Wednesday, 28 February 2024

Kính tặng các ông KOL đang đòi ga chỉ có thể là ga xe lửa

 ga 1 (TRANSPORT) gare / station. ~  biên giới gare frontière ; ~ chính  gare principale ; ~ chọn gare de triage ; ~ đến gare d’arrivée ; ~ đường sắt gare {ferroviaire / de chemin de fer} ; ~ gửi hàng gare d’expédition ; ~ hàng đi gare d’expédition ; ~ hàng hóa gare {de / aux} marchandises ; ~ hành khách gare [de] voyageurs ; ~  liên vận quốc tế  gare de transit international ; ~ sang xe gare de transbordement ; ~ tiếp tế gare de ravitaillement ; ~ tránh tàu gare d’évitement ; ~ trung gian gare intermédiaire ; ~ trung tâm  gare centrale ; ~ xuất phát gare de départ ;  ký ~ guichetier de gare ; ra ~ aller à la gare ; sân ~ quai de gare ; trưởng ~ chef de gare ; Tàu hỏa vào ~ Le train arrive en gare ; Tôi sẽ ra ~ đón anh Je vais vous chercher à la gare.[i]

bay aérogare / gare aérienne.[ii]

chót [gare] terminus. đi đến ~ aller jusqu’au terminus.[iii]

cuối cùng [gare] terminus. đi đến ~ aller jusqu’au terminus.[iv]

cuối đường [gare] terminus.[v]

đầu đường [gare] tête de ligne.[vi]

đầu mối [gare] tête de ligne.[vii]

máy bay lên thẳng héligare.[viii]

mê-trô [station de] métro. hẹn ở ~ Opéra rendez-vous au métro Opéra.[ix]

sân bay aérogare / gare aérienne.[x]

xép halte / point d’arrêt / arrêt voyageurs.[xi]



[i] * Chợ-hộ phong cảnh tốt thay, Chùa Minh-sư lập tại rày ga-xe. Nguyễn Liên Phong (1909:39)

* Gần tới nơi, Nghĩa-Hữu biểu ngừng xe để đợi, còn mình thì đi dài theo phố kêu trẻ nhỏ hỏi thăm ; trẻ nhỏ chỉ căn phố mới dọn hơn mười ngày rày, Nghĩa-Hữu coi số nhà rồi trở lại xe, biểu chạy xuống ga xe lửa. Lê Hoằng Mưu (1915-3:140)

* Trông thấy nhà thờ, trại lính, nhà ga. Nam Phong Tạp Chí số 4 (1917:245, Phạm Quỳnh)

* Bay liệng vào phía nhà ga. Nam Phong Tạp Chí số 4 (1917:245, Phạm Quỳnh)

** Tiếng Langsa là tiếng cai trị (langue officielle) nước ta ngày nay thiệt là rất thạnh, rất rành rẻ, lần lần nó cũng vạch cũng chung vô tiếng nước mình , cũng như những tiếng: ga (xe lửa), ba-lông, bù lòn, (boulon), đô xiê, cách son, cạt-tông, phá mách v.v., đã vạch đã chung vào tiếng Annam mình rồi cần gì phải nhọc lòng chủ-bút An-hà bắt mà nhịn mà ém, mà đút nó vào đâu! Nam Phong Tạp Chí số 16 (1918:203, Ng.-H.-V.)

** Tôi xin trả lời rằng : tất cả những tiếng mượn như thế không phải là một vài người học tiếng đọc sách nước ngoài đem dùng mà bắt người ta theo được đâu, chính là cả một bàn-dân mượn ; mà mượn thế không phải là vu-vơ mà mượn đâu, là bởi cái sự giao-thiệp (hoặc vì chính-trị như đánh nhau lấy thuộc-địa, vì kỹ-nghệ v.v.) của dân Pháp với dân ngoại-quốc : một vật mới, một ý mới phải dùng đến, phải nghĩ tới, mình không đặt được tiếng mới mà gọi, nên phải mượn tiếng nước ngoài đã có, lẽ ấy là tự nhiên ; mà mượn cũng không phải là theo y như nguyên-âm, tất có thay đổi trong cách đọc cách viết ít nhiều, sao cho gọn-ghẽ, nhã-nhặn, dễ đọc dễ nghe, có khi nguyên-âm dài làm thành ngắn, khó đọc làm thành dễ đọc, như tiếng arquebuse nguyên Italie là archibuso, tiếng calèche nguyên Đức là kalesch ; họa là chỉ có những tiếng nguyên-âm mà cũng đã gọn-ghẽ nhã-nhặn, thì mới theo y như hệt, những tiếng đó là cả một bàn-dân mượn theo lẽ tự-nhiên, nên thường thường vẫn gọn-ghẽ nhã-nhặn, dễ đọc dễ nghe, mà cũng bởi các sự giao-tiếp về đường chính-trị, thương-mại, hoặc kỹ-nghệ, v.v. ; như những tiếng Sà-phòng, ký-ninh, rượu vang, rượu sâm-banh, nhà ga, là bởi tiếng Pháp savon, quinine, vin, champagne, gare, v.v. ; màn-sế bởi tiếng Tầu, – bồi, bi-tết bởi tiếng nước Anh, v.v. Nam Phong Tạp Chí số 22 (1919:291, Dương Quảng-Hàm)

* Thế mẹ cùng ra ga một thể chứ ? -Đình-Long Phong-Di (1921:10)

** Người An-nam trước khi nhà nước Pha-lăng-sa sang Bảo-hộ thì chưa có tiếng sà-phòng (savon), nhà ga (gare), rượu bia (bière), cậu bồi (boy) vân vân... Nam Phong Tạp Chí số 59 (1922:351, Vũ Công-Nghi)

** Hay là triều đình Annam tâu cùng Đức Kim Hoàng-thượng xin ngài lập một hội Hàn-Lâm (Académie) đễ làm quyển sách ấy, hoặc thêm tiếng mới vô, như : sà-bong, nhà ga, cái son, cái tách, ô-tô, còn như king-đô các nước, các tánh danh thì đừng âm theo chữ Tàu, âm cho gần chữ gốc như : Ơ-rốp, Phơ-răng-xơ, Ba-ri, Ăn-lê, Ben-gít, Bon-ca-rê, Cờ-rít-tốp cô-lôm, Na-bô-lê-ông, Sa-rô v. v. Hồ Văn Lang (1924:166)

** Thử xem tiếng Tây là một tiếng rất khác với tiếng ta, tây thì có nhiều vần (polysyllabe, ta thì một vần (monosyllabe), mà trong năm sáu mươi năm nay còn có trên tám mươi tiếng Tây thành tiếng Annam thay ! Tỉ như : « xấp-lê » (siffler), nhà « ga » (gare), xà-lúp (chaloupe), xà-lang (chaland), « sơn-đá » (soldat), áo « bành-tô » (paletot), vân vân..., huống chi Tàu với ta nói năng một cách. Nam Phong Tạp Chí số 27 (1919:263, Đông-thành Võ Thanh-Tân)

* Một lát, xe đến ga, thằng bé chạy đến người « xếp-tanh » mà rằng :

– Thưa ông, tôi là Thomas Edison, ông cho tôi lên xe bán hàng.  Nam Phong Tạp Chí số 69 (1923:221, Vũ Công-Nghi)

* Tới nơi lấy làm lạ, không thấy ra ga đón. Nam Phong Tạp Chí số 73 (1923:19, Ph. Q.)

* Mình tuy không dự sự gì, nhưng cũng là người An-Nam, tưởng nên cùng anh em ra đón ở ga cho phải phép. Nam Phong Tạp Chí số 88 (1924:304, P. Q.)

* Bổn-báo xin biên sơ lược các quí bà và quí ông có mặt tại ga. Trung Lập Báo số 53 (1924:4)

** Kìa như tiếng ba-ton, xà-lúc, đường rầy, nhà ga, đi gát, vân vân... ấy là bởi tiếng baton, chalouple, rail, gare, garde, của Langsa mà ra đó. Trung Lập Báo số 73 (1924:1, Trương-duy-Toản)

* Khi xe tới ga Thũ-đức, ăn nem ngon miếng, thần men 50 chử giục, nên khi tên sốp-phơ ra cho xe a la de đặng trở về thần men bèn xô tuốc xe hơi số C.2185, vô nhà tên trùm kia. Trung Lập Báo số 80 (1924:4)

* Muốn bắt thì cũng lắm khó vì nếu như muốn đón đại giữa đường chận xe ngừng lại đặng lên xét thì khó bắt cho đặng vì là từ khi ra lịnh cho xe ngừng đến lúc ngừng đặng thì trên xe có ngày giờ mà làm giấy phạt cho bộ hành, còn nếu chận trước vài ga thì cũng lắm khó vì nghi sợ mấy thầy chef ga có thế thông tinh dùm cho hay trước được. Trung Lập Báo số 134 (1924:3)

* Đến ga Lăng-cô xong, lại qua luôn ba cái hầm, đến ga Bãi-ca, qua hầm thứ hai. Trung Lập Báo số 197 (1924:1, Bùi-song-Hương)

* Đến ga đã thấy các bạn quen và các ông đại-biểu Hội Khai-Trí đứng đón. Nam Phong Tạp Chí số 99 (1925:311, P.-Q.)

* Rạng ngày sau, thức dậy mặc áo quần cũ đi tuốt xuống nhà ga xe-lữa Mỹ-Tho tính kiếm đồ mà vác mướn. Hồ Văn Trung tự Biểu Chánh (1926al-01:47)

* Những người đi đón rước bà con thì đứng dọc theo mé nhà ga, còn bọn chực xách gói đứng dài theo đường xe lữa. Hồ Văn Trung tự Biểu Chánh (1926al-01:47-48)

* Ngõ ga xe lữa. Sài-Thành Nhật-Báo số 32 (1930:2, T. L.)

** Người An-Nam trước khi nhà nước Pha-lăng-sa sang bảo-hộ thì chưa có tiếng sà-phòng (savon), nhà ga (gare), rượu bia (bière), cậu bồi (boy) v.v. Nam Phong Tạp Chí số 170 (1932:293)

* Ra đến cửa ga bà Đốc gọi xe tay mặc cả 5 su về Khâm-thiên rồi bà Đốc và con Chuột ngồi chung một xe, con ở ngồi một xe, ba người về một cái nhà ba từng rộng dãi. Phong Hóa Tuần Báo số 6 (1932:18, Nhất Chi Mai)

* Nhà ga thiếu gì cu li Bắc tê ? Phong Hóa Tuần Báo số 8 (1932:4)

* Bốn ngài từ giã bạn hữu, ra ga. Phong Hóa Tuần Báo số 23 (1932:4, Nguyễn-Văn-Cười)

* Đợi mãi mới lấy được cái vé, vừa bước chân ra cửa ga, anh phắc tơ soát vé giật ngay lại, ông chưa kịp đôi hồi đã thấy cái ô của ông sang tay người phắc tơ nọ. Phong Hóa Tuần Báo số 23 (1932:11, Nguyễn Văn Xuyên)

* Đứng trên xe trông xuống sân ga thấy vợ tôi khóc, tôi thương quá, giơ tay ôm nhà tôi để hôn thì toe-toe còi, ông xếp ga đã cho tầu chạy... Phong Hóa Tuần Báo số 46 (1933:6, N. V. Đ.)

* Nhìn lên ga thì ra ga Huế. Phong Hóa Tuần Báo số 46 (1933:6, N. V. Đ.)

