Monday 19 May 2014

Thử tìm lời giải cho câu hỏi: Cụ Hồ là ai? (Ngô Trần Đức)



Ngô Trần Đức

Cụ Hồ là ai? Đây là một câu hỏi được giới nghiên cứu trong và ngoài nước nêu lên từ lâu, đã có nhiều lời giải khác nhau, đến nay vẫn tiếp tục có thêm những kiến giải mới. Điều đó cho thấy Hồ Chí Minh quả là một nhân vật đa dạng, phong phú, hấp dẫn, có khả năng sống với nhiều thời đại. Vậy Cụ Hồ là aiLà  dân tộc chủ nghĩa hay quốc tế chủ nghĩa? Là người mácxít hay người theo đạo Khổng? Là cộng hòa, cộng sản hay xã hội dân chủ? Chủ nghĩa cộng sản với Hồ Chí Minh là mục đích hay là phương tiện? v.v..
I. Lược qua một vài ý kiến tiêu biểu
Ph. Devillers trong lời Tựa cho cuốn “Hô Chi Minh à Paris 1917-1923” của Thu Trang-Gaspard, có nêu câu hỏi: Tại Đại hội Tours, Nguyễn Ái Quốc tin theo Luận cương của Lênin, bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc Tế 3, nhưng ông đã phải là người mácxít chưa? Ông có tin vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, một giai cấp lúc đó còn hết sức nhỏ bé về số lượng ở Đông Dương? Ông có tin vào học thuyết đấu tranh giai cấp và sự cần thiết phải xây dựng một nền chuyên chính vô sản hay chưa? Tại sao lúc nào ông cũng chỉ tập trung vào vấn đề  thuộc địa, đặt nó lên trên tất cả các vấn đề  khác?
“Ông tin vào lời kêu gọi “vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”, bởi đối với ông, việc giải phóng đất nước bị chinh phục chỉ có thể tiến hành bằng bạo lực chứ không thể bằng những cải cách rụt rè. Vậy, cần làm rõ: sự lựa chọn đó xuất phát từ niềm tin trong hệ tư tưỏng, từ sự ngả theo hệ lý luận mácxit một cách sâu sắc hay chỉ là từ một nhu cầu thực tế? Nếu cách xử sự của Pháp khác đi thì phải chăng Người vẫn chỉ có một sự lựa chọn đó?”[1].
Alain Ruscio trong bài “Chân dung một người bônsêvich vàng[2] cũng nêu một câu hỏi: Nguyễn Ái Quốc có thật sự muốn trở thành một đảng viên Xã hội không? Để trả lời, ông dẫn Trần Dân Tiên : Tôi vào Đảng Xã hội Pháp “ chỉ vì đấy là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Theo Ruscio, nghiã là Nguyễn Ái Quốc chỉ nhắc đến lý tưởng cộng hoà Pháp chứ không phải đến truyền thống chủ nghĩa xã hội Pháp hay Cách mạng tháng Mười Nga? Tác phẩm chính trị đầu tiên mà Nguyễn dịch ra tiếng Việt không phải là“Tuyên ngôn Đảng Cộng sản của Mác - Enghen hay “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản của Lênin, mà là “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu!
Cũng theo Ruscio, nguờì ta  không tìm thấy một dấu hiệu nào cho biết dự kiến chính trị của Nguyễn Ái Quốc vào thời đó rằng sau khi giành được độc lập sẽ xây dựng An Nam thành một nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa!
Pierre Brocheux, một sử gia Pháp đã hơn 50 năm nghiên cứu về Hồ Chí Minh, lại đưa ra một nhận định: “Hồ Chí Minh là một người theo đạo Khổngông ưa các giải pháp ôn hoà hơn là cực đoan”. Hồ Chí Minh  đã lên án các cuộc đánh người, giết người trong Cải Cách Ruộng Đất, và gọi như thế là hành xử theo lối bọn đế quốc, là hành vi tội phạm, là tội ác!
Theo Brocheux, Hồ Chí Minh có một lần viết về vụ Trăm hoa đua nở ở Trung Quốc, có gọi các nhà văn - như Đinh Linh - là phái hữu; nhưng ông không hề nhắc tới tên của bất cứ văn nghệ sĩ, trí thức nào của Viêt Nam.[3]
GS Nhật Bản Yoshiharu Tsuboi (Đại học Waseda) trong tham luận tại Hội thảo Việt Nam học lần thứ ba, nêu vấn đề: “Có lẽ giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng nhất trong suốt cuộc đời mình lànhững giá trị của nền cộng hoà mà cơ sở lý luận của nó là Tự do, Bình đẳng, Bác ái”.Theo ông, tinh thần cộng hoà Pháp mang tính lý tưởng rất cao, nó không quan tâm đến con người đó là ai, sinh ra ở đâu, trong gia đình, dòng họ nào,…vấn đề quan trọng là giá trị của bản thân con người đó có đủ khả năng suy nghĩ một cách lý tính hay không?
Nền cộng hoà được xây dựng bởi những cá nhân, theo quan điểm giá trị mới về con người, rất khác với quan niệm của Nho giáo. Hồ Chí Minh là nhà chính trị duy nhất ở châu Á đã nhận thức được một cách đúng đắn tinh thần của nền cộng hòa Pháp và đã cố gắng đưa nó vào Việt Nam. Khi đã trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh vẫn ưu tiên đấu tranh cho độc lập dân tộc, cho mục tiêu Độc lập, Tự do, Hạnh phúc. Ông phân tich:
- Độc lập mà Hồ Chí Minh muốn là một nhà nước có chủ quyền, theo quan niệm cận đại, xây dựng một chế độ Dân chủ Cộng hòa, xây dựng con người mới gánh vác công việc quốc gia.
- Tự do không đơn thuần chỉ là quyền tự do định đoạt chính sách đối nội, đối ngoại của một nhà nước độc lập, mà là quyền tự do của mỗi người dân được hưởng với khả năng và trách nhiệm của mình, của một chủ thể xây dựng nền cộng hòa.
- Hạnh phúc  nghĩa là mỗi người đều có quyền mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình và phải biết chủ động tích cực đấu tranh để giành lấy hạnh phúc.
Như vậy, theo ông về mặt này, ông Hồ không phải là người cộng sản chính thống theo quan điểm Mác –Lênin. Cho nên, nếu chỉ lấy ý thức hệ Mác-Lênin để lý giải cụ Hồ là không đầy đủ, do còn thiếu cái nền văn hoá - tư tưởng phương Tây, do không nắm được “tinh thần cộng hoà”, mà vẫn đóng khung trong cách nhìn “đấu tranh giai cấp”. Bản thân ông Hồ, để nhận viện trợ của phe xã hội chủ nghĩa cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, ông đã phải phát ngôn và hành động như một người cộng sản, đó là do thúc ép của hoàn cảnh lịch sử, mà ông không có sự lựa chọn nào khác!
