Thursday, 25 February 2016

Nghĩa Các Từ Cổ Trong Các Kinh Sách Công Giáo Việt Nam (Nguyễn Kim Binh - Công Giáo Info)

Nghĩa Các Từ Cổ Trong Các Kinh Sách Công Giáo Việt Nam 2/17/2016 9:14:12 AM Xưa nay người Việt Nam ta vẫn thường đọc kinh trong gia đình, trong nhà thờ, với những kinh có truyền thống từ rất lâu. Có những từ mà nhiều khi chúng ta không hiểu được nghĩa và không hiểu nguồn gốc ra sao.
Với mong ước giúp các bạn có thể hiểu được những từ cổ trong kinh nguyện đó, Chúng tôi xin giới thiệu với các bạn mục: Nghĩa các từ cổ trong các kinh sách Công giáo Việt Nam



 nhathoda.jpg


Trong các giờ cầu kinh trong nhà thờ hay ở gia đình, nhiều lúc chúng ta bắt gặp khá nhiều những từ ngữ khó hiểu, lạ tai chỉ áng chừng nghĩa của nó theo một ngữ cảnh nhất định nào đó. Chẳng hạn:

- Chúng con hiệp nhau kính lạy thờ phượng Chúa khong khen cảm tạ Chúa về mọi ơn lành … (xem tr. 57, Kinh Nghĩa đức tin, Sách kinh Qui Nhơn).
- Chúng con quyết lòng từ này nhẫn sau (tr.369, sách kinh Qui Nhơn).
- Song le chúng con nhớ lại xưa nay chúng con cũng đã lỗi nghĩa cùng Chúa như vậy (tr. 355, sách kinh Qui Nhơn).
- Nhà chúng con phải ghe phen, phải rủi ro vì có kẻ phải đi xa vắng (tr. 374)
- Ta rao trước đàng tua bồi bổ (tr. 449).
- Vì Chúa khấng ở cùng chúng con trong một nhà (tr.372).
- Lòng tin dạ tưởng mựa chớ lo ra (tr.397).
- Chúng con chẳng biết lấy đí gì mà phạt tạ Chúa cho xứng (tr.364).
- Xin Chúa con vào ở phô kẻ ấy cho chúng con được giảm bớt cơn phiến (tr.374).

Những từ ngữ khó hiểu này không phải là những điển tích hay là những từ ngữ Hán Việt cổ vốn chiếm nhiều trong các thư tịch cổ trước đây. Các từ ngữ này vốn là những từ ngữ thuần Việt bình thường đã có thời gian được sử dụng phổ biến trong lời nói hàng ngày, nhưng đến nay chúng không còn được thông dụng nữa mà chỉ còn tồn tại trong các tác phẩm cổ hay trong tục ngữ ca dao Việt Nam.Đặt biệt, theo khảo sát của chúng tôi, các từ ngữ này còn tồn tại khá nhiều trong các bản kinh Công giáo. Sách kinh giáo phận Qui Nhơn là một điển hình.

Theo lời tựa, Sách kinh Qui Nhơn có từ thời Thánh Giám mục Stêphanô, gồm những kinh đọc hằng ngày và những kinh đọc các ngày lễ, biên sọan từ bản kinh Latinh. Sách Kinh Nhật Khóa, Sách Mục Lục, Sách Kinh Lớn và nay là Sách Kinh Giáo Phận Qui Nhơn. Các bài kinh được sắp xếp trong 3 phần chứa trong 532 trang, tái bản năm 1996 và được Đức giám mục Paulus Hùynh Đông Các imprimatur trước đó.

Để tìm hiểu các từ ngữ cổ Công giáo, chúng tôi bắt đầu đọc kĩ các bản kinh để nắm được những đặc điểm về mặt biên sọan cũng như cách sắp xếp các đơn vị “Tiếng” trên mối quan hệ gần gũi về mặt ý nghĩa, ngữ âm địa phương. Đồng thời, chúng tôi cũng so sánh , đối chiếu các từ ngữ Hán Nôm trong các Sách kinh Công giáo, các từ ngữ , ngữ âm có xuất hiện trong các văn bản cổ khác cũng như trong các từ điển cũ và nhất là nơi các giáo dân lão thành đã “sống” với các từ ngữ cổ Công giáo này trong các giờ đọc kinh trước đây và hàng ngày nữa.

Giải thích nghĩa của các từ cổ tiếng Việt trong “Sách kinh giáo phận Quy Nhơn”.

1. khong khen: khen ngợi. (xem từ điển Việt – Pháp của J.F.M. Génibrel; Chinh phụ ngâm)
2. nhẫn: đến, cho đến, tới, tới lúc  (xem từ điển Từ Việt cổ của nguyễn Ngọc San, thơ Nôm Quốc âm thi tập).
3. song le : nhưng, nhưng mà  (xem các Thánh truyện chữ Nôm, từ điển Từ cổ của Vương Lộc)
4. ghe (phen) : nhiều, nhiều phen, nhiều lần (xem Đại Nam quốc âm tự vị của Paulus Của).
5. tua: nên, phải (âm cổ do chữ Hán “tu”) (xem thơ Nôm Quốc âm thi tập; từ điển Từ cổ của Vương Lộc)
6. mựa: chớ, sá…(xem Quốc âm thi tập; từ điển Từ Việt cổ của nguyễn Ngọc San)
7. đí (gì): cái gì, thứ gì, giống gì (xem Truyện các Thánh- chữ Nôm; từ điển Từ Việt cổ Nguyễn Ngọc San).
8. phô: các (dùng trước một số danh từ, đại từ với ý nghĩa số nhiều ( xem từ điển Paulus Của, từ điển Từ cổ -Vương Lộc).
9. rày : nay, giờ đây, lúc này, bây giờ. Ví dụ:-thì rày chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống..( trích từ tr.7, sách kinh giáo phận Qui Nhơn).
10.Trần cấu: trần gian, thế gian. Ví dụ: -Vui non nước khỏi vòng trần cấu (trích từ tr. 449, sách kinh địa phận Qui nhơn )
11. khấng ( khứng): ưng, thuận,chịu. Âm này được xuất phát từ âm Hán Việt “ khẳng”. Ví dụ: Vì Chúa khấng ở cùng chúng con trong một nhà( trích từ .tr.372, sách kinh Qui Nhơn).

Trong khi khảo sát các bản kinh cũng như các tài liệu khác của Công giáo, chúng tôi bắt gặp khá nhiều từ ngữ tiếng Việt khó hiểu, cổ kính …mà các thế hệ đi trước đã để lại. Không những là những từ ngữ cổ mà cả những từ ngữ, thành ngữ Hán Việt rất xa lạ với hiện nay mà cả những từ ngữ lịch sử, thuật ngữ, tên gọi chỉ có riêng cho Công giáo. Thiết nghĩ: nhu cầu giải thích để hiểu chúng là việc nên làm. Nếu các bạn còn nhã hứng, chúng tôi xin tiếp tục.

Theo quan niệm các nhà ngôn ngữ, từ cổ là những từ bị đẩy ra ngoài hệ thống từ vựng hiện tại, bởi trong quá trình phát triển, biến đổi, đã xảy ra những xung đột về đồng nghĩa hoặc đồng âm và bị từ khác thay thế.

Có hai dạng từ cổ:

1. Những từ đã mất hẳn trong từ vựng hiện đại. Muốn tìm và hiểu những từ này phải lùi lại những tài liệu ghi chép ở quá khứ.
2. Những từ đã bị đẩy khỏi vị trí vốn có của chúng nhưng vẫn còn để lại dấu vết của mình: trở thành thành tố cấu tạo trong một vài từ nào đó; hoặc cũng có khi đứng trong một thành ngữ, tục ngữ nào đó mà người ta hiện nay không biết ý nghĩa. Ví dụ: Âu (lo âu); rập (giúp rập); giã (giã từ); đóan (xét đóan, phán xét).