* Ra ga đi về mặt nào bác bảo dùm tôi. Phong Hóa Tuần Báo số 65 (1933:2)

* Ở Ghít-sê ga xe lửa ! Phong Hóa Tuần Báo số 68 (1933:7, B-Thuy)

* Nguyên bóng « báo Phụ-Nữ » có bài của Tú-Mỡ gà ông Phan-Không : Xe đến « qua-dơ-măng » cửa Nam..., mà cũng riễu bài thơ « Xe chạy ra đến ga Lang-Cô » của ông ta nữa. Phong Hóa Tuần Báo số 75 (1933:3, Tứ-Ly)

* Không có ga nào là Chò-đóm cả. Phong Hóa Tuần Báo số 78 (1933:6, N. K. Quế)

* Ô hay ! chúng tôi vẫn thường đi về đến ga, rồi xuống đi bộ vài cột lô-mếch thì đến Chò-đóm mà. Phong Hóa Tuần Báo số 78 (1933:6, N. K. Quế)

* Nhưng xuống ga nào mới được chứ ? Phong Hóa Tuần Báo số 78 (1933:6, N. K. Quế)

* Ông ký ga bèn ung dung rút cái vé, kính cẩn hai tay đưa cho cụ lý. Phong Hóa Tuần Báo số 80 (1934:8, Minh-Chính)

** Ông thử cố tìm xem có tiếng gì thay nổi tiếng nhà ga, sà phòng, đồng su, hào ván... không. Phong Hóa Tuần Báo số 101 (1934:4, Nguyễn-cát-Tường)

* Tư Béo đi tìm đến gần ga thì gặp. Hà Thành Ngọ Báo số 2266 (1935:1, An-Thành Tử)

* Hồi 2 giờ đêm 6/2, chuyến xe lửa tốc hành Saigon – Hanoi đổ ở ga Đồng-hới, vì đến đầu ghi xe chạy còn nhanh, phanh hãm gấp quá. Phong Hóa Tuần Báo số 136 (1935:11)

* Tầu sắp đến ga. Ngày Nay số 6 (1935:7, Trọng-Lang)

* Ra ngoài ga để đợi ô-tô hàng, trước ngọn gió xuân, lòng tôi khoan khoái. Ngày Nay số 6 (1935:7, Trọng-Lang)

* Khỏi ga Hoàng-mai, xe càng chạy nhanh, càng lắc. Tam Lang (1938đs:15)

* Cho nên tôi chỉ chăm-chú chờ cho người đàn-bà nhà-quê ngồi cạnh cô con gái xuống một ga nào là tôi nộp ngay  « đờ-măng »  xin điền vào chỗ khuyết ấy. Phổ Thông Bán Nguyệt San số 17 (1938:78, Thanh Châu)

* Đến Sài-gòn, con bảo xe kéo chậm-chậm đem đồ lại nhà-ga xe-lửa ; con đi bộ theo. Dương Tử Giang (1939:69)

* Tầu vét ở ga Thanh chạy đi Vinh. Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 274 (1939:28, Nguyễn Tuân)

* Nếu muốn bán, nó chỉ được ngày thứ năm ra chợ tỉnh, rồi đến một guýt-sê (guichet) nhà băng, chìa đồng vàng lên đó, cũng như bỏ tiền ra guýt sê nhà ga mua vé xe đấy thôi. Đàn-Bà số 34 (1939:10, Ng.-Thị-Kiêm)

* Đi qua cửa ga chàng quên cả trả vé. Phan Như (1940:108)

* Xe hỏa đến ga vào lúc hoàng hôn. Trung Bắc Tân Văn Chủ Nhật số 17 (1940:24, Phạm Huy Cơ)

* Bà ra ga định đi tầu. Đàn-Bà số 52 (1940:8, Duyên Hà)

*  Tôi xuống tầu, gặp ông ấy ở ga. Nguyễn Khắc Mẫn (1941hc:22)

*  Sân ga Vĩnh Yên náo nhiệt khác thường Nguyễn Khắc Mẫn (1941hc:156)

* Cứ để nó chạy cho quen máy ; để xem, vài hôm nữa nó chạy đúng hơn đồng hồ ga. Thanh Nghị số 5 (1941:19 Bùi Hiển)

* Con cũng xuống ga ấy. Hồng Phong (1941c:189)

** Những tiếng theo nguyên-âm

đường rày rail

ga gare

phô-nô phono

ra-đi-ô radio

ô-tô ô-tô (sic)

ca-nô canot Tri Tân Tạp Chí số 5 (1941:23, Đào Duy Anh)

* Không ai biết cụ từ đâu đến, chỉ biết khi xuống xe hỏa ở ga Hàng cỏ, cụ lần mò hỏi thăm người ta đường lối về ngõ Hội-vũ. Hồng Phong (1941:4, Ngọc Giao)

* Đến ga Hà-nội. Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 434 (1942:4, Ngọc Giao)

* Sao ăn nói lịch sự thế ? Chẳng khác nào bọn phu  « bắt-tê » ngoài ga cả...   Phổ Thông Bán Nguyệt San số 119 (1942:114 Nguyễn Đức-Chính)

* Nhà ông bà Phán ở phố gần ga. Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 434 (1942:4, Ngọc Giao)

* Hay các ông xuống ga sau. Lê-Văn Trương (1942hn:9)

* Mai tôi với chúng nó đưa anh ra ga nhé ?  Lê-Văn Trương (1942av:164)

* Có biển viết ở tầu và đề ở cửa ga. Lê-Văn Trương (1942av:156)

* Phải chăng ông đã ra Ga ? Ngô Văn Tỵ (1942:24)

* Tuấn nhận được thư, ra ga đón Châm. Lê Văn Trương (1942sp:64)

*  Ga! Có phải tấm vé vào sân, khi đưa trả lại cho người gác là hết đâu. Tấm vé « ke », ngang chưa đầy 3 phân, dọc chừng 5 phân, từ cái cửa tò-vò nhảy ra, rồi từ bàn tay lạnh giá nào đặt vào tay người gác, hứa cả một trời tâm-sự ở trên cái diện-tích tí-hon của nó. Lê Văn Trương (1943cg:96)

* Thế để chúng em đưa anh ra ga nhé ? Lê Văn Trương (1943nm:97)

* Mỹ định đưa anh ra ga. Lê Văn Trương (1943cx:143)

* Thôi ra ga đi, kẻo nhỡ. Lê-văn-Trương (1943mđ:14)

* Tiếng còi ô-tô-ray ở ga đưa  vẳng đến. Đàn-Bà số  221 (1943:3, Trúc-Đường)

* Lúc ô-tô-ray về đến ga. Đàn-Bà số  221 (1943:3, Trúc-Đường)

* Hai giờ, chúng tôi ra ga.-Mai-Anh (1944:134)

* Bốn giờ sáng mà đi thì tất ra ga. Lê Văn Trương (1944ctc:203)

* Ga Hanoi « đổ  » xuống thành-phố một « thác » người. Lê-văn-Trương (1945nc:5)

* Điều 3. Giá vé vào sân ga định là 0 đ 50 một cái. Nghị định 846-NĐ năm 1946 về xét việc đặt lại vé vào sân ga rất cần cho những người muốn đi tiễn hay đón người quen do Bộ trưởng Bộ Giao thông công chính ban hành ngày 9/10/1946.

* Đến ga, lính-tráng sấp hàng hai. Lê Văn Thử (1951:62)

* Ăn rồi có xe-hơi đúc đít cho lên để chở ra ga. Lê Văn Thử (1951:60)

* Cái cửa của nó là cái cửa nhỏ giống cái cửa bán giấy của ga xe lửa, phía trong có cái bệ để khi chúa-ngục cho mình ăn hay đưa đồ gì khác vô thì đặt trên cái bệ đó. Lê Văn Thử (1951:53)

* Đến cổng ga lại có xe đúc đít chở họ về bót. Lê Văn Thử (1951:62)

* Ra ga Hàng cỏ ! Phạm-Cao-Củng (1951:110)

* Tại nhiều ga khác, những bức họa lịch sử Liên-xô, từ những cuộc chống ngoại xâm trước kia, qua Cách mạng tháng Mười, đến trận đánh đuổi quân phát xít Đức tới tận Béc-lanh, đều lần lượt diễn ra trước mắt mọi người, ôn lại từng trang lịch sử của dân tộc. Tập San Nghiên Cứu Văn Sử Địa số 4 (1955:44, Trần Huy Liệu)

*  Tôi chỉ biết đưa chị đến ga thôi. Nguyễn Vỹ (1957ht-01:127)

* Ở ga Huế vừa lên. Nguyễn Vỹ (1957ht-01:134)

* Phía sau đình Tân-Kiểng, gần trụ-sở cố-vấn quân-sự Mỹ đóng hiện nay (SAMIPIC cũ) và chỗ nhà ga Pétrus Ký đầu đại lộ Cộng-Hòa còn gò cao nghều nghệu: đây là nền cũ xóm Cờ-me, nếu đào bới ắt gặp đồ cổ-tích miên chắc hẳn. Vương Hồng Sển (1960:69-70)

* 2)- Xe đỗ ga chánh Chợ-Bến-Thành, rồi chạy vô Chợ-lớn, trạm chót là ga Bình-Tây. Vương Hồng Sển (1960:96)

* Họ tiễn nhau trên sân ga. Tạp Chí Sáng Tạo Bộ Mới số 2  (1960:43, Doãn Quốc Sỹ)

* Cái « ca » này xảy ra cho anh Hùm vào khoảng 7 giờ tối tại ga Bến-lức năm 1928. Lê Văn Thử Việt-Tha (1961:55)

* Ngày hôm ấy họ phải đến nhà ga để đưa vài người bạn Nga trở về Bỉ sau khi sang Pháp thăm bạn bè. Bạn Dân số 42 (1963:25, Bạch Y)

* Ga xe lửa nằm gọn trong thành phố. Vấn Đề số 30 & 31 (1970:58, Mặc Đỗ)

* Ông chủ chiếc ghe bầu đưa Tuấn từ Thu Xà ra Hội An, có lòng thương mến Tuấn và viết thư gửi gấm Tuấn cho thầy thông Vinh, một người cháu gọi ông bằng cậu, làm việc ở Ga xe lửa Huế. Nguyễn Vỹ (1970a:112)

* Chiếc xe lửa cũ kỹ, dơ bẩn từ ngoài đến trong, kéo gần hai chục cái toa, cái gòn (wagon), thành một đoàn dài đậu sừng sững từ đầu đến cuối sân ga, cao như một bức thành mầu nâu, bẩn thỉu. Nguyễn Vỹ (1970b:18)

* Buổi chiều, từ khoảng 5, 6 giờ, trên một khoảng đất trống trên Bờ Hồ sau ga «  tàu điện » (tramway), và đầu phố Cầu Gỗ, người ta bày la liệt những bàn vuông nho-nhỏ để bán «  kem » và « kẹo dừa » cho khách nhàn du. Nguyễn Vỹ (1970b:38)

* Xe lửa dừng ở ga Mỹ Tho vào lúc mặt trời lặn. Duyên Anh (1971c:9)

* Nhà ga nằm sát bờ sông. Duyên Anh (1971c:9)

* Tấp nập hơn ga Tân An nhưng, dường như, vẫn mang một nỗi buồn. Duyên Anh (1971c:9)

* Đó là một cái ga lớn cho xe lửa đến lấy muối và có nha Thương-Chính để kiểm soát và thâu thuế cả vùng. Lưu-Đức-Phú tự Tô-Châu (1973:106)

* Đến ga đúng mười giờ. Nhất Linh (1973:59)

