chứ đâu phải cần học sinh là những nhà nghiên cứu lịch sử mà phải nhớ những chi tiết số liệu như vậy.

Chính cái dạy sai lầm này đã làm hỏng các thế hệ học sinh về thái độ với môn Sử, đáng lẽ làm cho các em yêu thích học sử nước nhà thì lại quay ra chán, sợ học Sử.

Như vậy thay đổi cách dạy đó mới là liều thuốc chữa bệnh chán học Sử của học sinh, chứ không phải thấy bệnh đã nặng Bộ GD&ĐT lại còn "bồi" thêm liều thuốc gây đột tử "học hay không thì tùy" để làm cho chết hẳn luôn môn Sử như vậy.

Kết lại vấn đề này, bài viết khẳng định: vì học Sử là để làm người Việt Nam, cho nên không học Sử chính là sẽ chấm dứt làm người Việt Nam. Chừng nào còn học Sử, thì nước Việt Nam mới còn tồn tại được trên bản đồ thế giới. Nên nhớ khai tử môn Sử cũng chính là khai tử luôn cả dân tộc này.
Bài viết thể hiện quan điểm, góc nhìn và cách hành văn riêng của tác giả.
Phạm Mạnh Hà

Tuesday, 6 October 2015

Giáo sư Phan Huy Lê: Nếu xóa bỏ môn lịch sử là cực kỳ nguy hiểm (Quốc Toàn - Giáo Dục)

Giáo sư Phan Huy Lê: Nếu xóa bỏ môn lịch sử là cực kỳ nguy hiểm
(GDVN) - Nếu Lịch sử trở thành môn tự chọn, thì bản chất là thủ tiêu môn học này. Chúng tôi sẽ có kiến nghị về dự thảo này...", Giáo sư Phan Huy Lê nêu quan điểm.
Lịch sử sẽ trở thành môn tự chọn?
Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của Bộ GD&ĐT vừa ban hành lấy ý kiến có nhiều sự thay đổi.
Theo đó, nhiều môn học sẽ bị thay đổi về vị trí theo hướng giảm môn học bắt buộc và tăng dần các môn tự chọn. 
Cấp THCS, số môn học bắt buộc sẽ giảm từ 13 môn xuống còn 7 môn, trong đó có môn tích hợp. 
Cụ thể, học sinh sẽ học bắt buộc các môn sau: Ngữ văn, ngoại ngữ 1, toán, giáo dục công dân, thể dục, khoa học xã hội và khoa học tự nhiên.
Môn tự chọn bao gồm: Ngoại ngữ 2, tiếng dân tộc, các môn thể thao, âm nhạc, mỹ thuật, tin học, công nghệ, Hoạt động trải nghiệm sáng tạo và nghiên cứu khoa học tự nhiên.
Ảnh minh Họa (nguồn: Dân trí)
Đặc biệt, với cấp THPT, số môn bắt buộc sẽ chỉ còn 4 môn: Ngữ văn, ngoại ngữ 1, toán, công dân với tổ quốc.
Các môn tự chọn bao gồm: Vật lý, hóa học, sinh học, tin học, lịch sử, địa lý, ngữ văn 2, công nghệ, toán, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, các chuyên đề học tập về mỹ thuật, âm nhạc, thể dục, hoạt động trải nghiệm sáng tạo và nghiên cứu khoa học.
Điều đáng lưu ý, nếu như môn lịch sử được tích hợp trong bộ môn khoa học xã hội ở cấp tiểu học và THCS theo dạng bắt buộc thì ở cấp THPT, môn học này lại được phân hóa trở lại trong các môn tự chọn. 
Nhiều ý kiến lo ngại, học sinh sẽ bỏ qua nhiều môn học mang tính bản lề như môn lịch sử?
Tự chọn thực chất là thủ tiêu môn Lịch sử?
Nhiều ý kiến cho rằng, Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của Bộ GD&ĐT ban hành cần làm rõ nhiều vấn đề liên quan tới việc tích hợp môn Lịch sử trong bộ môn khoa học xã hội.
Hôm 5/10, trao đổi với phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư Phan Huy Lê - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cho rằng, nếu Lịch sử trở thành môn tự chọn, thì bản chất là thủ tiêu môn học này.
“Tôi đã cảnh báo nhiều lần, làm gì thì làm, nếu xóa bỏ

Vẫn cách dạy cũ thì có là môn thi bắt buộc cũng ít người hiểu về lịch sử
môn Lịch sử trong hệ thống tri thức phổ thông là cực kỳ nguy hiểm.
Công dân lớn lên mà không biết, hoặc biết mơ hồ về lịch sử Việt Nam thì ai sẽ chịu trách nhiệm hệ quả đào tạo này?”, Giáo sư Phan Huy Lê cảnh báo.
Cũng theo Giáo sư Phan Huy Lê, việc tích tích hợp môn Lịch sử trong bộ môn khoa học xã hội vẫn còn chung chung, chưa cụ thể.
