|
|
|
|
Ông Thảo chụp trái lựu đạn đang xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao. Nếu liệng ra bên ngoài thì chết dân, liệng bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà thờ...
|
Phạm Ngọc Thảo lúc làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa - Ảnh: LIFE
|
Hành động của Phạm Ngọc Thảo tại Bến Tre như thả tù chính trị và khôn khéo lái các cuộc hành quân tảo thanh vào chỗ không người đã góp phần quan trọng vào việc bảo tồn lực lượng cách mạng, tạo điều kiện mở rộng cuộc Đồng khởi ở miền Nam. Nhưng đó là nhận định sau này, khi đã biết Phạm Ngọc Thảo là người của ta. Còn lúc đó, nhận định của Tỉnh ủy Bến Tre thì hoàn toàn ngược lại.
Chúng tôi đã gặp một trong hai người trực tiếp ném lựu đạn giết Phạm Ngọc Thảo. Đó là ông Đặng Quốc Tuấn (Sáu Tuấn), sau này là Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn, rồi làm Giám đốc Đài phát thanh - truyền hình tỉnh Bến Tre cho đến khi về hưu. Người kia là ông Ngô Văn Thiều đã qua đời.
Hôm đó là ngày Quốc khánh VNCH 26.10.1961, một cuộc mít tinh lớn biểu dương lực lượng được tổ chức tại Quảng trường An Hội, ngay đầu cầu Bến Tre 1 chợ Vườn Hoa bây giờ. Người giao nhiệm vụ là ông Hai Trung, Tỉnh ủy viên phụ trách Thị ủy. Nhiệm vụ ông Hai Trung giao trực tiếp cho ông Thiều, đã thoát ly, cùng 5 trái lựu đạn, 3 trái nội hóa, 2 trái MK2 của Mỹ. Ông Thiều giao nhiệm vụ lại cho ông Sáu Tuấn, lúc đó 17 tuổi, đang học đệ tam (lớp 10). Mỗi ông cầm 1 trái lựu đạn MK2, 3 trái kia để ở nhà ông Thiều. Ông Thiều đứng tại vị trí ngay trụ sở Báo Đồng Khởi bây giờ, còn ông Sáu Tuấn đứng cách 10 m. Theo hợp đồng, ông Thiều ném trước, ông Sáu Tuấn ném tiếp theo, ném xong chạy về tập kết tại nhà ông Thiều ở thị xã.
Ông Sáu Tuấn kể: “Sau khi ông Thảo đọc diễn văn, lúc đó khoảng 8 giờ 30, tới phần diễu hành. Tất cả quan khách đứng lên nhìn ra phía diễu hành. Ông Thiều liệng 1 trái, lựu đạn rơi cách ông Thảo 1,5 m, không thấy nổ, tôi liệng tiếp 1 trái cách ông Thảo 5 m rồi bỏ chạy, cũng không nổ luôn. Lúc đó bọn tôi bỏ chạy không để ý, sau giải phóng chị Nhiệm vợ ông Thảo về Bến Tre gặp chúng tôi có nói lại mới biết lúc đó ông Thảo chụp trái lựu đạn đang xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao. Nếu liệng ra bên ngoài thì chết dân, liệng bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà thờ. Đang không biết làm sao thì thấy khói dần dần mỏng ra, ổng biết lựu đạn lép, nên nắm chặt luôn. Tôi chưa biết ông Thiều bị bắt tại chỗ, nên chạy về nhà ông Thiều định lấy tiếp 3 trái còn lại. Rủi cho tôi, tại nhà ông Thiều đã có mật báo dẫn người lên ém, tôi đến bọn chúng giữ lại, chưa bắt ngay. Chúng vô nhà xét, lấy 3 trái lựu đạn và chiếc cặp da đi học tôi để ở nhà ông Thiều, vì cái cặp da có giấu cây súng trước đây tôi để trong cặp, nên tôi bị bắt, bị đánh tại chỗ. Tôi và ông Thiều bị giam riêng. Do không lường trước là bị bắt nên chưa thống nhất cách khai, vì vậy mỗi người nói một phách. 20 ngày sau, khi giam chung mới thống nhất lại”.
Sau khi bị bắt 1 tuần, ông Thảo có gặp hai ông. Lần đó, một cố vấn Mỹ thẩm vấn, ông Thảo làm phiên dịch. Hỏi: “Tại sao là học sinh mà đi ám sát tỉnh trưởng ngay tại ngày quốc khánh? Có phải cộng sản giao việc không? Ai là người giao việc?”. Trả lời: “Do chính quyền độc ác, đàn áp ức hiếp giết hại dân. Chúng tôi học tập gương của Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học đứng lên đấu tranh, không liên quan gì tới cộng sản, không có ai giao việc cả”. Ông Thảo dịch như thế nào ông Sáu Tuấn không biết. Ông Thảo chỉ nói với hai ông: “Các em còn nhỏ, phải lo chuyện học hành, chính trị là chuyện của người lớn, sau này lớn lên muốn làm gì thì làm”. Lần thứ hai, ông Thảo đến hỏi thăm trước khi đưa về Chí Hòa.
Tháng 3 năm sau, Tòa án quân sự đặc biệt mở phiên tòa xử hai ông theo luật 10/59, một đại tá tên Khoa làm công tố. Do có sự vận động của phong trào yêu nước ở Sài Gòn, nên luật sư Trịnh Đình Thảo đến bào chữa cho hai ông. Tuy nhiên, hai ông tự cãi là chính. Hai ông tố cáo sự tàn bạo của chế độ và dõng dạc nói: “Tụi tôi không phải là Việt cộng, nhưng nếu như được Việt cộng tổ chức làm như vậy tụi tôi cũng tham gia”. Hai ông còn lên án phiên tòa vi phạm luật quốc tế, xử vị thành niên chưa tới 18 tuổi, đại tá Khoa rút gươm lệnh ra nói lớn: “18 tuổi là luật cộng sản, Việt Nam cộng hòa xử 13 tuổi”. Do những gì cần cãi hai ông đã tự cãi rồi, nên luật sư Trịnh Đình Thảo chỉ đề nghị khoan hồng.
Hai ông bị kết án mỗi người 20 năm tù, đưa về Chí Hòa, sau đó đưa ra Côn Đảo, chung một chuyến với những người tù nổi tiếng Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư. Ngoài Côn Đảo, hai ông đấu tranh, chống chào cờ, được kết nạp Đảng trong tù. Năm 1965, sau khi ông Thảo bị sát hại, bỗng nhiên hai ông được đưa về Chí Hòa, lúc ấy anh em trong tù nhận định hai khả năng, hoặc là được thả hoặc tăng án lên tử hình. Lúc đó 2 ông đã chống chào cờ rồi, về Chí Hòa chúng chỉ yêu cầu hai ông chào cờ, nhưng hai ông dứt khoát không chịu, mà chống chào cờ là tự nhận là cộng sản, nên dù ông Thảo có là cộng sản đi chăng nữa thì tội của hai ông cũng không nhẹ đi được, do đó sau 20 ngày chúng đưa trở lại Côn Đảo. Ông Thiều được thả năm 1973, thoát ly lên chiến khu, sau giải phóng làm cán bộ Ban Tổ chức Thành ủy TP.HCM, qua đời năm 1984 vì bệnh. Còn ông Sáu Tuấn đến ngày giải phóng mới về.
Chúng tôi hỏi ông Sáu Tuấn: “Có phải 2 trái lựu đạn không nổ là do tổ chức bố trí để ám sát giả?”. Trả lời: “Không có chuyện đó. Ám sát ông Thảo là làm thiệt. Lựu đạn thối, có khả năng là có nội gián của địch trong công binh xưởng lúc kiểm tra lựu đạn. Sau này ta đã bắt được một ông. Làm cho lựu đạn không nổ rất đơn giản, chỉ cần nhúng sáp đèn cầy vào tim cháy chậm, khi giật lửa cháy lên khiến cho sáp chảy ra bít ngòi nổ”. Hỏi: “Tại sao Tỉnh ủy phải quyết giết ông Thảo?”. Trả lời: “Mãi sau này mới biết ông Thảo có công lớn, chứ theo nhận định của Tỉnh ủy lúc đó thì khi phong trào Đồng khởi đang lên mà ông Thảo lại thả tù, người mới bắt thì đối xử tử tế, gom vào sân vận động giải thích rồi cho về hết, làm nhụt ý chí chiến đấu của quần chúng. Đó là tên tỉnh trưởng mỵ dân rất nguy hiểm, cần phải trừ khử”.
Vì giết ông Thảo mà ông Sáu Tuấn ở tù 14 năm, 17 tuổi vào tù, ra tù 31 tuổi. Bà Phạm Thị Nhiệm thỉnh thoảng về nước đến Bến Tre thăm lại những kỷ niệm xưa, đều thăm ông Sáu Tuấn, bà nói: “Ngày xưa anh Thảo vẫn nhắc đến tụi mày”. Các con ông Thảo cũng có về. Ông Tuấn nói con ông Thảo một đứa sinh ở Bến Tre, một đứa khác vừa rồi về cưới vợ, nghe đâu ở An Giang.
(Còn nữa)
Theo Hoàng Hải Vân/TNO
|
| ||||
Huyền thoại Mười Thương | ||||
Thứ năm, 26/04/2012 09:17 | ||||
Người ba lần ám sát Ngô Đình Diệm mang bí danh Mười Thương (tên thật là Phan Văn Điền) và đồng đội của ông - những chiến sĩ biệt động, tình báo quả cảm. Đây là những thông tin lần đầu tiên được công bố.