Lại có một số từ tuy không trở thành thành tố cấu tạo từ như trên mà vẫn đứng trong một số lối nói hạn chế nào đó; nhưng người ta ít hiểu hoặc không hiểu chúng nữa. Ví dụ:
khôn (khôn lường; khôn xiết); dấu (yêu dấu); cả (sông cả; con cả; cả và mình); dái = sợ, kính, nể).

Giải thích nghĩa các từ cổ trong kinh sách.

1. Trẩy : đi xa, tới nơi khác
- Liền trẩy qua thành Bêlem vào hang đá (trích tr.204, sách kinh Qui Nhơn).
- Ông thánh Joseph khi ấy cũng trẩy bởi thành Nazareth… (Phép giảng 8 ngày)

2. Thửa: (từ được dùng để chỉ cái gì thuộc về của ai, hay để thay thế cho người, vật nói ở trên). Hán Tự viết “sở”, âm Nôm đọc “thửa”.
- Xin thương xót thửa lòng chúng tử (Trích tr.207, sách kinh Qui Nhơn)
- Biết thửa lòng: biết được lòng người nào.
- An thửa phận: an bổ phận mình. (Xem thêm Đại Nam quốc Âm tự vị, Paulus Của).

3. Khá : đáng , nên, xứng (Hán tự viết chữ “ khả”, âm Nôm đọc “khá”)
- Ấy phận hèn chớ khá kiêu căng (trích tr. 207, sách kinh Qui Nhơn). Khi đứng trước động từ có nghĩa là “hãy”
- Khá lắng tai mà nghe cho biết (trích tr. 215, sách kinh Qui Nhơn)

4. Thìn: giữ, giữ gìn. Hán tự viết “thần”, âm Nôm đọc “thìn
- Thuở hoan hỉ chẳng thìn nết vặt, ngày mạng chung nào lập khóc than? (trích tr. 208, sách kinh Qui Nhơn)
- Nguyệt Nga liếc thấy cũng thìn nết na (xem Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu)

5. Tiêu sái: phóng khoáng, tự do, không bị ràng buộc
- Lại con sẽ làm cho linh hồn con cùng linh hồn kẻ thân nghĩa con được nhờ phần phước đời này và đời sau được vui vẻ tiêu sái vô cùng. Amen (trích tr. 351, sách kinh Qui Nhơn).
- Ít nhiều tiêu sái lòng ngoài thế (xem Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi)

6. Phỉ: no, đầy đầy đủ , thỏa mãn
- Song lòng quân dữ hãy còn chưa phỉ, lại tìm cách lạ mà làm khổ sở cho Đức Chúa Giêsu. (trích tr. 247, sách kinh Qui Nhơn)
- Chơi cho phỉ chí tang bồng (Nguyễn Công Trứ)

7. Đã: xong, khỏi bệnh
- Đoạn liền chữa tai người ấy được lành đã. (trích tr. 240, sách kinh Qui Nhơn)
- Kẻ đau nặng thì cho đã (xem Phép giảng 8 ngày)

8. Hản : chắc chắn, thật, rõ, không nghi ngờ gì
- Linh hồn con mơ ước cho hản lời Chúa hứa, mà con trộng cậy Chúa.
- Ớ trái tim Chúa nhân từ lân mẫn, hản thật con đã đáng Chúa lấy oai gia thạnh nộ mà đóan phạt. (trích tr. 364, sách kinh Qui Nhơn)

9. Trót : suốt, trọn, cùng tận.
- Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu là tòa trót tính Đức Chúa Trời ngự. (trích tr. 32, sách kinh Qui Nhơn)
- Chúng tôi trót đêm chịu khó bỏ lưới mà chẳng được đí gì. (xem Phép giảng 8 ngày)

10.Khắn khắn: canh cánh , nghĩ tới luôn, một mực không thay đổi.
-Xin giúp chúng con ghi tạc vào lòng con khắn khắn.(trích tr. 117, sách kinh Qui Nhơn).
- Khăn khắn dặn dò thửa lòng (xem Quốc Âm Thi Tập, b 187)

1. Đòi: (Hán tự viết chữ “ đồi”, âm Nôm đọc “ đòi”) với nghĩa:
* theo, bắt chước, làm theo, noi theo
Ví dụ: “Ai chẳng theo Mẹ học đòi bắt chước” (trích sách kinh Qui Nhơn, tr.77)
“Thảy được theo đòi gương phước đức Người” (Trích sách kinh Qui Nhơn , tr.11)
“Văn chương chép lấy đòi câu thánh ( xem Từ điển từ Việt cổ, tr.115)
Nghĩa khác:
*Từng, mỗi, nhiều, lắm, khắp, mọi duy chỉ có…
Ví dụ: “Da thịt mình Chúa nứt nở đòi nơi” (xem sách kinh Qui Nhơn, tr.74)
“Bây giờ chẳng khác cắt ruột đòi cơn” (sách kinh Qui Nhơn tr. 225)
“Là nơi con sẽ được đầy dẫy no nê chẳng đòi khát nữa”( sách kinh Qui Nhơn, tr. 330).

Các nghĩa khác:
+ Đòi tói: giống như “lòi tói”, dây trói
+ Đòi một: chỉ có một, độc nhất
Ví dụ:
“Tài so đòi một, hoạ là chẳng hai” (Từ điển tiếng Việt cổ, tr. 61)

2. chưng: (âm cổ của Hán tự “chi”): Nó biểu thị chỉ nguyên nhân : bởi, tại, do, vì…
Ví dụ: “Vì chưng ta yêu dấu ngươi lắm” (xem sách kinh Qui Nhơn, tr. 278)
“Vì chưng thương nó phải mất linh hồn.” (sách kinh Qui Nhơn, tr. 272)
Nó biểu thị nơi chốn tồn tại của sự vật, sự việc được nói đến: ở, tại…
Ví dụ: “củi quế, gạo châu, kham khổ nằm chưng trường ốc” (xem thêm Quốc âm thi tập, b.138)
Nó biểu thị thời gian diễn ra sự việc: đang, khi..
Ví dụ: “Chưng ấm người dạ tuyết lòng sương” (xem Phép giảng 8 ngày, tr.10)

3. Kíp : (Hán tự viết “cấp”, Nôm đọc “gấp”, “kịp”)
cần thiết, thiết yếu, chính đáng…
Ví dụ: “Thì chúng con dám xin Chúa hãy khấng ban những ơn cần kíp, cho chúng con được rỗi linh hồn” (sách kinh Qui Nhơn, tr.57)
“Con kíp lên trời, khắp chín phẩm Thiên Thần chầu chực” (sách kinh Qui Nhơn, tr.387)
“giã chàng nàng mới kíp dời song sa” (xem thêm Truyện Kiều)

4. Rạc : (Hán tự viết “lạc”, âm Nôm “rạc”) với nghĩa nhà tù, nhà giam (xem Vương lộc, từ điển từ Việt cổ, tr.139)
Ví dụ: “Hằng ngóng trông ngày nào linh hồn chúng con ra khỏi chốn rạc ràng.” (sách kinh Qui Nhơn, tr.285)
- tù rạc: nhà giam, nhà tù (sách kinh Qui Nhơn, tr.258)
- ràng rạc : (giống như rạc ràng) nơi bị giam giữ (sách kinh Qui Nhơn, tr.258)

5. chớn chở : chót vót, dốc, cao
Ví dụ:
chớn chở nguy nga, quới thanh trăm thức” (xem sách kinh Qui Nhơn, tr.199)
+ chớn : cao, có tầng, có ngăn
+ chớn chở: có tầng, có ngăn
+chớn thủy : chỗ lõm ở giữa ngực (xem Nguyễn Ngọc San, từ điển, từ Việt cổ, tr.69)

.6. lòi tói : dây trói
Ví dụ:
“Chúng liền đem lòi tói cùng dây da buộc cổ và trói tay Đức Chúa Giêsu” (sách kinh Qui Nhơn, tr.240)
“Thương ĐCG chịu mang lòi tói vì tội chúng con” (xem sách kinh Qui Nhơn, tr.241)
- Lòi tói : giống như đòi tói (xem Vương Lộc, từ điển từ Việt cổ, tr.61).