“Tôi cho rằng, chúng ta mới tiếp thu lý thuyết về tích hợp, chưa mang tính cụ thể gì cả. Nếu muốn đưa ra thảo luận, lấy ý kiến rộng rãi thì phải đi vào cụ thể vấn đề tích hợp như thế nào? Vấn đề sách giáo khoa, đào tạo, bổ sung giảng dạy ra sao…?”, Giáo sư Phan Huy Lê nêu quan điểm
Giáo sư Phan Huy Lê (ảnh: Vnexpress.net)
Theo Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, với cách thi, cách dạy như hiện nay thì không riêng môn Lịch sử mà các môn xã hội nói chung cũng bị hạ thấp, coi là môn phụ.
“Thông qua các cuộc thi tìm hiểu lịch sử, tôi thấy rất nhiều người yêu môn Lịch sử, ham học hỏi kiến thức lịch sử.
Tuy nhiên, với quan điểm, cách thức giảng dạy môn Lịch sử hiện nay, người ta dần quay lưng lại với môn Lịch sử là điều có thể thấy rõ.
Do đó, môn Lịch sử mà không đi vào tâm thức lớp trẻ, tuyệt đối không phải vì nội dung lịch sử, không phải vì người ta không yêu thích lịch sử mà trách nhiệm hoàn toàn thuộc về ngành giáo dục”, Giáo sư Phan Huy Lê chỉ rõ.
Giáo sư Phan Huy Lê cho biết thêm: "Sắp tới Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam sẽ tổ chức hội thảo, lấy ý kiến các chuyên gia nghiên cứu lịch sử, các nhà quản lý giáo dục về Dự thảo thảo này. Các ý kiến sẽ được tập hợp và gửi Bộ GD&ĐT xem xét…”.
Coi nhẹ lịch sử là có tội với đất nước, tổ tiên
Đây là quan điểm của Giáo sư Nguyễn Ngọc Cơ, nguyên Phó chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Cơ nhấn mạnh: “Nếu đã quan niệm “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, thì đầu tiên phải học lịch sử. 
Thời cổ xưa khi chúng ta chưa biết nhiều về các môn khoa học tự nhiên, thì môn Sử trở thành môn bắt buộc, chính yếu trong nhà trường.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, môn học này luôn có tầm quan trọng và giữ nguyên giá trị trong việc giáo dục truyền thống yêu nước, tạo dựng nhân cách cho con người nói chung...”.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Cơ (ảnh: Xaluan.com)
Cũng theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Cơ, Lịch sử là môn một văn hóa trong nhà trường thì nó (lịch sử - PV) phải được đối xử ngang bằng nhau như các môn văn hóa khác. 
“Tôi chưa thấy ở quốc gia nào có quan niệm, thích học lịch sử thì học, không học thì thôi. Trên thế giới, có quốc gia đã chọn môn sử là môn bắt buộc trong thi công chức…
Người ta quan tâm lịch sử dân tộc như vậy, còn chúng ta thì sao?
Do đó, việc học Lịch sử hay không học, quan trọng hay không quan trọng là do người cầm cán.
Tôi nghĩ chính người lớn chúng ta đang làm hư con trẻ.

Nếu "khai tử" môn Sử, sẽ là một thảm họa lớn

(GDVN) - Những giáo viên dạy Sử và dư luận xã hội quan tâm và phiền lòng là trong Dự thảo này không đưa môn học Lịch sử vào chương trình giáo dục cơ bản.
Thử đặt câu hỏi, sẽ thế nào nếu con, cháu chúng ta không biết về lịch sử dân tộc, không biết gốc gác của mình là ai?”, Giáo sư Nguyễn Ngọc Cơ đặt câu hỏi.
Cũng theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Cơ, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, môn Lịch sử cũng phải được quan tâm đúng mức.
“Nhiều môn thi có điểm 0 thì chẳng ai nói gì, trong khi học sinh đạt điểm thấp môn Lịch sử thì cả xã hội “lên án”.
Điều này cũng cho thấy, môn sử rất quan trọng trong giáo dục và được cả xã hội quan tâm.
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cần phải học lịch sử. Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay tình hình thế giới có nhiều biến động, tác động trực tiếp đến nước ta, trong đó có vấn đề chủ quyền biển đảo".
Từ những phân tích trên, Giáo sư Nguyễn Ngọc Cơ cho rằng, vấn đề cốt yếu trong giáo dục, đặc biệt là giáo dục lịch sử nhằm trang bị kiến thức bản lề trong cuộc sóng, chứ không phải bỏ đi môn học này.
“Có lịch sử mới có tương lai. Học lịch sử để dạy các em biết, tổ tiên ông cha ta đã lập quốc, xây dựng, bảo vệ tổ quốc như thế nào, đặc biệt là trong thời đại ngày nay. Còn chúng ta, nếu không quan tâm đến lịch sử là có tội với tổ tiên…”
QUỐC TOẢN
Từ khóa :

Saturday, 3 October 2015

Nếu "khai tử" môn Sử, sẽ là một thảm họa lớn (Trần Trung Hiếu - Giáo Dục)

Nếu "khai tử" môn Sử, sẽ là một thảm họa lớn

(GDVN) - Những giáo viên dạy Sử và dư luận xã hội quan tâm và phiền lòng là trong Dự thảo này không đưa môn học Lịch sử vào chương trình giáo dục cơ bản.