PHÁT SÚNG TRÊN CAO NGUYÊN Từ năm 1954 đến 1957, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, Xứ ủy Nam kì thực hiện việc ngừng bắn, ai sử dụng súng sẽ bị kỉ luật. Thế nhưng chính quyền Sài Gòn vẫn đàn áp, bắt bớ, bắn giết cán bộ cách mạng ở khắp nơi. Các lực lượng vũ trang của ta phải lui vào hoạt động bí mật. Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư Xứ ủy Nam kì - chỉ đạo: “Đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang để diệt địch bằng các tổ diệt ác, chứ không phải quân đội”. Ban địch tình của Tỉnh ủy Tây Ninh ra đời trong hoàn cảnh này. Ông Lâm Kiểm Xếp (Năm Xếp) được cấp trên cử làm trưởng ban, phó ban là ông Nguyễn Thành Dương và ủy viên duy nhất chính là Mười Thương. Mười Thương được cấp trên giao cho hai khẩu súng, năm quả lựu đạn. Trong một đêm tối trời, tại ấp Rỗng Tượng, xã Thanh Phước, huyện Gò Dầu, kế hoạch ám sát Ngô Đình Diệm được vạch ra khi Diệm lên Buôn Mê Thuột dự hội chợ kinh tế cao nguyên. Nhiệm vụ cảm tử được giao cho Mười Thương (trước đó Mười Thương đã hai lần lập kế hoạch ám sát Diệm nhưng không thành, vào tháng 10 và Noel năm 1950). “Chỉ được dùng súng bắn mục tiêu cố định”, Năm Xếp chỉ đạo. Mãi sau này Mười Thương mới hiểu rằng cấp trên không cho ông sử dụng lựu đạn vì có thể làm chết nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo trong vai trò cố vấn của Ngô tổng thống. Phương án của Mười Thương là hành động, hy sinh và bị bắt, chứ không thể thoát được. Hy sinh thì thôi nhưng nếu bị bắt, Mười Thương phải khai là do Dương Văn Minh - tư lệnh Biệt khu thủ đô, Nguyễn Hữu Châu - chủ nhiệm phủ tổng thống, là anh em cột chèo của Nhu (lấy Trần Lệ Thu, em ruột Trần Lệ Xuân, vợ Ngô Đình Nhu) và Mai Văn Xuân - Giám đốc Nha an ninh quân đội... chỉ đạo ám sát. Tóm lại, phải khai là do bộ ba Mai - Dương - Nguyễn (họ của ba tướng ngụy). Ông Mai Chí Thọ (khi đó là Phó ban địch tình Xứ ủy) dặn đi dặn lại Mười Thương là phải khai làm sao để Diệm bắt buộc “xử” một nhân vật đặc biệt nguy hiểm là Mai Văn Xuân. Trong phong trào Nam kì khởi nghĩa tại Hóc Môn, Xuân đã bắt chị Nguyễn Thị Minh Khai, xử tử tại ngã ba Giồng. Tại Sài Gòn, Xuân hai lần bắt hụt ông Mai Chí Thọ, khi đó còn là Phó bí thư thường trực Đặc khu Sài Gòn - Gia Định. Chính Xuân còn tổ chức vây bắt nhạc sĩ Xuân Hồng và rất khát máu đối với cộng sản. Nhiều đồng chí của ta đã phải dạt lên tận biên giới để hoạt động. Ngày khai mạc hội chợ đến gần, Mười Thương và một nữ đồng chí là Nguyễn Thị Dân (Bảy Nhanh) bắt xe đò lên thủ phủ Tây nguyên. Bảy Nhanh có nhiệm vụ mang súng ngụy trang dọc đường và báo tin về cấp trên. Kế hoạch chuẩn bị đã xong, Mười Thương bảo Bảy Nhanh về trước vì nếu ở lại thì đồng chí này sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm. Ngày 22-12-1957, Mười Thương vào hội chợ với giấy thông hành mang tên Hà Minh Trí, một thương nhân Tây Ninh. Ông mặc áo sơ mi bên trong, bên ngoài mặc áo gió, che phủ khẩu tiểu liên đã được cưa báng hiệu MAT 47, có băng đạn 22 viên. Là kẻ háo danh, Đỗ Quang Công - Bộ trưởng canh nông - luôn theo sát tổng thống để được xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng vào tối cùng ngày. Tới lúc chào cờ, Diệm đứng vào vị trí và người lính biệt động cảm tử áp sát mục tiêu. Khi tên thượng sĩ an ninh quân đội to cao, đội mũ kê pi, đưa tay lên chào cờ, Mười Thương lập tức siết cò. Không ngờ đúng lúc ấy viên bộ trưởng canh nông chèn người tới bên cạnh tổng thống để được chụp ảnh nên viên đạn đi thẳng vào người hắn. Công gục xuống, Diệm ngoái đầu nhìn theo hướng súng nổ, mặt đỏ lựng. Tên thượng sĩ an ninh quân đội lập tức chụp tay Mười Thương nhưng không kịp. Di chuyển được vài mét, hơn 10 tên cảnh sát ngụy vây tròn, đè lên người Mười Thương. Vốn là dân biệt động, Mười Thương nhanh trí la lên: “Tao cho tụi bay chết bằng lựu đạn”. Cảnh sát ngụy đều nằm sấp xuống đất. Thừa cơ hội này, Mười Thương bỏ chạy nhưng bị bắt lại. Khẩu súng MAT 47 bị tịch thu. Mười Thương bây giờ Sau khi bị bắt tại hội chợ cao nguyên, Mười Thương bị đánh đập cả một ngày rồi bị đưa vào tiểu khu Buôn Mê Thuột để lấy cung. Trong phòng hỏi cung, đích thân Ngô Đình Nhu, Trần Kim Tuyến, Phạm Ngọc Thảo (cố vấn cho Diệm) tra hỏi. Lịch lãm, khôn ngoan, Phạm Ngọc Thảo phải tạo vỏ bọc của một kẻ thân Diệm - Nhu, có tội với cộng sản để thực thi nhiệm vụ. Nhằm qua mắt bọn chóp bu chính quyền và mật vụ có mặt trong phòng, Phạm Ngọc Thảo hất hàm hỏi Mười Thương: - Ai chủ trương cho mày giết tổng thống? - Thiếu tướng Mai Văn Xuân và Cao Đài liên minh. - Còn ai nữa không? - Dạ còn Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Châu. - Tại sao mày giết tổng thống? - Ngô Đình Diệm là kẻ ác nhất miền Nam, đem quân bao vây tòa thánh của chúng tôi, bắt bớ nhân dân và chiến sĩ Cao Đài; hành hạ, giết chết cố trung tướng Trịnh Minh Thế (bị Diệm mời về cộng tác rồi ám sát để trừ hậu họa - PV). Tôi giết Diệm để trả thù cho hộ pháp Phạm Công Tắc, người đứng đầu Cao Đài Tây Ninh (phải đào thoát sang Campuchia tháng 2-1956). Tôi giết Diệm để trả thù cho đạo giáo. - Mày khai đạo Cao Đài, vậy thì mày học trường nào? - Trường Lê Văn Trung. Nghe đến đây, mặt Nhu biến sắc. Nhu ra lệnh tất cả sĩ quan có mặt trong phòng phải im lặng, không được tiết lộ chuyện động trời này ra ngoài. Theo lệnh Nhu, Tuyến lấy sổ ra ghi tên từng người vì hôm đó có mặt cả an ninh quân đội, phòng ngừa bọn chúng sẽ báo lại cho Xuân và Xuân sẽ trốn thoát. Dù không hề biết Phạm Ngọc Thảo chính là người của cách mạng nhưng Mười Thương nhớ mãi ánh mắt đồng cảm, chia sẻ của ông. Linh tính cho Mười Thương biết Thảo là tình báo. Trong suốt cuộc hỏi cung, ngoài kiểu ăn to nói lớn của Thảo thì Mười Thương hiểu Thảo đang gợi mở câu chuyện để buộc tội cho nội bộ địch. Hôm sau lên văn phòng Trưởng ty công an tại Buôn Mê Thuột, mới bước lên thềm thì Mười Thương đã thấy một tướng ngụy chờ sẵn. “Mày ngồi đó” - y hét. Nhìn lên bảng tên người vừa ra lệnh, Mười Thương mới biết đó là... Mai Văn Xuân! Đẩy tấm hình 4x6cm về phía Mười Thương, Xuân quát: - Mày khai là Cao Đài, vậy mày có biết hình ai đây không? - Đó là thiếu tướng Nguyễn Văn Mạnh, em giáo chủ Cao Đài Trịnh Minh Thế - Mười Thương nói một hơi theo kế hoạch đã chuẩn bị sẵn. “Mình khai ở đạo Cao Đài, nó đưa hai sĩ quan rành về Cao Đài nhất để hỏi cung. Cũng may là mình biết, chứ không là no đòn” - Mười Thương nghĩ bụng. 12 giờ đêm hôm trước, trung tá Tạ Thành Long - phủ Đặc ủy trung ương tình báo - cũng đến hỏi cung Mười Thương. Long là thầy dạy lớp 2 cho Mười Thương (12 tuổi, Mười Thương mới đi học) ở đạo Cao Đài năm xưa. Năm 1953, Bộ Giáo dục ngụy bắt giáo viên đi lính, trong đó có Long rồi từ đó Long mất hút. “Ổng không biết tôi, nhưng tôi biết ổng. Chắc ổng không nhớ đứa học trò hồi đó giờ lại làm cách mạng” - Mười Thương tự nhủ. Mười giờ sáng hôm sau, địch đưa Mười Thương lên máy bay về Sài Gòn. Trên máy bay, ông thấy nhiều sĩ quan gồm: Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Mai Văn Xuân... Về đến trụ sở địch đóng gần Sở thú (nay là