Friday 11 April 2014

Sao phỏng ngữ nghĩa là gì?

Sao phỏng ngữ nghĩa là việc người phiên dịch (phải dịch cụm từ film cochon của tiếng Pháp chẳng hạn) gán thêm ý nghĩa của từ ngữ trong ngôn ngữ gốc (nghĩa dâm tà bẩn thỉu của từ cochon trong tiếng Pháp) vào từ ngữ có sẵn trong ngôn ngữ đích (từ con heo của tiếng Việt) . Việc gán nghĩa này xảy ra trên cơ sở là từ ngữ gốc (cochon của tiếng Pháp) và từ ngữ đích (con heo của tiếng Việt ) đều có cùng ý nghĩa định danh trực tiếp (cùng chỉ con vật nuôi, móng guốc, ăn tạp thuộc họ Lợn). Kết quả của việc sao phỏng ngữ nghĩa này là cụm từ phim con heo (chỉ thể loại phim khiêu dâm bẩn thỉu).

Thursday 10 April 2014

Từ nguyên dân gian có ích lợi gì không?


Từ nguyên dân gian cung cấp hiểu biết sai lệch về nguồn gốc từ ngữ, thường bị chê là rất có hại cho em cháu. Nhà nghiên cứu lịch sử từ vựng chê như vậy là xác đáng. Nhưng ở một số phương diện khác, từ nguyên dân gian lại là những cứ liệu hữu ích:
Ba, bốn mươi năm về trước hầu như ai cũng biết ven là một từ mượn âm tiếng Pháp (veine), có nghĩa là tĩnh mạch. Dân ngành y thì khỏi nói: Đại Học Y Khoa Sài Gòn vẫn dùng tiếng Pháp để giảng bài cho đến đầu những năm 60; về sau tiếng Việt được dùng làm ngôn ngữ giảng dạy và học tập nhưng tiếng Pháp vẫn là sinh ngữ quan trọng vì nguồn tài liệu tham khảo chủ yếu là sách vở tiếng Pháp. Người không học y nhưng có chút đỉnh chữ nghĩa cũng biết ven là từ gốc Pháp. Người ít học không biết từ veine nhưng nếu đã chích ven một lần cũng dễ quy cho ven là tiếng Tây như nhiều từ ngữ khác thông dụng ở nhà thương: côm rết, đốc tờ, gạc, lô bích kê...
Bây giờ có những bác sĩ U60 nghĩ ven là từ mượn âm tiếng Anh. Mười người học qua phổ thông thì hơn chín người nghĩ ven là từ thuần Việt, dùng để tránh từ Hán Việt tĩnh mạch. Với người nghiên cứu tiếp xúc ngôn ngữ, đặc biệt là tiếp xúc ngôn ngữ Việt – Pháp, đó là những dấu chỉ rất có ý nghĩa. Tiếng Pháp ngày nay đã hết thời, mười người đi học, chín người thôi.
Kiểu định nghĩa cà phê là một loại cà uống vào rất phê có thể khiến nhiều người không nhịn được cười: Dốt gì mà dốt quá! Nhưng với người nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, đó lại là một dẫn chứng quý cho quan điểm cho rằng tiếng đơn âm (âm tiết) chính là từ. Do áp lực của hệ thống (mỗi tiếng đơn âm đều phải có nghĩa), từ nguyên dân gian buộc phải cấp cho phê những ý nghĩa mà chúng vốn không có, nhưng hoàn toàn thỏa đáng đối với người không rành ngoại ngữ và/hoặc không có hiểu biết gì về ngôn ngữ và/hoặc không có hiểu biết gì về lịch sử. Các ví dụ loại này nhiều vô kể: cây chốt được gọi là cây ắc vì khí nó gãy thì xe kêu “ặc ặc” ; bãi cônglàm reo vì người bãi công thường phải reo hò,  lính ma tà là thứ lính cầm cây ma trắc, Bến Tre là cái bến có nhiều tre...
Trong nhiều trường hợp, cái nghĩa bâng quơ của từ nguyên dân gian lại trở thành ý nghĩa được công nhận, đẩy lùi hoàn toàn nghĩa từ nguyên chân chính. Tre của Bến Tre không còn liên quan gì đến cá nữa mà chỉ khiến người ta liên tưởng đến cây tre, cây trúc nên trước năm 1975 mới có tên gọi là Trúc Giang. Bây giờ mấy ai còn dùng cứu cánh với nghĩa là cuối cùng? Nếu không muốn bị hiểu lầm và cũng không muốn bị chê là dốt chữ, người biết rõ nghĩa từ nguyên và nghĩa từ điển của cứu cánh chỉ có một cách là tránh nó, dùng một từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa như mục đích, mục tiêu...

Wednesday 9 April 2014

Cách đọc tên của viên cao ủy Pháp ở Đông Dương hồi năm 1947



Cách đọc tên của viên cao ủy Pháp ở Đông Dương hồi năm 1947




Tên họ đầy đủ của viên cao ủy Pháp thời đó là Emile Bollaert. Họ Bollaert đọc là /bɔ'laʁt/, có thể phiên thành Bô-la hay Bô-lác cũng được. Chữ e trong Bollaert không ứng với âm gì cả. Vì vậy không nên phiên là Bô-la-éc như sách báo ta vẫn làm suốt mấy chục năm nay.

Khó khăn gay gắt nhất là vấn đề thông tin. Lúc ấy đài thu thanh đến cả Trung ương cũng không có. Tôi nhớ mãi năm 1947, khi Pháp cử thượng sứ Bô-la-éc sang thay Đác-giăng-li-ơ, Bô-la-éc đọc bài diễn văn nổi tiếng ở Hà Đông để tuyên bố chính sách mới. Để viết bài trên báo kịp thời đập lại Bô-la-éc, anh Trường Chinh phải cho người ra phục sẵn ở Đại Từ trên trục lộ giao thông lớn, cách Quảng Nạp 28 cây số, để đón giao liên của Nha thông tin - tiền thân của TTXVN - mang toàn văn bài diễn văn nói trên thu được bằng điện đài đặt ở tận Bắc Kạn, cách Đại Từ 120 km.

Tuesday 8 April 2014

Luận văn Nhã Thuyên: tiếng nói của một số người trong cuộc (Nguyễn Hiếu Quân - Văn Việt)


Luận văn Nhã Thuyên: tiếng nói của một số người trong cuộc


Nguyễn  Hiếu Quân thực hiện
Tác giả gửi Văn Việt
            THOAN 2Luận văn Thạc sĩ “Vị trí kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa” của Đỗ Thị Thoan (dưới đây gọi tắt theo tên phổ biến hơn là Luận văn Nhã Thuyên –LVNT) đang được dư luận quan tâm đặc biệt, nhất là khi Luận văn này được một Hội đồng thẩm định lại và sau đó Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (ĐHSP HN) ra quyết định số 667/QĐ-ĐH SP HN không công nhận Luận văn này. Nhận thấy sự kiện LVNT có nhiều vấn đề cần được làm sáng tỏ, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn với một số người trong cuộc, bao gồm: PGS.TS Nguyễn Thị Bình (Khoa Ngữ Văn, ĐHSP HN) – giáo viên hướng dẫn khoa học luận văn; và hai thành viên trong vai trò phản biện thuộc Hội đồng chấm LVNT: PGS.TS Ngô Văn Giá (Đại học Văn hóa HN), TS. Chu Văn Sơn (Khoa Ngữ Văn, ĐHSP HN). Cuộc phỏng vấn này, như độc giả thấy, có thể coi là sự lên tiếng chính thức đầu tiên trước công luận, điều vốn rất được nhiều người chờ đợi, của những người không chỉ liên quan, hiểu rõ LVNT mà còn có tri kiến nhất định về đời sống văn học, văn hóa, giáo dục Việt Nam hiện nay. Chúng tôi trân trọng cảm ơn sự hợp tác chân thành, nghiêm túc của các ông/bà có tên trên và đồng thời, hi vọng độc giả đón nhận bài phỏng vấn này trong tinh thần đối thoại thấu đáo, đẹp đẽ.
            Trước khi theo dõi cuộc phỏng vấn, để có thông tin bao quát, xin được nhắc lại một số diễn biến xoay quanh LVNT:
            – Đỗ Thị Thoan, bút danh Nhã Thuyên, sinh năm 1986, tốt nghiệp Khoa Ngữ Văn – ĐHSP HN năm 2007, học Cao học (Thạc sĩ) chuyên ngành Văn học Việt Nam hiện đại tại Khoa Ngữ Văn – ĐHSP HN khóa 18 (2009 – 2010)
            – Ngày 2/12/2010, Trường ĐHSP HN ra Quyết định số 7460/QĐ – ĐHSP HN về việc thành lập Hội đồng chấm luận văn Thạc sĩ cho học viên Đỗ Thị Thoan. Đề tài: “Vị trí kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa”. Hội đồng chấm gồm:
PGS.TS Nguyễn Văn Long (ĐHSP HN) – Chủ tịch Hội đồng
TS. Chu Văn Sơn (ĐHSP HN): Phản biện
PGS.TS Ngô Văn Giá (ĐH Văn hóa): Phản biện
PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp (Viện văn học): Ủy viên
TS. Nguyễn Văn Phượng (ĐHSP HN): Thư kí
            Tác giả Luận văn đã bảo vệ thành công đề tài, nhận số điểm tuyệt đối (10/10)
            – Tháng 3 năm 2011, Trường ĐHSP HN ra Quyết định số 676/QĐ – ĐHSP HN cấp bằng Thạc sĩ khoa học Ngữ văn cho Đỗ Thị Thoan, số hiệu bằng 7437.
              – Cuối tháng 3/2013, bắt đầu xuất hiện một số bài phê bình gay gắt LVNT trên báo chí, bắt đầu với bài của Chu Giang Nguyễn Văn Lưu trên báo Văn nghệ Tp HCM, tiếp đó là loạt bài có chung giọng điệu xuất hiện trên nhiều báo (giấy) khác nhau (trong bối cảnh báo chí Việt Nam, đó là biểu hiện của chính thống). Cùng thời điểm, cũng có một số bài tỏ tinh thần bảo vệ LVNT, coi việc đả kích LVNT là biểu hiện của sự thiếu tự do học thuật, của phê bình chỉ điểm, phê bình chỉnh huấn. Loạt bài này chủ yếu đăng tải trên diễn đàn mạng. Từ đây đến hết năm 2013, tạm coi là giai đoạn “tranh luận về LVNT”.
              – Ngày 5/3/2014, Trường ĐHSP HN có kết luận và đề nghị của Hội đồng thẩm định luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn của Đỗ Thị Thoan. Hiện “kết luận và đề nghị” này chưa được công bố. Theo nguồn thông tin được đăng tải, Hội đồng thẩm định này bao gồm:
              PGS.TS Đoàn Đức Phương (ĐH KHXH-NV): Chủ tịch Hội đồng
              GS. Đặng Thanh Lê (ĐHSP HN, đã nghỉ hưu)
              PGS.TS Phan Trọng Thưởng (Viện Văn học)
              PGS.TS Lê Quang Hưng (ĐHSP HN)
              PGS.TS Nguyễn Duy Đức (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)
              – Ngày 11/3/2014, Trường ĐHSP HN ra Quyết định số 667/QĐ – ĐHSP HN về việc không công nhận luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn của Đỗ Thị Thoan.
              -  Ngày 14/03/2014, ĐHSP HN ra Quyết định số 708/QĐ – ĐHSP HN về việc thu hồi bằng Thạc sĩ khoa học Ngữ văn của Đỗ Thị Thoan.
              – Ngày 30/03/2014, Nhã Thuyên đã công bố toàn bộ văn bản Luận văn cũng như Hồ sơ bảo vệ Luận văn năm 2010 trên internet, blog cá nhân[1]. Đến đây, tạm coi LVNT đã thuộc về tài sản công cộng và sự đánh giá, bình luận sau đó về Luận văn, sự kiện LVNT chắc chắn vượt ra khỏi phạm vi một cá nhân, đơn vị cụ thể.
+ + +