LTS: Môn Sử gần như bị “khai tử” trong Dự thảo Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể.
Thời gian qua, Bộ GD&ĐT công khai Dự thảo Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể (trong chương trình giáo dục phổ thông mới) đến các trường phổ thông (chương trình tổng thể) trên toàn quốc để lấy ý kiến góp ý. 
Nói một cách thẳng thắn là Dự thảo này đã từng bước “khai tử” môn Lịch Sử  trong các môn học phổ thông và tương ứng với nó là “khai tử” luôn trong các kỳ thi quốc gia tốt nghiệp và tuyển sinh vào đại học, cao đẳng.
Chưa bao giờ, vị thế và vai trò của môn Sử bị đánh giá thấp như thế so với các môn học phổ thông trong một Dự thảo của Bộ GD&ĐT.
Bài viết thẳng thắn trên tinh thần góp ý và nhìn thẳng sự thật của thầy Trần Trung Hiếu - giáo viên Sử, Trường THPT chuyên Phan Bội Châu - Nghệ An sẽ như một lời cảnh báo với người soạn thảo chương trình.
Thầy Hiếu viết:
Ở nội dung “Môn học cốt lõi thuộc lĩnh vực giáo dục Khoa học xã hội”, Dự thảo quy định “Giáo dục khoa học xã hội được thực hiện ở nhiều môn học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo, trong đó các môn học cốt lõi tiếp nối với nhau là: Cuộc sống quanh ta ( các lớp 1,2 3 ), Tìm hiểu xã hội (các lớp 4, 5); Khoa học xã hội ( trung học cơ sở và trung học phổ thông); Lịch sử và Địa lý ( cấp trung học phổ thông).
Ngoài ra, Dự thảo còn quy định: “nếu chọn môn Khoa học xã hội thì không chọn các môn Lịch Sử và Địa Lý”.
Điều đó rõ ràng cho thấy, môn học Lịch Sử và Địa Lý chỉ tách thành môn học độc lập ở cấp trung học phổ thông, còn cấp tiểu học và trung học cơ sở thì môn học này được lồng ghép vào môn học “Cuộc sống quanh ta” (các lớp 1, 2, 3), “Tìm hiểu xã hội” (các lớp 4, 5) và “Khoa học xã hội” (cấp trung học cơ sở).
Chúng tôi cho rằng, việc quy định môn học Lịch Sử là môn học bắt buộc trong chương trình giáo dục cơ bản (cấp tiểu học và trung học cơ sở) là một sai lầm lớn bởi ai cũng biết vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của môn học này trong việc giáo dục, hình thành nhân cách, lòng yêu nước và sự hiểu biết, nhận thức về truyền thống dân tộc.
Liệu chúng ta, cụ thể là Bộ GD&ĐT đã quá dân chủ trong vấn đề dạy học khi chiều theo ý kiến của dư luận và sở thích của học sinh?
Lẽ ra, Bộ GD&ĐT phải thấy được và xác định được vai trò, vị trí và ý nghĩa của môn Sử đối việc trồng người, đối việc giáo dục truyền thống, nhân cách cho học sinh. Khi đã xác định được như vậy thì sẽ bắt buộc học sinh phải học và thi chứ không phải để cho học sinh học theo kiểu “ứng thi”, thích gì học nấy, không thi thì không học như hiện nay!
Nếu đã chiều theo ý muốn của học sinh tự chọn thì cho chọn tất cả. Ai thích môn gì phù hợp với ý thích (cảm tính) thì học, không thích thì không học. Kiểu học, liểu thi như thế này thì quả là một tai họa!
Chúng tôi thiết nghĩ, mọi công dân đều phải sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật, và đối với học sinh cũng phải chấp hành nhưng quy định của nghành giáo dục về học tập và thi cử.
Còn việc dạy và học như thế nào cho học sinh không chán Sử và yêu Sử hơn lại là một việc khác mà các nhà quản lý giáo dục, các chuyên gia biên soạn sách giáo khoa, các giáo viên cốt cán môn Sử ở bậc phổ thông và các Nhà Sử học cần ngồi lại với nhau để bàn vào dịp khác.
Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của Bộ GD&ĐT đã gạt Lịch Sử ra khỏi chương trình giáo dục cơ bản (cấp tiểu học và trung học) và biến môn học cơ bản này thành “môn tự chọn”, theo chúng tôi đó là một dự thảo “phản quốc”, “phản giáo dục”! Tại sao, cơ sở nào mà Dự thảo này lại viết “Nếu chọn môn Khoa học xã hội thì không chọn các môn Lịch sử, Địa lý…” ?
Điều chúng tôi – những giáo viên phổ thông muốn biết rõ là: Ban Biên soạn Dự thảo này là những ai, Trưởng ban biên soạn này là ai? Những cơ sở biên soạn Dự thảo này liệu có thật thuyết phục không?
Chẳng lẽ họ không biết rằng giáo dục lịch sử là giáo dục về văn hóa, truyền thống, lòng yêu nước và niềm tự tin, tự hào dân tộc sao?