Thảo Cầm Viên), chúng đánh đập người chiến sĩ cách mạng với màn tra khảo gọi là “liên hoàn thẩm vấn” với bốn êkíp, mỗi êkíp có ba tên mật vụ (một ghi cung, hai tên tra tấn). Êkíp đầu tiên đấm đá túi bụi. Tiếp theo là màn đổ nước, chúng đổ nước có pha ớt bột, chất tẩy bồn cầu vào miệng tù nhân. Màn thứ ba là tra tấn bằng điện. Kết thúc bằng kiểu bắt đứng đèn. Mười Thương bị hai bóng đèn 500W chiếu thẳng vào mắt. Nếu phản ứng sẽ bị đánh nhừ tử. Khi đó, ông lấy tay sờ tóc thì phải rút lại vì quá nóng. Suốt thời gian này, địch không cho Mười Thương ăn, uống, ngủ. Không thể chết khát, Mười Thương giả vờ đi toilet để hứng nước tiểu uống nhưng cũng bị phát hiện, đá văng. Tra tấn suốt một tháng ba ngày, địch kết thúc hồ sơ. Năm 1962, ông được đưa về giam tại Tổng nha Cảnh sát. Về phần nội bộ địch, Diệm thẳng tay trừng trị các tướng lĩnh. Dương Văn Minh, tư lệnh Biệt khu thủ đô bị điều về làm Tổng thư kí Bộ Quốc phòng, tướng cầm quân thành không quân. Nguyễn Hữu Châu - Bộ trưởng, chủ nhiệm phủ tổng thống, là anh em cột chèo của Diệm - phải trốn sang phương Tây. Mai Hữu Xuân đi làm đại sứ tại Philippines. Năm 1963, bộ ba Dô-Xu-Ki (tức Trần Văn Đôn, Mai Văn Xuân, Nguyễn Cao Kỳ) làm đảo chính, bắn chết Diệm - Nhu. Vợ Nhu là Trần Lệ Xuân dẫn bốn đứa con (hai trai, hai gái) trốn ra nước ngoài. Cách đây vài ngày, con út của Ngô Đình Nhu là Ngô Thị Lệ Quyên, 53 tuổi, chết do tai nạn giao thông. Vài năm trước, một người con gái của Nhu cũng chết vì tai nạn giao thông tại Pháp. Tháng 8-1963, ông được đưa ra Tòa án quân sự đặc biệt của vùng 3 chiến thuật để xét xử, nếu bị án tử sẽ đưa về quê hương để thi hành, nhằm trấn áp phong trào cách mạng. Trước đó, một đồng chí của Mười Thương là Hoàng Lệ Kha đã bị địch hành quyết ở Tây Ninh. Khi bị dẫn giải ra tòa, Mười Thương không hề biết đây là phiên xét xử dành riêng cho ông. Kết thúc phiên tòa, Mười Thương được đưa về biệt giam. Ông bị nhốt chung với các đồng chí: Võ Văn Tuấn - Thường vụ Tỉnh ủy Tây Ninh, Hoàng Tam Kỳ - Bí thư Tỉnh ủy Gia Định, Lê Minh Quới - thư kí đồng chí Lê Duẩn... Qua đồng đội, Mười Thương mới biết Tòa án quân sự đặc biệt vừa xử ông và kết án tử hình. Năm 1963, Diệm - Nhu bị đảo chính nhưng gia đình này vẫn còn mạnh. Chúng gọi Trần Thiện Kim - Tư lệnh QK4 - về giải vây. CHUYỆN TÌNH NGƯỜI TỬ TÙ Giữa thời chiến mịt mù khói thuốc của đạn pháo, bom mìn..., chuyện tình yêu của Mười Thương vẫn ngời sáng như một vẻ đẹp lãng mạn của tinh thần cách mạng kiên cường. Tình yêu của ông bắt đầu từ buồng biệt giam. Đầu năm 1964, địch đưa Mười Thương về Trung tâm thẩm vấn của Tổng nha Cảnh sát tiếp tục tra tấn dã man nhưng chỉ nhận được sự im lặng. Mười Thương bị giam tại phòng số 10, buồng biệt giam, Tổng nha Cảnh sát. Ông là phạm nhân số 1, bọn cai tù có 10 điều quy định với riêng ông: chìa khóa buồng giam do đích thân giám đốc Trung tâm thẩm vấn giữ, không để tử tù tự tử, cấm cai tù nói chuyện với phạm nhân; phạm nhân cần gì, giám đốc thẩm vấn trực tiếp xuống... Cách đó không xa là buồng số 8 giam tám nữ sinh viên. Cô gái có tên là Nguyễn Kim Hưng lúc đó chỉ mới 16 tuổi, quê ở huyện Đức Hòa, Long An, bị giam chung với Phan Thị Hồng - vợ ông Nguyễn Ngọc Trân (nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội). Bị bắt cùng đợt đó còn có Lê Quang Vịnh, Nguyễn Hồng Tư... Cứ nghe tiếng mở cửa buồng biệt giam, Mười Thương lại thừa biết bọn cai tù đang mang các nữ đồng chí ra để tra khảo. Khi thấy những thân hình tiều tụy của các nữ sinh viên trở về phòng, ông và đồng đội lại đứng sau song sắt, ngay cạnh hành lang để cổ vũ, động viên. Với riêng Kim Hưng, đôi mắt Mười Thương sáng rực. Đã bao lần hai người chỉ kịp nhìn thấy nhau trong vài giây rồi mất hút giữa vòng vây của cai tù. Một ngày nọ, cai ngục đưa các cô gái đi giam ở nơi khác, Mười Thương thấy thiếu vắng đi nụ cười, ánh mắt của cô gái tên Hưng. Ông biết ông đã yêu từ dạo đó. Thời gian như thoi đưa, khi ra chiến khu, Mười Thương lại tình cờ gặp lại cô gái mà ông đã thầm thương trộm nhớ. Kim Hưng hỏi Mười Thương: “Anh ra hồi nào?”. Hai người tay bắt mặt mừng. Khi họ biết không thể sống thiếu nhau trong cuộc đời này thì đám cưới của họ được tổ chức đơn sơ, giản dị... Đến bây giờ, vợ Mười Thương vẫn bẽn lẽn bên chồng: “Ngày đó nghe anh hát hay quá. Em mang theo những bài ca cách mạng do anh hát vào cả giấc mơ”. RẠNG NGỜI HẠNH PHÚC Gia đình ông có năm người con, “nếp, tẻ” đầy đủ, hiện công tác tại: Hải quan TP.Hồ Chí Minh, Công an Tây Ninh, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Tây Ninh... “Tôi không xin xỏ công việc cho các con, các con đều phải tự vận động như bao người khác” - Mười Thương nói. Thấy khách lạ, những đứa cháu ngoại của ông vòng tay lễ phép chào chúng tôi. Vợ ông là thượng tá, nguyên Trưởng phòng công tác chính trị Công an tỉnh Tây Ninh, bí danh đi cách mạng là Triệu Nhã Nam, cựu học sinh trường Gia Long, quê ở huyện Đức Hòa, Long An. Còn Mười Thương thì công tác tại công an tỉnh đến năm 1989, dù đến tuổi về hưu nhưng Tỉnh ủy Tây Ninh vẫn giữ lại, phân công ông làm Phó ban Nội chính Tỉnh ủy rồi Trưởng ban Tôn giáo. Năm 1999, ông nghỉ hưu và sống cùng gia đình. Cách đây bốn năm, trong một lần chở vợ đi công việc, vợ chồng ông bị tai nạn giao thông. Suốt từ ngày đó đến nay, Mười Thương phải săn sóc, mát-xa, đút cơm cho vợ mỗi ngày. “Sau khi về hưu, chú đã dẫn vợ và gia đình đi thăm thú nhiều nơi trong cả nước. Chú vẫn còn nợ thím hai chuyến đi đảo Lý Sơn và Phú Quốc vì chưa kịp đi thì thím bị tai nạn” - Mười Thương tâm sự. Tôi nhìn khóe mắt ông có gì đó cay cay. Thương cha mẹ vất vả, cô con gái của ông đã xin nghỉ việc ở Đại học Y dược TPHCM để về quê công tác, tiện chăm sóc mẹ. Trong lần Ban tử tù miền Nam ra Hà Nội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao thư kí riêng đón tiếp gia đình Mười Thương tại nhà riêng. “Hồi giờ bác Giáp chưa chụp hình chung với một gia đình nào cả” - vị thư kí nói. Tuy nhiên, khi vào phòng khách thì bác Giáp ra hiệu cho cả gia đình Mười Thương cùng chụp hình chung. Giờ đã về hưu nhưng các cuộc họp ở tỉnh không bao giờ thiếu ông. “Sáng nay, chú mới đi họp với Tỉnh ủy về Nghị quyết Trung ương 4” - ông khoe bằng giọng hồ hởi. Trong căn nhà lồng lộng gió, Mười Thương hào hùng, rực lửa như thời ông đi cách mạng. Tuổi xế chiều, người lính biệt động năm nào vẫn khỏe mạnh, duy chỉ có một chân của ông đã mãi mãi nằm lại nơi chiến trường. Trở mùa là chân ông bị giật, phải uống thuốc của Ban bảo vệ sức khỏe. Chúng tôi nhìn ông với ánh mắt thán phục và nguyện ước cho ông cùng gia đình được sức khỏe dồi dào để truyền lại cho các thế hệ hôm nay và mai sau những ký ức không thể phai nhạt. | ||||
AN HÒA - GIA MINH |
Nghị quyết được ban hành ngày 18 tháng 1 năm 1957 và hết hiệu lực ngày 30 tháng 4 năm 1975. |
Ông Hà Minh Trí và vợ trong cuộc gặp mặt với Đại tướng Võ Nguyên Giáp (ảnh do gia đình cung cấp |
Gặp người tử tù mưu sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm ở Hội Chợ Tết Ban Me Thuột năm 1957Trúc Giang MN
x...
x...