* Có ga tất có tàu. Giai Phẩm Văn số 22 (1973:71, Vũ Khắc Khoan)

* Ga lớn quá . Tuổi Ngọc số 100 (1973:23, Phạm Chu Sa)

* Đây là một nhà ga khá lớn. Tuổi Ngọc số 100 (1973:23, Phạm Chu Sa)

* Ngay tuần lễ đầu của tháng tám, 7 sư đoàn quân Đức Quốc Xã đã hoàn thành kế hoạch Schwarz, các nhà ga, đường hầm, trung tâm thủy điện đều do quân Đức bảo vệ, quân Đức mua bán trên đất Ý đều trả bằng « mác » của Đức gọi là đồng « mác của quân đội chiếm đóng »  (marks d‘occupation).  Vũ Tài Lục (1974:351)

* Rồi ông dẫn quần chúng vô sản ồ ạt kéo ra ga ngăn chặn đoàn xe lửa chở quân đi. Vũ Tài Lục (1974:35)

* Tôi vẫn thường ngủ đỗ lại một nhà ga là thường kia mà. Bốn Mươi Lăm Tác Giả (1974:293, Nguyễn Đức Sơn)

* Vâng, nhưng phải ở lại trong ga, ngồi hay nằm ở những hàng ghế, thì được. Bốn Mươi Lăm Tác Giả (1974:293, Nguyễn Đức Sơn)

* Vậy tôi đi vào trong ga. Bốn Mươi Lăm Tác Giả (1974:293, Nguyễn Đức Sơn)

* Nhà chức trách sở tại đã ra thông cáo dán trước sân ga. Ông có thể xem. Bốn Mươi Lăm Tác Giả (1974:293, Nguyễn Đức Sơn)

* Ông có thể trình bày lý do và trường hợp đặc biệt với trưởng ga và trưởng xa rồi đi ngay. Bốn Mươi Lăm Tác Giả (1974:293, Nguyễn Đức Sơn)

* Thực ra ý định đổi khách sạn của chúng tôi không bắt nguồn từ sự luộm thuộm và thiếu thốn của Astoria cũng chẳng phải vì điều kiện môi sinh của khách sạn này quá tệ gần nhà ga xe lửa ngay trước khách sạn lại có bến xe điện xe buýt  và xe buýt điện (trolley-bus)  nên tối ngày sáng phải hít khói bụi, nghe tiếng xe cộ và tiếng người râm ran như họp chợ Sóng Thần số 990 (1974:4, Lê Đình Điểu)

* Nhân viên chỉ về hướng phải nhà ga. Bốn Mươi Lăm Tác Giả (1974:293, Nguyễn Đức Sơn)

* Ga xe lửa Phú Nhuận nhanh chóng mở cửa cho những đoàn tàu qua lại. Nhân Dân số 7668 (1975:3, Trần Bền)

* Ga Hà Nội như sống lại. Đặng Thanh (1976:97)

* Cậu mang ngay miếng than này lên báo cáo với trưởng ga để điện sang bên công an ngay... Đặng Thanh (1976:98)

* Tại các nhà ga và trong những ngôi nhà kính của các sân bay, bọn điệp viên, mật vụ túc trực, nhìn chằm chằm vào tất cả những ai có nét gì đó giống một người Mỹ. Đặng Lan (1979:86)

* Có tiếng còi vang lên ở ga. Trần Cao Thụy (1985:46)

* Có tiếng còi tàu vọng lại từ phía ga. Trần Cao Thụy (1985:47)

* Và đây đâu phải là một nhà ga. Trần Cao Thụy (1985:59)

* Ga Vinh một buổi tối trời mưa. Văn Học số 8-9 (1986:155, Thế Giang)

* Ngoài ga Hàng Cỏ... Văn Học số 12 & 13 (1987:130, Thế Giang)

* Trong nhà ga, toàn tụi chạy về nhà, làm sao mà cua ai. Văn Học số 32 (1988:61, Đỗ Kh)

* Họ ra khỏi nhà ga đi một vòng. Văn Học số 32 (1988:56, Đỗ Kh)

* Tôi mua vé đến ga đầm lầy. Văn Học số 41 (1989:28, Cao Huy)

* Ga xe lửa Yên Báy bị thiệt-hại nặng. Đoàn Thêm (1989-1966:219)

* Nhiều ga và đường hỏa xa bị phá hủy. Đoàn Thêm (1989-1967:97)

* Ga Phủ Lý cũng bị ném. Đoàn Thêm (1989-1967:143)

* Nhà máy điện và ga Thái Nguyên lại bị dội bom. Đoàn Thêm (1989-1967:153)

* Ga xe lửa Hải Phòng bị oanh tạc. Đoàn Thêm (1989-1968:75)

* Tàu vào ga rồi mình. Thế Kỷ 21 số 20 (1990:33, Trần Vũ)

* 2)- Xe đỗ ga chánh chợ Bến Thành, rồi chạy vô Chợ Lớn, trạm chót là ga Bình Tây. Vương Hồng Sển (1990:148)

* B. Xe chở bộ hành nhiều hơn hàng hóa, bắt đầu từ ga Chợ Cũ Sài Gòn, đổ ra Chợ Mới Bến Thành, rồi chạy cặp với đường tàu hỏa Sài Gòn - Mỹ Tho dài theo đường Phạm Viết Chánh, Nguyễn Hoàng, thẳng đến ga An Bình, chạy dọc đường Thủy Binh (nay Đồng Khánh), bọc theo đường Tổng đốc Phương trổ ra ga chót là ga Chợ Cũ Chợ Lớn (ga Rodier, nổi danh xưa điếm móc túi nhiều và tài nhứt.) Vương Hồng Sển (1990:148)

* Phi trường Tân Sơn Nhứt xây ga hàng hóa. Diễn Đàn Phụ Nữ volume 13 số 148 (1996:41)

* Ông ấy vốn làm cu ly khuân vác trên ga Hàng Cỏ, đã có vợ con. Kiến Thức Ngày Nay số 440 (2002:4, Ngô Văn Phú)

* Cháu lên vài ga trên ạ. Nguyễn Công Hoan (2002h:665)

* Xe đỗ ở thềm nhà ga. Nguyễn Công Hoan (2002h:666)

* Bẩm trên ga sẵn xe ạ. Nguyễn Công Hoan (2002h:281)

* Hoạt động xây dựng công trình hạ tầng kinh tế - xã hội quy định tại khoản này bao gồm thi công, xây dựng, lắp đặt: nhà mày nước, nhà máy điện, công trình truyền tải, phân phối điện; hệ thống cấp thoát nước; đường bộ, đường sát; cảng hàng không, cảng biển cảng sông; sân bay, nhà ga, bến xe; xây dựng trường học, bệnh viện, nhà văn hóa, rạp chiếu phim, cơ sở biểu diễn nghệ thuật, cơ sở luyện tập, thi đấu thể thao; hệ thống xử lý nước thải, chất thải rắn; công trình liên lạc, công trình thủy lợi phục vụ nông, lâm, ngư nghiệp. Nghị định 101/2011/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành Nghị quyết 08/2011/QH13 của Quốc hội về ban hành bổ sung một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cá nhân, ban hành ngày 4/11/2011

* Tới nơi lấy làm lạ, không thấy ra ga đón. Phạm Quỳnh (2004:135)

* Khoảng sân nhà ga. Ngô Bình Lâm & Phạm Xuân Phương (2004:53)

*  Khách sạn ga, săm Đồng Lợi ba bốn tầng, có buồng, màn tuyn, giường Hồng Kông. Tô Hoài (2004c1:294)

* Nguyễn Công Hoan kể khi anh học trường sư phạm Cửa Bắc, chỗ quanh ga Hàng Cỏ còn loáng thoáng những cánh ruộng nước. Tô Hoài (2004c1:201)

* Đoàn tàu hỏa đêm xuôi về nam, rời ga Hàng Cỏ qua ô Đồng Lầm lướt ra giữa hai bên hồ Ba Mẫu, hồ Bảy Mẫu, còi tàu chào Hà Nội rúc một hồi còi dài. Tô Hoài (2004c2:30)

* Hai đứa đã thuộc đường ga Đầu Cầu, bấy giờ đương đi ra cửa chợ Đồng Xuân. Tô Hoài (2004c2:234)

* Phía sau đình Tân Kiểng, gần trụ sở cố vấn quân sự Mỹ đóng (SAMIPIC cũ) và chỗ nhà ga Pétrus Ký đầu đại lộ Cộng Hòa (nay là Nguyễn Văn Cừ) còn gò cao nghều nghệu: đây là nền cũ xóm Khmer, nếu đào bới ắt gặp đồ cổ tích Miên chắc hẳn. Vương Hồng Sển (2004:86)

*  Chỉ có nhà ga xe lửa, Gare Saint Charles là lớn hơn ga xe lửa Mỹ Tho tại chợ Bến Thành rất nhiều. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 84 (2005:43, Bồ Đại Kỳ)

* Tàu đã qua  những ga chính. Nguyên Hồng (2005k:467)

* Đến ga này thì chỉ còn những bọn đi hàng muối hàng đồng nát lên xuống cùng mấy khách thường, họ chạy loạn về quê hay lại ra Hà Nội. Nguyên Hồng (2005k:467)

* Không mắc điện, nhưng ở dãy hàng phố chợ, cửa ga và ngoài ghi, đèn ba dây, đèn cây, đèn bão, đèn đất thắp như có hội. Nguyên Hồng (2005k:468)

* Họ đi có phải như ô tô ray của ga Hải Phòng nhà ông đâu? Nguyên Hồng (2005k:751)

* Chúng tôi đã phải chú ý ngay đến cái quang cảnh vắng lặng thưa thớt suốt dọc đường Găm-bét-ta trước Sở mật thám qua khu Đấu Xảo ra đến cửa ga, và các ngã tư đổ về đây. Nguyên Hồng (2005b:1249)

* Nhà máy điện, máy đèn, nhà máy nước, sở Dây thép Bờ Hồ, Kho bạc, nhà băng Đông Dương, ga Hàng cỏ đều đặt súng liên thanh. Nguyên Hồng (2005k:845)

* Chợ của các tay kéo xe nhưng không bằng nghề kéo xe, của các bọn ma cô có nhiều mối nhiều khách đặc biệt, của các bọn chạy hàng lậu ở Sáu Kho, ở phố khách, ở nhà ga, của các hàng thuốc lá, nước chanh bia đá, của các thứ hàng quà, và của các đám cua cá, chẵn lẻ, cát tê mà người đánh bạc phần đông là những người làm phu khuân vác, các mẹ buôn hàng xách và lũ trẻ con bấu sấu đưa đón hàng và ăn cắp hàng. Nguyên Hồng (2005c:685)

* Thưa ông... trong ga Lạc Đạo người ta ra đường đông quá. Nguyên Hồng (2005k:476)

* Đường dây thép của nhà ga mà cũng không thông với nhau? Nguyên Hồng (2005k:474)
* Nhà ga không cho lệnh mở ghi à? Nguyên Hồng (2005k:473)

* Ai muốn ra thì ra, ai muốn vào thì vào, cửa bán vé đóng, phu nhà ga và người làm tàu nằm ngủ như chết. Nguyên Hồng (2005k:475)

* Tàu Hải Phòng đổ xuống cả ga Lạc Đạo à? Nguyên Hồng (2005k:476)