Ngoài ra, có một vài học giả Việt Nam, gần đây cũng đưa ra những nhận định riêng của mình về Hồ Chí Minh . Có người cho rằng Hồ Chí Minh chỉ khoác áo cộng sản chứ không phải là người cộng sảnông là người xã hội dân chủ từ gốc rễ.
GS Hoàng Ngọc Hiến, phát biểu trong một hội thảo, cho rằng sự tiếp nhận chủ nghĩa Mác ở Hồ Chí Minh là một quá trình, phải nghiên cứu quá trình đó để xem Hồ Chí Minh đã tiếp biến chủ nghĩa Mác như thế nào? Theo GS Hiến, Nguyễn Ái Quốc từng ở chung với Phan Văn Trường khoảng 6 tháng, đó là Trường Đại học của Cụ Hồ! mà ông Trường lại là một người xã hội từ đầu đến chân! Tuy không nói thẳng ra, nhưng người nghe đều hiểu ý của ông: Hồ Chí Minh là một người xã hội dân chủ hơn là một người cộng sản.
Còn có thể dẫn thêm một vài ý kiến khác nữa, nhưng trên đây là mấy lập luận tiêu biểu. Vậy Hồ Chí Minh là ai? Cộng sản hay Dân tộc? người yêu nước hay chiến sĩ quốc tế? Cộng hòa, Cộng sản hay Xã hội dân chủ? Theo chủ nghĩa Mác hay theo đạo Khổng, v.v..           
 II. Thử tìm lời giải cho câu hỏi: Cụ Hồ là ai ?
Để trả lời câu hỏi này một cách rõ ràng, theo tôi, không thể chỉ dựa vào một, hai yếu tố nào đómột cách tách biệt để lập luận, lý giải, rồi khẳng định Cụ Hồ là ai. Theo thiển ý, phải đặt mỗi yếu tố đó trong tổng thể cuộc đời Hồ Chí Minh, nhân cách Hồ Chí Minh, văn hoá Hồ Chí Minh, phương pháp hành xử Hồ Chí Minh,…mới hiểu đúng được thực chất con người Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Một nhà báo Mỹ, từ rất sớm đã đưa ra nhận xét: “Hồ Chí Minh là một trong số những nhân vật lạ lùng nhất của thời đại chúng ta: một chút Gandhi, một chút Lênin,…nhưng  hoàn toàn Việt Nam[4]. Đây là một gợi ý cần được tham khảo.
 Hồ Chí Minh là người Việt Nam nhất trong những người Việt Nam, là sự kết tinh những giá trị tiêu biểu nhất của văn hoá - lịch sử - đất nước và con người Việt Nam. Do đó, muốn hiểu được Hồ Chí Minh, phải bắt đầu từ hiểu văn hoá và con người Việt Nam.
Đó là một nền văn hoá khoan dung, cởi mở, có khả năng dung hoá, tích hợp những yếu tố tích cực, tiến bộ từ ngoài vào, không chút hẹp hòi, kỳ thị, miễn là nó không đi ngược lại với bản chất nhân văn của văn hoá Việt Nam. Vì vậy, văn hoá Việt Nam sớm có hiện tượng “tam giáo đồng nguyên”. Con người nông dân Việt Nam ngày xưa vốn rất thực tế, họ có thể vừa thờ Thần, thờ Phật lại vừa thờ cả ma quỷ (thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề), không hoàn toàn tin, nhưng để nó không trở thành kẻ thù của mình, không làm hại mình, đơn giản vậy thôi. Cũng nên coi đó là một nét khôn ngoan trong phương pháp xử thế của người Việt xưa mà ta cần xem xét.
Khi còn ở trong nước, Nuyễn Tất Thành đã được hấp thụ một nền Quốc học và Khổng học khá cơ bản, đủ sức tạo cho anh một bản lĩnh văn hoá vững vàng để có thể “hòa nhi bất đồng”.
Ra nước ngoài, anh Thành có điều kiện đi nhiều, hiểu rộng, biết nhiều ngoại ngữ, đến được nhiều nước, làm nhiều nghề, tiếp xúc với nhiều vĩ nhân,…nghĩa là có cơ hội tiếp xúc với nhiều nền văn hoá, gia nhập nhiều tổ chức, vào nhiều hội, đoàn (Công đoàn lao động hải ngoại ở Anh, các Hội du lịch, Hội nghệ thuật và khoa học, Câu lạc bộ Faubourg ở Pháp, Đảng Xã hội. Sau khi đã vào  Đảng Cộng sản rồi, vẫn tham gia Hội Nhân quyền, rồi cả Hội Tam điểm, đến với chủ nghĩa Mác rồi vẫn đến với chủ nghĩa Tôn Dật Tiên,…) để học cách tổ chức, khảo sát các cơ chế chính trị - xã hội,…nhằm chắt lọc lấy cái hay, cái tốt, cái thích hợp, phục vụ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và xây dựng nước Việt Nam độc lập trong tương lai.
Do vậy, Hồ Chí Minh được coi là biểu tượng của sự tích hợp văn hoá Đông-Tây. Nói tích hợp nghĩa là biết tiếp thu có chọn lọc những giá trị từ bên ngoài nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng bên cạnh sự thâu hoá những giá trị chung của nhân loại. Cho nên không có gì lạ khi thấy trong văn hoá Hồ Chí Minh chứa đựng những yếu tố tích cực của tinh thần cộng hoà Pháp, dân chủ và nhân quyền Mỹ, tinh thần trọng đạo đức của Khổng giáo, đức từ bi, cứu khổ, cứu nạn của Phật, lòng nhân ái của Chúa, phép biện chứng của Mác, tinh thần cách mạng của Lênin, chủ thuyết Tam Dân của Tôn Dật Tiên, v.v..mà vẫn hoàn toàn Việt Nam. Như ta đã thấy: khi còn ở Pháp hay Nga, Nguyễn Ái Quốc có thể mặc Âu phục, đội mũ phớt, thắt cravate, viết báo, đọc diễn văn với một văn phong rất “Tây”, nhưng khi về Trung Quốc lại giản dị trong bộ quân phục Bát lộ quân; sang Thái Lan, ở chùa, khoác áo cà sa; về đến Chỉ Thôn (Vân Nam) lại sẵn sàng viết và đọc văn tế cầu hồn cho những kiều bào ta bị bom Nhật sát hại:                                      
   Nam mô bồ tát đế tôn,
                                   Tiếp dẫn linh hồn về Mạc tư khoa!
Người chiến thắng là người không “chấp nê”, mà có tinh thần “phá chấp”, biết thích ứng trước tình hình thực tế mà không để đánh mất mình - đúng như Hồ Chí Minh đã từng trả lời khi có người hỏi: ông là ai? -Tôi vẫn là tôi ngày trước, một người yêu nước.Vận dụng phương pháp trên vào tìm hiểu Cụ Hồ là ai, chúng tôi thử từng bước lý giải những vấn đề đang đặt ra.