1* Mở bài Thời gian 1957, tổng thống Ngô Đình Diệm được suy tôn là một nhà chí sĩ yêu nước, người đã thành lập nước Việt Nam Cộng Hoà. Miền Nam sống trong thời thái bình, là điều kiện để nước Việt Nam Công Hòa non trẻ phát triển về mọi mặt. Tin tức về ngưới ám sát tổng thống Diệm ở Ban Mê Thuột đã gây chấn động trong quần chúng. Năm 1963, nhóm bạn trẻ chúng tôi đang sống và làm việc tại tỉnh Côn Sơn, rất nôn nao trước tin tức những chính khách tham gia đảo chánh ngày 11-11-1960 và người mưu sát tổng thống Diệm đã được đưa ra trại tù Côn Đảo. Nôn nao muốn được gặp mặt để thấy rõ hình dung của những chính khách đã từng được báo chí nhắc đến, đồng thời tìm hiểu thêm tin tức của người trong cuộc. Riêng đối với tử tù đã ám sát ông Diệm, câu hỏi mà chúng tôi cần có câu trả lời, anh ta là người quốc gia hay Cộng Sản? 2* Gặp người tử tù đã mưu sát tổng thống Ngô Đình Diệm Chúng tôi muốn gặp phạm nhân mang án tử hình tên Hà Minh Trí nhưng quy định của nhà tù Côn Đảo cấm quân nhân và công chức tiếp xúc với phạm nhân, nhất là đối với tù Cộng Sản. Người bạn của tôi, anh Nguyễn Văn Sáu, được gọi là Sáu Y Tế, vì anh là nhân viên của ty Y Tế Côn Sơn, đã có cơ hội gặp Hà Minh Trí nhiều lần. Ty Y Tế Côn Sơn, ngoài việc chăm sóc sức sức khỏe cho công chức và quân nhân cùng gia đình của họ, còn chăm sóc sức khỏe cho tù nhân ở các trung tâm trong nhà tù Côn Đảo. Anh Sáu thuật lại: “Hà Minh Trí là một thanh niên khoẻ mạnh, mặt mày sáng sủa dễ coi, ăn nói khá hoạt bác. Khi tôi đến gặp anh ở bàn làm việc bên ngoài chuồng cọp, anh khai bịnh: hai mắt bị mờ, nướu răng chảy máu. Đó là tình trạng thiếu dinh dưỡng. Tôi cho anh vitamine C, vitamine A&D và đa sinh tố deficiency. Hà Minh Trí yêu cầu tôi giữ anh ta ở lại bàn làm việc càng lâu càng tốt, vì anh ta muốn hít thở không khí và tiếp nhận ánh sáng bên ngoài một thời gian lâu dài trước khi trở lại chuồng cọp. Tôi chưa thể hiện sự chấp thuận, bèn hỏi: “Tôi thành thật hỏi anh, và cũng yêu cầu anh trả lời thành thật, anh là người quốc gia hay là người của phía bên kia?. Đối với tôi, anh là một bịnh nhân cũng như những bịnh nhân khác. Anh vi phạm luật pháp quốc gia và anh đã bị luật pháp trừng phạt, tôi không can dự vào việc đó. Tôi cũng không đưa khuynh hướng chính trị vào việc cho thuốc chữa trị người bịnh”. Anh Sáu cho biết, Hà Minh Trí một mực khẳng định anh ta là lính Cao Đài trong Lực Lượng Bảo Vệ Toà Thánh Tây Ninh, và sau đó được cử làm phó trưởng ty Thông Tin VNCH ở Tây Ninh. Những lần sau đó anh Sáu đã dành nhiều thời gian ở ngoài chuồng cọp cho Hà Minh Trí. Sau ngày 1-11-1963, Hội Đồng Tướng Lãnh tuyên bố thả tù chính trị trong vụ đảo chánh hụt của đại tá Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn Đông ngày 11-11-1960, trong đó có Hà Minh Trí. Trong thời gian chờ tàu từ Sài Gòn ra đưa về đất liền, thì Hà Minh Trí được ra khỏi nhà giam và có đến ty Y Tế cám ơn anh Sáu. 3* Vụ mưu sát tổng thống Ngô Đình Diệm ở hội chợ Ban Mê Thuột năm 1957 3.1. Hội chợ Tết Ban Mê Thuột năm 1957 Ban Mê Thuột tiếng Ê Đê gọi là Buon Ama Y-Thuot. Cao nguyên Trung phần Việt Nam là vùng đất mầu mỡ chưa được khai phá, có tiềm năng rất lớn về kinh tế, hơn nữa cao nguyên giữ vị trí chiến lược quan trọng đối với miền Nam VN. Nhiều bộ tộc thiểu số chưa phát triển cho nên vùng cao nguyên được tổng thống Ngô Đình Diệm quan tâm mở mang. Hội chợ Tết Ban Mê Thuột năm 1957 nhằm mục đích triển lãm những máy móc phục vụ cho nông và lâm nghiệp, để đồng bào địa phương áp dụng cơ giới vào nông, lâm nghiệp, đồng thời giới thiệu những sản phẩm là thành tựu của việc phát triển cao nguyên. Hội chợ Tết Ban Mê Thuột là một sự kiện quốc gia ở miền Trung, cho nên các địa phương nổ lực chuẩn và thực hiện rất chu đáo. Bộ Cải Cách Điền Địa, Phủ Tổng Ủy Dinh Điền, Tư lệnh Quân khu 2 và các tỉnh trưởng Darlac, Pleiku, Kontum, Phú Bổn, Lâm Đồng, Tuyên Đức... tích cực góp phần tổ chức hội chợ, được đặt cái tên là “Hội chợ kinh tế đoàn kết Kinh-Thượng”. 3.2. Lễ khai mạc
x...
x...
Lễ khai mạc hội chợ Tết được tổ chức vào lúc 9 giờ sáng ngày 22-2-1957 tại Ban Mê Thuột, dưới sự chủ tọa của tổng thống Ngô Đình Diệm, thành phầm tham dự gồm các bộ trưởng và đại diện ngoại giao. “Khán đài” là những hàng ghế đặt trên mặt đất ở giữa trời, có chiếc dù to che nắng. Tổng thống Diệm mặc quốc phục, áo dài đen, quần trắng, đầu bịt khăn đóng, ngồi trên chiếc ghế bành duy nhất ở giữa, những chiếc còn lại là ghế ngồi thường, chân gỗ. Tổng thống Diệm ngồi giữa, bên trái ông là Tổng Giám mục Ngô Đình Thục, kế đến là bà Nhu và ông Nhu, quan khách. Quan khách tham dự rất đông, là những thành viên chính phủ, chỉ huy quân đội, thân hào nhân sĩ trung ương và địa phương, đại diện các sắc tộc người Thượng. Trước hàng ghế chủ tọa và quan khách là một cái sân rộng để trình diễn văn nghệ và biểu diễn của đàn voi cao nguyên. Trước mặt tổng thống có một hàng những bình rượu cần của người Thượng để chiêu đãi quan khách. Bên kia sân, đối diện với hàng ghế chủ tọa, là đồng bào tham dự, gồm các già làng, đại diện các sắc tộc, công chức và học sinh cùng quần chúng rất đông đảo vì đây là một sự kiện quốc gia có ảnh hưởng đến nhiều tỉnh trên cao nguyên. Hai bên là đàn voi và những thiếu nữ sắc tộc chờ trình diễn ca múa văn nghệ địa phương. 3.3. Phát súng ám sát tổng thống Ngô Đình Diệm
x...
Hà Minh Trí bị bắt ngay tại trận
x...
MAT-49 (sẽ được cắt bán và nòng) Sau khi chủ tọa và quan khách đã ổn định vị trí và an tọa, lễ chào cờ bắt đầu. Khi bài quốc ca vang lên thì bổng nhiên có hai tiếng súng nổ. Bộ trưởng Cải Cách Điền Địa bị trúng đạn, ngã xuống. Hung thủ bị nhân viên an ninh khống chế và bắt ngay tại trận. Đó là Hà Minh Trí, 22 tuổi, trà trộn trong dân chúng dự lễ đã dùng súng tiểu liên MAT-49 mưu sát tổng thống. Hung thủ mặc sơ mi trắng, áo vét bên ngoài, thắt và vạt, khai là súng bị kẹt đạn nên chỉ bắn được có hai phát. Sau đó, chương trình hội chợ tiến hành như đã định, tổng thống và quan khách đi thăm các gian hàng. “Tiếng súng cao nguyên” mở đầu cho cuộc đời tù tội của Hà Minh Trí. Hung thủ bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành bản án, và sau đó bị đày ra Côn Đảo. Nhà tù Côn Đảo giam giữ hàng trăm tù bị kết án tử hình. Trong khi ám sát tổng thống Diệm thì Hà Minh Trí không còn ở trong Lực Lượng Bảo Vệ Toà Thánh Tây Ninh của Cao Đài, mà đã thoát ly ra căn cứ kháng chiến. Tài liệu ghi như sau: “Chỉ trong nửa tháng, Hà Minh Trí đã có ba chuyến đi giữa Sài Gòn và Buôn Ma Thuột, thám sát địa thế để thiết lập kế hoạch hành động”. Đó là lý do mà sau ngày 1-11-1963, đệ nhất Cộng Hoà bị sụp đổ, Hà Minh Trí bị giữ lại để điều tra, mà không được phóng thích cùng với nhóm đảo chánh hụt ngày 11-11-1960 do đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông chủ trương. 4* Tiểu sử Hà Minh Trí
x...
x...