7. Đoạn: xong, kết thúc, hết, hòan tất…
Từ “đoạn” biểu thị một sự việc, một hành động diễn ra tiếp sau một sự việc, một hành động trước đó.
Ví dụ:
“Ở thế gian 33 năm, đoạn chịu chết trên cây Thánh giá mà chuộc tội cho thiên hạ (sách kinh Qui Nhơn, tr.58)
“Thì Đức Chúa Giêsu phán rằng : đã đoạn” (sách kinh Qui Nhơn, tr.256)

8. Sinh thì: chết, qua đời (từ này chỉ thường thấy trong các văn bản Công giáo)
Ví dụ:
“Song xác ĐCG chẳng biết đau vì đã sinh thì” (sách kinh Qui Nhơn, tr.259)
 “Năm ấy có lụt cả thì ông Mathusala mới sinh thì” (xem thêm Phép giảng tám ngày, tr.96).
Lưu ý: Từ điển Việt-Bồ- La, A. De Rhodes (Roma, 1651) cho biết: “sinh thì” : “giờ lên”. Một số tác phẩm chữ quốc ngữ thời kì đầu của Bento Thiện, Igesio Văn Tín và trong các tác phẩm chữ Nôm của Maiôrica đều sử dụng “ sinh thì” với nghĩa: chết

9. Đụt : trú, ở tạm, tránh
Ví dụ:
“Thân tất tưởi đụt nhờ xó tiện” (sách kinh Qui Nhơn, tr.179)
- đụt nắng, đụt mưa (xem thêm Nguyễn Ngọc San, từ điển từ Việt cổ, tr.123)

10. Bát ngát: âu sầu, lo âu, bâng khuâng, trạng thái lo buồn
Ví dụ:
“Bỏ Chúa bát ngát, vò võ một mình (sách kinh Qui Nhơn, tr.214)
“Lòng thu bát ngát trong khi ấy, hầu cắt làm khuây, lại chẳng khuây” (Hồng Đức quốc âm thi tập, b.21)

1.      Cả: tất cả, toàn bộ, tòan thể
Ví dụ: “Nay cả và nhà chúng con thảy đều sấp mình dưới chân Chúa” (sách kinh Qui Nhơn, tr. 188).
Ví dụ: “Song cả và loài người ta chịu khốn chịu khó chẳng ai khỏi được” (sách kinh Qui Nhơn, tr. 517)
- cả: lớn, to…
VÍ Dụ: “A thân lạy Thánh cả giuse hiển vang rất mực” (sách kinh Qui Nhơn, tr.189)
Ví dụ: “Ao sâu nước cả khôn chài cá” (Nguyễn Khuyến).
- cả: nhiều, lắm
Cả ăn, cả mặc, cả lo…
- Cả hoà: giống cả và
- cả dám: cả gan

2. Đoái (thương, nhìn,): Hán tự viết “đối”, Nôm đọc “đoái”
ngoảnh lại, quay mặt lại.
Ví dụ: “Hãy thương xót linh hồn kẻ có tội xin đoái thương dân nước Việt Nam” (sách kinh Qui Nhơn, tr.187)
- Đoái : nghĩ đến, tưởng đến
Ví dụ: “Xin Chúa khoan nhân đoái đến nhà này là của Chúa (Sách kinh Qui Nhơn, tr.189)

2.      Hầu: để mà, ngõ hầu
Ví dụ: “Xin Chúa hãy làm cho họ tìm đến Chúa hầu ngày sau được nghỉ ngơi trên nước Thiên đàng.” (sách kinh Qui Nhơn, tr.188).
- hầu : sắp, gần, cận kề, gần như
Ví dụ: “Người cũng đã hầu sinh thì”( Phép giảng 8 ngày, tr.231)
Ví dụ: “Khi tóc con mồ hôi dựng đứng trên đầu, là bảo tin lâm chung cùng tận hầu đến cho con” (sách kinh Qui Nhơn, tr.488)
- Hầu : có thể, mà có thể
Ví dụ: “Nếu Chúa xem xét tội khiên, thì ai hầu đứng được (sách kinh Qui Nhơn, tr.504)

3.      ngõ : (Hán tự viết “ngọ”, Nôm đọc “ngõ”)
để mà, để rồi
Ví dụ: “Hầu khi ở đời tạm này hằng tôn vinh kính mến Chúa, ngõ sau được ngợi khen Chúa đời ở trên trời”. (sách kinh Qui Nhơn, tr.189)
Ví dụ: “Ngõ sau ngàn dặm đăng trình mới an” (xem thêm Lục Vân Tiên, c.45)

4.      Một: duy nhất, chỉ có.
Ví dụ: “Kính lạy ơn thánh Bổn Mạng, là đấng hưởng phước thanh nhàn đời, chẳng còn lo sợ điều gì nữa, một âu lo trông ước cho con được hưởng phước như vậy. (190)
- Một thác: chỉ có chết
Ví dụ: “Tướng hằng sống liều mình một thác” (sách kinh Qui Nhơn, tr.289)

5.      Cầm: xem như, coi như, giữ…
Ví dụ: “Xin Thanh bổn Mạng phù hộ và cầu nguyện cho con được vững cầm nhân đức tin cậy như neo thần con” (sách kinh Qui Nhơn, tr. 191)
Ví dụ: “Vì chẳng ai ở thế gian được cầm mình vẹn sạch trước mặt Chúa. (sách kinh Qui Nhơn, tr.505)
Ví dụ: “Xin Thánh bổn Mạng phù hộ và cầu nguyện cho con được vững cầm nhân đức tin cậy như neo thần con” (sách kinh Qui Nhơn tr. 191)
- Cầm: hòng, mong
Ví dụ: “Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây” (xem thêm truyện Kiều, câu 3022).

6.      Những : chỉ, toàn là, chỉ là, nếu như là…
Ví dụ: “Những quý tiện đòi nơi dinh dã (sách kinh Qui Nhơn tr.449)
Ví dụ: “Những ngồi chờ bệnh đến mà ban (sách kinh Qui Nhơn, tr.344)
Ví dụ: “Con là đứa rất hèn, cúi lưng chịu nặng nề quá sức, trót ngày những lo buồn sầu não” (sách kinh Qui Nhơn, tr.496)
Ví dụ: “Những như âu yếm vành ngoài, còn toan mở mặt với người cho qua” (xem thêm truyện Kiều, c.3151)

7.      Thon von : cô đơn, gian nan, vất vả.
Ví dụ: “Khi lòng yếu đuối con thon von rũ liệt” (sách kinh Qui Nhơn, tr.489)
Thon von: cheo leo, nguy hiểm, suy vi…
Ví dụ: “phù trì mựa khá để thon von” (Xem thêm Quốc âm thi tập b. 870)
Ví dụ: “ bơ vơ đất khách thon von tháng ngày” (xem thêm Lục Vân Tiên, c.830)

8.      Chỉn : vốn, chỉ, vốn thật
Ví dụ: “Chỉn tài thêm nhiều phước lạ” (sách kinh Qui Nhơn, tr.384.)
Ví dụ:“tính kể chỉn còn 3 tháng nữa” (Xem thêm Quốc âm thi tập, b. 230).