1.  Hồ Chí Minh có phải là người suốt đời theo lý tưởng cộng hoà?
Trở lại ý kiến của GS Nhật Bản Tsuboi cho rằng “giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng suốt đời mình là tinh thần cộng hoà, mà cơ sở của nó là Tự do, Bình đẳng, Bác ái”, liệu có phải  hoàn toàn như vậy không?
Đúng là trên hành trình đi ra với văn hoá nhân loại, Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp trước tiên và có lẽ nó cũng để lại những dấu ấn sâu đậm trong nội dung và phong cách văn hoá của Cụ Hồ. Tại Pháp, Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý tưởng nhân quyền, dân quyền và pháp quyền của các nhà Khai sáng Pháp, vận dụng nó vào cuộc đấu tranh, phê phán chế độ thực dân, đòi các quyền ấy cho nhân dân các nước thuộc địa. Yêu sách 8 điểm, lời mở đầu Tuyên ngôn Độc lập 1945, bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946,…đều in dấu ảnh hưởng các giá trị của nền cộng hoà Pháp, nó đã trở thành một phần trong mục tiêu mà Hồ Chí Minh theo đuổi – nhưng đó có phải là cái đích duy nhất và mục tiêu cuối cùng của ông hay không, thì vẫn cần phải bàn thêm .
Theo tôi, cái giá trị lớn nhất mà Hồ Chí Minh theo đuổi suốt đời, như chính Người đã tuyên bố là “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu. Điều quan trọng ấy rất tiếc lại không có trong bảng giá trị của nền cộng hoà Pháp. Đó cũng là điều mà trong khi đàm phán, tranh luận với chính giới Pháp năm 1946, Cụ đã chủ động bổ sung vào. Hồ Chí Minh có lần nói: “Người Việt và người Pháp cùng tin tưởng vào đạo đức: Tự do, Bình đẳng, Bác ái, Độc lập[5]. Thêm Độc lập vào để ràng buộc họ: “Nước Pháp muốn độc lập, không có lý gì lại muốn nước Việt Nam không độc lập?”
GS Tsuboi đã lý giải khẩu hiệu Tự do, Bình đẳng, Bác ái rất đúng với tinh thần phương Tây, nhưng lại không thật đúng theo quan niệm của Hồ Chí Minh.
Tự do theo tinh thần cộng hoà Pháp trước hết là tự do cá nhân, vì tiền đề của nền cộng hòa Pháp được xây dựng trên quan điểm giá trị về con người cá nhân, nhất là quyền tự do cá nhân.
Còn Hồ Chí Minh, trước hết vẫn là sản phẩm của nền văn hoá Việt Nam, văn hoá Phương Đông, vốn đề cao tinh thần cộng đồng, luôn đặt quốc gia, dân tộc lên trên cá nhân. Tự do theo tinh thần Hồ Chí Minh trước hết vẫn là tự do của toàn dân tộc chứ chưa phải là tự do cá nhân, là giải phóng cho dân tộc thoát khỏi ách nô lệ thực dân, được làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình (chứ chưa lấy giải phóng tự do cá nhân làm mục tiêu).
Bình đẳng hiểu theo tinh thần cộng hoà là chống lại mọi sự phân biệt đối xử về dân tộc, màu da, giới tinh,…Mỗi cá nhân sinh ra đều có giá trị như nhau, như Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ mà Hồ Chí Minh đã trích dẫn: ‘Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng” và coi đó làquyền tự nhiên của con người: bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, về nhân phẩm, về cơ hội, nhất là bình đẳng trước pháp luật.
Bình đẳng là một khái niệm không xa lạ với Hồ Chí Minh vì nó vốn là một lý tưởng, một ước mơ ngàn đời của nhân dân lao động Việt Nam về một xã hội công bằng, không còn áp bức bất công, không còn cách biệt giầu, nghèo…
Tuy nhiên, quan niệm của Hồ Chí Minh về bình đẳng cũng có nội dung khác với phương Tây: nếu tinh thần cộng hoà coi trọng quyền bình đẳng giữa các cá nhân thì Hồ Chí Minh lại nâng nó lên thành quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Từ Tuyên ngôn Độc lập Mỹ, Hồ Chí Minh suy ra: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Bác ái (fraternité: có lẽ phải dịch là Hữu ái mới phù hợp, vì gốc của nó là từ frère, fraternel, nghĩa là tình anh em, tình đồng đội. Bác ái (philanthropie) có nghĩa quá rộng, nó đòi hỏi một tình cảm xuyên dân tộc, xuyên giai cấp, theo kiểu thuyết kiêm ái của Mặc tử, hay lòng bác ái của Chúa : phải yêu cả kẻ thù của mình!).
Hữu ái gần với Hồ Chí Minh hơn, ông vốn từng là môn đệ của Khổng giáo, sớm thấm nhuần tinh thần “tứ hải giai huynh đệ”, nên Hồ Chí Minh thường quen gọi những ngưòi lao động, các dân tộc bị áp bức là anh em. (hỡi anh em ở các thuộc địa!, các dân tộc anh em, các nước anh em, vừa là đồng chí, vừa là anh em,…)
Tóm lại, Hồ Chí Minh nhận thức Tự do, Bình đẳng, Bác ái qua lăng kính của người dân bị áp bức châu Á chứ không theo tinh thần cách mạng tư sản Pháp, nên ông chỉ coi đó là những yếu tố cần chứ chưa đủ. Vì vậy, không thể coi những giá trị của nền cộng hoà Pháp là mục tiêu theo đuổi suốt đời của Hồ Chí Minh .
2. Hồ Chí Minh có phải chỉ thuần túy là người theo chủ nghĩa dân tộc?
a. Hồ Chí Minh trước hết là một người yêu nước nồng nhiệt
Điều này đã được khẳng định trong danh xưng của Cụ: Hồ Chí Minh trước sau vẫn là Nguyễn Ái Quốc= một người yêu nước. Năm 1960, vào lúc thịnh thời của chủ nghĩa xã hội, trong bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Hồ Chí Minh đã viết: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế Thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa Xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Như vậy, Cụ Hồ đã nói rõ về con đường cách mạng của mình là từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Do đó, trả lời câu hỏi Cụ Hồ là ai, phải nhận thức được sứ mệnh kép đó, chứ không nên tách bạch một cách cực đoan, siêu hình: hoặc chỉ là người này (theo chủ nghĩa dân tộc) hoặc chỉ là người kia (theo chủ nghĩa quốc tế), chỉ là người mácxit hay chỉ là người theo đạo Khổng. Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa, nên không thể quy bộ mặt tinh thần của ông vào một dạng đơn nhất nào. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó, vẫn  cần thiết phải xác định đâu làmặt chủ thể trong nhân cách của Hồ Chí Minh.