Dạy lịch sử còn là dạy làm Người, dạy cho thế hệ trẻ giữ gìn phẩm giá, nhân cách con người, đồng thời góp phần quan trọng vào việc nâng cao cái “phông” văn hóa cho học sinh. Học lịch sử còn để biết giá trị của ngày hôm nay và từ đó biết ý nghĩa của thành ngữ “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”.
Không biết Toán, có thể gặp khó khăn khi … cộng trừ tiền lương, quy chiếu tiền đô la ra tiền Việt. Còn không biết lịch sử thì điều gì sẽ xảy ra khi con cái không biết cha mẹ, ông bà tổ tiên, dòng họ mình là ai?
Ảnh minh họa. Tuổi trẻ
Mình sinh ra và lớn lên ở đâu, không biết cội nguồn dân tộc, Tổ quốc này là ai? Không học Sử thì thế hệ trẻ làm sao biết được chỉ ở Việt Nam mới có ngày Giỗ tổ Hùng Vương 10/3 âm lịch và không thể hiểu được tại sao đến ngày đó, học sinh, sinh viên và tất cả cán bộ, công chức được nghỉ ?
Và tại sao UNESCO lại công nhận Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc ta là một Di sản văn hóa phi vật thể? Học sinh không học Sử và thi Sử, làm sao các em hiểu được giá trị lịch sử của sự kiện lịch sử 2/9; 30/4 và đó là những ngày lễ lớn mà tất cả người dân được nghỉ?
Phải chăng, họ đang muốn từng bước “khai tử” một môn học mà từ xưa được coi là quan trọng và là môn cốt lõi bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc của một “đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên”, nâng cao tinh thần yêu nước và là môn học hiệu quả nhất trong các môn học phổ thông  về việc góp phần hình thành nhân cách của mỗi con người sao?
Điều gì sẽ xảy ra, nếu như các thế hệ trẻ người Việt trong tương lai gần không biết gì về lịch sử nước nhà, hoặc nếu biết thì cũng dừng lại những hiểu biết ngây ngô, lơ mơ, đại khái, thậm chí với những nhận thức méo mó, lệch lạc?
Trong khi đó, họ sẽ suốt ngày đam mê, nhặt nhạnh các thông tin về lịch sử đã bị xuyên tạc, bóp méo và bôi đen đang tràn lan từng phút, từng giây trên các trang mạng, sách báo phản động . Lúc đó, hệ lụy đáng đau buồn nữa không phải là kiến thức lịch sử mà là nhận thức lịch sử, không còn là ý thức mà là thái độ, nhân cách.
Nhà văn Xô Viết Rasul Gamzatop đã nói:”Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn anh bằng đại bác”. Nếu như không dạy lịch sử một cách tử tế thì chưa biết chừng, chắc chắn sẽ đến một lúc nào đó, chính thế hệ được dạy bằng Dự thảo chương trình này sẽ quay lưng lại với cha ông. Nếu chúng ta không thấu hiểu và trân trọng quá khứ, tương lai sẽ đối xử với chính chúng ta còn tệ bạc hơn!
Vì sao chúng tôi phải Đề nghị đưa môn Sử trở thành môn thi bắt buộc trong kỳ thi THPT và tuyển sinh đại học. 
Thứ nhất, xét về góc độ phương pháp luận.
Lịch sử là quá trình phát triển khách quan của xã hội loài người nói chung cũng như của mỗi quốc gia, dân tộc. Lịch sử như một dòng chảy không ngừng từ khi con người xuất hiện, phát triển liên tục đến ngày nay và cả mai sau.
Sử học (nói rộng ra là Khoa học Lịch Sử) là một trong những ngành trí thức sớm nhất của con người và  luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, trong kho tàng tri thức nhân loại cũng như trong mọi hoạt động của con người, trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới .
Thầy Trần Trung Hiếu với GS.VS.NGND Phan Huy Lê - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tại Hội thảo Khoa học Quốc gia về Dạy học môn Sử trong trường phổ thông Việt Nam, Đà Nẵng 8/2012. Ảnh TH
Sử học đáp ứng một nhu cầu tự nhiên và ngày càng nâng cao của con người vì ai cũng cần biết mình sinh ra từ đâu và quá khứ như thế nào. Chúng ta không thể hình dung được sự tồn tại và phát triển của loài người nếu như chúng ta bị tách rời khỏi quá khứ hoặc với cả một quá khứ mù mịt.
Lịch sử và cuộc sống là một quá trình phát triển biện chứng mà hôm nay phải là sự kế thừa và phát triển của hôm qua và chuẩn bị cho hôm sau. Về phương diện này, lịch sử là cả một kho tàng kinh nghiệm vô cùng phong phú mà con người cần nhận thức để rút ra những bài học.
“Ôn cố tri tân” là một nhu cầu của con người đã trưởng thành và có ý thức được cuộc sống và vận mệnh của mình, luôn muốn vươn lên để nhận thức và cải tạo thế giới.
Từ nhận thức dựng lại quá khứ tiến lên nhận thức bản chất của lịch sử, khám phá ra những đặc điểm và quy luật phát triển của lịch sử, cung cấp những cơ sở khoa học để hoạch định con đường phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc cũng như của mỗi cộng đồng cư dân trên mọi lĩnh vực.