Hà Minh Trí (tên khai sanh là Phan Văn Điền) sinh ngày 18-8-1935 tại xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Cha chết năm 1940. Mẹ lấy chồng khác bỏ cậu bé Hà Minh Trí cho bà nội nuôi dưỡng. Nạn đói năm Ất Dậu 1945 đã xô cậu bé 10 tuổi với bà nội mù lòa đi làm ăn mày dọc theo ven quốc lộ 1 A, thuộc huyện Diễn Châu (Nghệ An). Một chiếc xe nhà binh Nhật chạy ngang đã bắt cậu bé ăn xin nầy vào tận thành phố biển Vủng Tàu để làm chân giữ ngựa cho sĩ quan Nhật. Khi Nhật bại trận, cậu bé làm phụ việc trong một quán ăn mà ông chủ là một cán bộ Việt Minh, ông đã nhận cậu làm con nuôi và đặt cho cái tên mới là Đinh Văn Phú. Năm 13 tuổi, Hà Minh Trí được cử vào đội Biệt Động tỉnh N2. Sau đó, bị Tây và Cao Đài bắt đưa về Tây Ninh. Giữa năm 1953, do bị theo dõi gắt nên Hà Minh Trí rút vào căn cứ kháng chiến. Từ mật khu, lên Ban Mê Thuột ám sát tổng thống Ngô Đình Diệm, bị bắt đưa về Sài Gòn rồi đày đi Côn Đảo. Được phóng thích, ra căn cứ Củ Chi, ôm trọn trái bom Mỹ nhưng bom không nổ, trở thành thương binh, gãy chân trái, rồi sau năm 1975 về sống ở Tây Ninh được phong chức đại tá và danh hiệu “Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân”. 5* Con đường hoạt động của Hà Minh Trí 5.1. Năm mười ba tuổi biết ném lựu đạn khủng bố Năm 1948, (13 tuổi) được đưa vào đội Biệt Động N2, tỉnh Bà Rịa-Vủng Tàu. nhiệm vụ ám sát những người làm việc cho Tây, Việt gian, phản động. Thành tích lẫy lừng, trích: “gây kinh hoàng cho bọn Pháp bằng những trận xuất quỷ nhập thần là ném lựu đạn vào các vũ trường và quán bar” (hết trích) 5.2. Hà Minh Trí bị bắt đưa về Tây Ninh và theo đạo Cao Đài Cũng năm 13 tuổi, Hà Minh Trí được giao nhiệm vụ làm giao liên giữa Ủy ban kháng chiến Bà Rịa với thiếu úy trưởng đồn Cao Đài ở Bờ Đập. Trưởng ban kháng chiến Hứa Văn Lến và trưởng ban quân báo Nguyễn Văn Bản giao nhiệm vụ đặc biệt cho Hà Minh Trí, vào đồn Cao Đài ở ngã ba Bờ Đập (nằm giữa ba xã Long Tân, Long Mỹ và Phước Hải thuộc huyện Đất Đỏ tỉnh Bà Rịa), do thiếu úy Cao Đài Phạm Ngọc Chẩn, đã chấp thuận kéo hết đại đội Cao Đài ra bưng theo Việt Minh. Ngoài ra, Hà Minh Trí còn nhiệm vụ điều tra và vẽ bản đồ các đồn Cao Đài chung quanh đồn Bờ Đập, như các đồn Phước Hà, Nước Ngọt và đồn ngã ba Lò Vôi, để Việt Minh tấn công tiêu diệt sau khi Cao Đài Bờ Đập ra chiến khu theo Việt Minh. Trong thời gian hai tháng ở trong đồn, tên đồn phó sanh nghi, theo dõi và mật báo cho phòng nhì Pháp ở Bà Rịa. Pháp báo về Bộ Tổng Tham mưu Cao Đài ở Tây Ninh, thế là thiếu úy Phạm Ngọc Chẩn và Hà Minh Trí bị bắt giải về Tây Ninh. Sau hơn một tháng điều tra, Hà Minh Trí một mực khai rằng: “Trẻ mồ côi. Ở đợ chăn trâu gần đồn. Ông Chẩn dẫn quân đi tuần bắt đem về đồn. Biết tôi là trẻ mồ côi nên giữ lại trong đồn làm tạp dịch, phục vụ bưng trà nước và giặt quần áo cho ông”. Phần thiếu úy Chẩn, vẫn một mực khai rằng: “Tên đồn phó tham ô nên bị kỷ luật, từ đó sanh ra thù oán, bịa chuyện báo cáo cho Tây, chớ gia đình tôi là đạo dòng (cha mẹ đều là Lễ sanh), anh ruột là trung tá Phạm Ngọc Trấn, tư lịnh Cao Đài miền Tây, thì làm sao tôi theo Việt Minh cho được”. Sự việc do Tây báo cáo, căn cứ vào báo cáo của tên đồn phó, nên khó tìm chứng cớ. May mắn là trung tá Phạm Ngọc Trấn, anh ruột của Phạm Ngọc Chẩn, vốn là thầy học cũ của Trịnh Minh Thế, tư lịnh Cao Đài miền Đông, nên cả hai Chẩn và Trí được thả ra. Từ đó, Hà Minh Trí sống trong gia đình sĩ quan cao cấp Cao Đài và Trí cũng theo đạo Cao Đài. Giữa năm 1953, bị nghi ngờ và theo dõi nên Hà Minh Trí rút ra bưng. Năm 1954 không tập kết ra Bắc, ở lại nằm vùng trong căn cứ, là đội trưởng đội ám sát mà mục tiêu là tổng thống Ngô Đình Diệm. 5.3. Âm mưu ám sát Ngô Đình Diệm ở Tây Ninh năm 1956. Tài liệu Việt Cộng ghi như sau: “Mười Trí đeo ông Diệm từ toà thánh Tây Ninh, đến nhà thờ Đức Bà (Sài Gòn) và đến Buôn Ma Thuột”. Năm 1956, Hà Minh Trí được trưởng ban địch tình tỉnh Tây Ninh là Lâm Kiểm Xếp (Năm Xếp) giao nhiệm vụ ám sát Tổng thống Diệm khi ông lên Tòa Thánh Tây Ninh vào ngày 20-10-1956 để ký thỏa ước Bính Thân với Cao Đài. Do không nắm rõ chi tiết nên việc mưu sát không thực hiện được. 5.4. Âm mưu ám sát Tổng thống Diệm trong đêm Giáng Sinh năm 1956. Căn cứ vào thói quen là cứ vào lúc 12 giờ đêm 24 tháng 12 thì Tổng thống Diệm thường đến nhà thờ Đức Bà (Sài Gòn) dự lễ Mừng Chúa Giáng Sinh. Việt Cộng quyết định ám sát ông Diệm. Đêm Noel 1956, Hà Minh Trí được Lê Văn Của đưa vào bên trong nhà thờ. Bên ngoài, hai Việt Cộng Phan Văn Phát và Nguyễn Văn Tám đứng ở nơi có bình biến điện, khi nghe súng nổ thì cúp điện và ném lựu đạn gây hỗn loạn để tẩu thoát. Đến 12 giờ. Lễ bắt đầu nhưng không thấy ông Diệm ở đâu cả. Qua hôm sau, đọc báo mới biết tổng thống đến cầu nguyện với giáo dân tại khu trù mật Đức Huệ, tỉnh Tân An. Năm 1957, ám sát tổng thổng Ngô Đình Diệm ở hội chợ Ban Mê Thuột, bị bắt giải về Sài Gòn. Từ 1957 đến 1965, bị giam giữ và kết án tử hình đày đi Côn đảo ngày 31-7-1963. Ngày 10-3-1965 được quốc trưởng Phan Khắc Sửu phóng thích. Ngày 13-3-1965, thoát ly ra căn cứ Củ Chi, Sài Gòn. Tháng 4 năm 1965, công tác tại ban An Ninh T.4 khu Sài Gòn-Gia Định. Năm 1989, giữ chức Phó ban Nội chính Tây Ninh. Năm 1992, Trưởng ban Tôn giáo Tây Ninh. 6* Cuộc đời tù tội của Hà Minh Trí Cuộc đời tù tội của Hà Minh Trí bắt đầu từ trại giam của ty cảnh sát Ban Mê Thuột, đến trại P-42 trong sở thú (Sài Gòn), ra trung tâm thẩm vấn của Tổng Nha Cảnh Sát, khám Chí Hòa, rồi ra Côn Đảo. 6.1. Một mực cung khai “Chính đại tá Phạm Ngọc Thảo đã trực tiếp thẩm vấn tôi trước mặt bác sĩ Trần Kim Tuyến và ông Ngô Đình Nhu”, Hà Minh Trí thuật tiếp: “Tôi là lính Cao Đài thuộc Lực Lượng Bảo Vệ Tòa Thánh Tây Ninh. Tôi ám sát Ngô Đình Diệm để trả thù cho thủ lãnh Cao Đài là Hộ Pháp Phạm Công Tắc, bị đàn áp cho nên phải chạy sang lánh nạn bên Cam Bốt, tôi cũng trả thù cho chủ tướng là Trịnh Minh Thế đã bị ông Nhu giết chết”. Hà Minh Trí khai như thế.
x...
x...