Là người nô lệ mất nước, ra đi tim đường cứu nước, khát vọng cháy bỏng mà chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành mang theo là khát vọng giải phóng dân tộc và canh tân đất nước. Sau này, Hồ Chí Minh đã nói một câu thống thiết: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là lo làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.  Yêu nước đã trở thành lẽ sống, thành tiêu chuẩn chân lý để ông xét đoán con người và việc đời.  Trước sự phân liệt của Đảng Xã hội ở Đại hội Tours, có người hỏi: anh sẽ bỏ phiếu cho Quốc tế nào? -Thế Quốc tế nào bênh vực các dân tộc thuộc địa? Được trả lời là Quốc tế 3, anh quyết định bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế 3. Đó không phải là một quyết định cảm tính, mà là theo lý tưởng, theo mục tiêu cứu nước của anh. Vì sao có thể nói như vậy?
Trong 10 năm đầu, Nguyễn Tất Thành đã đi khắp thế giới, hướng đến mọi chân trời để tìm đường thực hiện lý tưởng, nhưng không có bàn tay thân thiện nào chìa ra với anh, vì vào hai thập niên đầu thế kỷ XX, vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa vẫn còn là một  vấn đề quá mới, quá lớn đối với thế giới, ngay Mác và Enghen trước đó cũng chưa đưa ra được câu trả lời thật rõ ràng, còn các Đảng Xã hội Quốc tế 2 lại chưa vượt qua được tâm lý dân tộc hẹp hòi, vì lợi ích quốc gia, họ vẫn ủng hộ chính sách thuộc địa của nhà nước tư bản. Mặt khác, cũng do cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa chưa phát triển mạnh mẽ, thực tiễn thời đại chưa hé ra được lời giải đáp rõ ràng.
Chỉ sau thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga, với sự thành lập Quốc tế 3 và Luận cương về vấn đề  dân tộc và thuộc địa của Lênin được công bố, tiếp theo là Đại hội Ba-cu, nêu cao tinh thần đoàn kết anh em giữa các dân tộc phương Đông với giai cấp  vô sản phương Tây,  rồi cùng với  kinh nghiệm thực tiễn hoạt động và đấu tranh của bản thân, Nguyễn Ái Quốc  mới dần dần đi tới được nhận thức rằng: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[6]. Do đó, Nguyễn Ái Quốc đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa quốc tế.
Tuy nhiên, trong cái song đề đó, vẫn phải thấy mặt chính, mặt chủ thể của nó, đó là mặt nào? Có người nêu thắc mắc: tại sao Nguyễn Ái Quốc lúc nào cũng chỉ đề cập đến vấn đề thuộc địa mà ít hoặc không đề cập đến những vấn đề nóng bỏng khác trong phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ, vậy ông là người cộng sản theo chủ nghĩa quốc tế hay thuần túy chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc?
Thử hỏi, một người dân mất nước, đang đi tìm đường cứu nước làm sao lại không nói nhiều về vấn đề thuộc địa khi từng ngày, từng giờ chủ nghĩa thực dân đang gieo tai họa, đau khổ lên cuộc sống của đồng bào mình, tại sao lại không đề cao chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, vốn là “động lực vĩ đại và duy nhất” của họ?
 Hãy nghe ý kiến của một người cộng sản phương Tây, ông Ch. Fourniau: “Vấn đề duy nhất đặt ra là cần hiểu rõ tại sao và như thế nào mà một người dân thuộc địa tất nhiên phải theo chủ nghĩa dân tộc? và tại sao lại tìm được ở chủ nghĩa cộng sản như là con đường duy nhất để thực hiện độc lập cho Tổ quốc mình?”[7]Tất nhiên, chủ nghĩa dân tộc và “dân tộc chủ nghĩa” là hai khái niệm khác nhau. J. Jaurès - lãnh tụ hàng đầu của Đảng Xã hội Pháp, từng nói đại ý: Một ít chủ nghĩa yêu nước thì đưa ta xa rời chủ nghĩa quốc tế, rất nhiều chủ nghĩa yêu nước thì đưa ta vào trung tâm của chủ nghĩa quốc tế. Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh chinh là biểu tượng cao đẹp của tinh thần đó.
b.  Hồ Chí Minh đồng thời là một chiến sĩ quốc tế trong sáng
Từ người yêu nước trở thành người cộng sản, được tiếp nhận phương pháp làm việc biện chứng, trí tuệ của Nguyễn Ái Quốc  được nâng cao thêm, tầm nhìn thời đại được mở rộng hơn, bạn bè, đồng chí trở nên đông đảo hơn, sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế cũng ngày càng to lớn và hiệu quả hơn, triển vọng thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng của Việt Nam cũng trở nên sáng sủa hơn.
Sau khi trở thành người cộng sản, cùng với các thành viên khác gốc thuộc địa, Nguyễn Aí Quốc đã kiến nghị với Đảng Cộng sản Pháp lập ra Ban nghiên cứu Thuộc địa, xuất bản báo Le Paria, tham gia sáng lập Hội liên hiệp Thuộc địa, kiến nghị với báo L’Humanité mở chuyên mục thường xuyên về vấn đề thuộc địa. Tên tuổi Nguyễn Áí Quốc trên các bài báo dần dần trở nên quen thuộc với các dân tộc bị áp bức đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Nguyễn Áí Quốc trở thành người cộng sản đồng thời cũng trở thành một chiến sĩ quốc tế chân chính. Ông không chỉ quan tâm đến số phận các dân tộc Đông Dương mà còn quan tâm tới số phận của tất cả những “người cùng khổ” trên trái đất: ủng hộ nền độc lập của nhân dân Airơlen, bênh vực quyền lợi của người Mỹ da đen, lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân gây ra ở Đahômây, Angiêri, Mađagaxca,…
Có thể nói, Nguyễn Ái Quốc là người có công lớn trong việc đấu tranh, bảo vệ, phát triển và hiện thực hoá học thuyết Lênin về cách mạng thuộc địa bằng thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tôc của Việt Nam  và thắng lợi của phong trào giải phóng dân tôc trên thế giới trong thế kỷ XX.
Chính Đảng Cộng sản Pháp đã đánh giá rất cao những cống hiến của Nguyễn Ái Quốc  vào đường lối của Đảng Pháp trong vấn đề thuộc địa: “Nguyễn Ái Quốc đã có đóng góp quan trọng vào việc hình thành truyền thống chống chủ nghĩa thực dân, một truyền thống làm vẻ vang cho Đảng Cộng sản Pháp…Vậy thì hẳn rằng Người phải được coi là một trong những người thầy của Đảng Cộng sản Pháp về những vấn đề thuộc địa”[8].
3. Hồ Chí Minh phải chăng là một người xã hội dân chủ?
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người yêu nước và chiến sĩ quốc tế, điều đó không ai có thể phủ nhận, nhưng liệu ông có phải là người xã hội dân chủ?
Hiện nay, khi mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ Thụy Điển đang được ca ngợi, có một số người lại cho rằng Hồ Chí Minh không phải là cộng sản, mà về thực chất ông là người xã hội dân chủ từ trong gốc rễ!
a. Trước hết, cần nhìn lại xem có khi nào Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh phủ nhận danh hiệu người cộng sản của mình không?