* Ngày ngày xách bộ đồ thợ cạo đựng trong một hòm gỗ như của những ông phó cạo chính cống, La đi làm hôm nay ở quãng đường gần bến ôtô, nhà ga, hôm sau ở cạnh xóm chợ hay gần bến tàu thủy, hôm khác dọc bờ sông có các thuyền buôn, thuyền đá, các sà lan, boọc chở gạo, xi măng, sắt. Nguyên Hồng (2005tk:227)

* Sao bảo đi làm ký ga bên Vân Nam rồi? Tô Hoài (2005tth:633)

* Chiếc xe lửa cũ kỹ, dơ bẩn từ ngoài đến trong, kéo gần hai chục cái toa, cái gòng (wagon), thành một đoàn dài đậu sừng sững từ đầu đến cuối sân ga, cao như một bức thành màu nâu, bẩn thỉu. Nguyễn Vỹ (2006:573)

* Thời Nhật Bản, hình như thằng cha này quen xí chỗ ở ghít-sê ga Hàng Cỏ để lấy hộ vé – ăn hoa hồng – cho người khách đi tàu tốc hành Sài Goòng. Nguyễn Tuân (2006c:348)

* Cậu giáo ra ga có việc gì đấy? Nguyễn Huy Tưởng (2006sm:930)

* Thưa cụ, tôi ra ga để tiễn đẻ tôi về Bắc. Nguyễn Huy Tưởng (2006sm:930)

* Tôi ra ga tiễn đẻ tôi về quê. Nguyễn Huy Tưởng (2006sm:952)

* Ra ga Hàng Cỏ. Nguyễn Huy Tưởng (2006sm:1071)

* Phòng giao dịch của nhà Bưu điện nhốn nháo những người là người, đông như ở một nhà ga người ta đang tranh nhau lấy vé. Nguyễn Huy Tưởng (2006sm:1348)

* Nhà ga làm giữa đồng. Đã vắng lại càng vắng. Đó là một ga xép mới làm. Nguyễn Thi (2006:879)

* Cậu vừa quyến luyến chia tay với cậu Bảy Du ở nhà ga. Đinh Trần (2006:165)

* Ði một lúc chúng tôi tới một bãi đậu của xe lửa với những đường ray dọc ngang giống như ga Hòa Hưng ở Sài Gòn. Ga chỉ chứa những đầu máy xe cũ chứ không phải là ga hành khách. Sân ga có hàng rào sắt rào lại nhưng bên trong ánh đèn leo lét không một bóng người! Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 88 (2007:115, Trịnh Hảo Tâm)

* Tít đằng xa, sát bờ xương rồng của xóm Ga, có lác đác vài cái xác mặc đồ xanh tây di của quân chính qui. Phan Tứ (2007g:602)

* Thụy nhớ hồi chiến tranh chống Mỹ có một cậu chiến sĩ đã gọi những con sông dọc đường Trường Sơn là những cái ga nước. Nguyễn Minh Châu (2007n:858)

* Ngoài phố, trong nhà, giữa chợ hay ở thôn quê, đâu đâu họ cũng vấp phải những hành động tàn nhẫn của bọn quan cai trị, sĩ quan, cảnh binh, nhân viên nhà đoan, nhà ga. Nguyễn Ái Quốc (2009b:145)

* Vé này là tấm thẻ cứng, mỗi lần vào trong ga là bỏ thẻ vào máy, cổng sẽ mở và nó sẽ trả lại ở cuối cổng vào nhưng lên xe buýt không bỏ vào hộp được mà trình cho tài xế lái xe. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 93 (2009:67, Trịnh Hảo Tâm)

* Cô em chú bác Monique gặp ở Nice ngày hôm kia dặn tôi là ra ở ga cuối là ga Bibliothèque Francoise Mitterrand và bản đồ của tôi cũng ghi như vậy. Nhưng bà nhân viên của Métro mua vé giùm cho tôi nói ga cuối mới mở là ga  Olympiades và muốn đi phố Tàu ra ga này gần hơn. Monique ở Paris chắc ít khi xuống phố Tàu nên không biết đường 14 đã kéo nối dài thêm một ga. Ðể tới phố Việt Tàu nhiều người vẫn dùng đường Métro tuyến số 7 và ra ở ga Porte d'Ivry hoặc ga Porte de Choisy ở hướng Nam. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 93 (2009:67, Trịnh Hảo Tâm)

* Hệ thống RER cũng như Métro nhiều khi bị nhân viên đình công cũng là một trở ngại, điểm lưu ý thứ nhì khi sử dụng xe điện ngầm là nạn móc túi, giựt bóp xách nơi các nhà ga (nhất là khi đi thang máy chen lấn) hay trên toa tàu. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 93 (2009:67, Trịnh Hảo Tâm)

* Xe lao đi vùn vụt qua nhiều ga và mỗi nơi đều đậu lại chừng 1 phút có ngừng ở ga Lyon đèn vàng nữa. Cuối đường xe ngừng ở ga Olympiades, là ga cuối nên mọi người ra hết. Chắc đoàn xe có gắn 2 đầu máy nên nó sẽ chạy ngược về ga đầu kia là Saint Lazare cạnh khách sạn tôi ngụ. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 93 (2009:67, Trịnh Hảo Tâm)

* Lên khỏi ga xe điện ngầm ở ngã tư đường Tolbiac và Baudricourt, tôi ngơ ngác không biết đường nào đến phố Việt? Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 93 (2009:68, Trịnh Hảo Tâm)

* Từ phi trường Charles de Gaulle đi vào thành phố Paris có thể đi bằng xe điện RER (tuyến RER B3 qua ga Châtelet, Gare du Nord ở trung tâm Paris) sau đó đổi sang xe điện ngầm Métro rất nhanh chóng và rẻ hơn là dùng Taxi hay xe buýt. Các nhà ga xe điện ngầm cách nhau khoảng 500 mét nên rất thuận tiện, hành khách khỏi phải đi bộ xa. Nhiều nhà ga trang trí cũng rất đẹp như nhà bảo tàng thí dụ như các ga Louvre (Line 1), ga Varenne (Line 13), ga Abbesses (Line 12). Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 93 (2009:66, Trịnh Hảo Tâm)

* Giá vé rẻ nhất hiện nay là 1.60 Euro có thể mua ở nhà ga mỗi lần đi nhưng mua một xấp (carnet) 10 vé giá là 11.40 Euro tiết kiệm được tiền bạc và thời giờ sắp hàng mua vé. Vé này có tên là “t” dùng để đi một chuyến nhưng qua bao nhiêu ga cũng được, khi ra khỏi nhà ga thì vé hết giá trị. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 93 (2009:67, Trịnh Hảo Tâm)

* Bom gieo, súng nổ, lửa bốc. Chu Văn (2010-1:97)

* Có hai lý do để những người làm công tác tổ chức điều cô về đây, trước hết cô là người của tỉnh này, từ quê cô lên thị xã vừa đúng ba ga xe lửa, sau nữa, anh cán bộ phụ trách trạm lại vừa được gọi trở lại quân đội, làm mấy người ở lại đâm bấn lên, mỗi lần về Nha việc được đặt lên hàng đầu bao giờ cũng là xin thêm người. Đỗ Chu (2010c1:172)

* Cô đáp xe lửa và xuống ga, trạm bàn nhau khóa cửa lại rồi kéo cả xuống đón cô. Đỗ Chu (2010c1:172)

* Giữa đám đông chen chúc trên cái sân ga chật hẹp đã chịu nhiều trận bom, ngổn ngang gạch ngói và những đống hàng, họ đã nhận ra Nhiên một cách dễ dàng. Đỗ Chu (2010c1:172)

* Không ai biết cụ từ đâu đến, chỉ biết khi xuống xe hỏa ở ga Hàng Cỏ, cụ lần mò hỏi thăm người ta đường lối về ngõ Hội Vũ. Nguyễn Q. Thắng (2010đtn-03:19)

* Chúng nó lại đánh ga Trung Văn và cầu Gia Liễn rồi anh ạ. Vân Thảo (2010:280)

* Mấy chục nhà ga trên tuyến đường đều chịu chung số phận. Vân Thảo (2010:213)

* Theo ông thì chờ tàu đến nhảy lên hay vào trong ga xin xỏ đàng hoàng? Vân Thảo (2010:233)

* Đoàn tàu vận tải vào ga. Vân Thảo (2010:234)

* Dậu và Tế vội vàng gánh đôi sọt lên vai chạy về phía mấy anh bộ đội và anh nhân viên nhà ga đang đứng. Vân Thảo (2010:234)

* Ga Gia Liễn bị bom Mỹ đánh sập tanh bành, chỉ dựng lại các cột hiệu chạy tàu, còn công nhân nhà ga ở trong mấy mái lán che tạm. Vân Thảo (2010:233)

* Nhà ga kia rồi, ráng đến đó nghỉ một thể. Vân Thảo (2010:234)

* Nghỉ ở đây hay vào trong ga? Vân Thảo (2010:235)

* Vào trong ga nghỉ chuyện trò với mấy ông nhân viên nhà ga cho vui. Vân Thảo (2010:235)

* Dậu và Tế sắp đến cửa vào ga thì có mấy người mang băng đỏ trên tay đi tới. Vân Thảo (2010:235)

* Các anh kiểm tra gì thì kiểm tra đi để chúng tôi còn vào trong ga nghỉ ngơi chứ gánh bảy mươi cân đi hơn hai mươi cây số mệt muốn đứt hơi rồi. Vân Thảo (2010:235)

* Con cũng xuống ga ấy. Nguyễn Q. Thắng (2010đtn-03:130)

* Về đến ga bao nhiêu người xúm lại rầy la tôi đi đâu mà làm ba tôi xuôi ngược tìm kiếm lo âu. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 95 (2010:61, Nguyễn thái Hai)

* Về đến ga thấy ba tôi ngồi đó không có vẻ gì giận dữ cả. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 95 (2010:61, Nguyễn thái Hai)

* Con đường xe lửa này có ba cái độc đáo: nhà ga xe lửa nay đã được công nhận là di tích lich sử và văn hóa Việt Nam; đường xe lửa răng cưa (cog railroad) chỉ có tại núi Furka, Thụy Sĩ và Dalat.; cảnh đẹp nên thơ khi leo đèo Ngoạn Mục nhưng nay chỉ còn nhà ga. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 95 (2010:58, Nguyễn thái Hai)

* Nhà ga đó! Bảo Ninh (2011:182)

* Tay dẫn tôi đi ra đường, đón xe ra ga xe lửa đi về Mỹ Tho. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số  96 (2011:48, Nguyễn thị Hoàng)

* Phương-pháp thi-công đó là tuần-tự thay-thế các trà-vẹt bê-tông 2 cục với 2 lỗ cho 2 rày khổ 1000 mm., đang thông-dụng ngày nay, bằng một loại trà-vẹt mới, bê-tông một cục với 3 lỗ cho cả 3 rầy khổ 1000 mm. và 1435 mm., nằm chung nhau trên một trà-vẹt. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số  97 (2011:19, Trần Lê Quang)

* Đường nầy hiện nay là một “đường lồng”, với 3 rầy khổ 1000 mm. và 1435 mm. cùng chung trên một trà-vẹt, để có thể tiếp nhận dụng-cụ đường-sắt khổ 1435 mm. của Trung-Hoa tận tới ga Hà-Nội. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số  97 (2011:21, Trần Lê Quang)

* Tuy nhiên đường-sắt còn một ưu-thế căn-bản: là các Ga đường-sắt còn nằm gần trung-tâm các thành-phố lớn. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số  97 (2011:19, Trần Lê Quang)