Tòa Thánh tại Tây Ninh 6.2. “Dùng kế ly gián làm đảo điên chính trường Sài Gòn” Việt Cộng và báo chí nhà nước thường hay cường điệu hóa, thần tượng hóa những hành động gián điệp của bọn nằm vùng ở Việt Nam Cộng Hoà để tuyên truyền về tài năng của đảng CSVN. Hà Minh Trí cho biết, “do sự chỉ đạo của đồng chí Mai Chí Thọ, phải dùng kế ly gián, nên tôi đã một mực khai báo như sau: “Tôi hành động (ám sát ông Diệm) theo chỉ thị của Dương Văn Minh và Mai Hữu Xuân”. Vừa nghe tôi trả lời như thế thì Ngô Đình Nhu tái mặt, ra lịnh cho ngừng ngay cuộc thẩm vấn và yêu cầu những người có mặt phải giữ kín cuộc thẩm vấn nầy. Lời khai vô cùng nghiêm trọng đối với hai ông Diệm Nhu”. (ngưng trích) Theo tài liệu của Việt Cộng thì sau lời khai của Hà Minh Trí, thiếu tướng Mai Hữu Xuân, Giám đốc Nha An Ninh Quân Đội, và trung tướng Dương Văn Minh, Tư lịnh Biệt khu Thủ Đô, kiêm Tổng trấn Sài Gòn Gia Định, bị cho ra rìa. Nhiều tướng lãnh thân Pháp có liên hệ đến hai ông Minh và Xuân cũng chịu chung số phận. Nội bộ chính quyền miền Nam phân hóa sâu sắc và nghi kỵ lẫn nhau. Tài liệu VC kết luận: “Kế ly gián của Hà Minh Trí đã làm đảo điên chính quyền Sài Gòn”. 6.3. Kế ly gián tào lao và vô lý Hà Minh Trí và Việt Cộng cường điệu hóa bịa chuyện vô lý để tự hào về kế ly gián của họ, cho rằng: “Kế ly gián của Hà Minh Trí làm đảo điên chính quyền Sài Gòn”. Hà Minh Trí khai rằng chính Dương Văn Minh và Mai Hữu Xuân chỉ đạo cho hắn ám sát ông Diệm. Tào lao và ba xạo ở chỗ nầy. Theo tiểu sử tự khai và tài liệu của VC, thì năm 1954, Hà Minh Trí không tập kết ra Bắc, mà ở lại hoạt động trong mật khu, không còn ở trong Lực Lượng Bảo Vệ Tòa Thánh Tây Ninh của Cao Đài nữa. 1). Và Hà Minh Trí cũng không có một dấu vết nào cho biết đương sự có liên hệ với Dương Văn Minh và Mai Hữu Xuân cả. Nếu Dương Văn Minh và Mai Hữu Xuân muốn giết ông Diệm thì phải chọn người đáng tin cậy trong đám thuộc hạ của mình, cớ sao mà phải lặn lội vào mật khu bàn thảo kế họach với một tên Việt Cộng, ở đợ chăn trâu cà lơ phất phơ như Hà Minh Trí để ám sát ông Diệm? Vô lý! 2). Hà Minh Trí nói tầm bậy mà báo chí vẫn loan tin. Trích: “Vừa nghe tôi trả lời như thế thì Ngô Đình Nhu tái mặt và ra lịnh cho ngưng ngay cuộc thẩm vấn”. - Ngô Đình Nhu đâu có phải là đứa con nít, mà khi nghe như thế thì tái mặt và và tin tưởng ngay, nên ra lịnh cho ngưng ngay cuộc thẩm vấn. Trái lại, với một nhân viên thẩm vấn bình thường, khi nghe như thế thì cương quyết tiếp tục thẩm vấn cho đến cùng để moi ra tất cả những tin tức làm tài liệu và làm bằng chứng. Người điều tra ít khi vội vã tin ngay những lời khai của can phạm, vì có ai “chịu cha ăn cướp bao giờ đâu?. Bị bắt quả tang, có chứng cớ rành rành mà còn chối leo lẻo là chuyện thường xảy ra. 6.4. Trại giam P-42 trong Sở Thú Sài Gòn Báo chí mô tả P-42 là một cái hầm bí mật trong Sở thú Sài Gòn mà tù nhân gọi là địa ngục trần gian, thật ra, nó là một biệt thự thuộc bộ Canh Nông nằm bên trong thảo cầm viên (Sở thú). Không ai ngờ rằng ngôi biệt thự nằm công khai giữa nơi dân chúng tấp nập qua lại hàng ngày lại là nơi giam giữ can phạm chính trị đặc biệt. Từ năm 1956 đến 1960, ngôi biệt thự nầy trở thành phòng điều tra của Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội (Sở mật vụ) do bác sĩ Trần Kim Tuyến phụ trách. Có thể bên trong toà nhà có những hầm để che giấu các hoạt động thẩm vấn và giam giữ can phạm. 6.5. Hà Minh Trí sống an nhàn ở trại P-42 Hà Minh Trí thuật lại: “Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, tôi bị giam giữ ở Sở thú một năm rưởi. Thời gian nầy bọn chúng không thèm đếm xỉa gì đến tôi nữa. Tuy nhàn nhã với hai bữa cơm lưng lửng dạ dày mỗi ngày, nhưng tôi buồn thúi ruột vì không có ai để trò chuyện. Tôi giải khuây bằng cách hát. Tôi hát say sưa những ca khúc “kháng chiến”. Hát chán chê, tôi tập Yoga”. 6.6. Bài thơ “Lao Trung Lãnh Vận” của Trần Văn Hương Nhà văn Hoàng Hải Thủy thuật lại câu chuyện của cố tổng thống Trần Văn Hương, nói về người tù Hà Minh Trí như sau: “Bị giam vào lao ít lâu, thường đêm lúc 9, 10 giờ, nghe có tiếng người ca hát văng vẳng từ xa đưa đến, giọng vô củng buồn thảm, như hờn, như oán, như khóc, như than. Ai nghe cũng đau lòng đứt ruột. Ban đầu ngỡ đó là tiếng hát của mấy ông lính canh, sau nghe kỹ lại thì đó là tiếng hát từ một xà lim cuối dãy, với giọng hát của một người trẻ tuổi. Một đêm, nghe tiếng hát, tôi xúc động làm bài thơ: “Từng chập luồn sang giọng thiết tha Đưa niềm u uất khách phòng xa Nỉ non im nghẹn lời yêu nước, Tê tái sầu vương hận mất nhà. Oán dậy ào ào: cây núi đổ Máu tuôn cuồn cuộn suối ngàn xa. Lặng nghe não nuột người thông cảm, Đồng bịnh cùng thương, lựa trẻ già”. (Trần Văn Hương) Trần Văn Hương chỉ biết người tù đó là một người cùng cảnh ngộ mà thôi. 6.7. Việt Nam Cộng Hòa biết Hà Minh Trí là Việt Cộng nên không thả Sau cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, Hội đồng Tướng lãnh tuyên bố trả tự do cho những tù nhân chính trị quốc gia, đối lập với Tổng thống Diệm, Hà Minh Trí được đưa về Sài Gòn trên cùng một chuyến tàu với những người tham gia đảo chánh hụt, nhưng do lý lịch không rõ ràng, nên Hà Minh Trí bị giam giữ lại để điều tra. Sau đó, bà Ngô Bá Thành, một luật sư thân Cộng và theo Việt Cộng, mở chiến dịch báo chí đòi thả ngay Hà Minh Trí với tư cách là đối lập Cao Đài. Trong khi những tù chính trị quốc gia đối lập với chế độ ông Diệm trong vụ đảo chánh hụt ngày 11-11-1960 đều được thả ra hết, chỉ còn Hà Minh Trí bị giam giữ, vì Hà Minh Trí là Việt Cộng nằm vùng, đội lốt Cao Đài. Bác sĩ Nguyễn Chữ, người bị tù Côn Đảo trong nhóm đảo chánh hụt, được cử giữ chức Chủ tịch Hội đồng Cứu xét Phóng thích Tù Chính tri, đã gọi Hà Minh Trí lên hỏi: - “ Ồ! khoẻ không đồng chí Cộng Sản núp bóng Cao Đài? Anh mà ra tù chắc anh theo cô Kim Hưng. (trích Hà Minh Trí) Hà Minh Trí thuật lại: - Hắn (Nguyễn Chữ) biết tôi và cô Kim Hưng có cảm tình với nhau, và hắn cũng biết Kim Hưng là Cộng Sản. Hắn mượn câu đó để xác định tôi là Cộng Sản chớ không phải Cao Đài. Thế là Hà Minh Trí tiếp tục ngồi tù. Mãi cho đến ngày 10-3-1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu, một tín đồ Cao Đài, giáo phẩm Thượng Đầu Sư Cao Đài Tiên Thiên, ký giấy thả Hà Minh Trí. Như vậy, Hà Minh Trí ở tù 8 năm 16 ngày. Ba ngày sau, 13-3-1965, Hà Minh Trí trở về hoạt động ở căn cứ Củ Chi, Sài Gòn. 7* Mật lịnh đánh chìm chiếc tàu chở tù ra Côn Đảo
x...
x...