9.      Đắng đót: đắng, buồn rầu, đau đớn…
Ví dụ: “Hưởng mỹ vị không chi đắng đót” (sách kinh Qui Nhơn, tr.345)
Ví dụ: “mảnh riêng đắng đót bấy lâu” (Xem thêm từ điển Vương lộc tr.56)

1.Tấc : (193)
- Đơn vị cũ đo độ dài, bằng một phần mười của một thước.
Ví dụ: “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” (xem Truyện Kiều, câu 2168)
- Dùng trong một số tổ hợp từ
+ tấc dạ: tấc lòng, tấm lòng
Ví dụ: “Khi thấy Chúa làm người bé tí! Há nỡ dửng dưng tấc dạ” (xem sách kinh Qui Nhơn, tr.193)
Ví dụ: “Môn đệ Chúa hiệp vầy đủ mặt, tới đưa Bà, tấc dạ bàng hoàng” (xem sách kinh Qui Nhơn, tr.392)
+ tấc niềm : tấm lòng
+ tấc bóng : ngày giờ
+ tấc vuông : tấc lòng
(xem thêm Vương lộc, từ điển từ cổ, tr.151)

2.Tây : (âm cổ Hán tự “”)
Riêng, riêng tư
Ví dụ: “Các con chớ khá phiền muộn lo tây”(sách kinh Qui Nhơn, tr.273)
Ví dụ: Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là (Truyện Kiều, câu 316)
- thiên vị, ích kỉ
Ví dụ: “Khéo nỡ lòng tây mau quên lắm bấy” (sách kinh Qui Nhơn, tr.213)

3. Bấy :
- Như vậy, như thế
Ví dụ: “Ấy vườn nọ vườn này, sao khác nhau bấy?”(sách kinh Qui Nhơn, tr.229)
Ví dụ: “Cho trọn thửa lời, mau quên vội bấy?” (sách kinh Qui Nhơn, tr.229)
- dường ấy, ngần ấy, quá chừng…
Ví dụ: “Mừng bấy! Bà được về cùng Chúa. (sách kinh Qui Nhơn, tr.392)
Ví dụ: “Rung động bấy đất trời” (sách kinh Qui Nhơn, tr.261)
+ Bấy chầy: bấy lâu, bao lâu
Ví dụ: “Nào lời khi trước quả quyết bấy chầy: Dẫu ai bỏ Thầy, song mình chẳng bỏ;” (sách kinh Qui Nhơn, tr.229)
+ Bấy : mấy
Ví dụ: “ …bấy đứa ấy lại hỏi…”(Phép giảng tám ngày, tr.12)
Ví dụ: “ …bấy thằng ấy…” (Phép giảng tám ngày,tr.194)
 Bấy thuở : mấy thuở
Ví dụ: “An phận chốn đày bấy thuở” (sách kinh Quy Nhơn, tr.316)

4.Kình.
lớn, mạnh, cứng ( xem Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển)
Ví dụ: “Thiên Thần là đấng đầy lửa kình mến “(sách kinh Qui Nhơn, tr.214)
Kình (ngạc): cá voi

5. khôn:
- khó lòng, khó có thể
Ví dụ: “Từ trời xanh xuống viếng dân đen, khiến lòng đỏ khôn cầm lụy bạc” (xem sách kinh Qui Nhơn, tr.204)
Ví dụ: “ Ao sâu nước cả khôn chài cá” ( Nguyễn Khuyến)
+ Khôn kể : khó nói hết được
Ví dụ: “Chúa chịu đắng cay thảm sầu khôn kể”(sách kinh Qui Nhơn, tr. 212)
+ Khôn sánh: không thể so bì được
+ Khôn cùng : không thể hết được
+Khôn ví: khó sánh bằng

6. Thanh bai: thanh cảnh, nhẹ nhõm ,dịu dàng
Ví dụ: Tiếng ngọt thanh bai (Sách kinh Qui Nhơn, tr.310)
Ví dụ: “Thanh bai hơn mật ngọt muôn phần” (Sách kinh Qui Nhơn, tr.332)

7. Ca xang: múa hát
+ca: hát
+xang: múa, vung tay, giơ lên
Ví dụ:” Lọ là đứng gió xang tay” (xem Quốc âm thi tập, b.172)
+ xang : ( Hán tự ghi “ xướng” cũng có nghĩa “ hát”
Ví dụ: “Khúc ngợi ca xang,xướng ca mừng Mẹ” ( sách kinh Qui Nhơn tr.198)

8.Xuê xoang: xinh đẹp, sang trọng, khoe khoang, tốt tươi
Ví dụ: “Hằng trổ sinh trăng trái xuê xoang (sách kinh Qui Nhơn, tr.407)
Ví dụ: “Rày trổ sinh hoa nhị xuê xoang” (sách kinh Qui Nhơn, tr.321)
Ví dụ: “Liền được nên sạch sẽ xuê xoang” (sách kinh Qui Nhơn, tr.334)

10.  Mỏn: mòn mỏi, gần kiệt sức,mòn hơi,mất sức,
Ví dụ: “ĐCG sức thì đã mỏn, thở chẳng ra hơi” (sách kinh Qui Nhơn, tr.251)
Ví dụ: “Chìu lòn e cũng mỏn hơi già”(xem thêm Phan Văn Trị,Họa vần mười bài liên hòan, Từ điển tự cổ, tr.110)

11.  Mắng (tiếng) : “ mảng”: nghe
Ví dụ: “ Rất Thánh Đức bà mắng tiếng đem con đi giết”. (sách kinh Qui nhơn, tr.254).
Ví dụ: “ ... khi mắng tiếng phép cả ấy…” ( trích Phép giảng tám ngày, tr.125)
Các ngôn ngữ họ hàng ghi “mắng
- Tiếng Mường (măng); tiếng Mày (tamăng); tiếng Sách và Rục (cơmang); tiếng Xtiêng (măng). Từ điển Việt –Bồ -la (mắng )

1. Loàn: loạn, làm điều sai bậy, hỗn hào, sai trái, vô phép
Ví dụ: Muôn lạy Chúa miễn chấp con loàn (sách kinh Qui Nhơn, tr.308)
Ví dụ: Mười hai thánh Chúa tranh đua làm loàn (xem Việt sử diễn âm, câu 557)

2. Thác
- nhờ, gửi
Ví dụ: “Mẹ ở lại mọi lời kí thác” (sách kinh Qui Nhơn , tr.294)
- chết
Ví dụ: “Tướng hằng sống liều mình một thác”(sách kinh Qui Nhơn, tr.289)
Ví dụ: “Chúa chuộc tội cho nên phải thác” (sách kinh Qui Nhơn, tr.281)
Ví dụ: “ Vua rất lành lại lãnh lấy thác oan” (sách kinh Qui Nhơn, tr.321)

3. Rìu rín : (giống như bìu rín)
- Quyến luyến không dứt, chẳng rời
Ví dụ: “Những tưởng Mẹ còn rìu rín” (sách kinh Qui Nhơn, tr.395)
Ví dụ: “Ấy còn bìu rín lấy chi vay?” (xem thêm Quốc âm thi tập, b.75)

4.Đàn hòa
- Bàn tán, bàn bạc, phân xử
Ví dụ: “Muôn dân lớn mọn, ai chẳng đàn hòa” (sách kinh Qui Nhơn, tr.383)
Ví dụ: “Gối phục, dạ phục, tiếng đàn hòa” (sách kinh Qui Nhơn, tr.397)
Ví dụ: “ Lại thêm sự thế đàn hòa …” (xem thêm Tự điển từ cổ, tr.53)

5. Giã : từ giã
Ví dụ: “Mà Đức Chúa Giêsu thương xót thiên hạ mới phú mình cho chịu nạn, thì giã Đức Mẹ mà đi thành Giêrusalem..” (sách kinh Qui Nhơn, tr.236)
Ví dụ: “Giã mẹ ở lại, giã con Việt Nam! Giã con các nước. (sách kinh Qui Nhơn, tr.221).
Ví dụ: “Giã chàng, nàng mới kíp dời song sa” (xem thêm Truyện Kiều, câu 428)

6. Dõi : noi theo, tuân theo
Ví dụ: “Một xin cho thuận dõi thửa ý Cha” (sách kinh Qui Nhơn, tr.228)
Ví dụ: “…đừng bắt chước quân Giudêu chuộng Baraba hơn Đức Chúa Giêsu là ưng theo dõi tà ma, thịt mình, thế tục. (sách kinh Qui Nhơn, 245)

7. Xảy: bỗng, chợt
Ví dụ: “Xảy thấy trên đầu đỏ như lưỡi lửa” (sách kinh Qui Nhơn, tr.296)
Ví dụ: “Xảy nghe mở hội khoa thi” (xem thêm Lục Vân Tiên, c.15)
Ví dụ: “Xảy đâu Tử Trực vừa về” (xem thêm Lục Vân Tiên, c.1203)