Trong gần 50 năm làm người cộng sản, khi thuận lợi, lúc khó khăn, dù chi là người thợ ảnh bình thường hay đã là vị chủ tịch nước, khi bị giam hãm chốn ngục tù hay đã lên tới tuyệt đỉnh vinh quang,…Hồ Chí Minh lúc nào cũng tỏ rõ là người cộng sản thuỷ chung, thắng không kiêu, khó không nản, chưa từng thấy khi nào ông phủ nhận danh hiệu cộng sản của mình.
Tháng 8 năm 1944, được Trương Phát Khuê trả lại tự do sau hơn một năm cầm tù, trước khi rời Liễu Châu, Hồ Chí Minh nói thẳng với Trương: “Tôi là một người cộng sản, nhưng điều tôi quan tâm hiện nay là Tự do, Độc lập của Việt Nam chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản. Tôi có một lời đảm bảo đặc biệt với ông rằng: chủ nghĩa cộng sản sẽ chưa được thực hiện ở Việt Nam trong vòng 50 năm tới”[9].
Giữa năm 1946, ở Paris, một nhà báo cánh hữu muốn làm giảm thiện cảm của những người Pháp không ưa chủ nghĩa cộng sản đối với Hồ Chí Minh, đã đưa ra một câu hỏi: “Thưa Chủ tịch, Ngài có phải là cộng sản không?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh bình thản đi tới lẵng hoa bày trên bàn, rút ra từng bông lần lượt đem tặng cho những người có mặt, trước hết là cho chị em phụ nữ, và nói rằng: “Tôi làngười cộng sản như thế này này”(Je suis communiste comme ça!). Hồ Chí Minh  hiểu thâm ý của nhà báo Pháp khi đưa ra câu hỏi không thân thiện nói trên, nghĩa là muốn mượn hình ảnh người cộng sản đang bị bêu xấu trong các tấm áp phich xuất hiện trên đường phố Paris thời bấy giờ để hạ uy tín của Hồ Chí Minh. Nhưng cử chỉ văn hoá trang nhã, lịch thiệp của ông đã cho các quan khách thấy hình ảnh một người cộng sản khác-  một người cộng sản Việt Nam lịch thiệp, nhân ái, nhân văn.
Trước khi qua đời, Người đã dặn lại trong Di Chúc một điều có liên quan đến trách nhiệm đảng viên cộng sản của mình: “Đảng ta là đảng cầm quyền,…phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Hồ Chí Minh đi theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng hiểu rất rõ việc thực hiện lý tưởng cộng sản là một quá trình lịch sử lâu dài, chỉ khi nào đạt tới trình độ phát triển rất cao về kinh tế, văn hóa, xã hội và con người mới có điều kiện thực hiện. Đối với Việt Nam, Người khẳng định lý tưởng đó còn quá xa, chưa thể thực hiện được trong vòng 50 năm tới; còn đối với thế giới, thì Người cũng nói khi trả lời các nhà báo Pháp năm 1946 tại Paris, qua một sự so sánh: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác. Cách đây 2000 năm, Đức chúa Giêxu đã nói là chúng ta phải yêu mến các kẻ thù của ta. Điều đó đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được. Còn đến bao giờ chủ nghĩa Các Mác thực hiện thì tôi không thể trả lời được.[10] Như đã thấy: Hồ Chí Minh là một nhà chính trị tỉnh táo và trung thực.
b. Vậy Hồ Chí Minh là ai?
Cần thấy rằng con đường cách mạng của Nguyễn Tất Thành khi ở Pháp đã phát triển qua nhiều chặng. Khi mới chân ướt chân ráo tới Paris cuối năm 1911, trung thành với chiến lược canh tân của Phan Châu Trinh (có thể có sự gợi ý và giúp đỡ của cụ Phan), anh Thành đã viết đơn xin vào Trường Thuộc địa với hy vọng tranh thủ nâng cao học vấn để trở về giúp đồng bào. Năm 1919, cùng với Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường, anh đưa Yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Hòa bình Versailles, thí điểm dùng luật pháp tư sản và biện pháp kiến nghị hòa bình để đòi các quyền dân chủ tối thiểu cho nhân dân Việt Nam. Chắc không ai cho anh là người theo chủ nghĩa cải lương!
Trước khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã từng tham gia Đảng Xã hội Pháp Quốc Tế 2. Dù đã có cuộc chia tay ở Đại hội Tours, ông vẫn duy trì quan hệ tốt đẹp với nhiều lãnh tụ và đảng viên Xã hội - những người một thời đã dìu dắt, giúp đỡ ông trong buổi đầu chập chững khi ông mới bước vào hoạt động chính trị trên đất Pháp. Chắc cũng không ai vì điều này mà cho ông là ngườixã hội dân chủ từ gốc rễ?
Hay là, do cách ứng xử ôn hòa của ông: biết tiến biết lui, biết liên minh, đối thoại, kiên trì giải pháp hòa bình trong nhiều vấn đề quốc gia và quốc tế, mà có thể khiến người ta nhìn nhận ông như là một người xã hội dân chủ chăng?
Giải đáp vấn đề này, cần nhắc lại một nguyên lý đơn giản: Chủ nghĩa Mác-Lênin, cũng như mọi chủ thuyết chính trị hay tôn giáo khác, như Phật giáo, Nho giáo khi được du nhập vào Việt Nam, ít nhiều cũng bị khúc xạ bởi truyền thống văn hoá, tư tưởng, đạo đức, lối sống ,…của dân tộc Việt Nam - một dân tộc có truyền thống nghìn năm văn hiến.
Gia nhập hàng ngũ mácxít, đương nhiên Nguyễn Ái Quốc chấp nhận học thuyết đấu tranh giai cấp của Mác. Nhưng xuất phát từ thực tế xã hội và văn hoá truyền thống Việt Nam, ông không coi đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất, càng không tuyệt đối hoá nó, mà có sự điều chỉnh cho phù hợp với thực tế Việt Nam. Lý luận Mác-Lênin nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, nhưng Nguyễn Ái Quốc lại cho rằng: “Cuộc đấu tranh giai cấp (ở Việt Nam) không diễn ra giống như ở phương Tây”.“Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước…Người ta không thể làm gì được cho người An Nam nếu như không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất trong đời sốngxã hội của họ”[11]. Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh đã có lần phê phán những biểu hiện giáo điều, tả khuynh của một số người mới từ nước ngoài về: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng đề ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”[12]. “Trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc”[13]. Về chính quyền, Hồ Chí Minh không tuyên bố xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản mà chủ trương thành lập nhà nước dân chủ cộng hòa, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân.
Là người cộng sản, đương nhiên về nguyên tắc, Hồ Chí Minh  thừa nhận học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nhưng khi Nguyễn Ái Quốc bước vào hoạt động chính trị đầu thập niên 20 thế kỷ trước, thì giai cấp công nhân Việt Nam mới đang trên đường hình thành, số lượng còn nhỏ bé, càng chưa thể có giai cấp công nhân công nghiệp và cũng chưa thực sự xuất hiện trên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị. Khi đó, Nguyễn Ái Quốc đã từng viết một số bài về phong trào công nhân Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ,…mà chưa có điều kiện bàn nhiều về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam khi nó chưa thật sự trưởng thành. Từ sau cách mạng tháng Tám, rồi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, thì Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo thì kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”[14].