Tàu Hàn Giang 401 - Chiếc tàu tử thần chở tù ra Côn Đảo Câu chuyện về mật lịnh của Phủ Tổng Thống chỉ thị cho đại úy phi công Huỳnh Minh Đường, thả bom đánh chìm chiếc tàu vận tải HQ-401 chở Hà Minh Trí và tù chính trị trong vụ đảo chánh hụt ngày 11-11-1960, trên đường ra Côn Đảo. Có hai tài liệu với nhiều bài viết khác nhau về việc nầy. Một tài liệu của Việt Cộng có mục đích cáo buộc sự độc ác của tổng thống Diệm, với nhiều bài viết có tựa đề rất giật gân như: “Sự thật khủng khiếp về chuyến hải trình tử thần”, “Vì sao Diệm lịnh ném bom tàu chở tù ra Côn Đảo”, “Vì sao có lịnh ném bom tàu chở tù HQ-401?” Một tài liệu khác ở hải ngoại cho rằng Vatican và CIA âm mưu ném bom, mục đích chia rẻ giữa Phật Giáo và Công Giáo. Nhưng cả hai tài liệu nói trên hoàn toàn sai sự thật và rất vô lý. 7.1. Mật lịnh cho đại úy phi công Huỳnh Minh Đường đánh chìm tàu HQ-401 Tài liệu Việt Cộng ghi lại như sau: “Anh em Ngô Đình Diệm ra lịnh cho đại úy phi công Huỳnh Minh Đường ném bom đánh chìm chiếc tàu hải quân để thủ tiêu những người đối lập đang trên đường đi đày ra Côn Đảo. Ngày 5-10-1963, đại úy phi công Huỳnh Minh Đường nhận được hai bao thơ mật, một thơ ra lịnh công tác đi ném bom, bao thơ thứ hai chỉ được mở ra khi máy bay đã cất cánh lên bầu trời. Đó là ném bom đánh chìm chiếc hải vận hạm Hàn Giang HQ-401 trên đường chở tù ra Côn Đảo. Nếu làm xong nhiệm vụ sẽ được thưởng một triệu đồng và được thăng lên chức thiếu tá. Buổi chiều hôm đó, chiếc tàu vận tải hải quân mang mã hiệu Hàn Giang HQ-401, rời bến Sài Gòn ra Biển Đông nhắm hướng Côn Đảo trực chỉ. Chiếc tàu chở 400 tù nhân, tài liệu VNCH công bố, có 216 người thuộc “phe VNCH” đã từng tham gia đảo chánh ngày 11-11-1960 và nhóm Nghị sĩ Caraven như thiếu tá Phan Trọng Chinh, các nghị sĩ Phan Khắc Sửu, BS Phan Quang Đán, Vũ Hồng Khanh. Khi lên tàu, nhóm tù VNCH được sĩ quan hải quân trọng đãi, cho lên boong tàu ngắm trời mây. Khi tàu ra biển khơi, đột ngột phe VNCH phát hiện một chiếc máy bay Skyraider Buno, số hiệu U-3465 (loại khu trục ném bom), xuất hiện ngay trên đầu, đảo một vòng. Bỗng chiếc máy bay bật tín hiệu, đó là tín hiệu ném bom. Mọi người đang lo lắng, thì chiếc máy bay kia đảo ba vòng để chào, rồi chuyển hướng về Campuchia, bay mất dạng.” (ngưng trích) 7.2. Đại úy Huỳnh Minh Đường trở về từ Cam Bốt Tài liệu Việt Cộng ghi tiếp, trích nguyên văn như sau: “Lúc 15h35 ngày 16-11-1963, sân bay Tân Sơn Nhất đón một chiếc máy bay từ Campuchia sang. Đó là chuyến bay chở những sĩ quan đã từng bị Diệm truy sát, đào thoát sang Campuchia trở về. Trong đó có đại úy Huỳnh Minh Đường, đã bay “chào” những tù nhân trên chuyến tàu ra Côn Đảo ngày 5-10-1963. Đại úy Huỳnh Minh Đường thuật lại: “Chiều ngày 5-10-1963, ông bất ngờ nhận được hai phong bì đóng dấu tuyệt mật của Phủ Tổng Thống, một phong bì là mật lịnh thực hiện phi vụ đặc biệt có chữ ký của Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến. Phong bì thứ hai được chỉ thị là sau khi rời đường băng, ông Đường nhận được lịnh của hoa tiêu dưới mặt đất điều khiển chuyến bay, yêu cầu chuyển tần số liên lạc sang Phủ Tổng Thống, mã số nằm trong phong bì thứ hai. Khi kết nối vào tần số liên lạc đặc biệt của Phủ Tổng Thống, ông Đường nhận được một chỉ thị lạnh lùng: “Ném bom đánh đắm chiếc vận tải hạm HQ-401 đang trên hải trình chở tù nhân chính trị chống chế độ, đi Côn Đảo. Nếu hoàn thành nhiệm vụ thì được thưởng một triệu đồng và được thăng lên chức thiếu tá. Ông quyết định không ném bom, bay chào mọi người rồi đào thoát sang Campuchia”. (hết trích) Câu chuyện về đại úy Huỳnh Minh Đường còn nhiều bí ẩn. Sự thật đại úy Đường có bay qua Cam Bốt tỵ nạn chính trị, và cũng đã về VN cùng chung với đại tá Nguyễn Chánh Thi và Vương Văn Đông. Nhưng có hai tài liệu khác nhau. Tài liệu một cho rằng sau đó, đại úy Đường bị cho giải ngũ, về bán bánh mì nuôi gia đình và bị ám sát tại nhà ở ngã tư Bảy Hiền. Tài liệu hai cho biết đại úy đường đến Mỹ định cư ở bang Washington và qua đời vào năm 2001. Tài liệu VC cho rằng đại úy Đường ném bom giết Hà Minh Trí. Hà Minh Trí ám sát ông Diệm, làm cho bộ trưởng Canh Nông bị thương, toà kết án tử hình, thì cứ đem ra bắn là hợp pháp, cần gì phải ném bom giết quân nhân của mình?. 8* Nói về tù nhân trên tàu HQ-401 đến Côn Đảo Ngay khi đến Côn Sơn, những tù chính trị quốc gia được cho ra ăn ở và làm việc trong các ty, sở hành chánh Côn Sơn. Họ không bị giữ trong trại giam. Có hai nhóm, nhóm dân sự và nhóm quân nhân. 1). Nhóm quân nhân thuộc binh chủng nhảy dù được ra ăn ở tại nhà của anh Nguyễn Văn Đồng, trưởng ty tiểu học, gồm có: đại úy Nguyễn Thành Chuẩn, trung úy Nguyễn Vũ Từ Thức, tr/u Nguyễn Bá Mạnh Hùng, và một vài người nữa không nhớ tên. Nhà ở Côn Sơn do Pháp xây cất nên ngoài toà nhà chính ra, còn có một số phòng phía sau làm nhà kho, nhà bếp và chứa những dụng cụ cần thiết, vì thế có chỗ ngủ cho khoảng 10 người. Thiếu tá Phan Trọng Chinh không ra Ty Tiểu học cho nên không biết tin tức. 2). Nhóm chính trị được đưa ra làm việc ở Ty Y Tế Côn Sơn, gồm có: BS Phan Quang Đán, ông Phan Bá Cầm (Hoà Hảo), Trương Bảo Sơn, Phan Đình Nghị và Vũ Đình Lý. Hai ông Nghị và Lý thuộc các tổ chức miền Trung. BS Phan Quang Đán tham gia khám bịnh cho quân nhân, công chức tại ty Y Tế Côn Sơn. Trúc Giang tôi không gặp Phan Khắc Sửu, Vũ Hồng Khanh, Bùi Lượng nên không biết tin tức về họ. Những tù nhân đảo chánh bắn đại liên và súng cối vào Dinh Độc Lập mưu sát tổng thống Diệm mà khi ra Côn Đảo đã được đối xử tử tế như thế, cho thấy ông Diệm không phải là người nham hiểm, độc ác, âm mưu trả thù đối với những người cố ý giết mình. 3). Hà Minh Trí bị giam ở chuồng cọp. Những tù nhân chính trị nguy hiểm mang án tử hình thì bị giam ở chuồng cọp. Chuồng cọp là những dãy phòng nằm sâu dưới nền nhà, phía trên có song sắt. Mỗi phòng dài 2.5m, rộng 1.45m giam giữ một người. Phòng nầy cách phòng kia bằng một bức tường nên tù nhân không liên lạc với nhau được. Đi trên nền nhà, giữa hai song sắt, giám thị cải huấn có thể quan sát được hai phạm nhân dưới hai hầm cùng một lúc. Mọi sinh hoạt: ăn ngủ, tiểu tiện đều ở trong phòng biệt giam đó. Cửa ra vào các “chuồng cọp” ở dưới nền nhà.
x...
x...
Song sắt là phần trên nóc của mỗi phòng biệt giam 4). Tổng quát về Côn Sơn
x...
Quần đảo Côn Sơn, trước kia có tên Pháp là Poulo Condor, rồi Côn Đảo. gồm 16 đảo, diện tích 76Km2. Ngoài đảo Côn Sơn lớn nhất, 50Km2, còn có những đảo nhỏ như các đảo: Hòn Bà, Hòn Cau, Hòn Tài Lớn, Hòn Tài Nhỏ, Hòn Trứng, Hòn Bãi Cạnh, Hòn Bông Lan, Hòn Trác Lớn, Hòn Trác Nhỏ, Hòn Tre, Hòn Vung... Vào những năm 1960, Côn Sơn là một trại tù với bộ máy hành chánh cấp tỉnh phục vụ công tác cải huấn. Cũng có đầy đủ các ty, sở như các ty: Công Chánh, Kiến Thiết, Tiểu Học, Y Tế, Cảnh Sát, Ngân Khố, Thông Tin, Canh Nông, Bưu Điện, một nhà máy điện, một đài khí tượng, một trường trung học đệ nhất cấp... Không có thường dân trên đảo. Một tiểu đoàn Địa Phương Quân giữ an ninh cho đảo. Mỗi gia đình công chức được xin một phạm nhân ra giúp việc trong nhà: đi chợ, nấu ăn, trồng rau...thường thì được thưởng tiền hàng tháng. Không có điện thoại và báo chí, không có rạp ciné, không có những bóng hồng đối tượng của những chàng trai độc thân, cho nên độc thân vẫn độc thân suốt thời gian sống ở đảo. Đời sống Côn Sơn hầu như cách biệt với đất liền. Mỗi tháng có hai chuyến tàu tiếp tế ra đảo, như thế công chức được nhận thơ từ trong đất liền ra đảo, hai lần trong một tháng. Người ta trông tàu ra, cảm thấy vui mừng khi nghe tiếng trống báo hiệu tàu đến để nhận thơ và quà. 5). Người tù Côn Đảo Nhà tù Côn Đảo giam giữ những phạm nhân bị kết án 5 năm trở lên. Khi đến nhà tù thì phạm nhân không còn bị tra khảo hay đánh đập gì nữa cả. Có hai loại tù: thường phạm (tù hình sự) và chính trị phạm. Tù chính trị gồm có chính trị quốc gia và chính trị Cộng Sản. Án tù cũng chia