8. Nồng nàn: ngang ngược, không tôn kính, bất nhã, cay nghiệt, xấc xược
VÍ Dụ: “Thấy những đảng nghịch thấy những đoàn gian. Thấy những nồng nàn, thấy nhiều cay đắng” (sách kinh Qui Nhơn,tr.214)
Ví dụ: “Biển này những lửa, biển kia nồng nàn”. (sách kinh Quy Nhơn, tr.219)
Ví dụ: “Ai ngờ sự lạ, tay người thế gian, lấy phép nồng nàn hại con Thiên Chúa” (sách kinh Qui Nhơn, tr.223)
Ví dụ: “gạn gùng đến mực nồng nàn mới thôi” (Xem Truyện Kiều, câu 1154)

9. Vặc vặc: sáng choang, sáng tỏ
Ví dụ: “Chúa tôi trước vô thủy hằng có. Sau vô chung vặc vặc đâu cùng ,..” (sách kinh Qui Nhơn, tr.204)
Ví dụ: “vầng trăng vặc vặc giữa trời” (xem Kiều, trích từ điển từ Việt cổ tr.347)

10. Biên : viết, ghi, chép
Ví dụ: “Trong ấy biên mọi việc chánh tà” (sách kinh Qui Nhơn, tr.262)
Lưu ý:
- “biên” là từ Hán Việt (biên tập, biên bản, biên dịch…)
- “biên” : mái tóc (xem thêm từ điển từ Việt cổ, tr.34)
Ví dụ: “hỡi kẻ biên xanh chớ phụ người” (Quốc âm thi tập, bài 203)
“sầu nặng Thiếu Lăng biên đã bạc” (Quốc âm thi tập, b.50)

1.      Sắm : tính liệu, sửa soạn, chuẩn bị
Ví dụ: “Đoạn tôi sắm thuốc thơm tho, đi đến viếng thăm mộ Chúa”. (sách kinh Qui Nhơn, tr.292)
Ví dụ: “Là phần cơ nghiệp Đức Chúa Giêsu Kitô đã lấy máu mình mà sắm,” (sách kinh Qui Nhơn, tr.112)
Ví dụ: “Nghe hơi sương sắm áo bông sẵn sàng”(Chinh phụ ngâm, c.180)
Ví dụ: “Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”( Kiều, c.46)

2.      Nhận : đè xuống, ấn xuống
Ví dụ: “Con xin nhận chìm linh hồn vào đó. (sách kinh Quy Nhơn, tr. 341)
Ví dụ: “Vì kẻ nghịch thù theo bắt linh hồn con, mà nhận con xuống đất”(sách kinh Qui Nhơn, tr.505)

3.      Rốt: chót, sau cùng, cuối cùng, thấp kém
Ví dụ: “xưng mình rốt Tông đồ ai nấy” (sách kinh Qui Nhơn, tr.454)
Ví dụ: “Xin lấy lòng thương xót mà dung thứ cho con là đứa rốt hèn” (sách kinh Qui Nhơn, tr.415)
Ví dụ: “ … sinh ra rốt hết lòai thứ ba…” (Phép giảng 8 ngày, tr.45)

4.Diềm dà : xanh tươi, rậm rạp(dùng cho cây cối)
Ví dụ: “Noi phép này,xinh tốt diềm dà”(sách kinh Qui Nhơn, tr.398)
Ví dụ: “Cây Thánh Giá rất mực diềm dà êm mát” (sách kinh Qui Nhơn, tr.108)
Ví dụ: “Rừng công cây đức diềm dà” (Xem thêm Đào Duy Từ, Tư Dung Vãn, c.189)

5.Trắn tríu : quấn quýt, nhận mình vào, gieo mình vào, yêu thương không lìa xa được..
Ví dụ: “Hầu mến yêu trắn tríu trái tim” (sách kinh Qui Nhơn, tr.342)
(xem thêm “trắn tríu”, Lê Ngọc Trụ, Chính tả Việt ngữ, tr.76 và tr.96)

6 Rập : cùng, đều, nhịp nhàng, theo khuôn…
Ví dụ: “Xin đem nó về đàng chính lộ, cho rập một dạ kính tin”(sách kinh Qui Nhơn, tr.347)
Ví dụ: “ Rập ca xang trổi tiếng dịu dàng” (sách kinh Quy nhơn,tr.395)
Ví dụ: “ Chớ chi cả và thiên hạ chóng rập một tiếng tán tạ tung hô rằng:..” (sách kinh Qui Nhơn, tr.24)
Ví dụ: “Thì thùng tiếng trống, rập rình nhạc quân” (Nguyễn Du - xem Thanh Nghị tự điển,tr.1093)
Rập : lưới bắt chim
Rập : giúp đỡ, phò tá
Ví dụ: “ Rập đời nên đấng anh hào” (xem thêm Truyền kỳ mạn lục, c.1965)

7. E : hơi sợ, ngại
Ví dụ: “Song nhát sợ e mất lòng dân” (sách kinh Qui Nhơn, tr.244)
Ví dụ: “Lại bởi sợ Người chết dọc đàng, e đi đi chẳng đến nơi chăng” (sách kinh Qui Nhơn, tr.250)
Ví dụ: “Phêrô e lo chối dài không chịu”(sách kinh Qui Nhơn, tr.272)
Ví dụ: “ Tình trong như đã, mặt ngòai còn e” (xem Kiều, c.164)
Ví dụ: “ Kẻ nhìn rõ mặt người e cúi đầu” (Xem Kiều, c.322)

+ e ấp
+ e lệ
+ e thẹn
+ e ngại

8.Lảu: giống như “ làu”, rất thuộc, rất thông thạo
Ví dụ: “Cung thương làu bậc ngũ cung”( Kiều, c.31)
Ví dụ: “Kinh lảu thuộc, các danh sư thông thái đâu tày” (sách kinh Quy Nhơn, tr.454)

9. Trau: sửa sang, tu dưỡng, làm cho tốt hơn
Ví dụ: “Xưa thìn mình chẳng nhuộm bơn nhơ, trau lòng gương vặc vặc” (sách kinh Quy Nhơn, tr.459)
Ví dụ: “Gái thời tiết hạnh là câu trau mình” (Lục Vân Tiên, c.6)
+Trau dồi
+Trau chuốt
10. Hòa:
- Vừa
Ví dụ: “Con hòa sanh, lưỡi mới thông ra” (sách kinh Qui Nhơn, tr.449)
Ví dụ: “Hòa bền, hòa sắc như lời kim cương” (Chỉ nam ngọc âm, tr.152)
- Và
Ví dụ: “Khóc hòa mừng, 2 ấy một tình” (sách kinh Qui Nhơn, tr.447)
Ví dụ:”Thấp hòa cao, chen vóc non xanh” (Chinh phụ ngâm, c.86)
- cả và, tất cả
Ví dụ: “Đoạn tôi sấp mình xuống đất mà thương khóc cả hòa hai Mẹ Con” (sách kinh Qui Nhơn, tr.291)
- Cùng, mà
Ví dụ: “hòa mến hòa khen, hòa ngợi”(sách kinh Qui Nhơn, tr.400)
Ví dụ: “Nỗi chàng, nỗi thiếp, ai hòa nhỏ to” (Chinh phụ ngâm, c.46)

Nguyễn Kim Binh
(http://conggiao.info/news/2147/33945/nghia-cac-tu-co-trong-cac-kinh-sach-cong-giao-viet-nam.aspx)

Wednesday, 24 February 2016

Tiếng lóng trong Việt ngữ hiện đại (Phanxipăng - Chim Việt)