* Kỹ-thuật đó sở dĩ được kết-quả là, hình như, nhờ sử-dụng một loại trà-vẹt một cục (1 bloc) bê-tông cốt-sắt “dự ứng trước” (béton armé précontraint). Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số  97 (2011:16, Trần Lê Quang)

* Nguyễn Ái Quốc vòng tới ga xe lửa. Trần Nam Tiến (2012:77)

* Điện thoại ra ga đặt vé. Nguyễn Bình Phương (2013:100)

* Chiều hôm sau, Quang Minh ra bến nhà Ga chờ đợi, chàng cảm thấy sao thời gian dài quá, nóng ruột! Cỏ Thơm số 66 (2014:91, Duy An Đông)

* Đến ga Hàng Cỏ, Chính xuống xe. Nam Dao (2014-1:73)

* Vào ga, Chính đi một vòng, lên một chiếc xe khác bảo kéo đến phố Hàm Long. Nam Dao (2014-1:73)

* Hai ngày sau, Xoan nói thác là về quê, nhưng y hẹn đến ga Hàng Cỏ gặp Chính. Nam Dao (2014-1:74)

* Ðứng cạnh hòn non bộ nay xanh rêu vì không ai chăm sóc, Nhân nhìn sang nhà ga xe lửa. Nam Dao (2014-2:503)

* Từ ga Hàng Cỏ về khu Khâm Thiên, hai bên đường toàn là người đói xin ăn. Nam Dao (2014-1:125)

* Cứ nằm đợi cho đến lúc xe ngừng, họ bồng bế nhau leo xuống, rồi lếch thếch ra khỏi nhà ga. Nam Dao (2014-1:125)

* Chiến lũy phía Nhà Ga nhộn nhịp, đường sắt gỡ ra cắm tua tủa trên những lũy đất nhô cao. Nam Dao (2014-1:375)

* Xe ngừng ở ga những tỉnh lỵ lớn, hành khách có dịp mua đồ ăn thức uống.  Nam Dao (2014-2:410)

* Trưa ngày thứ tư từ khi rời Sài Gòn, xe lửa vào ga Hàng Cỏ.  Nam Dao (2014-2:410)

* Khi Huyền xuống xe, vợ chồng Khiêm đợi trên sân ga. Nam Dao (2014-2:411)

* Tôi ra khách sạn Hoà Bình ở phòng Kỳ Vân chơi với anh em suốt chiều cho tới tận tám chín giờ sáng hôm sau tiễn ra sân ga. Trần Đĩnh (2014-1:108)

* Sáng sau tôi tiễn anh em ra ga. Trần Đĩnh (2014-1:110)

* Ra ga tiễn tôi có Hồng Linh, hai bạn biên tập viên và một chị ở văn phòng Văn Nghệ báo. Trần Đĩnh (2014-1:152)

* Thép Mới đón ở ga. Trần Đĩnh (2014-1:157)

* Chiều đầu tiên, ngừng bom, khoảng sáu giờ, tôi đến ga Hàng Cỏ. Trần Đĩnh (2014-1:429)

* Toà nhà chính của ga vẫn như một con đèo đất đỏ nằm vắt ngang giữa hai toà cánh nhà sót lại. Trần Đĩnh (2014-1:429)

* Nói xong, Tuân ngoắc can một cái chào rồi qua đường, sang đúng cửa nhà Trần Độ lúc ấy chưa “chống đảng” mới rẽ về phía ga. Trần Đĩnh (2014-1:448)

* Bảo dẫn chú đến Sở mộ phu, căn nhà gần Trường Ga có ngọn cờ đuôi nheo bẩn. Trần Đĩnh (2014-1:501)

* Vài ngày sau, bố chú, em ruột bà nội tôi, ở quê lên, khóc thảm thiết từ ga đến nhà. Trần Đĩnh (2014-1:501).

* Chúng tôi sẽ đi xe số 15 để về nhà ga trung tâm Helsinki. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 102 (2014:46, Từ Minh Tâm)

* Qua ga xe lửa. Nguyễn Vĩnh Nguyên (2016:77)

* Tiệm phở ở ga ăn cũng khá. Nguyễn Vĩnh Nguyên (2016:77)

* Ga đường sắt là nơi để phương tiện giao thông đường sắt dừng, tránh, vượt, đón, trả khách, xếp, dỡ hàng hoá, thực hiện tác nghiệp kỹ thuật và các dịch vụ khác. Luật Đường Sắt 06/2017/QH14 do Quốc Hội ban hành ngày 16/06/2017

* Khu gian là đoạn đường sắt nối hai ga liền kề, được tính từ vị trí xác định tín hiệu vào ga của ga phía bên này đến vị trí xác định tín hiệu vào ga gần nhất của ga phía bên kia. Luật Đường Sắt 06/2017/QH14 do Quốc Hội ban hành ngày 16/06/2017

* Khu đoạn là tập hợp một số khu gian và ga đường sắt kế tiếp nhau phù hợp với tác nghiệp chạy tàu. Luật Đường Sắt 06/2017/QH14 do Quốc Hội ban hành ngày 16/06/2017

* Phạm vi ga theo chiều dọc được xác định bởi dải đất từ vị trí xác định tín hiệu vào ga phía bên này đến vị trí xác định tín hiệu vào ga phía bên kia; theo chiều ngang ga được xác định bởi khoảng đất phía trong tường rào ga hoặc mốc chỉ giới ga theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Luật Đường Sắt 06/2017/QH14 do Quốc Hội ban hành ngày 16/06/2017

* Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định cấp kỹ thuật ga đường sắt. Luật Đường Sắt 06/2017/QH14 do Quốc Hội ban hành ngày 16/06/2017

* Cửa toa xe hành khách chỉ được mở khi tàu đã dừng hẳn tại ga đường sắt. Luật Đường Sắt 06/2017/QH14 do Quốc Hội ban hành ngày 16/06/2017

* Lái tàu thực hiện việc tránh, vượt tàu trên đường sắt quốc gia, đường sắt chuyên dùng theo lệnh của trực ban chạy tàu ga; trên đường sắt đô thị theo lệnh của điều độ chạy tàu đường sắt đô thị. Luật Đường Sắt 06/2017/QH14 do Quốc Hội ban hành ngày 16/06/2017

* Trưởng tàu tổ chức phân công nhân viên đường sắt và người có mặt tại nơi xảy ra tai nạn cứu giúp người bị nạn, bảo vệ tài sản của Nhà nước và của người bị nạn, đồng thời phải báo ngay cho tổ chức điều hành giao thông đường sắt hoặc ga đường sắt gần nhất. Luật Đường Sắt 06/2017/QH14 do Quốc Hội ban hành ngày 16/06/2017

* Trường hợp dừng tàu, lùi tàu khẩn cấp, trưởng tàu, lái tàu có trách nhiệm thông báo cho nhà ga theo quy định. Luật Đường Sắt 06/2017/QH14 do Quốc Hội ban hành ngày 16/06/2017

* Ga hành khách để đón, trả khách, thực hiện dịch vụ liên quan đến vận tải hành khách, tác nghiệp kỹ thuật và kinh doanh dịch vụ thương mại khác;

b) Ga hàng hoá để giao, nhận, xếp, dỡ, bảo quản hàng hoá, thực hiện dịch vụ khác liên quan đến vận tải hàng hoá và tác nghiệp kỹ thuật;

c) Ga kỹ thuật để thực hiện các tác nghiệp kỹ thuật phục vụ chạy tàu;

d) Ga hỗn hợp có chức năng của 02 hoặc 03 loại ga quy định tại các điểm a, b và c khoản này. Luật Đường Sắt 06/2017/QH14 do Quốc Hội ban hành ngày 16/06/2017

* Vị trí kết nối ray các tuyến đường sắt trong nước phải tại ga đường sắt. Luật Đường Sắt 06/2017/QH14 do Quốc Hội ban hành ngày 16/06/2017

* Đến ga thì có đại diện các anh qua các năm trước ra đón và đưa về khu học xá hiện đang trống vì học sinh nghỉ hè, còn chị bạn thì về khu cư xá nữ sinh. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 109 (2018:63, Đồng Sĩ Khiêm)

* Nhà ga nằm trên đồi cao so với bãi biển. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 109 (2018:31, Từ Minh Tâm)

* Tôi chợt nhớ ra là ngay trước cửa nhà ga Rapallo có trạm xe buýt. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 109 (2018:29, Từ Minh Tâm)

* Ngoài ra còn dự trữ một điểm lập ga mới (ga Bình Phước) để tạo điều kiện cho Nhà máy xi măng Bình Phước. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 110 (2018:54, Từ Minh Tâm)

* Nhà ga Thủ Dầu Một trước 1975 là một quán cơm xã hội. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 110 (2018:52, Từ Minh Tâm)

* Từ nhà ga Thủ Dầu Một, có một nhánh đường rầy chạy ra chợ Thủ. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 110 (2018:52, Từ Minh Tâm)

* Từ ga Thủ Dầu Một, tuyến đường xe lửa theo hướng bắc (đường Võ thành Long hiện nay) chạy dưới một chiếc cầu nhỏ bắc ngang đường Bác Sĩ Yersin (cắt ngang Tiểu Khu Bình Dương – nay là Phòng Cảnh Sát Giao Thông) sau đó ra An Mỹ rồi thẳng đường lên Bến Cát, Bến Đồng Sổ, Bầu Bàng, Chơn Thành, Hớn Quản, Lộc Ninh. Ở Lộc Ninh, ngoài nhà ga còn có Trạm Sửa Chữa và Bảo Trì đầu máy (depot). Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 110 (2018:52, Từ Minh Tâm)

* Vị trí nhà ga Lộc Ninh hiện nay là Công Ty Cao Su Lộc Ninh. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 110 (2018:52, Từ Minh Tâm)

* Ông nói ra tới nhà ga Thủ Dầu Một thì thấy xe lửa bắt đầu chạy. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 110 (2018:52, Từ Minh Tâm)

* Theo báo trong nước, dự án nầy có tổng chiều dài của tuyến là 128,5km, khởi điểm từ ga Dĩ An (thuộc tuyến đường sắt Bắc - Nam) đi qua các thị trấn Thủ Dầu Một, Chơn Thành, Lộc Ninh đến ga Hoa Lư tiếp giáp biên giới Campuchia. Toàn tuyến có tổng cộng 13 ga gồm: ga Dĩ An, Phù Trung, Thủ Dầu Một, Chánh Lưu, Bàu Bàng, Chơn Thành, Minh Hưng, Tân Khai, An Lư, Tân Phúc, Đồng Tâm, Lộc An, Hoa Lư. Khoảng cách bình quân giữa các ga là 11,7km; Khoảng cách dài nhất là giữa ga Bàu Bàng và Chơn Thành 14km và khoảng cách ngắn nhất là giữa ga Minh Hưng và Tân Khai 7,8km. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 110 (2018:54, Từ Minh Tâm)

* Sáng ra, họ lên xe lửa ở ga Đầu Cầu (ga Long Biên) để ngược Lào Cai theo vé tàu mà Giáo Minh đã lo sẵn. Chu Trọng Huyến (2019:41)

* Vì Giáo Minh - người tổ chức cho hai anh Đồng và Giáp vượt biên phải đi chuyến tàu sau nên khi xe hỏa chạy đến ga Yên Bái thì Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp phải tạm xuống, ngủ đêm tại đấy để chờ đi cùng khi chuyến tàu có Giáo Minh vào ngày hôm sau.   Chu Trọng Huyến (2019:42)