Thứ hai, về vai trò của môn Lịch Sử, đã có nhiều lãnh đạo Việt Nam phát biểu thừa nhận và khẳng định. 
Các sách sử xưa dành cho các nho sinh dự các kỳ khoa cử thời phong kiến ở nước ta khá đồ sộ và đều hầu như thuộc các bộ sách thông sử kinh điển của Nho giáo.
Suốt 10 năm đền sách, vợ nuôi chồng, em nuôi anh, có khi học đến bạc đầu nhưng các nho sinh từ 5 tuổi đến 80 tuổi ai ai cũng gắng mà học, bởi thời phong kiến nếu không thuộc lòng kiến thức thông sử để thi thố thì đừng bao giờ mong đỗ đạt, làm quan, rạng mặt với tổ tông.
Trong các bài học ngày xưa thì bài học lớn về dạy người chính là các bài học về lịch sử. Sinh thời, cụ Nguyễn Sinh Sắc đã dạy Nguyễn Tất Thành nhiều kiến thức, nhưng nhiều nhất là những bài học lịch sử từ thuở ấu thơ đã giúp Người sớm hun đúc lòng yêu nước và ý chí giải phóng cho dân tộc khỏi ách áp bức thông qua những trang sử nước nhà.
Câu thơ lục bát của Hồ Chí Minh khi mở đầu cuốn “ Việt Nam Quốc sử diễn ca” từ thở hoài thai của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hẳn nhiều người thuộc lòng và hay trích dẫn khi nhấn mạnh đến vai trò và yêu cầu học lịch sử dân tộc : “ Dân ta phải biết Sử ta”. 
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhà Sử học Trần Huy Liệu đã được Hồ Chủ tịch bổ nhiệm là Bộ trưởng Bộ Thông tin và Tuyên truyền trong chính Phủ VNDCCH. Ông còn là Chủ tịch đầu tiên của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Trưởng ban Nghiên cứu Văn Sử Địa trực thuộc Trung ương Đảng.
Những chức vụ này của nhà sử học, Giáo sư, Viện sỹ Trần Huy Liệu nói lên tầm quan trọng của bộ môn Lịch sử đối với một đất nước mới thoát khỏi gông cùm nô lệ.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhận thức rõ tầm quan trọng của các môn khoa học xã hội và nhân văn nói chung, môn Lịch Sử nói riêng, năm 1996, Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của BCH TW Đảng (khóa VIII) đã đề ra nhiệm vụ “Coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân văn, nhất là Tiếng Việt, Lịch Sử dân tộc”. 
Mục tiêu của giáo dục phổ thông theo Luật Giáo dục (2005, sửa đổi 2009, 2010) là “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản”. Như vậy, mục tiêu của giáo dục phổ thông không phải là đào tạo ra những con người công cụ mà đào tạo ra những con người có bản lĩnh  và năng lực hành động tự do và sáng tạo.
Theo GS.VS.NGND Phan Huy Lê, trong lực của học sinh “quan trọng bậc nhất là nhân cách, là tư duy độc lập sáng tạo, là những tố chất tạo nên bản lĩnh con người, trong đó kiến thức cơ bản và giá trị lịch sử văn hóa là nền tảng”.
Theo GS. Phan Huy Lê, “riêng đối với Việt Nam, Lịch sử càng giữ vai trò cực kỳ quan trọng gắn liền với sự tồn vong của quốc gia- dân tộc”.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) đã chỉ rõ: “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại ; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”.
Năm 2011, trong Lễ kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (1966-2011), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã phát biểu và cũng lại lần nữa trân trọng nhắc lạ điều này : “ Sử học là nghành khoa học nền tảng hết sức quan trọng, không chỉ dừng lại quá khứ mà từ đó biết “ôn cố tri tân”, phục vụ trực tiếp sự nghiệp cách mạng hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Các giá trị lịch sử và văn hóa chung đúc qua các thời kỳ lịch sử, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước luôn luôn là nguồn động lực của sự phát triển bền vững.” chính là chỉ ra mối quan hệ biện chứng của lịch sử với hiện tại và tương lai.
Ngày 16/8/2012, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tuy sức khỏe đang rất yếu, đã gửi điện chúc mừng Hội KHLSVN tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia về Dạy học lịch sử trong trường phổ thông Việt Nam, ông mong mỏi và dặn dò: “Giáo dục khoa học lịch sử cho thế hệ trẻ Việt Nam là vấn đề vô cùng quan trọng đối với tương lai và trường tồn phát triển của dân tộc”.
Thứ ba, vấn đề môn Sử ở nhiều nước phát triển.
Cố Tổng thống nước Pháp là Francois Mitterrand đã ví von rằng, những kẻ không hiểu lịch sử dân tộc thì bơ vơ như những đứa trẻ mồ côi. Chính vì vậy mà Chính phủ thời ông làm Tổng thống đã có nhiều biện pháp nhằm chấn hưng Sử học, đẩy mạnh việc giáo dục và truyền bá lịch sử.  