Những điều trình bày trên cho thấy Hồ Chí Minh hoàn toàn không có gì giống với các quan điểm cơ bản của chủ nghia xã hội dân chủ. Ông không phủ nhận đấu tranh giai cấp để đi vào con đường thoả hiệp với kẻ thù ; không từ bỏ con đường đấu tranh cách mạng để chấp nhận những cải cách bố thí nhỏ giọt của đế quốc, thực dân ; càng không tin rằng vận mệnh của Tổ quốc, tự do của nhân dân có thể giành lại chỉ bằng con đường đấu tranh nghị trường, v.v. vốn là những quan điểm đặc trưng của những người xã hội dân chủ. Chính vì bất mãn với thái độ của các lãnh tụ Đảng Xã hội Pháp trong vấn đề thuộc địa: “Đề ra những luận cương dài dằng dặc và thông qua những nghị quyết rất kêu để sau Đại hội đưa vào viện bảo tàng”[15], nên Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc Tế 3, trở thành  người chiến sĩ quốc tế nồng nhiệt, đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập của dân tộc mình và cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Đó là so sánh trên những điều thuộc về nguyên tắc, còn cung bực uyển chuyển trong xử lý mỗi sự việc cụ thể là thuộc về sách lược, nó phụ thuộc vào phong cách, khí chất của mỗi con người, vào nền tảng văn hóa của họ.
Nhưng điều quan trọng không phải là lý giải xem Hồ Chí Minh là Xã hội Dân chủ hay Cộng sản, mà vấn đề cơ bản cần làm rõ: Ông là người cộng sản như thế nào? Bởi trong những lãnh tụ cộng sản, có người chuyên quyền, độc đoán, giáo điều, cơ hội “tả” khuynh,…lại cũng có những người như Antonio Gramsci, lãnh tụ Đảng Cộng sản Italia, chủ trương thay thế khái niệm “chuyên chính vô sản”(dictature du prolétariat) bằng khái niệm “bá quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản” (hégémonie du prolétariat), nhấn mạnh vai trò chỉ đạo của trí tuệ và đạo đức hơn là bằng quyền lực nhà nước; hoặcnhư Rosa Luxemburg - lãnh tụ Đảng Cộng sản Đức, bà cho rằng “chế độ tập trung dân chủ là tập trung quyền lực vào một nhóm người, còn các tổ chức khác chỉ là công cụ chấp hành của Trung Ương mà thôi”; theo bà, cải lương cũng là sản phẩm của cách mạng, lựa chọn cải lương hay bạo lực là tùy tình thế cách mạng, còn bạo lực chỉ là giải pháp cuối cùng, nó là con dao hai lưỡi, rất khó sử dụng,…
Đó là nói những lãnh tụ cộng sản chưa cầm quyền. Hồ Chí Minh là một lãnh tụ đã cầm quyền suốt 24 năm, nhưng trước sau vẫn nhất quán là người cộng sản yêu nước, thương dân,  luôn đặt lợi ích của Tổ quốc và dân tộc lên trên lợi ích giai cấp và bộ phận, suốt đời tận tụy, khắc khổ nêu tấm gương về người lãnh đạo - người đày tớ thật trung thành của nhân dân; trong sạch, liêm khiết, đi tiên phong đấu tranh chống hủ bại: tham ô, lãng phi, quan liêu trong điều kiện cầm quyền. Hồ Chí Minh là biểu tượng của người cộng sản cầm quyền theo chính trị “vương đạo”: lãnh đạo bằng thuyết phục và nêu gương, luôn nêu cao trí tuệ, đạo đức, dân chủ, coi dân là chủ, lấy lợi ích và nguyện vọng của dân làm gốc. Cụ là người rất “trí thức” nên biết quý trọng trí thức, tin dùng người tài, không gợn một chút “kiêu ngạo cộng sản” nào. Cụ thường nói: “Cách mạng rất cần trí thức và thực ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức…Không có trí thức tham gia, công việc của cách mạng khó khăn thêm nhiều”[16]. Nhân cách của Cụ tỏa ra sức hấp dẫn đặc biệt đối với trí thức thuộc nhiều xu hướng, cả trong Nam ngoài Bắc lẫn trí thức Việt kiều, lôi cuốn được hầu hết những trí thức lớn của đất nước đi vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc; ai chưa kịp đến với Cụ thì cũng không khi nào chống lại Cụ cả. Đó là “chìa khóa” đã giúp Hồ Chí Minh thành công. Học tập và làm theo Hồ Chí Minh là phải phấn đấu thực hiện bằng được những điều đó. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng Hồ Chí Minh lại là một minh chứng hùng hồn về vai trò của vĩ nhân trong lịch sử. Không có Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khó có thể sớm giành được bá quyền lãnh đạo của mình ngay từ sau năm 1945.
Tuy nhiên, cũng không thể quy những phẩm chất nói trên của Hồ Chí Minh chỉ do ông là môn đồ của Khổng giáo. Không ai phủ nhận: xuất thân từ một gia đình nhà nho, từ nhỏ Nguyễn Tất Thành đã thấm nhuần nhiều mệnh đề Nho giáo có giá trị chỉ đạo nhận thức thế giới và xử lý các vấn đề xã hội-nhân sinh, (ví như đạo “Trung Thứ”của Khổng-Mạnh: suy từ lòng mình để hiểu được lòng người, làm chính trị như thế có thể đạt tới điều “nhân”). Nhưng ảnh hưởng của Khổng giáo chỉ là một phần thôi, cái gốc làm nên nhân cách chính trị Hồ Chí Minh chính là văn hóa Việt Nam, mà hạt nhân của nó là chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân ái và chủ nghĩa cộng đồng Việt Nam - được hình thành lâu đời từ trong quá trình dựng nước và giữ nước.
c.  Hồ Chí Minh không phải là người cộng sản giáo điều mà là người cộng sản nhân văn, có tư duy độc lập, sáng tạo, một nhà chính trị có đầu óc thực tế.

Chỉ mới hơn một năm sống ở Maxkva, Nguyễn Áí Quốc đã đưa ra một luận điểm mà nhiều nhà cách mạng thế giới phải suy nghĩ: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết học nhất định của lịch sử. Nhưng lịch sử nào?-Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gi? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”[17] - (một phản ứng rất tinh, rất sớm với thuyết “Dĩ Âu vi trung” đang thịnh hành ở châu Âu lúc bấy giờ).