Tiếng lóng
trong Việt ngữ hiện đại
Phanxipăng
Tiếng lóng là một thực tế đầy sinh động mà hầu như bất kỳ ngôn ngữ nào trên trái đất đều có, dù muốn hay không. Văn hào Pháp Victor Hugo (1802 - 1885) từng chú ý sử dụng tiếng lóng trong tác phẩm Le dernier jour d'un condamné / Ngày cuối cùng của một tử tù (1828), thậm chí còn dành hẳn cả quyển VII trong phần thứ tư của bộ tiểu thuyết đồ sộ nổi tiếng Les Misérables / Những người khốn khổ (1861) để bàn luận về tiếng lóng. Victor Hugo nhận định: "Tiếng lóng là gì? Nó là quốc gia, đồng thời là quốc âm; đó là một đánh cắp dưới hai hình thức: nhân dân và ngôn ngữ. (...) Tiếng lóng vừa là một hiện tượng văn học, vừa là một kết quả xã hội. Tiếng lóng, căn bản, là gì? Tiếng lóng là ngôn ngữ của khốn cùng. (...) Mọi nghề, mọi nghiệp, có thể mọi ngẫu nhiên của hệ thống xã hội và hết thảy các hình thức của trí tuệ, đều có tiếng lóng của nó. Về phương diện thuần túy văn học, nghiên cứu tiếng lóng có thể là kỳ thú hơn nhiều khoa học khác." (Bản dịch của Huỳnh Lý, Vũ Đình Liên, Lê Trí Viễn, Đỗ Đức Hiểu - NXB Văn Học, Hà Nội, 1977).
Ngày nay, trong nhiều giáo trình ngôn ngữ học đại cương, tiếng lóng là nội dung chẳng thể thiếu ở chuyên đề từ vựng học. Trong các hội nghị, hội thảo khoa học, chẳng hạn hội nghị Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ được tổ chức quy mô vào tháng 10-1979, một số báo cáo về nghiên cứu tiếng lóng đã thu hút sự quan tâm của khá đông người. Cho đến nay, tồn tại lắm cách cắt nghĩa, phân loại và đánh giá khác nhau về tiếng lóng.
 

Sơ lược về tiếng lóng
Tiếng lóng ghi bằng chữ Anh, Ý, Đan Mạch, Na Uy, Tây Ban Nha là slang; Pháp - argot; Thổ Nhĩ Kỳ - argo; Bồ Đào Nha - gíria; Ba Lan - gwara; Hà Lan - straattaal; Séc - kolokvializmus; Đức - Umgangssprache; Nga - сленг; Hàn - 속어; Nhật - 俗語; Hoa - 俚語 / 俚语 mà Bính âm phát liyu và phát âm Hán Việt thành lý ngữ. Tiếng lóng được các từ điển định nghĩa ra sao? Tự điển Việt Nam của Ban Tu thư Khai Trí (Sài Gòn, 1971) giải thích: "Thứ tiếng dùng riêng với nhau trong một bọn, một hạng người cùng nghề". Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (Hà Nội, 1992) cắt nghĩa: "Cách nói một ngôn ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, nhằm chỉ để cho trong nội bộ hiểu được với nhau mà thôi". Từ điển Le Petit Larousse illustré (Paris, 1993) viết: "Từ vựng riêng biệt của một nhóm, một nghề, hoặc một giai tầng xã hội". Advanced learner's English dictionary (London, 1993) nêu: "Các từ, cụm từ rất thân mật, không nghi thức, thường dùng trong lời nói, nhất là những người cùng một nhóm xã hội, làm việc cùng nhau và không được xem là thích hợp cho những bối cảnh nghi thức, cũng như chẳng thể sử dụng lâu dài". Hiện đại Hán ngữ từ điển (Bắc Kinh, 1998) ghi: "Những phương ngôn thô tục hoặc lưu hành hạn hẹp".
Qua loạt định nghĩa vắn gọn và phổ thông ấy, một số yếu tố đặc trưng của tiếng lóng đã bộc lộ:
1. Là loại khẩu ngữ đặc thù, dùng để giao tiếp phi chính thức trong một phạm vi xã hội hạn chế.
2. Hoàn toàn thuộc lĩnh vực từ vựng và mang tính lâm thời, bất ổn định.
Tuy nhiên, loạt từ điển vừa dẫn không phân biệt tiếng lóng với biệt ngữ và tiếng nghề nghiệp.
Biên soạn Giáo trình Việt ngữ (Tập II: Từ hội học - NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1962), Đỗ Hữu Châu khẳng định: "Tiếng lóng (argot des déclassés) bao gồm một số từ bí hiểm để che dấu tư tưởng của người nói, không cho nhiều người ngoài tập đoàn xã hội của mình biết". Cũng giáo sư (GS) Đỗ Hữu Châu, với giáo trình Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt (NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1981), lại chỉ ra: "Tiếng lóng bao gồm các đơn vị từ vựng thuộc loại thứ hai trong biệt ngữ, tức là những tên gọi 'chồng lên' trên những tên gọi chính thức. Hiện tượng tiếng lóng là phổ biến đối với mọi tập thể xã hội. Hầu như tất cả các tập thể xã hội nào đã có cái gì chung về sinh hoạt hay về sản xuất, làm việc, thì đều có những tiếng lóng của riêng mình. (...) Do nhiều động lực khác nhau, như do ý muốn 'tự bộc lộ' cái vẻ riêng của tập thể mình, do muốn gây được những sự chú ý đặc biệt, muốn che dấu những điều mà những người ngoài tập thể không nên biết, muốn biểu thị thái độ một cách mạnh mẽ, mà hằng ngày hằng giờ trong các tập thể xã hội đều xuất hiện tiếng lóng. Những tiếng lóng này rất 'phù du', không hệ thống, lẻ tẻ, xuất hiện rồi mất ngay".
Một số nhà nghiên cứu như Lưu Vân Lăng và Hoàng Thị Châu liệt tiếng lóng vào loại không tốt đẹp vì phạm vi lưu hành "là trong đám người làm những nghề bất lương, bị xã hội ngăn cấm như bọn cờ bạc bịp, bọn ăn cắp, bọn buôn lậu". Sách Ngôn ngữ học: khuynh hướng - lĩnh vực - khái niệm của nhiều soạn giả (NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1994) còn cho rằng: "Khác biệt ngữ, tiếng lóng có nghĩa xấu".
Thực tế, ở một số trường hợp, khó phân lập rạch ròi ranh giới giữa tiếng lóng với biệt ngữ và tiếng nghề nghiệp. Do đó, năm 1996, nhà nghiên cứu 在召民  / Da Zhaomin / Tại Triệu Dân của Trung Hoa đề xuất lối gọi khác: ẩn ngữ / ám ngữ / hắc thoại. Tác giả này lại chia ra 2 loại lớn là "ẩn ngữ nghề nghiệp" và "ẩn ngữ giang hồ". Nếu thế thì cũng chưa rành mạch!
Một thực tế nữa: chưa hẳn tiếng lóng "chỉ thuộc bọn người xấu", càng không thể là "ngôn ngữ dưới đáy xã hội". GS Đỗ Hữu Châu từng nêu ví dụ về tiếng lóng của sinh viên một thời. Như mẹ Đốp trỏ nữ sinh đáo để, nhuận sắc là đẹp một cách tươi mát, ngỗng chỉ điểm 2, gậy - điểm 1, trứng - điểm 0.
Tùy quan niệm rộng hẹp mà có những cách nhìn nhận khác nhau về tiếng lóng đối với công cuộc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt hiện nay.
 