Nhiều nước trên thế giới đã giành cho chương trình Lịch Sử một vị trí xứng đáng, là một trong 5 môn học bắt buộc ở phổ thông vì “Sử học là thầy dạy của cuộc sống”. Trong hệ thống giáo dục ở Mỹ và Canada, Lịch Sử là một trong những môn bắt buộc ở các cấp phổ thông và đại họccùng với các môn học khác như Toán, tiếng Anh, Vật lý…
Thứ tư, bất cứ một quốc gia, dân tộc nào trên thế giới từ xưa tới nay đều có lịch sử hình thành và phát triển. Lịch sử Việt Nam hàng ngàn năm qua cũng là lịch sử của dựng nước và giữ nước.
Do vị trí địa-chính trị và địa-quân sự, từ khi hình thành nhà nước đầu tiên cho đến nay, dân tộc ta luôn phải đương đầu với nhiều âm mưu và hành động xâm lược đến từ các đề chế lớn từ châu Á, châu Âu, châu Mỹ, trong đó gần như liên tục và thường xuyên là các đế chế Đại Hán phương Bắc.
Trong điều kiện tương quan lực lượng hết sức chênh lệch giữa ta và đối phương, con đường chiến thắng của dân tộc là phải phát huy tất cả sức mạnh của cả nước đánh giặc, toàn dân đánh giặc, trong đó chủ nghĩa yêu nước, sự đoàn kết dân tộc và trí thông minh là nhân tố quyết định.
Trong mọi sự thăng trầm, hưng thịnh của lịch sử đều luôn để lại cho hiện tại và tương lai những bài học lịch sử quý giá. Chả lẽ các cuộc kháng chiến trường chinh mà dân tộc ta giành được, kể kẻ cả thành công hay thất bại lại không để lại cho hậu thế những bài học lịch sử sao?
Bài học mất nước của An Dương Vương thời quốc gia Âu Lạc, Hồ Quý Ly đầu thế kỷ XV và triều Nguyễn nửa cuối thế kỷ XIX và những cuộc kháng chiến đánh đuổi ách ngoại xâm từ hàng ngàn năm qua luôn là một thực tiễn sinh động trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ nền độc lập dân tộc luôn tươi nguyên giá trị.
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước là thực tiễn sinh động trả lời cho câu hỏi “ Tại sao trải qua 1082 năm đô hộ của phong kiến Trung Quốc, họ không thể tài nào đồng hóa nổi một con người Việt Nam ? Tại sao đứng trước một sức mạnh bạo cường của các đế quốc thực dân, đế quốc, dân tộc ta vẫn trường tồn để phát triển?”.
Lịch sử không diễn ra theo một con đường giản đơn và thẳng tắp mà thường gập ghềnh, quanh co, phức tạp. Vấn đề là liệu chúng ta có đủ bản lĩnh và trí tuệ để học một cách thực sự và nghiêm túc tất cả các bài học lịch sử hay không thôi chứ bài học lịch sử nào cũng đều hết sức quý giá.
Ngay từ thời Roma cổ đại, các nhà chính trị thông thái đã thực tin “Lịch sử là thầy dạy cuộc sống”. Hiểu đúng bản chất và biết trân trọng, khai thác các bài học của quá khứ phục vụ cho cuộc sống hiện tại và tương lai bao giờ cũng là cách ứng xử văn hóa và khôn ngoan của con người. 
Thứ năm, ngày nay xu thế trong trật tự thế giới đang biến đổi hết sức phức tạp và khó lường. Vấn đề về mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tranh chấp đất đai và vấn đề chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ luôn là nguyên nhân gây nên sự bất ổn của nhiều khu vực thế giới.
Đối với Việt Nam, nhiệm vụ xây dựng đất nước luôn gắn chặt với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền biển đảo và toàn vẹn lãnh thổ. 
Trong thời gian vừa qua, chính quyền và quân đội Trung Quốc đã và đang có nhiều âm mưu và hành động ngang ngược xâm phạm một cách trắng trợn chủ quyền bất khả xâm phạm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục phổ thông mà không biết gì đến lịch sử dân tộc, không có một niềm tin dân tộc, không kế thừa các truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc thì làm sao có thể để yêu nước và bảo vệ đất nước? Thế hệ trẻ sẽ hiểu gì và có thái độ như thế nào trước thự tếc lịch sử đó?
Thứ sáu, lịch sử bị xuyên tạc như thế nào trong nhiều năm gần đây?
Nhờ sự bùng nổ của công nghệ thông tin của xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, các lực lượng, thế lực phản động chống chế độ, chống Đảng và Nhà nước đang điên cuồng chống phá bằng mọi hình thức và phương thức: tuyên truyền, gây chia rẽ, kích động đoàn kết dân tộc, xuyên tạc nhiều kiện lịch sử,nhân vật lịch sử thông qua các phương tiện truyền thông như truyền hình, truyền thanh, báo mạng….