unnamed
PGS.TS Nguyễn Thị Bình
            – Nguyễn Hiếu Quân (NHQ): Trước tiên xin hỏi PGS.TS  Nguyễn Thị Bình (NTB): xin bà cho biết qui trình thực hiện một luận văn Thạc sĩ ở trường ĐHSP HN trải qua những bước chính nào, từ khi học viên bắt đầu đến khi luận văn được bảo vệ?
- NTB: Sau khi phân công người hướng dẫn (thường là gần cuối giai đoạn học viên học các chuyên đề), học viên làm việc với người hướng dẫn để xác định đề tài luận văn, tiến hành các thao tác đầu tiên như làm thư mục tư liệu cần đọc, tìm kiếm và bao quát tư liệu, hình thành đề cương. Tiếp đó đề cương sẽ được thông qua ở Hội đồng bộ môn. Nếu Hội đồng kết luận là đề tài có thể triển khai thì học viên sẽ báo cáo lại với người hướng dẫn các ý kiến đóng góp của Hội đồng, thống nhất phương án chỉnh sửa và triển khai đề tài. Khi văn bản hoàn thành, người hướng dẫn thấy đủ điều kiện đua ra bảo vệ sẽ có văn bản đề nghị với Trưởng Bộ môn. Trưởng Bộ môn lập danh sách Hội đồng chấm Luận văn (gồm 3 thành viên là người của ĐHSPHN, 2 ngoài trường. Trong 2 phản biện, phải có ít nhất 1 người ngoài trường. Tất cả thành viên Hội đồng đều phải có học vị Tiến sĩ trở lên và phải đúng chuyên ngành, hoặc chuyên ngành gần gũi). Danh sách Hội đồng này được Ban chủ nhiệm khoa ký duyệt. Học viên nộp bản lưu luận văn cho thư viện trường, lấy giấy biên nhận của thủ thư rồi qua Phòng Sau đại học hoàn tất thủ tục bảo vệ. Hồ sơ bảo vệ được trình lên Ban giám hiệu, khi có Quyết định của Hiệu trưởng, Hội đồng chấm luận văn mới ấn định thời gian bảo vệ. Quá trình làm thủ tục được quy định là 10 ngày.
            -NHQ: Như vậy luận văn về Mở Miệng đã được một hội đồng duyệt đề tài thông qua. Xin hỏi, trong quá trình thực hiện đề tài về Mở Miệng, bà và học viên có nhận được những phản biện trái chiều nào từ đơn vị đào tạo hay những người có cùng chuyên môn không?
-NTB: Đề tài được cho ban đầu là ¨Hiện tượng bên lề hóa trong thơ Việt đương đại¨. Tại buổi thông qua đề tài, Hội đồng bộ môn ghi nhận tính văn học sử, tính thời sự của đề tài phù hợp với chuyên ngành Văn học Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên tên đề tài còn hơi mơ hồ và đối tượng khảo sát quá rộng. Hội đồng góp ý học viên nên xác định rõ hơn hướng tiếp cận và phạm vi khảo sát cũng nên thu hẹp lại cho phù hợp với quy mô một luận văn Thạc sĩ. Sau đó chị Đỗ Thị Thoan và người hướng dẫn đã trao đổi, đi đến thống nhất chỉnh lại theo góp ý của Hội đồng bộ môn và đề tài chính thức là ¨Vị trí kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở miệng từ góc nhìn văn hóa¨. Khi đưa ra bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn Thạc sĩ do trường ĐHSPHN thành lập vào tháng 12/2010, tác giả luận văn còn nhận được thêm các ý kiến đóng góp của các thành viên Hội đồng, nhưng thời điểm ấy, theo quy định, học viên phải nộp bản luận văn cho thư viện, lấy giấy biên nhận mới được hoàn tất thủ tục bảo vệ nên những ý kiến đóng góp trong buổi bảo vệ sẽ chỉ được tiếp thu tại chỗ chứ không được thể hiện ở bản lưu trên Thư viện trường. Từ năm 2012 trở đi, trường mới điều chỉnh lại quy trình (Học viên bảo vệ xong, chỉnh sửa văn bản theo góp ý của Hội đồng, xin xác nhận rồi mới nộp thư viện).
unnamed
TS Chu Văn Sơn
            -NHQ: Xin hỏi PGS.TS Ngô Văn Giá (NVG) và TS Chu Văn Sơn (CVS): xin hai ông cho biết một cách ngắn gọn việc mình đã tham gia chấm LVNT như thế nào? Hội đồng chấm LVNT mà các ông là thành viên đã thống nhất cho điểm tuyệt đối (10/10). Cá nhân hai ông đã dựa trên những tiêu chí nào để đưa ra số điểm đó?
-NVG: Tôi lâu nay vẫn là cộng tác viên tham gia đào tạo (hướng dẫn và chấm luận văn/luận án)  của hai Bộ môn: Văn học Việt Nam hiện đại và Lý luận văn học thuộc khoa Ngữ văn- ĐHSPHN. Đây là việc làm bình thường và đều đặn trong nhiều năm nay của tôi ở cơ sở đào tạo này. Còn việc tôi cho điểm 10 căn cứ vào 3 yếu tố: chất lượng luận văn, năng lực trình bày/ bảo vệ luận văn, cuối cùng là triển vọng nghiên cứu khoa học của tác giả luận văn.
-CVS: Tôi theo dõi sự trưởng thành của bạn Thoan với cả một quá trình khá dài: từ khi Thoan còn là học sinh giỏi của trường chuyên Nguyễn Trãi (Hải Dương), đến lúc vào khoa Văn này ở bậc học Cử nhân, rồi bậc học Cao học. Theo dõi cả chuyện viết lách của Thoan nữa. Tôi thấy Thoan là trường hợp hiếm, một học viên tài năng, một cây bút đầy triển vọng. Tôi tham gia hội đồng chấm luận văn của Thoan  trong vai trò phản biện. Nội dung phản biện chính của tôi thì đã thể hiện ở bản nhận xét, mà đến nay, nó cũng đã được bạn Thoan công bố trong bộ hồ sơ “bạch hóa” chuyện bảo vệ của bạn ấy. Ở đây, bạn hỏi, tôi chỉ khẳng định lại thôi. Quan điểm của tôi là tôn trọng tự do học thuật. Đối với khoa học chân chính thì không có gì là cấm kị cả. Tất cả mọi vấn đề của đời sống văn học cần phải được nghiên cứu, kể cả hay lẫn dở. Là nghiên cứu khoa học (chứ không phải làm anh tuyên truyền) thì hay cũng cần phải biết hay thế nào, vì sao hay; dở cũng phải biết dở thế nào, vì sao dở. Né tránh là phi khoa học, là trái với sứ mệnh của khoa học. Do đó, tôi thấy nhóm Mở Miệng là hiện tượng rất cần được nghiên cứu. Và, với tinh thần tôn trọng tự do học thuật, tôi ủng hộ việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu của bạn Thoan. Còn việc đánh giá một luận văn khoa học trong học đường nói riêng, một công trình khoa học văn học nói chung, tôi nghĩ, đã là một người làm khoa học, một người thầy thực sự, thì không bao giờ được lấy quan điểm riêng của mình ra để áp đặt cho tác giả. Cho nên, dù quan điểm của tác giả công trình chưa chắc đã đồng quan điểm với mình, tôi vẫn tôn trọng, miễn là sự luận giải của tác giả về vấn đề đặt ra là nghiêm túc, có căn cứ, có lí lẽ, có bằng chứng xác đáng. Một hệ thống luận giải nghiêm túc, dù thuộc khuynh hướng nào, cũng thể hiện một cách nhìn, một cách tiếp cận. Khoa học cần nhiều cách nhìn, nhiều cách tiếp cận khác nhau về cùng một đối tượng. Bạn Thoan đã chọn một cách tiếp cận tương đối hiện đại (đối với học thuật ở Việt Nam) và đã luận giải một cách xuất sắc theo hướng tiếp cận ấy. Qua bản luận văn, có thể thấy bạn Thoan đây đó hãy còn cực đoan trong nhãn quan và nhiệt tình, nhưng không thể không thấy bạn ấy là người có bản lĩnh khoa học dám dấn thân vào những vấn đề phức tạp, cập nhật tốt các lí thuyết mới mẻ, sắc sảo trong tư duy, nhất quán trong việc giải quyết vấn đề. Đó là những khía cạnh của một năng lực xuất sắc đối với một học viên. Vì thế, tôi nhất trí với ý kiến chung của toàn thể hội đồng.
            -NHQ: LVNT, thực tế, không phải nghiên cứu đầu tiên về nhóm Mở Miệng[2]. Theo hai ông, đâu là điểm khác biệt cơ bản trong nghiên cứu của Nhã Thuyên và các bài tiểu luận, phê bình này?
            -NVG: Điểm khác biệt nhất ở luận văn này là tác giả đã tiếp cận dựa trên một khung lý thuyết nghiên cứu mới: lý thuyết diễn ngôn mà trong trường hợp này, hạt nhân của nó là những tìm hiểu và cắt nghĩa những yếu tố ngoại quan chi phối/quy định việc hình thành diễn ngôn thơ của nhóm Mở Miệng. Luận văn được tiến hành một cách có hệ thống, tương đối toàn diện về đối tượng nghiên cứu. Trong khi ở các tiểu luận khác, mỗi tác giả lựa chọn một/vài vấn đề mang tính cục bộ của nhóm thơ này.
           – CVS: Có lẽ đây là lần đầu tiên có một công trình đặt ra nghiên cứu về nhóm Mở Miệng một cách trực diện và toàn diện từ góc nhìn văn hóa theo tinh thần của thuyết Tâm – Biên (Trung tâm – Ngoại biên).
            – NHQ: Như vậy, vấn đề có lẽ ở chỗ: chỉ đến khi Mở Miệng đi vào nhà trường, đi vào nghiên cứu hàn lâm ở bậc sau đại học, thì nó trở nên bị “cấm kị” và gây ra những hệ lụy ngoài khoa học. Có thể coi đây là ví dụ cho thực tế “cấm kị” trong nghiên cứu khoa học xã hội không, thưa quí vị?
-NVG: Đây mới là điểm “tréo ngoe” trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường đại học. Đã là nghiên cứu, không nên có chuyện khoanh vùng đối tượng nghiên cứu. Nếu như vậy, hoạt động nghiên cứu sẽ có lỗi và lạc hậu đối với thực tiễn luôn luôn sinh động và phức tạp.
CVS: Thì sự thật đã rõ như ban ngày, gọi là chuyện “cấm kị”, hay là chuyện thiếu tự do học thuật thì cũng thế.
            -NHQ: Thưa PGS.TS Nguyễn Thị Bình, là người trực tiếp hướng dẫn học viên, bà có nhận xét gì về thái độ làm việc cũng như tinh thần khoa học của học viên?
            -NTB: Tôi biết Đỗ Thị Thoan khi chị là sinh viên năm thứ 4 tại khoa Ngữ văn dù trước đó có nghe nhiều đồng nghiệp khen năng lực vượt trội của sinh viên này. Khi tiếp xúc tôi thấy bạn ấy khá hồn nhiên, thậm chí vụng về trong giao tiếp nhưng niềm say mê văn chương, sự sắc sảo trong tư duy học thuật của Thoan mới là phẩm chất nổi bật. Bạn ấy có sức đọc đáng nể, tiếng Anh khá tốt, luôn muốn đi đến cùng một vấn đề nào mà mình quan tâm. Có thể nói Thoan là một trong số những học trò có khả năng làm việc độc lập, có tinh thần khoa học nghiêm túc nhất mà tôi từng hướng dẫn.