Tiếng lóng với ngôn ngữ toàn dân
Từ đầu thế kỷ XX, tiếng lóng Việt Nam đã được bao học giả trong lẫn ngoài nước chú ý nghiên cứu. Một trong những công trình đầu tiên là của Jean Nicolas Arthur Chéon (1856 - 1928), mang tiêu đề L'argot annamite / Tiếng lóng Việt Nam đăng trên BEFEO (Bulletin de l'Ecole Française d'Extrême-Orient: tập san trường Viễn Đông Bác Cổ) năm 1905. Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố (1889 - 1947) từng có khảo luận L'argot annamite de Hanoï / Tiếng lóng Việt Nam ở Hà Nội công bố năm 1925. Nhiều chuyên gia Việt ngữ học thời gian qua cũng dành công sức nghiền ngẫm tiếng lóng.
Đến nay, nhìn nhận hiện tượng ngôn ngữ đặc thù này, tồn tại 2 quan điểm trái ngược nhau.
Một quan điểm cho rằng tiếng lóng là hiện tượng không lành mạnh trong ngôn ngữ, chỉ tồn tại ở xã hội có giai cấp, vì vậy phải triệt để chống tiếng lóng và kiên quyết gạt tiếng lóng ra khỏi ngôn ngữ văn hóa. Đấy là ý kiến của Nguyễn Văn Tu và Nguyễn Kim Thản từng trình bày qua các ấn phẩm Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại (NXB Đại Học & Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1976), Tiếng Việt trên đường phát triển (NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1982). Hai nhà nghiên cứu này bảo tiếng lóng "không có tác dụng tích cực, không làm giàu thêm ngôn ngữ toàn dân".
Quan điểm khác thì đề nghị chấp nhận tiếng lóng tốt, tích cực, nhằm bổ sung vào ngôn ngữ toàn dân. Đấy là ý kiến của Trịnh Liễn và Trần Viết Chánh phát biểu tại hội nghị khoa học Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ được tổ chức ở Hà Nội năm 1979. Đồng quan điểm ấy, Nguyễn Thiện Giáp soạn sách Từ vựng học tiếng Việt (NXB Đại Học & Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1985) đã đặt tiếng lóng trong mối quan hệ với toàn bộ lớp từ tiếng Việt, rồi cho rằng chỉ nên lên án những tiếng lóng thô tục; còn loạt tiếng lóng không thô tục là tên gọi có hình ảnh của sự vật hoặc hiện tượng nào đó thì đủ khả năng phổ biến và thâm nhập dần vào ngôn ngữ toàn dân. Sách này còn khẳng định tiếng lóng là một phương tiện được dùng để khắc họa tính cách và miêu tả hoàn cảnh sống của nhân vật trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. Ấy cũng chính là điều mà nhiều nhà nghiên cứu về tu từ học (rhétorique / rhetoric) và phong cách học (stylistique / stylistics) cũng như nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà báo quan tâm tìm hiểu để khéo léo vận dụng.
Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912 - 1984) rất hữu lý khi nhận xét rằng đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, thấy một trong những đoạn hay nhất chính là lời thoại độc địa phát ra từ miệng Tú Bà lúc mụ nổi tam bành mụ lên trước giai nhân Thúy Kiều:
Này này sự đã quả nhiên,
Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi!
Bảo rằng đi dạo lấy người,
Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.
Tuồng vô nghĩa ở bất nhân,
Buồn mình trước đã tần mần thử chơi.
Màu hồ đã mất đi rồi,
Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!
Con kia đã bán cho ta,
Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây.
Lão kia có giở bài bây,
Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe.
Cớ sao chịu tốt một bề,
Gái tơ mà đã ngứa nghề lắm sao!
Rõ ngồn ngộn tiếng lóng của giới buôn phấn bán son ở Việt Nam thế kỷ XIX. Ví thay đi dạo, rước khách, buồn mình, màu hồ, bài bây, chịu tốt, ngứa nghề, chơi, văng bằng loạt từ ngữ "nghiêm chỉnh", ắt đoạn lục bát vừa dẫn không chỉ mất hay mà còn hỏng bét! Tương tự như thế, nếu thiếu tích lũy vốn tiếng lóng phong phú để sử dụng phù hợp, làm sao bao tiểu thuyết - phóng sự của Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939) cuốn hút độc giả. Từ tác phẩm Cạm bẫy người viết năm 1933, nhà báo kiêm nhà văn họ Vũ đã "đưa ra ánh sáng" cả lô tiếng lóng chính hiệu cờ bạc bịp thuở nọ: mòng, mẻng, bắt, viên đạn, hòn đạn, của, lộ tẩy, cản, quých, v.v. Đến các cuốn Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Số đỏ (1936), Làm đĩ (1936), Lục xì (1937) thì Thiên Hư Vũ Trọng Phụng trình thêm cả loạt "ẩn ngữ giang hồ" mà thiếu chú thích ắt công chúng bình thường khó hiểu nổi ý nghĩa: chạy làng, chánh, chúa, hoa đào, ngày phiên, trô, xé giấy, v.v. Cũng xuất bản giai đoạn đó, Bỉ vỏ của Nguyên Hồng (1918 - 1982) là thiên tiểu thuyết đã chứa đựng một lượng lớn tiếng lóng - từ tiêu đề cho tới nội dung, thậm chí nhiều câu được vần vè khiến bạn đọc dễ nhớ:
Không vòm, không sộp, không te,
Niễng mũn không có, ai mê nỗi gì?
Bỉ vỏ là ả ăn cắp. Vòm là nhà. Sộp là giàu sang, hào phóng. Te là xinh đẹp. Niễng mũn là một trinh nhỏ, tức nửa xu. Trong số tiếng lóng từng lưu hành, giờ đây có bao nhiêu đơn vị từ vựng trở nên quen thuộc và đi vào ngôn ngữ phổ thông? Chắc chắn không ít. GS Đỗ Hữu Châu đã trưng dẫn cả loạt tiếng lóng được chấp nhận gia nhập vào vốn từ ngữ chung như ba hoa, lộ tẩy, nguội điện, cổ lỗ sĩ, gạo, phe phẩy. Tra cứu các từ điển tiếng Việt hiện đại, chẳng hạn Từ điển từ mới tiếng Việt do Chu Bích Thu chủ biên (NXB TP HCM, 2002), chúng ta thấy muôn tiếng lóng hiện hữu.
Tiếng Việt, cùng bao ngôn ngữ khác, luôn cần được cộng đồng sử dụng cố gắng bảo tồn đồng thời tích cực phát triển. Nói cách khác, phát triển vừa là nguyên nhân, vừa là mục đích của công cuộc giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt. Với ngôn ngữ, theo quy luật chung, phát triển mạnh nhất luôn là từ vựng. Đóng góp vào khía cạnh này, rõ ràng có tiếng lóng. Sau một thời gian tồn tại phi chính thức, bất ổn định trong phạm vi xã hội hạn hẹp, biết bao tiếng lóng không còn là... tiếng lóng. Phần lớn biến mất. Phần còn lại trở thành những đơn vị từ ngữ của toàn dân, được mọi người sử dụng rộng rãi - không chỉ trong các tác phẩm báo chí, văn chương, màn nhung, màn bạc, mà còn xuất hiện ở nhiều văn bản hành chính. Chẳng hạn các từ nhí, quậy, xỉn, xịn, mánh mung, móc ngoặc, quay cóp, phớt lờ. Từ xì ke, xuất xứ bởi tiếng lóng scag của Hoa Kỳ, là ví dụ khác.
 