Khi môn Sử không thi thì học sinh không muốn học nhưng những thông tin trái chiều kiểu như thế có rất nhiều trên các trang web , blog, facebook…thì thật sự rất nguy hại cho học sinh khi các em chưa đủ kiến thức và  nhận thức, bản lĩnh để nhận ra đúng-sai, xấu- tốt từ nhiều nguồn, nhiều kênh thông tin độc hại đó… 
Học sinh, sinh viên ngày nay đã và đang sử dụng các phương tiện kết nối thông hiện đại để có thể truy cấp internet bất cứ lúc nào .Từ chỗ hoang mang về tư tưởng, niềm tin dẫn đến thất vọng về những gì mà các em đón nhận từ các nguồn thông tin phản động.
Các em sẽ dễ rơi vào tình trạng mất hoàn toàn niềm tin vào chế độ và có thể dễ rơi vào cái bẫy của các thế lực thù địch. Chúng tôi thiết nghĩ, sự yếu kém về kiến thức lịch sử chưa đáng nguy hại bằng sự lệch lạc về nhận thức lịch sử.
Đất nước càng gần đến các ngày Lễ kỷ niệm lơn như 3/2, 30/4, 19/5, 19/8 và 2/9…, các thế lực thù địch thường nhân cơ hội đó để cố tình bóp méo và bôi đen lịch sử, phủ nhận những giá trị của lịch sử đã “mặc đinh”, đã “đóng đinh” trong suốt chiều dài lịch sử.
Bằng nhiều cách nhìn nhận trái ngược dưới ngọn cờ “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do”…, họ đã xuyên tạc nhiều sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử một cách hằn học, cay cú.
Đặc biệt, khi đất nước ta đang tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XII của Đảng, các thế lực thù địch đang lợi dụng các phương tiện truyền thông, báo chí ở nước ngoài, nhất là các trang mạng xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc làm giảm uy tín cá nhân của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội….thông qua những cái gọi là “tài liệu nhạy cảm”.
Chúng khai thác, cắt xén, nhào nặn những thông tin sai sự thật, không kiểm chứng, thật – giả lẫn lộn, dễ gây hoài nghi, tò mò trong dư luận.Thế hệ trẻ, nhất là học sinh, sinh viên sẽ đón nhận và xử lý các thông tin lệch lạc đó như thế nào?
Họ sẽ biết tin vào đâu để có thái độ hành xử đúng đắn trong học tập và cuộc sống khi môn Sử đang bị xem thường? Và chúng tôi- những giáo viên dạy Sử sẽ trả lời và định hướng như thế nào khi đến các tiết dạy Sử, học sinh đã và đang hỏi những câu hỏi và thông tin mà các em đã tiếp nhận như thế ?
Thứ bảy, chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa là trang Sử bi hùng được viết bằng máu xương của nhiều thế hệ người Việt Nam ta từ thời Vương quốc Chăm Pa cho đến các Chúa Nguyễn, Vương triều Nguyễn và tiếp diễn đến tận ngày nay.
Tư liệu về quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam ở 2 quần đảo này là hết sức phong phú, chuẩn xác cả trong nước và ngoài nước. 
Chúng ta hãy hình dung nhiều thế hệ trẻ người Việt không hề biết về lịch sử nước mình, với lập luận là lớn lên nó sẽ biết thì rõ ràng đó là một nhận thức hết sức sai lầm. Nếu ngay từ nhỏ, những đứa trẻ đã không được giáo dục lịch sử nước mình, dân tộc mình thì lớn lên đứa trẻ đó cũng chẳng muốn, chẳng thèm quan tâm đến lịch sử làm gì.
Và thử hình dung một dân tộc và người dân không hể hiểu được lịch sử và cội nguồn của mình thì dân tộc đó sẽ như thế nào? Liệu như thế có phải mất gốc không?
Chúng ta hãy nhìn sang Trung Quốc – một quốc gia “muôn đời vạn kiếp” láng giềng của chúng ta, họ đã giáo dục con trẻ về lịch sử của họ như thế nào? Đến bây giờ, nếu hỏi thế hệ trẻ của Trung Quốc về Hoàng Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) thì gần như tất cả họ đều trả lời rằng: đó là lãnh thổ của Trung Quốc, dù chúng ta luôn khẳng định rằng đó là lãnh thổ của chúng ta.
Trung Quốc đã giáo dục cho trẻ con của họ như vậy, họ đã đưa nội dung đó vào trường học, vào sách giáo khoa Lịch sử phổ thông. Còn người Việt ta không giáo dục con cháu thì rất có thể thời gian không xa nữa, Hoàng Sa và Trường Sa sẽ thuộc về Trung Quốc.
Chúng ta cũng nên thẳng thắn nhìn Trung Quốc dạy học lịch sử cho con trẻ như thế, họ đưa nội dung giáo dục lịch sử vào trường học và không chỉ dạy trong sách giáo kho môn Sử mà còn đa dạng các hình thức dạy học với các hình thức phim ảnh, báo chí, truyền thông, các trò chơi games trên internet…
Có thể vì như vậy mà đã xuất hiện nhiều câu chuyện buồn rằng nhiều người trẻ của chúng ta có khi còn hiểu biết lịch sử Trung Quốc hơn lịch sử nước mình bởi những đứa trẻ đó thường xuyên xem phim truyền hình của Trung Quốc.