            -NHQ: Thưa TS. Chu Văn Sơn, là người dành nhiều năm nghiên cứu thơ Việt Nam hiện đại, cá nhân ông có nhận xét gì về thơ ca của nhóm Mở Miệng? Việc “thực hành thơ” của nhóm Mở Miệng – như cách gọi của Nhã Thuyên, theo ông, có thể đánh giá như thế nào trong bối cảnh văn hóa văn học Việt Nam đương đại?
            -CVS: Tôi cho rằng một nền văn học bình thường là nền văn học phải tạo được sân chơi cởi mở cho nhiều khuynh hướng sáng tạo, nhiều trường phái, nhiều nhóm sáng tạo cùng nảy nở. Và mọi khuynh hướng, mọi trường phái, mọi nhóm ấy có quyền tồn tại bình đẳng. Còn giá trị mà mỗi khuynh hướng, mỗi nhóm ấy tạo ra hay dở thế nào sẽ tùy thuộc sự đánh giá của công chúng nghệ thuật và sự sàng lọc của thời gian. Vì thế, dù không đánh giá cao nhóm Mở Miệng, nhưng tôi không xem sự xuất hiện của nhóm Mở Miệng trong đời sống văn học là hiện tượng bất thường.
            -NHQ: Nhìn vào những bản nhận xét của các thành viên trong Hội đồng chấm LVNT thì, về cơ bản, LVNT đã được hội đồng chấm cũng như nhiều nhà chuyên môn trong đơn vị đào tạo cho rằng tốt, đủ cơ sở và điều kiện để công nhận học vị Thạc sĩ. Trường ĐHSP đã ra Quyết định cấp bằng Thạc sĩ. Nhưng gần 3  năm sau, LVNT lại bị/được đưa ra bàn luận, xem xét lần nữa. Theo quí vị, đâu là nguyên nhân chính của việc này?  Là những người giảng dạy lâu năm ở đại học, quí vị đã từng biết có trường hợp luận văn Thạc sĩ nào được “xem xét nguội” như vậy chưa? Đã có nhiều ý kiến cho rằng, LVNT có tư tưởng phản động, phản văn hóa. Từ quan điểm của quí vị, do đâu lại có nhận xét đó?
            NVG: Bàn chuyện khoa học bằng những chuyện ngoài khoa học là một căn bệnh cũ tưởng đã được thanh toán, nay lại tái phát.
            -CVS: Hiện tượng lập một hội đồng để xem xét lại luận văn thạc sĩ theo như cung cách vừa rồi (bạn gọi là “xem xét nguội”, còn tôi thì gọi là “hội đồng nặc danh”) trong lịch sử Đại học Việt Nam, có thể khẳng định là: xưa nay chưa từng có. Có thể đưa vào mục “Chuyện lạ đó đây” của truyền thông đại chúng. Bạn hỏi do đâu có những qui kết rằng luận văn kia là có “tư tưởng phản động” và “phản văn hóa” à, thì tất nhiên, xét đến cùng, vẫn là do não trạng của người đưa ra nhận xét đó rồi. Cả cái ý kiến về “giải thiêng” nữa, tôi cũng cho là do vậy. Tôi nghĩ, một đầu óc bình thường chứ chưa cần đến đầu óc giáo sư, cũng phải hiểu một sự thật mười mươi: làm sao mà giải thiêng được, nếu đó là thiêng thật. Người ta chỉ có thể giải được cái thiêng giả, thiêng ảo thôi. Cái gì thật sự thiêng tất sẽ tồn tại, bất chấp cả những nỗ lực “tâng hàng” lẫn “dìm hàng” của người đời. Nếu thật thiêng thì sao phải sợ giải nhỉ?
            -NHQ: Thưa PGS.TS Nguyễn Thị Bình, khi LVNT bị nhận xét như vậy, cá nhân bà và học viên đã có những đối thoại nào về chuyên môn không? Đơn vị đào tạo có tổ chức những thảo luận nào về luận văn này không?
-NTB: Tôi và bạn Thoan đã chờ đợi một cuộc đối thoại dân chủ, cởi mở về học thuật, điều đó có ích không chỉ cho chúng tôi mà cho cả giới nghiên cứu khoa học xã hội-nhân văn. Tiếc là đến nay một diễn đàn như vậy vẫn chưa có. Bạn thấy đấy, báo chí chính thống hầu như chỉ đăng ý kiến phê phán, phủ nhận. Cuộc họp của Hội đồng khoa học khoa Ngữ Văn mở rộng, chỉ mình tôi có mặt với tư cách thành viên Hội đồng khoa học khoa đồng thời là người hướng dẫn luận văn. Theo đề nghị của chủ tọa (Chủ nhiệm khoa), tôi giải trình về quy trình thực hiện luận văn và về quan điểm của tôi đối với đề tài nghiên cứu mà chị Thoan lựa chọn. Ý kiến các nhà khoa học trong Hội đồng mở rộng của khoa được ghi thành biên bản nhưng sau cũng không thấy công bố. Khá nhiều cán bộ của Khoa Ngữ văn đến giờ vẫn không thật sự nắm được sự việc này.
unnamed
PGS.TS Ngô Văn Giá
            -NHQ: Trường ĐHSP HN đã ra quyết định thành lập Hội đồng chấm lại LVNT và kết luận của Hội đồng này là cơ sở để trường không công nhận LVNT, tước bằng Thạc sĩ của Nhã Thuyên. Cá nhân quí vị được thông báo về quyết định này và biết rõ quá trình làm việc của Hội đồng chấm lại này không?
            -NVG: Chúng tôi hoàn toàn không được biết họ thành lập từ khi nào, và họ làm những gì. Chỉ đến khi chuyện vỡ lở ra, chúng tôi mới biết có chuyện đó.
            – CVS: Tôi cũng thế. Khi dư luận đã cháy rồi, dư luận đã điểm từng mặt thành viên đó rồi, tôi mới biết. 
            – NHQ: Việc không được Hội đồng chấm lại này cho biết những kết luận khoa học của họ, dẫn đến có hai đánh giá hoàn toàn khác biệt về LVNT, khiến quí vị có suy nghĩ, cảm xúc gì? Cho đến thời điểm này, đánh giá của quí vị về LVNT có thay đổi nào không?
            -NVG: Đầu tiên là ngạc nhiên, sau lấy làm khó hiểu tại sao họ lại chấp nhận tham gia Hội đồng một cách thiếu cẩn trọng như vậy. Nó không có cơ sở pháp lý để thành lập Hội đồng, theo đó là phủ quyết điểm luận văn và tước bằng thạc sĩ của học viên.
            – CVS: Tôi thì không ngạc nhiên, khi biết các thành viên hội đồng là những ai. Còn, giờ đây, nếu phải đánh giá lại LVNT, tôi vẫn dùng bản nhận xét đã trình hội đồng trước thôi.
            – NHQ: Như vậy, đến thời điểm này, cả hai Hội đồng chấm LVNT vẫn chưa được đối thoại khoa học với nhau. Là những người bị gạt ra ngoài cuộc, quí vị có ý kiến, đề đạt gì không?
            -NVG: Các thành viên Hội đồng cũ cũng đã gửi đơn kiến nghị lên ông Hiệu trưởng ĐHSPHN để yêu cầu hai điểm: cho biết cơ sở pháp lý của những việc làm trên đối với học viên, và đề nghị tổ chức cuộc đối thoại giữa hai Hội đồng để đảm bảo tính công khai, dân chủ, minh bạch trong học thuật và đào tạo.
            - NHQ: Xin hỏi quí vị ở tư cách nhà giáo, nhà nghiên cứu trong nhà trường đại học: Sự kiện LVNT với những kết quả như quí vị thấy liệu có những ảnh hưởng gì đến tinh thần học tập, nghiên cứu của học viên, đặc biệt là học viên sau đại học, vốn là những người nhất thiết phải bước vào con đường nghiên cứu độc lập? Rất nhiều trí thức đã lên tiếng về “tự do học thuật” ở đại học, quí vị nhận thấy điều này nên/phải được hiểu và thực hiện như thế nào?
            -NVG: Về việc này, đáng lo ngại ở chỗ, nếu không được chấn chỉnh kịp thời, nó sẽ thành một tiền lệ rất nguy hiểm trong hoạt động nghiên cứu và đào tạo ở các trường đại học. Nó tạo nên sự hoang mang cho những học viên muốn theo đuổi công việc học tập, nó gây ra tâm lý chán nản, buông xuôi cho đội ngũ giáo viên, đồng thời là các nhà nghiên cứu trong các trường đại học. Nghiên cứu khoa học là một công việc khổ ải, lương các giáo viên đại học đang còn rất thấp. Nếu làm khoa học khổ ải như vậy, đã không được khích lệ, động viên thì chớ, lại còn chuốc những hệ lụy khó lường thì làm sao hy vọng có thể tạo ra niềm hứng khởi cho các nhà nghiên cứu dốc tâm sức cho khoa học được!
            – CVS: Tôi cho rằng sự hô hào về một nền đại học Việt Nam hội nhập và phát triển có thể sánh vai với các nền đại học lớn trên thế giới sẽ là xa vời, nếu cái tối thiểu để thúc đẩy đại học là tự do học thuật không được tôn trọng.
            -NHQThưa PGS.TS Nguyễn Thị Bình, bà được dư luận biết đến nhiều hơn sau khi gửi “Đơn kêu cứu” trên báo Kinh doanh và Pháp luật về việc trường ĐHSP HN ra quyết định cho bà về hưu trước thời hạn mà không rõ lí do. Nhiều người nghĩ rằng đây là hệ lụy do bà đã hướng dẫn LVNT. Bà có suy nghĩ vậy không? Việc “kêu cứu” của bà đang đến đâu và có những hồi đáp nào chưa?
-NTB: Tôi buộc phải gửi đơn kêu cứu đến báo chí sau 4 lần gửi đơn kiến nghị lên lãnh đạo trường ĐHSPHN về việc trường ra quyết định tôi nghỉ hưu sớm gần 5 năm so với Nghị định 141 của Nhà nước và vì ở trường tôi cho tới nay chưa từng có một PGS.TS nào bị đối xử như thế cả. Sau đơn thứ 2 tôi được ông Đăng Xuân Thư, Bí thư Đảng ủy, Phó Hiệu trưởng trả lời miệng rằng lý do tôi phải nghỉ hưu sớm là do việc tôi hướng dẫn luận văn Th.S của Đỗ Thị Thoan làm ảnh hưởng đến uy tín của trường. Tôi không chấp tán thành câu trả lời này và tiếp tục gửi đơn kiến nghị lần 3 rồi lần 4. Quá thời hạn trả lời đơn thư, tôi mới tìm đến báo. Do sự tình cờ, tôi đã gặp và được ông Tổng biên tập báo Kinh doanh và Pháp luật nhận đăng đơn kêu cứu của tôi. Ngay sau khi báo ra, tôi nhận được Thông báo của trường ĐHSPHN do Trưởng phòng Tổ chức cán bộ là PGS.TS Phan Thanh Long kí, nội dung: ¨Hiện tại trường không có nhu cầu gia hạn hợp đồng lao động với bà¨. Đây rõ ràng là hệ lụy từ vụ việc LVNT. Họ thừa biết bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại của tôi đang thiếu cán bộ trầm trọng và khoa Ngữ văn đã có công văn đề nghị trường kéo dài hợp đồng lao động với tôi theo luật định.
            NHQ: Xin trân trọng cảm ơn quý vị đã tham gia cuộc phỏng vấn. Chúc quý vị dồi dào sức khỏe, vững vàng trong học thuật để góp phần đào tạo những người nghiên cứu trẻ tuổi bước vào con đường khoa học đầy đam mê nhưng cũng không ít những khổ ải này.                                                          
 Hà Nội, ngày 6/4/2014