* Ba người cùng xuống một ga nhỏ cách trung tâm thị xã Lào Cai một ga. Chu Trọng Huyến (2019:42)

* Chủ tịch Hồ Chí Minh dự lễ đón mừng ở sân ga rồi lên xe, trở về Bắc Bộ Phủ. Chu Trọng Huyến (2019:142)

* Các công trình phụ trợ khác của khu ga là hạng mục công trình đường sắt bao gồm: Quảng trường ga, đường bộ vào ga, tường rào ga, thông gió, chiếu sáng khu ga, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống phòng chống cháy nổ, hệ thống đảm bảo vệ sinh môi trường, công trình phục vụ người khuyết tật, hệ thống thông tin chỉ dẫn hành khách, các công trình dịch vụ thương mại khác theo quy hoạch. Thông tư 06/2019/TT-BGTVT QUY ĐỊNH TIÊU CHÍ GIÁM SÁT, NGHIỆM THU KẾT QUẢ BẢO TRÌ TÀI SẢN KẾT CẤU HẠ TẦNG ĐƯỜNG SẮT QUỐC GIA THEO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN VÀ CHẾ ĐỘ, QUY TRÌNH BẢO TRÌ TÀI SẢN KẾT CẤU HẠ TẦNG ĐƯỜNG SẮT QUỐC GIA do Bộ Giao Thông Vận Tải ban hành ngày 31/01/2019

* Nền đường sắt là hạng mục công trình đường sắt bao gồm: Nền đường sắt chính tuyến, nền đường sắt trong ga, nền đường sắt trong khu Depot, bãi hàng; rãnh biên, rãnh đỉnh, rãnh thoát nước nền đường, rãnh xương cá, rãnh thoát nước ngầm. Thông tư 06/2019/TT-BGTVT QUY ĐỊNH TIÊU CHÍ GIÁM SÁT, NGHIỆM THU KẾT QUẢ BẢO TRÌ TÀI SẢN KẾT CẤU HẠ TẦNG ĐƯỜNG SẮT QUỐC GIA THEO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN VÀ CHẾ ĐỘ, QUY TRÌNH BẢO TRÌ TÀI SẢN KẾT CẤU HẠ TẦNG ĐƯỜNG SẮT QUỐC GIA do Bộ Giao Thông Vận Tải ban hành ngày 31/01/2019

* Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí đi đón Người đã tề tựu ở đấy. 15 giờ 05 phút ngày 21/10/1946, chuyến xe lửa đặc biệt từ ga Hải Phòng đưa Người và các vị trong đoàn về đến ga Hàng Cỏ, Hà Nội. Chu Trọng Huyến (2019:142)

* Cụ Huỳnh Thúc Kháng dẫn đầu đoàn đại biểu của Quốc hội, Chính phủ, tiếp đến là đại diện các đoàn thể đã tập hợp, chờ đợi sẵn, cùng đồng bào các giới, đứng kín cả sân ga và các đường phố bao quanh ngóng trông. Chu Trọng Huyến (2019:142)

* Tôi chạy qua Hồ Xuân Hương, rồi Nha Địa Dư, rồi Ga Xe Lửa. Đa Hiệu 115 (2019:209, Trần Văn Hổ)

* Chúng tôi ngồi uống cà phê trên sân ga. Ngôn Ngữ số 1 (2019:66-67, Hồ Đình Nghiêm)

* Nhà ga muôn đời là sân khấu xúi người ta đóng tuồng xa nhau. Ngôn Ngữ số 1 (2019:66-67, Hồ Đình Nghiêm)

* Mục tiêu tấn công là hàng loạt các địa điểm như dinh quận trưởng, đồn cảnh sát, nhà ga... Nguyễn Thị Lan Hương & Trần Tuyết Minh & Hà Anh Dũng & Vũ Sỹ Thắng & Đoàn  Tấn Dũng & Phùng Đình Ấm & Nguyễn Huỳnh Nguyễn Công Khanh & Phạm Quốc Hùng  &  Trường Quang Phúc & Trần Văn Quân & Nguyễn Thanh Danh (2020:85)

* 4 giờ 30 sáng tới ga Hàng Cỏ. Nguyễn Long Trào (2020:239, Lê Anh Xuân)

* Điểm cuối: Tại Nhà Văn hóa khu Lán Ga, phường Cẩm Đông. Đề án (dự thảo) số / ĐA-UBND về việc đặt tên đường, tên phố, công trình công cộng trên địa bàn thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh đính kèm công văn số 5373/UBND-VHTT của Ủy Ban Nhân Dân thành phố Cẩm Phả do phó chủ tịch Đinh Ngọc Thắng ký ngày 17/09/2021

* Xe chạy qua ga Hàng Cỏ. Nguyễn Thế Quang (2021:27)

* Anh đứng dậy, đầu cúi xuống như có lỗi, tiễn chị ra xe rồi thở dài, lùi lũi bước vào nhà ga đáp tàu trở lại Hamburg. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 116 (2021:40, Nguyễn Đại Hoàng)

* Ra tới nhà ga hai đàng gặp nhau, tuy không hẹn trước mà Hiển Vinh cũng không lấy làm lạ. Hồ Biểu Chánh (2022c:18)

* Ra tới nhà ga xe lửa Thu Vân hỏi thăm thầy bán giấy coi chừng nào có xe. Hồ Biểu Chánh (2022c:83)

* Sắp đi hết sân ga. Thanh Châu (2022:142)

* Xe lửa dừng lại trước một ga lớn. Thanh Châu (2022:172)

* Dự định đến thăm nhà bà dì ở Ngõ Trạm, mà trước đây là phòng mạch của bác sĩ Kỳ Quan Thân, cho nên tôi quyết định đạp xe về hướng Ga Hàng Cỏ. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số  118 (2023:49, Trần Đức Thuần)

HKTTĐ (1931:201), ĐDA (1950:709), LVH (1957:116), TN (1958:462), NVK (1959:460), TĐQSVPM (1962:118), LVĐ (1970a:513), VVM (1970:457), KMA (1977b:46), HP (1988:83), TXK (1991:350), NQT (1992:179), LNT (1993:563), NTG (1994:225), TVC (1998:571), NNY (1999:695), LKK (2001b:1049), LPT (2001:453), HHT (2002:153), PHX (2002:62), HP (2003:368), HP (2006:369), TTA (2009:54)

[ii] * Đại tá trưởng đoàn và thiếu tướng cố vấn đoàn đại diện chính phủ Hoa Kỳ, cùng là cả bấy nhiêu sĩ quan Hoa Kỳ ăn nguội sơ sơ ở ngay cái tầng gác ga bay Gia Lâm. Nguyễn Tuân (2006h:821)

* 1 giờ khuya hành khách lên tàu, bay thẳng thét, 4 giờ sáng tới Karachi, nghỉ đây một giờ; mình không xuống ga, ở lại trên tàu mặc cho lao công quét dọn; kế bay qua Téhéran, thì trời vừa rạng sáng. Vương Hồng Sển (2013h:580)

[iii] * B. Xe chở bộ hành nhiều hơn hàng hóa, bắt đầu từ ga Chợ Cũ Sài Gòn, đổ ra Chợ Mới Bến Thành, rồi chạy cặp với đường tàu hỏa Sài Gòn - Mỹ Tho dài theo đường Phạm Viết Chánh, Nguyễn Hoàng, thẳng đến ga An Bình, chạy dọc đường Thủy Binh (nay Đồng Khánh), bọc theo đường Tổng đốc Phương trổ ra ga chót là ga Chợ Cũ Chợ Lớn (ga Rodier, nổi danh xưa điếm móc túi nhiều và tài nhứt.) Vương Hồng Sển (1990:148)

[iv] * Xe lao đi vùn vụt qua nhiều ga và mỗi nơi đều đậu lại chừng 1 phút có ngừng ở ga Lyon đèn vàng nữa. Cuối đường xe ngừng ở ga Olympiades, là ga cuối nên mọi người ra hết. Chắc đoàn xe có gắn 2 đầu máy nên nó sẽ chạy ngược về ga đầu kia là Saint Lazare cạnh khách sạn tôi ngụ. Lá Thư Ái-Hữu Công-Chánh số 93 (2009:67, Trịnh Hảo Tâm)

* Tuyến đường sắt là một hoặc nhiều khu đoạn liên tiếp tính từ ga đường sắt đầu tiên đến ga đường sắt cuối cùng. Luật Đường Sắt 06/2017/QH14 do Quốc Hội ban hành ngày 16/06/2017

* Cứ như vậy, hai anh đã xuống tàu một cách an toàn ở ga Côn Minh, thủ phủ của tỉnh Vân Nam và cũng là ga cuối cùng của tuyến đường sắt ấy. Chu Trọng Huyến (2019:48)

 LPT (2001:453)

[v] TĐQSVPM (1962:118)

[vi] * Tuyến đường sắt là một hoặc nhiều khu đoạn liên tiếp tính từ ga đường sắt đầu tiên đến ga đường sắt cuối cùng. Luật Đường Sắt 06/2017/QH14 do Quốc Hội ban hành ngày 16/06/2017

TĐQSVPM (1962:118)

[vii] KMA (1977b:490), TVC (1998:571), LPT (2001:453)

[viii] LPT (2001:453)

[ix] Hồi năm 1984 – thời kỳ pêréttroi ca của Liên Xô, tôi đang dự lớp tu nghiệp quốc tế báo chí cao cấp ở Matxcơva, anh đang làm việc với bạn ở cách 2 ga mê trô, biết tôi đang do dự trong việc làm luận văn theo một đề tài rất nhạy cảm, anh liền đến ngay số nhà 19 phố Nicolai Ốttrốpski (Matxcơva) gặp tôi và khuyên tôi cứ mạnh dạn chủ động sáng tạo. Trường Giang (2009:272)

[x] * Sân bay dã chiến lúc bấy giờ lại quá trống trải. Nhà ga không còn. Kiến Thức Ngày Nay số 233 (1997:6, Huỳnh Vạn Lý)

* Ở nhà ga sân bay Tân Sơn Nhất tôi thấy người ta đón đợi ông, người ta chào mừng ông. Bảo Ninh (2011:41)

HHT (2002:32), LPT (2001:453), HHT (2002:264), HP (2003:368)

[xi] * Năm giờ hơn, xe hỏa dừng bánh ở một ga xép, trên con đường Hà-nội – Lạng-sơn. Phong Hóa Tuần Báo số 80 (1934:6, Khái-Hưng)

* Nhà hỏa xa mới xây cái ga xép ở đầu cầu Long Biên cho khách và hàng xuống chợ Đồng Xuân, khỏi phải vào ga Hàng Cỏ rồi lại phải lộn ra. Tô Hoài (2004c2:233)
* Nhà ga làm giữa đồng. Đã vắng lại càng vắng. Đó là một ga xép mới làm. Nguyễn Thi (2006:879)

* Và vậy là cái ga xép hắt hiu ngày nào, giờ bỗng trở thành ga đầu mối, phình to, chộn rộn, ồn ào như cái tổ ong, chen chúc toàn bộ đội, dân quân, dân công, thương nhân; đặc biệt là từ lúc chập tối, khi vừa ngớt tiếng máy bay. Ma Văn Kháng (2009:286)

* Các nhà ga xép. Bảo Ninh (2011:177)

* Khi gần đến nơi, nếu xuống rồi không lâu lại lên tàu giữa trung tâm thành phố Vinh thì rất dễ bị mật thám Pháp theo dõi nên anh phải dừng lại khi xe lửa đỗ ở một ga xép, là ga Thôn Thượng (Hưng Nguyên). . Chu Trọng Huyến (2019:15)

CVC (1963:716), NNY (1999:695), LPT (2001:453), HP (2003:368), HP (2006:369)

Wednesday, 3 January 2024

Thiếu tướng đặc công kể chuyện đánh sân bay Cát Bi (Lã Quý Hưng -

 

Thiếu tướng đặc công kể chuyện đánh sân bay Cát Bi
Thiếu tướng Mai Năng (bên trái)

Năm 1950, tôi là bộ đội quân báo của Tỉnh đội Kiến An, sau là tổ trưởng tổ trinh sát hậu địch chủ yếu ở khu vực Hải Phòng. Tháng 7-1953, tôi đang chuẩn bị cho trận đánh ở Đồ Sơn thì được điều về giao nhiệm vụ trinh sát chuẩn bị cho trận đánh sân bay Cát Bi.