làm hai loại: tù khổ sai và tù cấm cố. Tù cấm cố mơ ước được làm tù khổ sai để được “xuất ngoại”, tức là ra ngoài làm lao động, sáng ra tối vào trại. Ra ngoài được hít thở không khí trong lành, được cử động tay chân, tắm nắng...Tù cấm cố thì luôn luôn suốt năm ở trong trại. 9* Những điều vô lý của mật lịnh đánh chìm tàu 9.1. Vô lý #1: Tàu chở tù ra Côn Đảo vào ngày 31-7-1963 chớ không phải ngày 5-10-1963. Trong thời gian đó, Trúc Giang tôi đang ở Côn Sơn, đã tiếp xúc với nhóm đảo chánh hụt suốt thời gian gần nửa năm. Bác Sĩ Phan Quang Đán đã dạy Anh Văn cho tôi và người bạn là Sáu Y Tế (Nguyễn Văn Sáu thuộc ty Y Tế Côn Sơn). Một người bạn gái của anh Sáu ở Sài Gòn viết thơ ra nhờ giúp đở cho đại úy Nguyễn Thành Chuẩn ở tù vì tham gia đảo chánh hụt. Sau nầy, ông Chuẩn thăng đại tá, chỉ huy trưởng Biệt Động Quân Biên Phòng Vùng 3 Chiến Thuật. Võ sư Phạm Lợi dạy Judo cho anh Sáu Y Tế và đã cùng với trung úy nhảy dù Nguyễn Bá Mạnh Hùng tập dượt Judo để trình diễn màn võ thuật, qua một vở kịch ngắn, trong ngày lễ chào mừng Ngày Quốc Khánh 26-10-1963 tại sân vận động Côn Sơn. Nhiều bài viết xác định tàu HQ-401 khởi hành ngày 5-10-1963 là hoàn toàn sai, vì từ 5-10-63 đến 1-11-63 thời gian chỉ có một tháng thôi, mà thực tế chúng tôi đã tiếp cận với những người nầy trong thời gian 4 tháng. 9.2. Vô lý thứ #2. Trích cái vô lý như sau: “Phe VNCH phát hiện một máy bay Skyraider Buno số hiệu U-3465 (loại khu trục ném bom), xuất hiện trên đầu họ”. (ngưng trích). Cha nội tác giả bài nầy nói dốc vô lý. Đó là, làm sao mà người trên tàu đọc được số hiệu U-3465 cho được? trong điều kiện chữ khổ nhỏ, bay nhanh, khoảng cách rất xa giữa tàu và phi cơ trên trời cao? 9.3. Vô lý thứ #3. Trích điều vô lý như sau: “Khi lên tàu, nhóm tù “VNCH”, được sĩ quan hải quân trọng đãi, cho lên boong tàu ngắm trời mây” Sự thật là không có tù nhân nào được lên boong tàu cả, vì không có boong tàu dành cho hành khách, mà tất cả tù nhân bị còng chân, ngồi xếp hàng từng dãy có trật tự, đó là nguyên tắc an ninh của nha Cải Huấn. Việc áp giải tù ra Côn Đảo do nha Cải Huấn phụ trách. Thủy thủ mọi cấp không được xía vào công việc an ninh của nha Cải Huấn. Còng chân để giữ trật tự, an ninh. Tránh những trường hợp như: nổi loạn trên tàu, nhảy xuống sông, nhảy xuống biển hoặc giết nhau do thù oán cá nhân... Tàu đi ra biển nào cũng phải theo con sông Sài Gòn, sông không to lớn lắm, đi qua rừng Sác rồi ra biển qua cửa Cần Giờ. Việc áp giải tù nhân luôn được giữ bí mật, từ khám Chí Hoà đến khi xuống tàu không được tổ chức nơi bến công cộng có nhiều người trông thấy. Tàu hải quân có bến trong Hải Quân Công Xưởng (Sở Ba Son), là căn cứ quân sự của hải quân. 9.4. Kịch bản của Hà Minh Trí dở ẹt Sở mật vụ và ông Nhu muốn giết một người tù thì dễ như trở bàn tay, có cả chục, cả trăm cách hợp pháp và hợp lý, tù bị kết án tử hình thì cứ đem pháp trường thi hành bản án là xong ngay, cần gì phải thực hiện hai cái bao thơ gọi là tuyệt mật rất vô lý, bởi vì buổi chiều ngày 5-10-1963 đại úy Đường nhận được hai bao thơ để đánh chìm chiếc tàu vào buổi chiều cùng ngày. Một sĩ quan, một cá nhân, không thể tự ý nạp bom vào phi cơ, rồi chờ cho đúng giờ tàu ra cửa biển để bay đi đánh chìm. Ai ai cũng biết là phòng hành quân ra lịnh thì phi vụ mới tiến hành được, nhất là quy luật an ninh của Không Quân, sau vụ ném bom của Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử ngày 27-2-1962, thì mỗi phi vụ phải có ba chiếc để canh chừng lẫn nhau. Trường hợp trung úy Việt Cộng nằm vùng Nguyễn Thành Trung, phi vụ cũng 3 chiếc, nhưng ông nằm vùng nầy lấy cớ trục trặc kỹ thuật gì gì đó để cất cánh chậm năm bảy phút, rồi đến thả bom xuống dinh Độc Lập ngày 8-4-1975. Kịch bản của Hà Minh Trí như trên, tào lao là vậy. Phủ Tổng Thống ra điều kiện thăng thưởng trên chuyến bay, thăng lên thiếu tá, thưởng một triệu đồng cho việc đánh chìm chiếc tàu HQ/VNCH là tự xác nhận mình vi phạm luật pháp, tội lớn nhất là giết binh sĩ của mình, phá hủy tài sản của mình, đó không phải là tác phong của sở mật vụ và của hai ông Diệm-Nhu. Ở thời điểm những năm 1960, HQ/VNCH chỉ có 7 chiếc hải vận hạm mang số từ HQ-400, 401, 402, 403, 404, 405 và 406 do Mỹ chuyển lại trong nhiều đợt. HQ-401 là tàu chở quân đổ bộ đường biển, loại trung bình, thường gọi là tàu đầu bằng há mõm, được Mỹ chuyển giao năm 1956, tên gốc của nó là LSM-110. (LSM=Landing Ship Medium). Thủy thủ đoàn gồm 58 người. Hạm trưởng là Hải quân đại úy Nguyễn Văn Hớn (sau lên đại tá), hạm phó là HQ trung úy Lê Thành Uyển. Sinh mạng của 58 người nầy không phải là người bình thường, mà là những người được đào tạo, huấn luyện, cho đi tu nghiệp và trải qua những thời gian dài thu thập kinh nghiệm để vận hành con tàu. Thủy thủ đoàn là những chuyên viên kỹ thuật của nhiều ngành nghề khác nhau. Con tàu và thủy thủ đoàn là một tài sản vô cùng quý báu của quốc gia trong thời gian đó, có nhiều tiền cũng không mua được, có xin thì cũng không được Mỹ cho ngay tức khắc. Mang một tài sản quý báu cộng thêm một triệu đồng tiền thưởng để giết một tử tù thì thật là một câu chuyện tào lao, bá láp. Khi toà đã kết án tử hình thì muốn đem ra thi hành bản án lúc nào mà không được? Những người đã từng mưu sát ông Diệm như Hà Thúc Ký, lãnh tụ Đại Việt Quốc Dân Đảng, đã lập chiến khu Ba Lòng chống chế độ, đã tàng trữ vũ khí để mưu sát ông Diệm, bị tù nhưng vẫn còn sống sau đó. Trung úy Phạm Phú Quốc cùng với thiếu úy Nguyễn Văn Cử đã dội bom mục đích giết cả gia đình ông Diệm, bà Nhu bị té gãy tay khi chạy xuống hầm, Dinh Độc Lập bị sập phân nửa, thế nhưng cả ông Hà Thúc Ký và Phạm Phú Quốc vẫn còn sống nhăn sau khi ông Diệm chết. Những điều đó chứng tỏ tổng thống Diệm không phải là người hiếu sát, thù cá nhân và nham hiểm. Và kịch bản của Hà Minh Trí là dở ẹt, tào lao, bá láp và vô lý. Chỉ có những đầu óc thiếu học mới nghĩ ra cái quái thai đó mà thôi. 10* Kết luận Hà Minh Trí là Việt Cộng đội lốt Cao Đài, mà mục đích hành động là ám sát tổng thống Ngô Đình Diệm. Đã ba lần mưu sát ông Diệm. Báo chí Việt Cộng thổi phồng quá mức “Kế ly gián của Hà Minh Trí làm đảo điên chính quyền Sài Gòn” Kịch bản mật lịnh cho đại úy phi công Huỳnh Minh Đường đánh chìm tàu HQ-401 chở tù đi Côn Đảo trong đó có Hà Minh Trí, là một kịch bản rất tồi, rẻ tiền và vô lý, khó tin được. Một chi tiết đáng buồn cười là lá thơ tuyệt mật của Phủ Tổng Thống có hai chữ ký của Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến. Thơ của Phủ TT thì Ngô Đình Nhu ký tên thì đúng, chớ mắc mớ gì mà BS Trần Kim Tuyến lại ký thêm vào đó? Dốt đặc cán búa! Tài liệu còn rất nhiều chi tiết sai sự thật. Nhóm tham gia đảo chánh hụt chỉ có 32 người chớ không phải là 216. Nhóm Caravelle không phải là nhóm nghị sĩ, Phan Khắc Sửu và Phan Trọng Chinh không phải là nghị sĩ, và nhóm Caravelle không tham gia đảo chánh ngày 11-11-1960. BS Phan Quang Đán không thuộc nhóm Caravelle. (Nhóm Caravelle gồm 18 chính khách đối lập, lấy tên là nhóm Tự Do Tiến Bộ, họp báo tại khách sạn Caravelle ngày 26-4-1960 để phổ biến Bản Tuyên Cáo tố giác chính quyền độc tài và đề nghị tổng thống Diệm thay đổi chính sách. Trưởng nhóm là ông Trần Văn Văn. Các thành viên gồm có: Trần Văn Văn, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Lê Ngọc Chấn, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Trần Văn Đổ, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Lý, Nguyễn Tăng Nguyên, Nguyễn Tiến Hỷ, Lê Quang Luật, Phạm Hữu Chương, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất, Lương Trọng Tường và linh mục Hồ Văn Vui). Một anh thất học, 5 tuổi cha chết, 10 tuổi dẫn dắt bà nội mù lòa đi ăn mày, 13 tuổi đi ném lựu đạn vào vũ trường, quán bar, rồi sau đó đi “làm cách mạng” thử hỏi thời gian đâu mà học với hành? Với trình độ đó, thì kịch bản cũng ở trình độ đó thôi. Trúc Giang |
NUTB:: Published on Friday 01.11.2013
|