Luận bàn về việc vận dụng phương pháp lịch sử (Thiên Phương - Nhân Dân)


Thứ sáu, 28/03/2014 - 02:21 AM (GMT+7)

Tái hiện lịch sử phải trung thực, phản ánh đúng tiến trình vận động của nó, vì chỉ có như vậy, việc nghiên cứu lịch sử mới giúp hiểu về quá khứ và rút ra bài học hữu ích cho hiện tại. Và do đối tượng nghiên cứu rất phong phú nên trong quá trình thẩm định, nghiên cứu cần nắm vững phương pháp lịch sử để sử dụng một cách khoa học, triệt để, sâu sắc,... Trên thực tế, thực hiện điều này là không dễ dàng, và lâu nay không phải tác giả nào cũng nghiêm túc tuân thủ.
Từ lịch sử phát triển ngành sử học, các nhà nghiên cứu có quan điểm chung rằng: "không gì có thể thay thế tư liệu - không có chúng thì không có lịch sử". Sử liệu tồn tại khách quan, độc lập đối với chủ thể nhận thức; và trên cơ sở thông tin thu nhận được từ kết quả phân tích sử liệu, nhà sử học phục dựng lịch sử. Trong một thời gian khá dài trong sử học đã tồn tại quan niệm cho rằng, chỉ có nguồn sử liệu chữ viết (thư tịch) mới có thể coi là nguồn sử liệu và là nguồn sử liệu có giá trị, còn các nguồn sử liệu khác đều không đáng tin cậy. Quan niệm này khá phổ biến trong trường phái sử học Thực chứng (positivisme), mà đại diện điển hình là nhà sử học người Pháp Numa Denis Pustele De Coulage (1830 - 1889) - người được mệnh danh là "kẻ sùng bái thư tịch", khi ông tuân thủ và chỉ hành động theo một phương châm duy nhất: "Văn bản, chỉ có văn bản, không có gì khác ngoài văn bản".
Nhưng nếu nghiên cứu như vậy thì lịch sử các dân tộc chưa có chữ viết, hoặc những hình ảnh của thời kỳ tiền sử chưa có chữ viết sẽ không thể tái tạo? Tuy nhiên, việc phục dựng được lịch sử của các dân tộc chưa có chữ viết, những bức tranh thời tiền sử ở các khu vực (bằng nhiều phương pháp khác nhau) là câu trả lời với quan niệm sùng bái sử liệu chữ viết. Ðối với Việt Nam, có thể nói vấn đề khó khăn nhất khi nghiên cứu lịch sử là tư liệu. Tư liệu lịch sử nước ta từ thế kỷ 15 trở về trước cho đến nay còn lại rất ít và phân tán rải rác. Sự ra đời một số nhận định sai lầm về lịch sử là có nguyên nhân từ việc thiếu sử liệu. Những năm gần đây, nhiều vấn đề lịch sử, nhiều nhân vật lịch sử được đánh giá lại với tinh thần cởi mở. Tuy nhiên, trong không khí học thuật đổi mới đó đã xuất hiện một số luận điểm rất phi sử học, hoặc có dấu hiệu lợi dụng diễn đàn của sử học...
Có tác giả bao biện cho việc Nguyễn Ánh cầu viện Tây phương với lập luận: Trong lúc yếu thế, Nguyễn Ánh cần súng ống, tàu chiến, đã (ngẫu nhiên) gặp được một số đoàn truyền giáo đi mở đạo hứa giúp. Lẽ tất nhiên ông ta xem đây là một cơ hội, dù có thể là "một cái xấu cần thiết" (?), "Việc đầu tiên và cấp bách Nguyễn Ánh cần làm là diệt được quân Tây Sơn bằng bất kỳ phương tiện nào, chứ hoàn toàn không cố ý muốn cầu thân với Pháp" (?), và đó là hành động mang tính "sách lược tình huống"! Tác giả rút ra kết luận: Nói Nguyễn Ánh "cõng rắn cắn gà nhà" là không đúng với thực tại lịch sử khách quan, cũng như nói Alêchxăng đơ Rôt hay Bá Ða Lộc làm môi giới giữa Pháp với triều Nguyễn là những tên thực dân phản động lại càng sai lầm về quan điểm lịch sử (?). Bao biện như vậy, tác giả đã cố tình phủ nhận sự thật rằng khi cầu viện quân Xiêm, quân Pháp, Nguyễn Ánh đã đặt quyền lợi của gia tộc, của bản thân lên trên quyền lợi dân tộc, lên trên chủ quyền của đất nước và lên trên cả danh dự của dân tộc.
Người xưa thường nói: "Thời thế tạo anh hùng". Thời thế, nói theo sử học chính là "bối cảnh lịch sử" - điều mà khi tiếp cận bất kỳ một biến cố, phong trào, học phái nào, người nghiên cứu đều phải xem xét kỹ lưỡng. Bình luận về cá nhân trong lịch sử luôn phải đặt nhân vật đó trong bối cảnh lịch sử của họ cùng mối tương tác với các sự kiện chi phối bên ngoài. Lịch sử là cái đã diễn ra, cần nghiên cứu và tái hiện có phương pháp, không thể suy đoán kiểu: nếu không có những gì xấu xa của chủ nghĩa tư bản thế kỷ 19 thì không có C. Mác và chủ nghĩa Mác xuất sắc; nếu không có thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam thì cũng không có Phan Bội Châu hay Hồ Chí Minh với sự nghiệp lẫy lừng... Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kiện trọng đại, đánh đổ ách áp bức của thực dân, phong kiến, mở ra kỷ nguyên độc lập và khẳng định trước thế giới rằng dân tộc Việt Nam có quyền, có chỗ đứng ngang hàng với mọi dân tộc khác trên thế giới. Vậy mà có người lại coi sự nghiệp giành độc lập của nhân dân Việt Nam như một sự "ăn may" của Việt Minh trong "khoảng chân không chính trị". Họ không coi Ngày 2-9 là ngày vinh quang, đánh dấu việc thoát khỏi ách thuộc địa. Từ lòng thù hận, đối với họ, Ngày 2-9-1945 chỉ khai sinh một nhà nước cộng sản và mở đầu cho một giai đoạn nội chiến kéo dài (!). Họ cố tình quên độc lập dân tộc là điều không thể nhân nhượng. Sau gần một thế kỷ là một xứ thuộc địa, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả tất yếu từ nhận thức, hành động của dân tộc Việt Nam; và sau quá trình đấu tranh kiên cường suốt hơn 15 năm với vô vàn tấm gương hy sinh anh dũng, Ðảng Cộng sản là tổ chức chính trị duy nhất có đủ thực lực để lãnh đạo nhân dân khi thời cơ đến đứng lên giành độc lập. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Ngày 2-9-1945 phải được ghi nhận là một trong những sự kiện trọng đại trong lịch sử dân tộc.
Một số người lại lập luận rằng, cuộc cách mạng này là không cần thiết (?), vì chủ nghĩa thực dân đã chết sau Chiến tranh thế giới thứ hai và độc lập dân tộc ắt phải đến, dù có hay không có cách mạng, bởi đó là khuynh hướng tất yếu của lịch sử nhân loại; bằng cớ là mọi quốc gia muốn độc lập, đều đã có độc lập và hơn thế nữa, đa số các trường hợp còn giành được độc lập trước và ít tốn kém hơn Việt Nam (!). Với mấy người này, họ cố tình quên trước khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, chính quyền nước Pháp quyết "khôi phục lại những quyền lợi ở Ðông Dương". Quyết tâm này thể hiện qua hàng loạt các hành động quân sự trong những năm 1945 - 1946. Trong thời đoạn đó hoàn toàn không có một "cơ hội hòa bình bị bỏ lỡ", khi những người cầm quyền ở Pháp quyết đặt lại ách cai trị của thực dân ở Ðông Dương bằng vũ lực. Ở thời điểm cuối năm 1946, những cố gắng vãn hồi hòa bình đầy chính nghĩa của phía Việt Nam, đặc biệt là của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuối cùng vẫn bị những người điều hành chính sách của nước Pháp làm đổ vỡ, mặc dù lúc bấy giờ, thời đại của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ thật sự đã kết thúc. Nhân dân Việt Nam không muốn chiến tranh, "chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng", nhưng khi độc lập dân tộc bị đe dọa thì nhân dân Việt Nam "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Người Pháp đã không thấy điều đó và đã nhận thất bại. Sau này người Mỹ cũng lặp lại sai lầm tương tự. Một vài người khi đề cập tới hai cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân Việt Nam trong thế kỷ 20 lại tập trung khai thác và nhấn mạnh một số biểu hiện bên ngoài để khẳng định: Người trong một nước giết nhau trên một quy mô lớn và trong một thời gian dài thì đó là nội chiến, dù có hay không có sự can thiệp từ bên ngoài (?). Luận điểm này là cố tình đánh đồng tinh thần yêu nước của nhân dân anh dũng đứng lên bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ các giá trị nhân văn với bộ phận xã hội đã tự biến mình thành công cụ trong tay ngoại bang.
Tựu trung, chỉ có thể giải thích hiện tượng "quên" đó là: tư liệu không được sử dụng để nghiên cứu toàn diện, khách quan theo phương pháp sử học đúng đắn, mà nhằm phục vụ mục đích đen tối, lấp liếm để đánh đồng chính nghĩa với phi nghĩa, đúng với sai, từ đó dẫn đến kết luận phiến diện, xuyên tạc,...
Phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu, trình bày một sự vật, hiện tượng có thời gian xuất hiện, hình thành, và có các bước vận động, phát triển,... để thấy được tính liên tục, từ đó rút ra các tính chất, đặc điểm, xu hướng, quy luật vận động. Phương pháp lịch sử giúp đi sâu tái dựng được cả không khí lịch sử, tâm lý, tình cảm của con người trong những sự vật, hiện tượng tiêu biểu. Phương pháp lịch sử không phải là sự liệt kê nhiều sự vật, hiện tượng, mà cần biết lựa chọn sự vật, hiện tượng tiêu biểu, điển hình, là biểu hiện tập trung phản ánh quy luật vận động của lịch sử. Nghiên cứu các sự kiện quan trọng, không những phải làm sáng tỏ điều kiện hình thành và diễn biến của sự kiện, mà còn phải đi sâu tìm hiểu làm rõ sắc thái riêng của từng sự kiện, mô tả được tâm lý, tình cảm của quần chúng nhân dân và cả không khí xã hội ở thời điểm sự kiện lịch sử diễn ra. Dựng lại sự kiện lịch sử một cách sơ sài, giản đơn, sẽ sa vào lối phản ánh chung chung. Ðặc biệt, nghiên cứu lịch sử phải tỉ mỉ, công phu, phải xem xét mọi mặt biểu hiện, không được đơn giản, càng không được cắt xén làm cho lịch sử trở nên đơn điệu, tẻ nhạt, thậm chí méo mó.
Sự thật lịch sử chỉ có một, nhưng lại có thể xuất hiện ý kiến bình luận khác nhau. Bình luận có sức thuyết phục nhất là căn cứ vào sự thật và vận dụng phương pháp lịch sử nhuần nhuyễn, nhận được sự đồng tình của giới sử học và xã hội. Ðể đi tới sự thật lịch sử, không thể sử dụng lối đánh giá cảm tính "yêu nên tốt, ghét nên xấu", không được xuất phát từ quan điểm cá nhân, sử dụng tư liệu sơ sài, mà cần có quan điểm khách quan, toàn diện, dựa trên cơ sở sử liệu đầy đủ, được thẩm định kỹ lưỡng. Không ai có thể khẳng định mình có nhận thức lịch sử chính xác nếu không sử dụng có hiệu quả các nguyên tắc của phương pháp lịch sử. Nhận thức lịch sử có được sau một quá trình nhận thức, trong đó không phải không có yếu tố chủ quan, phiến diện và sai lầm là một khả năng. Tuy nhiên, có thể châm chước sai lầm do vô tình hay thiếu năng lực nghiên cứu, nhưng không thể bỏ qua các sai lầm về phương pháp luận, mục đích luận. Vì nếu sai lầm về phương pháp luận liên quan tới tư duy, thì sai lầm từ mục đích luận sẽ dẫn tới hành vi vi phạm đạo đức khoa học.
THIÊN PHƯƠNG