Sân bay Cát Bi là sân bay lớn thứ nhất của Pháp ở Bắc Đông Dương, một cầu hàng không lớn nhất trong thời kỳ Pháp xâm lược, có trên dưới 200 máy bay các loại. Sân bay nằm sâu trong hậu phương của địch, có 3 mặt giáp sông, biển và một mặt giáp Hải Phòng, đựợc xây dựng một hệ thống bố phòng rất kiên cố. Lực lượng của địch thời điểm cao nhất tới 7 tiểu đoàn chủ yếu là Âu - Phi, lê dương, lực lượng thám báo người Việt. Xung quanh sân bay gồm 78 đồn bốt, tháp canh chia làm 3 tuyến vành ngoài, vành đai và trung tâm, 13 vị trí đề phòng tập kích phòng không, có 6 hàng rào dây thép gai bãi mìn, hàng ngàn đèn điện, mấy chục ngọn đèn pha chiếu quét làm cho sân bay đêm cũng như ngày, một con chuột nhắt chạy qua cũng bị phát hiện. Cứ 15 phút có một trung đội Âu-Phi trang bị cơ giới và chó nghiệp vụ tuần tra quanh sân bay một lần. Tất cả đặt dưới sự chỉ huy của một thiếu tướng Pháp và cố vấn Mỹ. Để đảm bảo tuyệt đối an toàn cho sân bay, bọn địch đã dựng một “vành đai trắng” xung quanh. Ngoài ra, hệ thống đồn bốt dọc trục đường 14 đi Đồ Sơn cũng là một lực lượng bảo vệ sân bay chiến lược này từ xa.

Đó là tất cả những khó khăn, thử thách đối với công tác trinh sát. Tổ trinh sát gồm 4 người: tôi - Mai Năng - tổ trưởng và 3 chiến sỹ My, Hồng, Diệp. Huyện Kiến Thuỵ cử một tổ 3 đồng chí trong đó có đồng chí là uỷ viên ban thường vụ đảng uỷ xã Hoà Nghĩa sang hỗ trợ. Việc đi lại, ăn ở, sinh hoạt chồng chất khó khăn bởi chưa có một cơ sở nào của ta ở địa bàn quanh sân bay. Những ngày đầu trinh sát phải nằm ngoài bờ bụi, bãi sú. Ngày qua ngày, đêm qua đêm, hằng tháng trời chưa xây dựng được một cơ sở. Đột nhiên tối hôm đó, một gia đình đóng cửa che đèn gọi bộ đội vào cho cơm ăn. Bà cụ vừa thở vừa nói: “Mẹ biết các con về lâu rồi ”. Chúng tôi giật mình. Rồi mẹ khuyên, địch đang  khủng bố dữ, hay các con tạm lánh ra vùng tự do một thời gian. Tôi cảm động và thưa với mẹ: “Cảm ơn mẹ, chúng con là cháu Bác Hồ, con của nhân dân. Nhiệm vụ của chúng con là xây dựng phong trào để giải phóng quê hương. Dù khó khăn gian khổ thế nào, chúng con cũng không thể bỏ dân mà đi được. Chúng con sẽ bám dân, bám đất cho đến ngày giải phóng”. Nghe chúng tôi bày tỏ quyết tâm, mẹ đã khóc và nói: “Từ nay các con vào, dùng ngón tay gõ nhẹ là mẹ biết”. Đó là mẹ Sàng - một cơ sở đầu tiên của tổ trinh sát ở thôn Hoà Nghĩa. Từ nhà mẹ Sàng, chúng tôi xây dựng và phát triển thêm những cơ sở mới như mẹ Tính, mẹ Vo, mẹ Tạ… Một tuần sau, mẹ Sàng bảo tôi: “Các con cứ đi đi về về thế này vất vả mà không ổn, thôi các con đào hầm bí mật trong nhà mẹ mà ăn nghỉ”. Mẹ còn giao nhiệm vụ cho anh Hàn, con trai mẹ làm nhiệm vụ canh gác cho chúng tôi. Hơn năm mươi năm trôi qua, giờ các mẹ cũng đã về nơi suối vàng nhưng hình ảnh những người mẹ yêu nước thôn Hoà Nghĩa năm ấy còn mãi trong tôi. Từ những cơ sở đó, chúng tôi nắm đựợc tình hình làm ăn của dân. Những người ra vào làm ăn ở khu vực sân bay cung cấp tình hình trong sân bay cho chúng tôi. Trên cơ sở nắm tình hình, chúng tôi chuẩn bị phương án trinh sát đột nhập, tập trung vào các điểm hàng rào, bãi mìn, đường băng, nơi đỗ máy bay, kho tàng, thông tin, trung tâm chỉ huy… Trinh sát xong, báo cáo cấp trên, tổ trinh sát đưa chỉ huy các đơn vị vào nắm tình hình trận địa, từ đó xây dựng phương án, huấn luyện chiến đấu. Cuối năm 1953, tỉnh nhất trí và lựa chọn các lực lượng đánh sân bay gồm 130 cán bộ, chiến sỹ. Mục tiêu là phá huỷ toàn bộ sân bay. Nhưng khi lực lượng vượt sông Văn Úc thì bị địch phát hiện, tàu chiến địch bắn chìm thuyền làm một số bị thương vong và bị bắt. Trận đánh phải hoãn lại.

Sau lần xuất quân bị lộ đó, tổ trinh sát đã đề xuất với cấp trên thay đổi lại phương án tác chiến, đó là “chuột nhắt chui kho, vào nhỏ ra to”. Thực hiện phương án này, tổ trinh sát của chúng tôi lại được lệnh chuyển hướng trinh sát, nắm lại tình hình. Tổ dẫn đồng chí Lê Thừa Giao chỉ huy tiểu đoàn 204 cùng vào. Trong quá trình trinh sát, tổ chức diễn đi diễn lại nhiều lần đột nhập và đã có những “sự cố” nhớ đời. Lần đầu vừa qua hàng rào một đồng chí trinh sát đá phải mìn, mìn nổ, sáng trưng một vùng, tôi đành phải kéo anh em vào trong sân bay. Địch dồn quân ra vây ngoài hàng rào, tìm không thấy gì, chúng nói với nhau: “chắc có con gì đi qua”. Lần khác vào trinh sát trạm xăng, đồng chí Hồng khi ngó đầu vào trong đã va vào một cánh cửa đánh “rầm”. Tôi đành kéo anh em trốn vào gầm máy bay. Chúng tôi nghe rõ bọn địch nói với nhau: “chắc gió to cửa sổ va vào nhau (!)”. Một tình huống khác, trời mưa dầm gió bấc, vì quá say sưa điều tra nên tổ quên cả giờ rút, đành nằm lại trong bụi cây mộc đắng, không may lại trúng một tổ kiến lửa. Gần một ngày nằm yên không nhúc nhích, tối đến, người vừa đói, mệt, toàn thân phồng dộp như bị phỏng cháy.

Sau khi hoàn tất công tác trinh sát, cấp trên quyết định tổ chức đánh. Lực lượng tham gia lần này giảm tới 2/3 chỉ gồm 32 người, 2 chỉ huy, 6 trinh sát, 24 chiến đấu viên, chia làm 2 mũi. Trang bị chủ yếu là thủ pháo, lựu đạn, tiểu liên. Ngày 3-3-1954 xuất quân ra bờ sông Văn Úc thì gặp tàu địch. Hôm sau cũng vậy. Phải thay đổi. Sáng 5-3 tới xã Hoà Nghĩa, ban ngày toàn đội hình chiến đấu xuống hầm, 19g30 đơn vị vượt qua đường 14, sông Lạch Tray. Trinh sát mở cửa, cắt dây thép, gỡ mìn đưa lực lượng vào. Đội hình chia làm hai mũi, mũi chủ yếu gồm 13 chiến đấu viên, 3 trinh sát, đánh vào khu máy bay B26, mũi thứ hai đánh vào khu máy bay trinh sát vận tải. Đúng giờ G, cả sân bay như chìm trong bão lửa, tiếng bộc phá, lựu đạn, tiếng đạn nổ hỗn loạn, máy bay địch cháy đỏ góc trời. Bọn địch sau cú choáng váng đã chống trả quyết liệt. Nhưng chúng không có cách nào dập tắt được cơn bão lửa đang tràn ngập toàn bộ sân bay! Hoàn thành nhiệm vụ, đơn vị đã rút ra ngoài an toàn.

Đây là một trận đánh chuẩn bị rất khó khăn nhưng cũng rất công phu, kỹ lưỡng, đảm bảo bí mật. Một trận đánh lớn nhất, tiêu diệt nhiều máy bay nhất, 56 chiếc chủ yếu là máy bay chiến đấu. Trận đánh đã phối hợp kịp thời, hiệu quả đối với chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: Chiến thắng trong trận đánh sân bay Cát Bi có ý nghĩa nhất đối với chiến dịch Điện Biên Phủ. Một “cầu hàng không” chủ yếu của Pháp đã bị cắt, tạo điều kiện để dân công, quân đội vào Điện Biên Phủ, giảm tối đa sự chi viện của Pháp cho căn cứ chiến lược này.

Có thể nói đây là trận đánh có ý nghĩa mở đầu, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm xây dựng lực lượng, nghiên cứu trang bị vũ khí, tìm ra cách đánh cho lực lượng đặc công, biệt động sau này. Lúc đó, 32 người đánh một sân bay, sau này ở miền Nam ta chỉ cần 1 tiểu đội. Lúc đó bình quân 2 kg thuốc nổ đánh một máy bay, sau này ta chỉ cần 200g. Và một bài học thành công rất cơ bản đó là lòng dân. Phải xây dựng đựợc cơ sở trong nhân dân làm bàn đạp để trinh sát và ém quân khi tấn công.

Đoàn chiến đấu đánh sân bay Cát Bi được nhận thư khen của Bác Hồ: Bác chúc mừng chiến công của cán bộ, nhân dân Kiến An. Bác tặng đoàn đánh Cát Bi danh hiệu “Dũng sỹ Cát Bi”. Toàn đoàn được thưởng 4 Huân chương Quân công và 28 Huân chương Chiến công.

Bản thân tôi đựơc tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và được đơn vị  bình bầu là “Dũng sỹ số 1”của trận đánh, là người đã tổ chức và triển khai thực hiện xây dựng cơ sở, tạo điều kiện cho các lực lượng chiến đấu thắng lợi. Tôi còn được đồng chí Tỉnh đội trưởng tặng khẩu cạc bin, được đi dự Đại hội thanh niên dân chủ thế giới. Bài học tôi ghi nhớ: Dù tài giỏi, dũng khí đến đâu mà không có dân thì cũng khó giành thắng lợi.