Nếu chúng ta không muốn xem và nghe lại những câu chuyện đau lòng “cười ra nước mắt” kiểu như Quang Trung, Nguyễn Huệ là hai bố con, là an em, là bạn cùng chiến đấu, là hai người khác nhau; Nguyễn Tất Thành thì biết còn Nguyễn Ái Quốc thì không…thì có lẽ chúng ta cần phải nghiêm túc và thẳng thắn nhìn nhận về vấn đề giáo dục lịch sử nước mình, suy ngẫm lại lời dạy của Bác Hồ “ Dân ta phải biết sử ta…”.
Thử hỏi, nếu môn Sử không còn chỗ đứng trong hệ thống các môn học phổ thông nữa, học sinh không muốn học môn Sử nữa và thầy cũng không muốn dạy Sử nữa , Sử không phải là môn thi bắt buộc  nữa thì sao ? Ai sẽ là người chịu trách nhiệm trước cả tiền nhân và hậu thế về sự thật lịch sử này?
Thứ tám, được sự đồng ý và phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, Đề án KHXH cấp quốc gia “ Nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch Sử Việt Nam” đã bắt đầu được triển khai xuất phát từ nhu cầu tìm hiểu lịch sử dân tộc của nhân dân trong nước, kiều bào nước ngoài  và giới học giả cũng những người quan tâm đến Việt Nam trên thế giới.
Ngày 24/12/2013, Ban Bí thư TW Đảng đã kết luận xác định tên gọi bộ sách là “Lịch Sử Việt Nam”, “là bộ quốc sử mang tính quốc gia chính thống”.
Sau đó, Bộ KH&CN đã ban hành các Quyết định thành lập Ban Chủ nhiệm Đề án này do GS Phan Huy Lê làm Chủ nhiệm và các Phó Chủ nhiệm là GS.TSKH Vũ Minh Giang, GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, PGS.TS Trần Đức Cường.
Bộ “Lịch sử Việt Nam” có tính chất như bộ lịch sử mang tầm quốc gia là một công trình khoa học lớn với sự dày công của nhiều nhà khoa học lịch sử hàng đầu Việt Nam biên soạn (gồm 25 tập, với dung lượng trung bình 700 trang/ tập) cũng là đòi hỏi của chính khoa học lịch sử, là một dấu mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của sử học nước nhà.
Thứ chín, về mặt văn hóa, trong toàn bộ lịch sử lâu dài và oanh liệt của dân tộc Việt Nam, lịch sử chống ngoại xâm luôn là nội dung xuyên suốt, bao trùm.
Nhưng lịch sử chống ngoại xâm không phải là toàn bộ lịch sử dân tộc, mà trái lại sự phát triển kinh tế, những thành tựu về văn hóa xã hội lại chính là cơ sở tồn tại và phát triển đất nước, là sức mạnh vật chất và tinh thần để dân tộc ta vượt qua những thử thách hiểm nghèo, làm nên những chiến công thần kỳ trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Văn hóa Việt Nam là sản phẩm và kết tinh của quá trình lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước lâu dài của dân tộc Việt Nam, là kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất, lâu bền nhất của dân tộc và chính nó đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam.
Nó được tạo nên từ vốn văn hóa của các tộc người đã từng sống trên lãnh thổ Việt Nam và trong quá trình phát triển nó đã được tiếp nhận nhiều ảnh hưởng từ các nền văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, phương Tây…nhưng vẫn giữ được bản sắc tạo nên sức mạnh tiềm tàng của người Việt trong trường kỳ lịch sử.
Vì vậy, giáo dục qua di sản là trách nhiệm của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị. Phương pháp dạy học thông qua các di sản gắn liền với dạy học lịch sử địa phương là phương pháp trực quan, sinh động và thực sự có hiệu quả.
Chúng tôi khẳng định, nếu Bộ GD&ĐT vẫn kiến quyết bảo thủ, vẫn cho mình là đúng không chịu nghe nhiều ý kiến phản biện, góp ý xây dựng của tuyệt đại đa số các giáo viên sử ở các bậc học THPT trên toàn quốc, và những người đã và đang nặng lòng với lịch sử, vẫn quyết định lịch sử là môn tự chọn thì đó là một thảm họa lớn.
Ngoài ra nó còn là phản giáo dục, mà hệ lụy của nó không thể cân,  đo đong đếm được. Chúng ta đang thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" một cách sâu rộng và trên mọi ngành, mọi tuổi tác. Chúng tôi nghĩ, câu nói nổi tiếng của Bác "Dân ta phải biết sử ta" chính là điều mà Bộ GD&ĐT càng phải học. Học để thực hành chứ không chỉ là khẩu hiệu suông.
Lịch sử luôn vận động và biến thiên không ngừng, xu hướng phát triển của lịch sử thế giới cũng luôn biến chuyển khó lường. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, muốn tồn tại và đi lên cần phải đổi mới.
Ngành giáo dục đang trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện, nhưng đổi mới không có nghĩa là phủ nhận sạch trơn tất cả cái cũ để bê cái nào đó xa lạ. Chúng ta đừng bao giờ hô hào và tự hào Việt Nam là lịch sử của hàng ngàn năm Văn hiến khi chính chúng ta đã đã và xem thường môn sử.
Trần Trung Hiếu