Monday 7 April 2014

DẤU ẤN VĂN HÓA NGƯỜI PHÁP Ở HÀ NỘI (Phạm Xanh - Khoa Lịch Sử Đại Học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn Hà Nội)

DẤU ẤN VĂN HÓA NGƯỜI PHÁP Ở HÀ NỘI (PGS.TS PHẠM XANH)
THỨ TƯ, 17 THÁNG 10 2012 23:43




PGS.TS Phạm Xanh 
Người Pháp quyết tâm trụ lại trên đất Hà Nội từ cuộc viễn chinh Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1973. Sau khi chiếm được Hà Nội, (ngày 20-11-1973), thực dân Pháp, trong vòng không đầy một tháng, lần lượt đánh chiếm các tỉnh vùng châu thổ sông Hồng: Hưng Yên ngày 23-11, Phủ Lý ngày 26-11, Hải Dương ngày 3-12, Ninh Bình ngày 5-12 và Nam Định ngày 12-12. Mặc dầu, ngày 21-12 quân dân Hà Nội đã đánh bại quân Pháp ở trận Cầu Giấy làm nức lòng quân dân ta trên cả nước và đẩy quân Pháp vào thế bị động, nhưng triều đình Huế vẫn trượt dài trên con đường thỏa hiệp, đầu hàng. Ngày 15-3-1874, triều đình Huế ký Hiệp ước mới 22 điều khoản công nhận sự thống trị của Pháp trên miền Lục tỉnh, quyền đi lại, buôn bán, truyền đạo trên đất nước ta và đặc biệt cho phép người Pháp được quyền cư trú và đặt lãnh sự quán ở Hà Nội, Hải Phòng và Quy Nhơn. Trong Thương ước ngày 31-8 năm đó nhắc lại nội dung Hiệp ước trên và nói rõ thêm là triều đình Huế phải nhượng cho chính phủ Pháp một khu đất rộng 5 mẫu (khoảng 2,5 ha) để xây dựng nhà cửa cho viên lãnh sự và những người tùy tùng. Từ tháng 1-1875 mới xác định được vùng đất nhượng là khu Đồn Thủy đến tháng 5 năm đó, một thỏa ước giữa Tổng đốc Hà Nội Trần Đình Túc với phía Pháp mở rộng khu Đồn Thủy lên 18 ha, chạy dọc theo song Hồng từ Viện Bảo tàng Lịch sử đến Bệnh viện Hữu nghị hiện nay. Tháng 10-1875, người Pháp khởi công xây dựng các công trình kiến trúc kiên cố trên khu nhượng địa theo bản thiết kế của sỹ quan Công chính Varen như Tòa lãnh sự được xây dựng theo phong cách cổ điển Pari, các tòa nhà hai tầng làm nơi ở cho sỹ quan, trụ sở chỉ huy quân sự, trại lính và kho tàng… Đó là những công trình kiến trúc đầu tiên mang dấu ấn văn minh Pháp hiện hữu trên mảnh đất Hà Nội mà bây giờ ta vẫn có thể thấy được trong khu Bệnh viện Quân đội 108. Chính nơi này trở thành “vườn ươm văn hóa Pháp” tại Hà Nội.
Sau khi thôn tính toàn bộ nước Việt Nam và Cămpuchia, năm 1887, thực dân Pháp lập Liên Bang Đông Dương. Năm sau, ngày 1-10-1888, Pháp ép vua bù nhìn Đồng Khánh chuyển trấn thành Hà Nội, cố đô Thăng Long xưa, thành nhượng địa của Pháp mà trước đó, ngày 19-7, tổng thống Pháp đã ký Sắc lệnh thành lập Thành phố Hà Nội và xếp Thành phố Hà Nội vào đô thị loại I như Sài Gòn, Hải Phòng. Từ đó, đô thị Hà Nội xưa (gồm phần thành Hà Nội xây theo kiểu Vôbăng và phần thị với 36 phố phường bao quanh) để cho những tên thực dân và những kiến trúc sư Pháp, từ Liôtây qua Hêbra đến Xêruyti, nhào nặn thành Thủ phủ của Liên Bang Đông Dương. Trong quá trình cải biến đó, buổi đầu người Pháp đã ứng xử thô bạo, thiếu văn hóa đối với di sản văn hóa Việt Nam trên mảnh đất nghìn năm văn hiến này. Họ đã phá chùa Báo Thiên xây dựng từ năm 1057 để xây dựng Nhà Thờ Lớn năm 1884. Tiếp đó, họ phá chùa Báo Ân để dựng lên Phủ Thống Sứ Bắc Kỳ và Nhà Bưu Điện. Những pho tượng Phật quý trong chùa trở thành tài sản riêng của Công sứ Bônan[2]. Cho đến năm 1894, họ đã phá gần hết thành Hà Nội. Ngày 13-12-1897, Pôn Đume sang Hà Nội nhậm chức Toàn quyền Đông Dương. Chứng kiến sự ứng xử thổ bạo đối với di sản văn hóa người bản địa như vậy, ông ta đã phải thốt lên: “Tôi đến chậm quá không thể cứu vãn được những bộ phận đáng chú ý. Đặc biệt những cổng thành đáng được gìn giữ. Những cái đó có những đặc tính và những kỷ niệm có giá trị lịch sử đáng được chúng ta trân trọng. Những cái đó có thể tô điểm cho những khu phố tương lai…”[3]. Từ đó, một mặt, trong chừng mực nào đó hạn chế những hành xử thô bạo đối với văn hóa truyền thống của Hà Nội nghìn năm văn hiến, mặt khác, chặn đứng quá trình “nông thôn hóa” đo thị Hà Nội khi Hà Nội mất vai trò kinh sư của đất nước.
Trong những năm nhào nặn Hà Nội thành Thủ phủ Liên bang Đông Dương nhằm tạo môi trường văn hóa xã hội thu hút vốn đầu tư và người Pháp sang làm ăn lâu dài, người Pháp đã để lại nơi đây những dấu ấn văn hóa của mình trên nhiều phương diện.
1.      Về quy hoạch thành phố
Theo các văn bản pháp quy của các cấp chính quyền thuộc địa, quá trình biến Trấn thành Hà Nội thành “Thủ đô của Bắc Kỳ, Thủ đô của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp” cũng là quá trình xác định, mở rộng địa giới hành chính Hà Nội được trải dài trên hai giai đoạn: Xác định ranh giới thành phố và mở rộng địa giới hành chính Thành phố. Ở giai đoạn đầu, mở đầu bằng việc ngày 11-5-1886, Tổng trú sứ Trung – Bắc Kỳ Vial ký Quyết định số 1 giao cho Khu Công chính Bắc Kỳ đo vẽ bản đồ Thành phố Hà Nội. Tiếp đó, ngày 14-9-1888, Quyền Tổng trú sứ Parreau ký Nghị định số 18 phân định ranh giới ban đầu của thành phố. Theo Nghị định này, Thành phố Hà Nội lúc đó bắt đầu từ Sở thuế (nay là Bảo tàng Cách mạng) qua bốt phía Bắc (nay thuộc phố Phó Đức Chính), đường Grand Bouddha (phố Quán Thánh), đường bao quanh thành Hà Nội, cửa Sơn Tây kéo dài đến đường Phủ Thanh Oai (phố Văn Miếu, một đoạn phố Quốc Tử Giám, một đoạn phố Tôn Đức Thắng), Pagode des Corbeaux (Văn Miếu – Quốc Tử Giám), chùa Sinh Từ, đường Huế (phố Duy Tân, nay là phố Huế) đến đê sông Hồng, chỗ Khu nhượng địa (Khu Đồn Thuỷ). Một năm sau, tại phiên họp của Hội đồng Thành phố Hà Nội ngày 6-10-1889, Đốc lý Hà Nội cho rằng “ranh giới hiện tại của Thành phố không rõ ràng, khó nhận biết, khó xác định về đất đai và đã bỏ ra ngoài thành phố một vài vùng buôn bán và công nghiệp”[4]. Vì thế, theo đề nghị của Hội đồng Thành phố, ranh giới Thành phố được xác định lại theo Nghị định của Thống sứ Bắc Kỳ ký ngày 15-11-1889 là: phía Đông giáp với dòng chảy sông Hồng; phía Bắc, phía Tây và phía Nam được xác định bởi những đoạn thẳng nối từ cột mốc số 1 (làng Cổ Xá) đến cột mốc số 15. Ta có thể vẽ ranh giới Hà Nội theo Nghị định trên bắt đầu từ cột mốc số 1 ở làng Cổ Xá men theo bờ nam hồ Tây bao gồm cả đảo Chùa Trấn Quốc, đến đường Hoàng Hoa Thám, qua Đại La tới Đại Cồ Việt đến phố Trần Khát Trân, ra phố Lò Lợn (nhà máy xay Lương Yên).
Ranh giới này từng được xem là ranh giới chính thức làm căn cứ pháp lý cho những lần mở rộng địa giới Thành phố tiếp theo dưới chính quyền thuộc địa.
Ở giai đoạn hai, giai đoạn mở rộng phạm vi Thành phố bắt đầu từ năm 1895 mở rộng theo hướng đông-bắc đến ngày 1-1-1943 đưa các làng trong huyện Hoàn Long, các tổng Thanh Trì, Thịnh Liệt, Khương Đình của huyện Thanh Trì, các tổng Dịch Vọng, Xuân Tảo, Phú Gia của phủ Hoài Đức vào Thành phố Hà Nội.
Người Pháp đã tiến hành quy hoạch Thành phố theo lộ trình mở rộng không gian đô thị nơi đây. Có thể chia quy hoạch Thành phố theo 3 giai đoạn: giai đoạn 1 từ 1875 đến 1888, giai đoạn 2 từ 1888 đến 1920 và giai đoạn cuối cùng từ 1920 đến 1945. Chẳng hạn, ở chặng đầu, bên cạnh triển khai những công trình kiến trúc tiêu biểu trong Khu Nhượng địa, Phó Công sứ Bắc Kỳ bằng một quyết định ký ngày 22-8-1886, cho phép xây dựng một con đường rộng 10m xung quanh hồ Hoàn Kiếm và không được phép xây dựng một công trình nào, dù là nhà tranh, dọc theo khu vực này.