Nguyễn Ái Quốc đã xuất phát từ truyền thống văn hoá Việt Nam để nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác. Ông là người cộng sản đầu tiên nhận ra và đánh giá cao tiềm lực của cách mạng thuộc địa ở Phương Đông. Trong lúc các đảng Cộng sản theo Quốc Tế 3 cho rằng: vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa chỉ có thể được giải quyết khi nào cách mạng vô sản giành được thắng lợi ở phương Tây. Cả Mác - Enghen, rồi Lênin cũng chưa nghĩ đến khả năng các dân tộc thuộc địa có thể tự giải phóng mình ngay giữa vòng vây của chủ nghĩa đế quốc.
Thế mà Nguyễn Ái Quốc lại “cả gan” đưa ra một luận điểm trái ngược, “phi kinh điển”, so với các quan niệm trên! Từ sự phân tích những điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội…của châu Á (chế độ ruộng công, thuyết bình đẳng về tài sản, chế độ giáo dục và lao động cưỡng bức đối với người lớn, chế độ phúc lợi cho người già, tư tưởng “dân vi quý”, sự lên án nghiêm khắc thói ăn bám,…), Nguyễn Ái Quốc đưa ra nhận định: “chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào châu Á hơn là ở châu Âu”, nghĩa là cách mạng thuộc địa theo đường lối vô sản có thể nổ ra ở châu Á, nếu “chúng ta có nhiệt tình tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và thực tâm muốn giúp đỡ những người lao động lật đổ ách của những kẻ bóc lột” thì họ sẽ trở thành một lực lượng khổng lồ “và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc” họ còn “có thể giúp đỡ những người anh em ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[18]Đó quả thật là một luận điểm táo bạo, mới mẻ, lạ lùng nữa, trước đó chưa có ai nhìn ra và chưa ai dám khẳng định mạnh mẽ như thế !
   Nhìn vào những đặc điểm của văn hoá chính trị Hồ Chí Minh, chúng ta đều nhận thấy đó chính là sản phẩm của văn hoá chính trị Việt Nam, phản ánh những giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam. Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, thông qua Hồ Chí Minh, cũng được lọc qua hệ giá trị đó. Khi Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tinh, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được” – thì đó chỉ là mượn danh nghĩa Mác-Lênin để truyền đạt tinh thần nhân văn - nhân nghĩa của văn hóa Việt Nam mà thôi!
III. Kết luận
Nêu lại luận đề “Cụ Hồ là ai” để trao đổi, chúng tôi chỉ muốn góp thêm một vài ý kiến để cùng tham khảo, vì hiểu rằng Hồ Chí Minh dù là dân tộc hay quốc tế, cộng hòa hay cộng sản, xã hội dân chủ hay Khổng giáo,…đối với các học giả nói trên, đều không quan trọng. Mỗi người từ chỗ đứng của mình, rọi một cái nhìn để giúp hiểu được tính đa dạng, phong phú cuả một vĩ nhân. Vĩ nhân nào cũng đều là sản phẩm của những điều kiện lịch sử- xã hội nhất định, sở dĩ họ là vĩ nhân vì họ đã vượt lên được những hạn chế của hoàn cảnh để trở thành người đi tiên phong trong  thời đại của mình. Ở một vĩ nhân như Hồ Chí Minh lại càng như vậy. Trên hành trình 30 năm tìm đường, Cụ đã đến nhiều nước, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa, đã tìm hiểu nhiều chủ thuyết, tự coi mình là học trò nhỏ của nhiều ông thày lớn, nhưng Cụ biết chọn lọc để chỉ  học lấy những “cái cần thiết cho chúng ta”, phục vụ cho “con đường giải phóng chúng ta[19] phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc, chứ không hề “tiếp thu cả gói” một cách giáo điều. Trong những hoàn cảnh bị o ép khắc nghiệt, Cụ vẫn giữ được bản lĩnh, bản sắc của một nhà chính trị tầm vóc, không bị bào mòn, hòa tan, không đầu hàng, khuất phục. Cụ đã nêu tấm gương bất khuất của một dân tộc nhỏ trước những cường quốc lớn, ngay cả trong vấn đề tiếp nhận văn hóa và tư tưởng.
Vậy cuối cùng, Cụ Hồ là ai? Theo Voltaire, “nhà chính trị thực sự xứng đáng với tên gọi này là người “biết chơi” và dần dà là người chiến thắng”. Theo tôi, Cụ Hồ là nhà chính trị “biết chơi”, biết khéo tận dụng mọi cơ hội và phương tiện để thực hiện mục tiêu đấu tranh của dân tộc. Cụ là người chiến thắng, vì nền tảng văn hóa của Cụ sâu rộng, lý tưởng của Cụ cao cả, phẩm cách của Cụ trong sáng, phương pháp tư duy của Cụ uyển chuyển, biết linh hoạt ứng biến trước mọi hoàn cảnh, như Cụ thường nói “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, khi “tình hình, nhiệm vụ đã thay đổi,… chính sách và khẩu hiệu cũng phải thay đổi cho hợp với tình hình mới[20].Vì vậy, Cụ được thừa nhận là biểu tượng cho khát vọng Độc lập, Tự do, Lương tâm và Trí tuệ của các dân tộc bị áp bức; được Tạp chí Time của Mỹ tổ chức bầu chọn vào danh sách 20 nhà lãnh đạo có uy tín hàng đầu  trong tổng số 100 nhân vật được bầu chọn là những người nổi tiếng nhất thế giới trong thế kỷ XX[21]. Về phần Cụ, sứ mệnh đã hoàn thành. Trong 80 năm mất nước, bị nô lệ, có biết bao cuộc đấu tranh anh hùng đã diễn ra, song tất cả đều thất bại; với Cụ, ta đã có “một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất”; còn “dân chủ, giàu mạnh và góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới” sẽ được thực hiện ra sao, đó là trách nhiệm của thế hệ lãnh đạo hôm nay, của những người được coi là kế tục Cụ; nhưng để được như vậy, không chỉ nhân danh Cụ mà cần ra sức học tập, thành tâm noi theo Cụ, cả về Tâm, Đức, Trí  Hành ./.

Chú thích


[1] Thu Trang-Gaspard: Hô Chi Minh à Paris (1917-1923). Preface de Ph. Devillers, p.13.
[2] Alain Ruscio: Nguyen Ai Quoc-Ho ChiMinh  : Portrait d’un “Bolchevik jaune”, RevueCommunisme No 28, 4 me Trimestre 1990.
[3].Bài nói chuyện của Pierre Brocheux tại Toronto-Canada ngày 29-10-2003 về cuốn sách của ông: “Viêt Nam expose and New biography of Ho Chi Minh” .
[4] David Halberstam: Ho”, Random House, New York, 1971.
[5] Hồ Chí Minh Toàn Tập, t. 4, tr. 458
[6] Luận đè này đến năm 1959 mới được Hồ Chí Minh diễn đạt thành văn, nhưng nó đã là sản phẩm tư duy của Nguyễn Ái Quốc được hình thành từ những điều kiện lịch sử khách quan của những năm 20 TK XX. Cũng có thể xem đó là sự lựa chọn của lịch sử.