… Tôi say sưa với câu chuyện của người dũng sĩ Mai Năng. Anh còn kể tôi nghe về mối tình với cô du kích vùng Tiên Lãng. Người con gái đồng bằng, mặc áo nâu non, thắt khăn mỏ quạ, bắn súng trường rất tài ấy đã phải lòng anh bộ đội trinh sát đẹp trai, hiền lành, hơn mình 6 tuổi. Anh bộ đội trinh sát gan dạ ấy cũng yêu đến si mê cô du kích đồng bằng xinh xắn, nết na. Tình yêu của họ bền chặt dần lên trong những tháng ngày chống Pháp gian khổ. Và trước hôm người tổ trưởng trinh sát Mai Năng dẫn bộ đội vào tấn công sân bay Cát Bi 3 ngày, họ đã làm đám cưới. Năm trong sáu người con của họ nối nghiệp cha, trở thành những cán bộ quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Tôi còn được biết trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Thiếu tướng Mai Năng là một trong những cán bộ đặc công nước đầu tiên, tham gia chiến đấu và chỉ huy nhiều trận đánh vang dội của đặc công nước, phá huỷ trên 3.000 tàu, thuyền của Mỹ. Đoàn 126 mà Thiếu tướng là Phó đoàn đã 2 lần được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Đội 1 đặc công nước mà Thiếu tướng Mai Năng từng là đội trưởng đã 3 lần được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Thiếu tướng Mai Năng cũng đã vinh dự được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.       

Tuesday, 2 January 2024

Trích Lịch Sử Hải Phòng tập 3 (Nguyễn Văn Khánh chủ biên) từ trang 355 đến trang 358



 Trang 355:
Để phối hợp với mặt trận Điện Biên Phủ, Tổng Quân ủy, Bộ
Tổng tư lệnh, Khu ủy và Bộ Tư lệnh khu Tả ngạn chỉ thị cho tỉnh
Kiến An tổ chức tập kích sân bay Cát Bi - một trong những sân
bay lớn nhất của Pháp ở Đông Dương nhằm triệt phá cầu hàng
không chủ yếu của địch tiếp tế cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ. Chấp hành chủ trương của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư
lệnh, chỉ thị của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Khu Tả ngạn, ngay từ
tháng 7/1953, Tỉnh ủy, tỉnh đội Kiến An đã xây dựng phương án
tập kích sân bay Cát Bi.
Tập kích vào một căn cứ không quân thuộc loại lớn nhất của
địch ở Đông Dương, trong khi kinh nghiệm tác chiến của ta đối
với loại mục tiêu này chưa có, là một nhiệm vụ rất nặng nề đối
với quân, dân Kiến An. Nhưng với ý thức chấp hành mệnh lệnh
rất cao, từ tháng 7/1953, tỉnh đội đã huy động các chiến sĩ quân
báo đột nhập vào sân bay điều tra tình hình. Một mũi trinh sát
từ Đồ Sơn dùng thuyền vượt biển vào Đình Vũ, rồi từ đó vượt qua
bãi sình lầy vào sân bay. Nhưng do địa hình phức tạp, lương thực
hết và chưa tổ chức được cơ sở nên tổ phải rút ra ngoài. Một mũi
khác dựa vào xã Hòa Nghĩa (huyện Kiến Thụy), ven đường 14 xây
dựng cơ sở, từ đó vượt sông Lạch Tray sang sân bay. Sau hơn
bảy tháng trời ròng rã với 36 lần đột nhập vào sân bay tiến hành
trinh sát thực địa, kết hợp với các nguồn thông tin khác, các
chiến sĩ quân báo của ta đã nắm được khá chính xác tình hình
địch, các vị trí, khu tập kết máy bay, tháp canh, quy luật tuần
tra, canh gác của chúng.

Trang 356:
Công tác xây dựng cơ sở các xã ven đường 14 để từ đó vượt
sông sang sân bay được Thường vụ Tỉnh ủy được giao cho huyện
Kiến Thụy phụ trách. Huyện ủy Kiến Thụy phân công hai đồng
chí Huyện ủy viên trực tiếp xuống các xã Tân Phong, Hợp Đức,
Hòa Nghĩa làm nhiệm vụ. Nhân dân đã hăng hái giúp đỡ bộ đội,
cung cấp tình hình địch. Nhiều gia đình đào hầm bí mật ngay
trong nhà để che giấu cán bộ, bộ đội. Riêng tại xã Hòa Nghĩa, 250
căn hầm bí mật đã được chuẩn bị cho 250 đồng chí tham gia trận
đánh theo phương án chiến đấu ban đầu.
Trong khi ta đang khẩn trương chuẩn bị cho trận đánh thì
địch càn lớn. Chúng bắt được 2 đồng chí Huyện ủy viên phụ trách
việc chuẩn bị cơ sở. Các đồng chí đã hy sinh trước những đòn tra
tấn dã man của địch nhưng kế hoạch tác chiến vẫn được giữ bí
mật. Tiếp đến, trong một trận càn của địch, 2 chiến sĩ quân báo
và 1 du kích đã hy sinh.
Mặc dù bị địch càn quét khốc liệt, nhưng Tỉnh ủy xét thấy
kế hoạch tác chiến chưa bị lộ nên chủ trương tiếp tục đẩy mạnh
công tác chuẩn bị, đồng thời tổ chức tập kích sân bay Đồ Sơn để
rút kinh nghiệm cho trận Cát Bi.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy và Khu ủy, đêm 31/01/1954,
một phân đội bộ đội địa phương Kiến An tập kích vào sân bay Đồ
Sơn phá hủy 5 máy bay, đốt cháy 1 kho xăng của địch. Qua trận
tập kích sân bay Đồ Sơn, ta có thêm nhiều kinh nghiệm chuẩn bị
cho trận Cát Bi.
Yêu cầu của Khu ủy là phải phá hoại được ít nhất 50 máy
bay, đồng thời phải bảo toàn được lực lượng, bảo đảm thắng lợi cả
về quân sự và chính trị. Qua công tác nắm tình hình địch, nhất
là từ thực tiễn của cuộc tập kích sân bay Đồ Sơn, kế hoạch tập
kích sân bay Cát Bi đã kịp thời được điều chỉnh. Lực lượng ban
đầu dự kiến là 225 người - là những cảm tử quân, chấp nhận

Trang 357:
hy sinh, nay chỉ cần sử dụng 32 người. Đánh xong phải tổ chức
cho bộ đội vượt qua 3 con sông, vượt chặng đường dài 20km rút
nhanh về Tiên Lãng trước khi trời sáng. Các chiến sĩ đã tiến
hành luyện tập các phương án đánh địch dựa trên sơ đồ bố trí các
mục tiêu. Anh em phải thực hành “bôn tập” trong đêm tối trên
các cánh đồng chiêm trũng. Mỗi đêm phải chạy 30km, tốc độ phải
đạt 7km/h, phải tập bơi có mang theo vũ khí, và bảo quản tốt bộc
phá. Về cách tiếp cận mục tiêu, thời gian đầu do chưa hình dung
cụ thể về chiều cao máy bay, anh em tập chồng hai đến ba người
để có thể gắn bộc phá vào nơi quy định. Nhưng sau trận đánh vào
sân bay Đồ Sơn, ta đã xác định chính xác chiều cao máy bay cùng
các vị trí có thể gắn hoặc treo bộc phá. Công tác bảo đảm hành
quân, tác chiến và rút lui cũng được chuẩn bị chu đáo.
18 giờ ngày 05/3/1954, lực lượng tập kích sân bay Cát Bi dưới
quyền chỉ huy của đồng chí Lê Thừa Giao và đồng chí Đỗ Tất Yến
nhận lệnh xuất phát. Vị trí tập kết của đơn vị là xã Hòa Nghĩa.
Đêm 06/3/1953, từ xã Hòa Nghĩa đơn vị băng qua đường 14 sau
đó vượt sông Lạch Tray và vùng bãi lầy rộng 4 - 5km tiếp cận
sân bay.
1 giờ sáng ngày 07/3/1953, tiếng nổ của lựu đạn và bộc phá
bất ngờ vang dội sân bay Cát Bi. Một tiểu đội Âu - Phi đi tuần
và bọn lính canh gác khu vực máy bay đỗ bị tiêu diệt tại chỗ. Số
bom đạn địch chuẩn bị sẵn trong các máy bay bị nổ tung. Bọn
địch hoàn toàn bất ngờ trước đòn tiến công của ta. Chúng tập
trung hỏa lực bắn lên không trung. Mười phút sau chúng mới
phát hiện ra sân bay bị tập kích bằng bộ binh. Xe bọc thép của
địch gầm rú chạy vòng quanh sân bay, nhưng lực lượng ta đã rút
ra ngoài an toàn.
Suốt 17 tiếng đồng hồ, sân bay Cát Bi ngùn ngụt trong biển
lửa và tiếng nổ dữ dội. Nhiều máy bay địch bị phá hủy.


Trang 358:
Chiến thắng to lớn ở Cát Bi có ảnh hưởng vang dội đến chiến
trường cả nước, cổ vũ tinh thần chiến đấu và chiến thắng của
quân và dân ta. Ngược lại, quân địch bị một đòn sấm sét bất ngờ
ở Cát Bi càng thêm hoang mang, bối rối, càng thêm khó khăn
trong việc vận chuyển tiếp tế cho các chiến trường, nhất là chiến
trường Điện Biên Phủ. Đây là chiến thắng lớn nhất về tiêu diệt,
phá hủy nhiều máy bay của địch trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, góp phần quan trọng vào chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ của quân và dân cả nước. Chiến thắng Cát Bi là
kết quả của một quá trình chuẩn bị và tổ chức chiến đấu hết sức
công phu, đầy hy sinh, gian khổ của quân, dân Hải Phòng - Kiến
An. Chiến thắng Cát Bi là cơ sở thực tiễn đầu tiên để hình thành
cách đánh dùng lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, luồn sâu, đánh
hiểm của bộ đội binh chủng đặc công Quân đội nhân dân Việt
Nam sau này.
Ngay sau khi nhận được báo cáo về chiến thắng Cát Bi, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện khen và tặng đơn vị tập kích sân
bay danh hiệu “Đoàn dũng sĩ Cát Bi” và Huân chương Quân công
hạng Nhất. Đồng chí Tỉnh đội trưởng Kiến An và hai chiến sĩ
quân báo được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì.
Toàn bộ cán bộ, chiến sĩ tham gia trận đánh được tặng thưởng
Huân chương Chiến sĩ (Huân chương Chiến công) hạng Nhất.


Monday, 1 January 2024

Ai vấn mà cố?

 


Trong tiếng Pháp conseiller tùy trường hợp có nghĩa là cố vấn (personne qui donne des conseils) hay thành viên của một hội đồng (membre d’un conseil).

Sách Lịch Sử Hải Phòng tập 3 của Nguyễn Văn Khánh (2021-03:20) viết:

* Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 19/7/1888 quy định: Tại mỗi thành phố Hà Nội và Hải Phòng thành lập một hội đồng thành phố gồm một đốc lý với 16 cố vấn đối với Hà Nội và 14 cố vấn đối với Hải Phòng. Nghị định cũng quy định số cố vấn người Việt là 4 người đối với Hà Nội và 2 người đối với Hải Phòng. Nguyễn Văn Khánh (2021-03:20)

Hiểu như sách Lịch Sử Hải Phòng tập 3 là không hiểu gì hết về tổ chức của một hội đồng thành phố.