Ở mỗi giai đoạn đều có những điểm nhấn quan trọng. Nhưng nhìn chung, quy hoạch tổng thể mang tính thực dân đậm nét, được biểu hiện rõ trên thực tế bằng sự phân chia Thành phố thành hai khu vực: khu vực sang trọng giành cho người Pháp và người Âu và khu vực tồi tàn giành cho người bản địa. Trong quá trình chỉnh trang và xây dựng mới, họ giữ lại và chỉnh trang khu phố cổ phía Bắc hồ Hoàn Kiếm, còn trên các phố khác, đường phố được quy hoạch theo ô bàn cờ và phân khu theo các chức năng của nó như hành chính, buôn bán, sản xuất công nghiệp, giải trí và cư trú cho người Âu và người Việt. Chẳng hạn như khu hành chính, từ đầu người Pháp đã xác định hai trung tâm hành chính-chính trị: khu phía Đông hồ Hoàn Kiếm với vườn hoa Pôn Be (bây giờ là vườn hoa Lý Thái Tổ) làm trung tâm, mọc lên những tòa nhà theo phong cách kiến trúc Pháp như Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, Nhà Bưu Điện trung tâm, Tòa Đốc lý Hà Nội, Khách sạn Mêtrôpôn, Ngân hàng Đông Dương… Trung tâm hành chính-chính trị thứ hai nằm ở phía Nam hồ Tây mà tâm điểm là Dinh Toàn Quyền Đông Dương và các cơ quan trực thuộc, Sở Tài chính Đông Dương (bây giờ là Bộ Ngoại giao) được nối với trung tâm hồ Hoàn Kiếm bằng trục phố Paul Bert (bây giờ là phố Tràng Tiền và phố Hàng Khay) – phố B. Desbordes (Tràng Thi) - Đại lộ Puginier (Điện Biên Phủ ngày nay). Về quy hoạch, đáng chú ý nhất là Nghị định 8962 ngày 5-12-1942 của Toàn Quyền Đông Dương phê chuẩn và công bố các quy định trong đồ án quy hoạch và mở rộng Thành phố Hà Nội và vùng ngoại ô do Sở Quy hoạch đô thị và Kiến trúc Đông Dương lập. Theo quy định của đồ án, Thành phố Hà Nội được chia làm 11 khu mang ký hiệu từ A đến H: Khu A khu biệt thự; Khu B, khu thương mại; Khu C, khu biệt thự kiểu Việt Nam, Khu D, khu nhà chia ô; Khu E, khu buôn bán nhỏ theo kiểu Việt Nam; Khu F, khu làng truyền thống của người Việt; Khu G, khu dự phòng cho các mục đích hành chính công; Khu H, khu công nghiệp. Ngoài ra còn để các khu trống dành cho các khu vui chơi, giải trí, thể thao, công viên. Điều đáng nói là mỗi khu vực đều có quy định riêng về kiểu dáng, kích thước, diện tích và vật liệu xây dựng nhà cửa trong khu và quy định những cấm đoán trong một số khu như không dán quảng cáo, cấm các chuồng trại lợn, ngựa và các vật nuôi khác.
2. Về kiến trúc.
Trước năm 1920, các công trình kiến trúc chủ yếu như Phủ Thống sứ, Dinh Toàn quyền, nhà Bưu điện, khách sạn Mêtrôpôn, Nhà hát Thành phố… đều được xây dựng theo phong cách kiến trúc cổ điển Pháp. Liên quan tớ đề tài, chúng tôi xin lấy Nhà hát Thành phố (Theatre minicipal) làm thí dụ. Năm 1990, trong đấu thầu xây dựng Nhà hát Thành phố, Charavy và Savelon đã trúng thầu toàn bộ công trình… Tháng 12-1902, Toàn Quyền Đông Dương cho Thành phố Hà Nội vay trước 100.000 đồng để xây dựng Nhà hát và mỗi năm hoàn trả một lần kéo dài trong 10 năm. Đến năm 1911 công trình Nhà hát Thành phố hoàn thành, sau đó là chỉnh trang công trình cho đến năm 1913. Sau khi khánh thành, Nhà hát Thành phố đêm đêm đỏ đèn đón khán giả tới xem các chương trình biểu diễn từ âm nhạc đến kịch, chủ yếu là người Âu và giới thượng lưu người Việt. Vở kịch nói Việt Nam đầu tiên Chén thuốc độc của Phong Di Vũ Đình Long được công diễn đầu tiên tại Nhà hát Thành phố nhân dịp kỷ niệm một năm ngày thành lập Hội Bắc Kỳ Công Thương Đồng nghiệp.
Từ năm 1920 trở về sau, theo ý tưởng thiết kế của kiến trúc sư Hêbra, các công trình kiến trúc bắt đầu có sự kết hợp sáng tạo, hài hòa của kiến trúc hiện đại Pháp với những yếu tố kiến trúc truyền thống bản địa, tạo thành những tổ hợp kiến trúc phù hợp với môi trường tự nhiên và xã hội phương Đông. Ta có thể chỉ ra những công trình kiến trúc thành công theo ý tưởng của Kiến trúc sư Hêbra như Trường Đại học Đông Dương trên đại lộ Boibillot (nay là phố Lê Thánh Tông), Bảo tàng Lui Finô (nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam), Sở Tài chính Đông Dương (nay là Bộ Ngoại giao), Viện Pastơ (nay là Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương)…
Cùng với việc xây dựng các công trình kiến trúc tiêu biểu như trên đã nói, người Pháp còn xây dựng Vườn Bách thảo, các quảng trường, các công viên, vườn hoa và các đài tưởng niệm mà đên bây giờ vẫn còn tác dụng. Chỉ riêng cụm kiến trúc xung quanh hồ Hoàn Kiếm, chúng ta vẫn thấy sự hiện hữu của các công trình công cộng như Vườn hoa Paul Bert (bây giờ là vườn hoa Lý Thái Tổ) nối với Quảng trường Thành phố trước Phủ Thống sứ Bắc Kỳ (Nhà khách Chính phủ), trên đó dựng công trình đài phun nước tưởng niệm Chavassieux (khánh thành năm 1901). Phía Bắc hồ Hoàn Kiếm là Quảng trường Negrier (bây giờ là Quảng trường Đông Kinh Nghĩa thục), nơi đặt Ga trung tâm của hệ thống tàu điện Hà Nội. Phía Đông, cạnh đền Bà Kiệu là nhà bia tưởng niệm Giám mục Alếcxan Đờrốt, một trong những cha cố góp phần sáng tạo ra chữ Quốc ngữ. Phía Tây, từ trước vốn đã có tượng vua Lê do Hoàng Cao Khải xây năm 1894 nhưng đã xuống cấp theo thời gian, nên năm 1902, Đốc lý Hà Nội xin phép Thống sứ Bắc Kỳ được sửa chữa lại công trình này với khoản kinh phí 150 đồng lấy từ ngân sách Bắc Kỳ…
Tất cả những công trình đó tạo thành một di sản kiến trúc quý báu và trở thành một bộ phận không thể thiếu trong lòng Hà Nội nghìn năm văn hiến.
3.      Về giao thông đô thị
Năm 1902, chiếc cầu sắt vĩ đại mang tên Pôn Đume, còn dân ta vẫn quen gọi là cầu Long Biên hay cầu sông Cái, do Công ty Daydé & Pillé thiết kế và thi công với 19 nhịp, đặt trên 20 trụ, dài 1680m, nếu tính cả đường dẫn lên hai đầu cầu, là 2.500m, đã hoàn thành. Vào lúc 8 giờ 30, ngày 28-2-1902, chuyến tàu đầu tiên khởi hành từ Ga Hàng Cỏ (Ga Hà Nội hiện nay) đua vua Thành thái và Toàn Quyền Đông Dương Pôn Đume cùng đoàn tuỳ từng tới đầu cầu, cắt băng khánh thành trước sự chứng kiến của hàng nghìn người dân Hà Nội và dân quanh vùng. Cùng với Ga Hàng Cỏ, việc khánh thành cầu Pôn Đume đã biến Hà Nội thành trung tâm giao thông vận tải trên cả nước và trên toàn Liên Bang. Nó liền đi vào ca dao của người Hà Nội chúng ta: Hà Nội có cầu Long Biên/Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng. Cùng năm đó, với Nghị định số 953, Toàn Quyền Đông Dương chính thức cho phép khai thác tuyến đường tàu hoả Hà Nội lên biên giới Việt-Trung và bến phà qua sông Hồng ngừng hoạt động[5]. Đến năm 1905, từ ga Hàng Cỏ ta có thể đáp tàu hoả đi Lạng Sơn, Đồng Đăng, đi Hải Phòng, đi Việt Trì, Lào Cai và đi Vinh, để đến năm 1936 đi đến tậ ga Bình Chiểu, Sài Gòn. Cầu Long biên vốn là chiếc cầu giành cho đường sắt, nhưng đến đầu những năm 20 của thế kỷ trước, người Pháp đã mở rộng hai bên cầu cho xe cộ và người đi bộ. Theo thống kê người Pháp, ta biết được, năm 1925, lưu lượng xe và người qua lại hàng ngày trên cầu Long Biên là: 249 chiếc (166 xe du lịch, 70 xe khách và 4 xe cam nhông), 141 xe bò, 1184 xe kéo, 344 xe đạp và 4.756 người đi bộ[6]. Và thiết lập hai bến xe ô tô: Kim Liên cho xe khách chạy các tuyến đường phía Nam và Bến Nứa (Long Biên) cho xe khách chạy các tuyến phía Bắc. Cùng với nó, các phương tiện giao thông nội đô cũng tăng trưởng theo hướng hiện đại như xe đạp, ô tô và đặc biệt là các tuyến tàu điện lấy hồ Hoàn Kiếm làm trung tâm, mở ra theo các hướng như Bờ Hồ - Chợ Mơ, Bờ Hồ - Bạch Mai, Bờ Hồ - Thái Hà – Hà Đông, Bờ Hồ - Bưởi, Bờ Hồ - Yên Phụ. Tiếng leng keng tàu điện trở thành một loại âm thanh ký ức đối với người Hà Nội. Đáng tiếc là trong quá trình xây dựng Hà Nội chúng ta không giữ được nó.