Phê bình một từ điển tiếng lóng
Tiếng lóng, như đã nêu, là một hiện tượng ngôn ngữ học xã hội có vai trò đáng kể đối với vốn từ vựng của toàn dân. Từ trước tới nay, nhiều chuyên gia Việt ngữ học quan tâm khảo sát tiếng lóng song chỉ mới trình bày vấn đề qua vài chương đoạn trong các công trình liên quan từ vựng học, tu từ học, phong cách học; hoặc dừng ở báo cáo khoa học; hoặc giới hạn trong khuôn khổ bài báo. Cũng có sinh viên làm khóa luận tốt nghiệp đại học với đề tài tiếng lóng. Tuy nhiên, một ấn phẩm độc lập đề cập về tiếng lóng được ấn hành rộng rãi thì mãi gần đây mới xuất hiện. Đó là sách Tiếng lóng Việt Nam do Nguyễn Văn Khang biên soạn (NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 2001). Sách Tiếng lóng Việt Nam dày 236 trang kích cỡ 13 x 19cm, được chia làm 2 phần. Phần đầu là khảo luận Đặc điểm của tiếng lóng Việt Nam chiếm 39 trang. Phần còn lại là Từ điển từ ngữ lóng tiếng Việt. Xét dung lượng, sách chính là pho từ điển tiếng lóng Việt Nam - một công trình rất hữu ích cho nhiều người. Song le, lần giở cuốn sách công cụ này, hẳn bạn đọc liên tục phân vân.
Nguyễn Văn Khang bỏ sót một thao tác tuy đơn giản song bất kỳ nhà từ điển học nào cũng đều chú ý nêu bật trước tiên: thống kê số lượng mục từ trong từ điển. Kế tiếp, đây là từ điển tiếng lóng - mà soạn giả đã xác định rõ tính chất của nó là dạng ngôn ngữ "ký sinh" và "lâm thời" - thì cần thiết phải hạn định thời khoảng. Một đơn vị từ vựng hôm nay là tiếng lóng, song ngày mai hết còn là tiếng lóng. Ấy thế mà từ điển này thu thập tiếng lóng suốt thời gian dài, nhưng lại... ngắt quãng: tiếng lóng trong tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng (vào thập niên 1930), rồi tiếng lóng cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980 liên quan nhóm xã hội "vượt biên - di tản"; đoạn tiếng lóng khoảng thập niên 1990. Kỳ thực, từ điển còn góp nhặt hàng loạt tiếng lóng dùng trong trại giam ở miền Bắc thập niên 1960 thông qua tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2000) nhưng lại không chua nguồn thư tịch.
Đi vào nội dung từ điển tiếng lóng Việt Nam của Nguyễn Văn Khang, bạn đọc có hiểu biết ít nhiều về lĩnh vực này chắc chắn khó tránh khỏi thất vọng vì cách biên soạn thiếu khoa học. Buồn cười nhất là quá nhiều tiếng lóng bị định nghĩa... sai! Ý kiến ngắn của Bùi Cát đăng trên tờ Tuổi Trẻ chủ nhật 24-6-2001 đã vạch 9 đơn vị từ vựng của từ điển này cắt nghĩa trật lất: khâu chẳng phải "cây vàng" (lượng / lạng vàng); nhạc sến chưa hẳn "nhạc buồn"; tài pán khác "chủ chứa"; mắt trừu nào phải "bao cao su tránh thai"; hết xí quách đâu chỉ "hết tiền"; ca ve (cavalière) không phải "gái mại dâm hoặc tiếp viên nhà hàng có hành nghề mại dâm"; mặt rô (ma cô / maquereau) chưa chắc là "dân giang hồ dao búa"; bà già không phải là mọi loại máy bay cánh quạt.
Có thể trưng thêm cả lô tiếng lóng bị Nguyễn Văn Khang giải thích thiếu sót, lắm phen nhầm lẫn tới mức... phi thực! Từ ái đâu chỉ là "con trai có tính cách, cử chỉ, điệu bộ rụt dè (sic!) như con gái". Thế con gái bị gọi ái thì sao? Chẳng qua, đó là rút gọn cụm từ ái nam ái nữ nhằm chỉ trường hợp lưỡng giới tính (bisexual), có khi còn được hiểu là đồng tính ái (homosexual). Tiếng lóng ái cũng đồng nghĩa gai / bóng / pê đê / bê đê (do chữ gay và pédérastre chỉ đồng tính ái nam); chứ bê đê không phải là "giật đồng hồ". Giới xã hội đen quen gọi hành động giật đồng hồ bằng các tiếng lóng thổi đổng / bốc hồ / múc hồ / tát hồ. Từ bắt dế đâu có nghĩa "chép tài liệu vào miếng giấy nhỏ quấn lại bằng con dế mang vào phòng thi" mà chỉ động tác nhặt tàn thuốc lá. Từ chặt hẻo không trỏ mọi hình thức "chơi bài ăn tiền" mà là cách gọi một lối chơi với bộ bài tây: tiến lên. Hẻo là biến âm của heo tức con bài 2 nút. Chứ bày bài tây mà đánh xì phé, binh xập xám, dẫu ăn tiền hay không, chẳng ai gọi chặt hẻo bao giờ. Hàng tiền đạo có nghĩa dãy răng cửa, chứ chẳng phải "hàm răng hơi bị vẩu". Kết mô đen không chỉ "quan hệ yêu đương" mà nói chung là thích, khoái, muốn. Mát xi mum đâu phải "nhậu hết cỡ" mà là bất kỳ điều gì đạt tới ngưỡng cực đại, do thuật ngữ Latinh maximum (đối lập với minimum). Mì dê vốn xuất xứ bởi chữ tickler, tiếng Hoa Kỳ trỏ một dụng cụ dành cho dân chơi, còn gọi mắt trừu, chứ chẳng phải "bao cao su tránh thai".
Nhiều từ ngữ bị từ điển của Nguyễn Văn Khang ghi sai chính tả, điều khó chấp nhận đối với loại sách dùng để tra cứu. Ví như rụt dè (rè), sui (xui / rủi) thấy mồ. Nhiều tiếng lóng bị ghi không đúng hình thức ngữ âm. Chẳng hạn bá chảy (cháy / chấy), chè nghim (ghim), đam (đâm) chuột. Từ chè ghim xuất hiện bởi nói lái chìm ghe. Từ đâm chuột được diễn dịch đâm tí rồi nói lái chệch thành đi tắm. Do thiếu tìm tòi về từ nguyên, đặc biệt là những tiếng lóng có nguồn gốc ngoại ngữ hoặc được cấu tạo bởi phương thức nói lái, nên Nguyễn Văn Khang chưa giải thích đúng, đủ, đảm bảo sức thuyết phục. Đó là loạt từ đai, mo, xuya, bứt cỏ, chà đồ nhôm, hạ cờ tây, v.v.
Lại thấy bao đơn vị từ vựng lâu nay thuộc ngôn ngữ toàn dân, ai cũng biết, cũng hiểu, cớ sao Nguyễn Văn Khang đùng đùng xếp vào kho tiếng lóng? Như các từ mây mưa gò bồng đảo vốn là các điển cố văn học mà bạn đọc quá quen thuộc qua thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương. Ngay cả loạt từ ngữ bình thường, chẳng mang ý nghĩa đặc biệt và bí hiểm gì - như ấm đầu, bà xã, bộ cánh, bộ đồ vía, của quý, gà mờ, ô dù, phê, đã, quỹ đen, sa lưới, sâu mọt, tồ, trồng cây si, viêm màng túi, vượt cạn, xe ôm - mà bị Nguyễn Văn Khang dán "mác" tiếng lóng e chưa thích đáng.
Trong Việt ngữ hiện đại, tiếng lóng ngày càng có xu hướng phát triển mạnh, nhất là với giới trẻ ở các đô thị. Điều đó tạo hiện tượng được các nhà nghiên cứu đặt tên là ngôn ngữ đường phố (langues de la rue / street languages). Hiểu biết và vận dụng tiếng lóng đạt mức độ cần thiết có thể tạo nên những tác phẩm văn chương lẫn báo chí giá trị, hấp dẫn. Jacques Prévert (1900 - 1977) ở Pháp là minh chứng sinh động: thơ của ông đầy rẫy tiếng lóng, có tập được xuất bản tới hàng triệu cuốn. Giữa thời nguyên tử, "cú bùng nổ thi ca" vô tiền khoáng hậu ấy khiến thiên hạ suy nghĩ quanh câu hỏi: tiếng lóng thu hút đông đảo bạn đọc vậy ư? Với việc dịch thuật, gặp những văn bản nhất định, cũng rất cần tiếng lóng. Tiểu thuyết The Godfather / Bố già lừng danh của nhà văn Mỹ gốc Ý Mario Puzo (1920 - 1999) đã được nhiều người dịch sang tiếng Việt, song bản chuyển ngữ của Ngọc Thứ Lang thành công nhất nhờ tìm được chuỗi tiếng lóng Mỹ - Việt tương ứng.
Không những các cây bút văn chương và báo chí, mà rất nhiều ngành hoạt động khác - như kịch nghệ, truyền hình, phim ảnh, du lịch, giáo dục, pháp lý, từ thiện xã hội, v.v. - có nhu cầu tra cứu từ điển tiếng lóng. Dĩ nhiên, đó phải là pho từ điển tiếng lóng được biên soạn cẩn trọng, đàng hoàng, khoa học. Cuốn sách công cụ cần thiết kia bao giờ mới được trình làng?
Phanxipăng Đã đăng trên tạp chí Tài Hoa Trẻ từ số 172 (15-6-2001) đến số 175 (5-9-2001)
Đăng lại trên tạp chí Thế Giới Mới 869 (18-1-2010) & 870 (25-1-2010)
(http://chimviet.free.fr/ngonngu/phanxipang/phanxipnn_tienglong.htm)