Với sự hoạt động mạnh mẽ của các loại hình giao thông, đặc biệt là đường sắt, nền thương nghiệp, trong đó có nội thương, phát triển đáng kể. Nói đến việc buôn bán trong nước, trước hết phải nói đến chợ. Một hệ thống chợ đã hình thành và phát huy tác dụng trong địa hạt kinh tế, từ chợ quê – chợ huyện – chợ tỉnh – chợ lớn. Cũng như chợ lớn Bến thành ở Sài Gòn, chợ lớn Đông Ba ở huế, chợ Đồng Xuân ở Hà Nội đóng vai trò trung tâm buôn bán của một vùng rộng lớn, không chỉ của Bắc Kỳ, mà cả Bắc Đông Dương và vùng Hoa Nam, Trung Quốc. Hệ thống chợ đã góp phần giao lưu hàng hoá trên cả nước, thống nhất thị trường và trên tất cả là tạo ra chất keo cố kết cộng đồng dân tộc Việt Nam thành một khối vững chắc mà không một thế lực ngoại bang nào có thể phá nổi.
4.      Nhà in và các loại ấn phẩm
Trước khi có mặt người Pháp ở nước ta, các văn bản và sách của triều đình Huế phổ biến trong dân chúng đều qua kỹ thuật in bằng mộc bản. Vừa rồi, tổ chức UNESCO đã công nhận kho mộc bản của nhà Nguyễn (hiện đang được bảo quản tại Đà Lạt) là di sản ký ức nhân loại. Người Pháp tới mang theo kỹ thuật in ấn mới, hiện đại – kỹ thuật in ti pô, vào nước ta. Dĩ nhiên, đầu tiên được du nhập vào Sài Gòn, Nam Kỳ, sau đó mới tới Hà Nội, Hải Phòng và lan toả khắp Bắc Kỳ. Kỹ thuật in ấn mới đó như là một phương tiện hữu hiệu và nhanh chóng qua các ấn phẩm của nó mà một mặt, truyền bá văn minh phương Tây, văn minh Pháp vào Việt Nam và mặt khác, hạn chế dần ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa ra khỏi đất Việt. Ta có thể hình dung, nếu súng đạn giúp người Pháp chiếm đất, thì kỹ thuật in ấn mới là phương tiện chủ yếu giúp người Pháp thực hiện cuộc xâm lăng văn hoá, chinh phục con người Việt Nam.
Trong nghề in ấn, F.H. Scheneider đóng vai trò thực sự to lớn, không chỉ ở Sài Gòn với việc bao thầu phần lớn việc xuất bản các tờ báo chính, mà cả ở Hà Nội. Nguyễn Văn Vĩnh, một cây bút chính trong Đăng cổ tùng báo của Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907, được Scheneider lựa chọn truyền nghề, trở thành chủ bút của Đông Dương tạp chí năm 1913 và sau đó tiếp nhận toàn bộ cơ sở in ấn ở xứ Bắc Kỳ và trở thành một ông chủ lớn trong nghề in ở Trung và Bắc Kỳ. Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ Nhất, lợi dụng sự cách trở giữa chính quốc và thuộc địa bởi bom đạn và sự điều chỉnh chính sách kinh tế thuộc địa cho phù hợp với thời chiến của Chính quyền thuộc địa, nhiều doanh nhân nước ta nhảy vào kinh doanh trong địa hạt in ấn. Những nhà máy in của người Việt lần lượt ra đời như Nhà máy in Ngô Tử Hạ, Nhà máy in Lê Văn Phúc, Nhà in Thực Nghiệp Dân Báo, Đông Kinh ấn quán, Nhà in Lê Văn Tân… Một điều khá lý thú là một tờ báo kinh tế của Pháp L’éveil Economique, số ra ngày 2-1-1921, đã đăng bài Người An Nam và buôn bán, trong đó có một nhận xét: “Những người Pháp xa Bắc Kỳ sáu, bảy năm nay quay trở lại sẽ thấy một sự thay đổi lớn. Họ có những cửa hàng lộng lẫy ở những phố sang trọng. Một trong những nhà in khá nhất ở Hà nội là của một người Việt Nam” (do P.X viết nghiêng để nhấn mạnh). Khi phần lớn nhà in nằm trong tay người Việt, đặc biệt năm 1926 xuất hiện một nhà xuất bản do một nhà yêu nước Việt Nam chủ trương – Nam Đồng thư xã của Phạm Tuấn Tài thì phương tiện này rẽ theo một hướng khác, không như người Pháp mong muốn. Báo chí Hà Nội thời này như Thực Nghiệp Dân Báo, Khai hoá nhật báo, Hữu Thanh tạp chí không chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi chính trị, kinh tế của tư sản dân tộc, mà còn hoà chung vào phong trào dân tộc sôi nổi trên cả nước thời đó như Phong trào tẩy chay khách trú (1919), Phong trào đòi ân xã Phan Bội Châu (1925), Phong trào truy điệu Phan Chu Trinh (1926)… Từ các phong trào đó đã sản sinh ra một lớp những “chàng trai bãi khoá” gia nhập các tổ chức cách mạng vừa mới được thành lập như Việt Nam cách mạng Thanh niên và Hội Phục Việt. Hay như nhà xuất bản Nam Đồng của Phạm Tuấn Tài đã chuẩn bị tư tưởng cho sự ra đời của Việt Nam Quốc dân Đảng sau đó bằng việc xuất bản những cuốn sách mang nặng tinh thần dân tộc và lòng yêu nước, đặc biệt tháng 11-1926 ấn hàng cuốn sách Tiểu sử và học thuyết của Tôn Dật Tiên của Dật Công (Phạm Tuấn Lâm) và Nhượng Tống (Hoàng Phạm Trân). Nối tiếp là báo chí theo khuynh hướng mác xít, mở đầu bằng tờThanh Niên, Lính Cách mệnh của Việt Nam Cách mạng Thanh niên, rồi đến Búa liềm của Đông Dương cộng sản Đảng và tờ Lao động của Tổng Công hội Bắc Kỳ…
Rõ ràng, in ấn là phương tiện thông qua đó tạo ra những ấn phẩm truyền bá văn minh phương Tây, văn minh Pháp, khi nằm trong tay người Việt, nó trở thành công cụ, qua đó tạo ra những ấn phẩm yêu nước theo nhiều mức độ và khuynh hướng khác nhau nhằm mục đích tối thượng là chống lại sự thống trị của thực dân Pháp, giành lại nền độc lập cho dân tộc.
5.      Thay đổi ứng xử đối với di sản văn hoá Hà Nội
Theo tài liệu lưu trữ, trước năm 1900, chưa có cơ quan văn hoá nào chuyên lo về việc quản lý và bảo tồn các di tích lịch sử ở Đông Dương. Do vậy, nhiều công trình lịch sử, trong đó có những di tích thuộc về văn hoá tâm linh bị xâm hại trong quá trình xây dựng và mở rộng Thành phố Hà Nội. Toàn quyền Đông Dương Pôn Đume sang nhậm chức đã tận mắt chứng kiến sự ứng xử thô bạo với di sản văn hoá bản địa và ông đã thốt lên những tiếc nuối như trên đã trích dẫn. Và cũng chính ông, trong nhiệm kỳ làm Toàn quyền Đông Dương (1897-1902), đã ban bố hai nghị định (9-3-1900 và 15-4-1905) về xếp hạng và bảo tồn các công trình lịch sử của Thành phố Hà Nội. Thời điểm đó, tại Hà Nội đã xếp hạng 7 công trình là Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Đền Quán Thánh, Đền Ngọc Sơn với Đài Bút Tháp, Đền Hai Bà, Đình Bạch Mã, Chùa Một Cột[7].
Để đưa Nghị định của Toàn quyền Đông Dương vào sâu trong cuộc sống, tháng 6-1905 Đốc lý Hà Nội đã tổ chức một cuộc tổng điều tra về tình hình đất đai và thờ cúng của tất cả các công trình tín ngưỡng ở Hà Nội. Hiệp lý Thành phố là Bùi Bành cùng tất cả các Phố trưởng tham gia vào quá trình đó. Theo số liệu của cuộc tổng điều tra, lúc đó ở Hà Nội còn khoảng 400 đình, đền, chùa, miếu…
Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Anbe Sarô ban hành Sắc lệnh ngày 3-4-1920 xác định vị trí và nhiệm vụ của Trường Viễn Đông Bác cổ. Theo Sắc lệnh đó, Trường Viễn Đông Bác cổ đặt dưới quyền quản lý trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương và dưới sự kiểm soát về khoa học của Viện Hàn lâm về văn hoá và văn học Pháp với nhiệm vụ “đảm bảo việc bảo quản và giữ gìn các công trình lịch sử của các nước Đông Dương thuộc Pháp”. Từ đây, dưới sự tư vấn của Trường Viễn Đông Bác cổ, Hội đồng Thành phố tiến hành xếp hạng và quản lý các công trình lịch sử, bao gồm cả những công trình văn hoá tâm linh. Với sự tư vấn của Trường Viễn Đông Bác cổ, Sở Quốc gia bảo tồn cổ tích và của Hội đồng Thành phố, ngày 15-2-1927, Đốc lý Hà Nội đã cho nghiên cứu về Dự thảo quản lý và sử dụng các công trình tín ngưỡng ở Hà Nội gồm 7 điều, nhưng không được ban hành vì “đây là vấn đề nhạy cảm và phức tạp liên quan đến tập quán lâu đời của dân bản xứ”[8]. Nhận thức được điều đó, ngày 24-10-1927, Đốc lý Hà Nội đã soạn thảo lại nghị định gồm 2 điều quy định việc quản lý các đình, chùa thuộc quyền sở hữu công cộng của Thành phố và trình lên Thống sứ Bắc Kỳ. Ngày 29-10-1927, nghị định đó được Thống sứ Bắc Kỳ chuẩn y và ban hành với số Nghị định là 351. Thực hiện Nghị định đó, đầu năm 1928, Đốc lý Hà Nội đã chỉ thị cho các Phố trưởng tổ chức  bầu các Hội đồng quản lý trông nom việc thờ cúng tại các công trình tín ngưỡng thuộc địa phương mình và lập danh sách các thủ từ trình lên Đốc lý. Do vậy mà ngày 23-8-1930, Đốc lý Hà Nội đã ký một loạt những Quyết định thành lập các Hội đồng quản lý các chùa Bà Đá, Tả Khánh, Bảo Khánh, Đông Hương, Khánh Thuỵ và đền Thuận Mỹ.
Không dừng lại ở đó, đến năm 1934, Hội đồng Thành phố đã với tay tới các công trình tín ngưỡng thuộc sở hữu tư nhân bằng Quyết định triệu tập một Ban gồm 13 thành viên dưới sự chủ toạ của Đốc lý họp và lập một danh sách những công trình chưa xếp hạng. Theo đó, chính quyền Thành phố qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông báo cho các chủ sở hữu về thời gian tình lên Hội đồng Thành phố những giấy tờ chứng minh quyền sở hữu của mình nếu không Thành phố sẽ sung công vào mục đích công của Thành phố nhằm ngăn chặn sự lạm dụng tôn giáo và đưa việc quản lý đình, chùa vào trật tự”[9]. Hầu hết các công trình thuộc sở hữu tư nhân bị sung công thời gian này.
Từ năm 1937 trở về sau, được phép của Toàn quyền Đông Dương, Thống sứ Bắc Kỳ và tư vấn của Trường Viễn Đông Bác cổ, Đốc lý ra những quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng của một số công trình tín ngưỡng của Hà Nội do yêu cầu quy hoạch Thành phố hoặc do yêu cầu mở rộng hay chỉnh lại hương các đường phố.
Rõ ràng, sau một thời kỳ đối xử không văn hoá đối với các loại di sản văn hoá của người Việt chúng ta, bắt đầu từ Toàn quyền Đông Dương Pôn Đume, đã làm được nhiều việc để bảo tồn và lưu giữ lâu dài các di sản văn hoá của chúng ta. Đó là điều ta cần phải trân trọng.
6.      Hình thành một lối sống thị dân
Trước khi người Pháp chính thức hiện diện trên mảnh đất văn hiến này vào tháng 10-1875, Hà Nội đã trải qua những cuộc bể dâu ghê gớm: từ vị trí Kinh đô Thăng Long của nước Đại Việt trong suốt 800 năm, đến triều Nguyễn bị hạ xuống tỉnh thành, rồi Trấn thành, Hà Nội đang đứng trước ngưỡng cửa “nông thôn hoá”. Người Pháp tới trong chừng mực nào đó đã chặn đứng được làn sóng suy thoái của Hà Nội bằng quyết tâm biến nơi đây thành Thủ phủ của Liên Bang Đông Dương. Hà Nội được sống lại với một diện mạo mới, một kích cỡ mới. Bên cạnh giữ lại một phần thành Vô băng dưới thời Nguyễn và 36 phố phường xưa, người Pháp đã tạo ra một Hà Nội hiện đại hoá theo kiểu đô thị phương Tây. Hà Nội được mở rộng ra trên bốn hướng, dân cư đông đúc hơn. Cho đến năm 1928, Hà Nội là nơi cư trú của 126.137 người, gồm nhiều cộng đồng người khác nhau, đông nhất là người Việt, 118.327 người; rồi đến cộng đồng người Hoa, 4.428 người; người Pháp, 3.120 người; người Nhật, 19 người và các ngoại kiều khác. Những người cư trú trong Thành phố, bất chấp nguồn gốc giai cấp, dân tộc, đều được gọi là thị dân. Họ sống bên nhau, cho nên trong quá trình chung sống, đồng thời bảo lưu những truyền thống văn hoá mà họ mang theo trong hành trang của mình, họ đã tiếp nhận những giá trị văn hoá của các dân tộc khác sống bên cạnh họ. Có lẽ, vì đã được trải nghiệm tại chỗ văn minh các dân tộc khác mà các cụ nhà ta đã rút ra một kết luận thú vị trên phương diện văn hoá: “Ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật, ở nhà Tây”.
Từ khi người Pháp xây Lãnh sự quán trên đất Hà thành cho đến khi người Pháp rời bỏ mảnh đất này bởi cuộc đảo chính của phát xít Nhật có độ dài trọn 70 năm. Mấy mươi vạn người Hà Nội đã đắp nổi gần 4 thế hệ, nếu chúng ta tính một thế hệ là 20 năm. Người Hà Nội trải qua 4 thế hệ đó đã tạo ra một lối sống mới, tôi gọi là lối sống thị dân, khác xa với lối sống nông dân. Lối sống thị dân được biểu hiện rõ qua cái ăn, cái mặc, nơi ở, các phương tiện đi lại và nếp ứng xử. Chẳng hạn, người thành thị thích ăn nhạt khổng phải họ nhiều tiền, mà là do chợ ở đây họp suốt ngày, gần nơi ở, thậm chí hàng đưa đến tận nhà. Hoặc người thành thị mong có được một căn hộ khép kín… Ta có thể kể nhiều nữa về lối sống khác nhau của cư dân ở hai loại hình cư trú nông thôn và thành thị. Một hình ảnh thường thấy ở Hà Nội hoặc ở bất kỳ một thành phố lớn nào khác là người Hà Nội, sau bữa sáng, thường ngồi nhâm nhi tách cà phê nóng và lật xem những trang báo mới ra, tìm những thông tin cần thiết cho công việc của mình.
Tóm lại, thị dân chính là cơ sở vật chất để tiếp nhận văn minh phương Tây từ bên ngoài tràn tới và như vậy mới có khả năng tiến kịp cùng nhân loại. Vì vậy, trong cương lĩnh xây dựng đất nước của Đảng ta trước đay thường nêu ra một khẩu hiệu phấn đấu “đưa nông thôn đuổi kịp thành thị”, là nhằm thực hiện tiêu chí đó.
Trong toàn bộ di sản văn hoá Thăng Long - Hà Nội nghìn năm có một phần di sản văn hoá người Pháp để lại cho chúng ta. Dĩ nhiên, những thứ mà họ để lại nằm ngoài ý muốn chủ quan của họ. Cái tư tưởng chủ đạo của họ là biến Hà Nội thành điểm đến hấp dẫn để gọi vốn đầu tư của tư bản Pháp và “trói chân” họ lâu dài trên mảnh đất này. Dẫu sao, trong quá trình tước đoạt, người Pháp để lại những dấu ấn văn hoá quý giá và chúng ta cần phải trân trọng lưu giữ nó, bởi đó, suy cho cùng, là một bộ phận hợp thành trong di sản văn hoá của nhân loại.



[1] Bài đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số tháng 7-2010.
[2] André Masson. Hanoi pendant la période héroique, tr. 316.
[3] André Masson, sđd, tr. 85.
[4] Fonds de la Résidence supérieuce du Tonkin (viết tắt là RST). Phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ. Hồ sơ 78647.
[5] RST. Hồ sơ 7861.
[6] Jean-Pierre Aumiphin. Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương (1859-1939). Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xuất bản 1994, tr. 134.
[7] Journal officiel de l’Indochine francaise (JOIF), Tạp chí Công báo Đông Dương thuộc Pháp 1920, số 97, tr. 2255.
[8] RTS. Hồ sơ 57777.
[9] Fonds de la Mairie de Hanoi avant  1945 (MHN). Phông Toà Đốc lý Hà Nội trước năm 1945.