[7] “Một nhà yêu nước và một nhà cách mạng mẫu mực”, trong Ho Chi Minh, notre camarade, Ed. Sociales Paris, 1970, p. 21.
[8] Ch. Fourniau : Ho Chi Minh, notre camarade, Ed. Sociales, Paris, 1970, tr. 31.
[9] Hồi ký của Trương Phát Khuê, đăng trên Tuần báo Liên hợp tạp chí ,Hồng Kông, 1962.
[10] Hồ Chí Minh Toàn tập, t,4, tr. 272.
[11] Hồ Chí Minh Toàn Tập, t. 1, tr. 464, 467.
[12] HCM Toàn tập, t.5, tr.272.
[13] XYZ: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.  Ban Huấn luyện TƯ xb 1949. (Chưa có trong HCM Toàn tâp xb lần 2).
[14] Hồ Chí Minh Toàn Tập, sdd, t.6,tr. 458.
[15] Hồ Chí Minh Toàn Tập ,sdd, t.1,tr. 281.
[16] Hồ Chí Minh Toàn Tập, t.7, tr. 33 và t.5, tr.235 .
[17] Hồ Chí Minh Toàn Tập, t. 1, tr. 465.
[18] Hồ Chí Minh Toàn Tập, sdd , t.1, tr.36.
[19] Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, HCM Toàn Tập, t. 10, tr. 127.
[20] Hồ Chí Minh Toàn Tập, t.7, tr. 315.
[21] Chuẩn bị cho thời điểm kết thúc thế kỷ XX, tạo chí Time đã phối hợp với hãng truyền hình CBS, đưa ra bảy triệu phiếu bầu, gửi đi khắp các nước, để bầu chọn lấy 100 nhân vật được coi là có ảnh hưởng lớn nhất, thuộc các lĩnh vực khác nhau, trong thế kỷ XX. Số cuối tháng 12-1999, tạp chíTime đã công bố danh sách 100 nhân vật đó. Hồ Chí Minh  nằm trong số 20 nhà lãnh đạo có uy tín lớn nhất, bên cạnh V.I.Lênin, M.Gandhi, W. Churchill, A. Khomeney, N. Mandela cùng nhiều nhân vật nổi danh khác.

Lên trang viet-studies ngày 17-5-11

Sunday 18 May 2014

“HUYỀN THOẠI KÉP” HỒ CHÍ MINH : VINH QUANG VÀ NHỮNG HỆ LỤY (Ngô Trần Đức)



Mở đầu

          Trong Lời giới thiệu công trình nghiên cứu của mình- “Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến”- bà Sophie Quinn-Judge gọi Hồ Chí Minh là một “huyền thoại kép”(The double myth), với ý nghĩa ông là lãnh tụ duy nhất của phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á nửa đầu thế kỷ XX mang hai nhân cách: vừa là người yêu nước (dân tộc), vừa là người cộng sản (quốc tế). Theo tôi, chính “huyền thoại kép” này đã đem lại cho ông cả vinh quang lẫn cay đắng, với nghĩa là đã phải chịu đựng những hệ lụy không đáng có, liên tục trong những năm dài hoạt động cách mạng của mình.
          Đối với phần đông nhân loại tiến bộ là bạn bè của Việt Nam, Hồ Chí Minh là biểu tượng trong sáng, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “người chiến sĩ yêu nước nồng nàn” với “người chiến sĩ quốc tế trong sáng”- suốt đời chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình và sự nghiệp giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức. Ông J. Sainteny - người đã “đối mặt với Hồ Chí Minh” trong nhiều năm, từng viết: “Trong đời tôi, có biết bao nhiêu lần người ta đã hỏi tôi: ông là người biết rõ Cụ Hồ, vậy Cụ là một người quốc gia (dân tộc) hay là người cộng sản? Câu trả lời rất đơn giản: “Cụ Hồ vừa là người này, vừa là người kia. Đối với Cụ, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản, mục đích và phương tiện, bổ sung cho nhau, hay nói đúng hơn, hòa quyện vào nhau”.[1]Với một cách diễn đạt khác, cố Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng cũng có lần nói: Hồ Chí Minh là người yêu nước 100% mà cũng lầ người cộng sản 100% !
          Nhưng oái oăm thay, trong một thời gian dài, từ những năm 30 cho đến những năm 50 thế kỷ trước và cả ngày nay, Hồ Chí Minh lại lâm vào thế ở giữa hai làn đạn:
          Đối với những người đối lập, Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc - người yêu nước.  Theo họ, sau khi rời bỏ Đảng Xã hội Pháp, bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế 3, rồi đi Maxkva, Nguyễn đã từ bỏ chủ nghĩa quốc gia-dân tộc của nhóm Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, trở thành người cộng sản - một người cộng sản thuần thục, một phần tử staliniste, một Kominterchik đắc lực, được Staline cử vè để “xích hóa” cả khu vực Đông Nam Á!, v.v..
          Theo họ, không có cái gọi là “sự thất sủng” của Hồ Chí Minh thời kỳ 1934-1938, vì hầu hết các lãnh tụ cộng sản đại diện cho đảng mình ở QTCS thời gian đó đều bị thanh trừng và giết hại, duy chỉ có một mình Hồ Chí Minh sống sót, ngôn luận Hồ Chí Minh khi phê phán trôtxkít hồi đó đều giống hệt ngôn luận của Staline,…
          Đối với Chính phủ các nước phương Tây như Mỹ, Anh, Pháp và Trung Hoa Tưởng Giới Thạch,…Chính phủ Hồ Chí Minh vỏ là Việt Minh nhưng ruột là cộng sản! Người Pháp không lạ gì lai lịch Hồ Chí Minh - con người mà họ đã tốn bao công sức săn đuổi, tìm diệt mà không thành công. Người Mỹ, theo tình báo của họ, cũng cho Hồ Chí Minh là cộng sản, thân Maxkva, nên không công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh sau 1945. Lúc đầu họ còn giữ thái độ trung lập trong cuộc xung đột Việt-Pháp, sau khi Roosevelt chết, Truman đã hoàn toàn ủng hộ Pháp trở lại cai trị Đông Dương.
          Lư Hán, Tiêu Văn,…đem gần 20 vạn quân Tưởng vào bắc Việt Nam , tiếng là để giải giáp quân Nhật, nhưng không dấu diếm mục tiêu “diệt Cộng, cầm Hồ”, hòng dựng lên một chính quyền gồm những tay chân trung thành với họ. Một học giả Đài Loan, ông Tưởng Vĩnh Kính, cũng cho Hồ Chí Minh là “nhất cá dân tộc chủ nghĩa ngụy trang giả”, nghĩa là một người cộng sản đội lốt chủ nghĩa dân tộc mà thôi!
          Nhưng bi kịch hơn lại là ở chỗ chính QTCS và các học trò của Hồ Chí Minh, từng được ông huấn luyện, sau được Maxkva đào tạo lại, trở thành những người cộng sản “cứng rắn”, đã quay lại phê phán Hồ Chí Minh rất nặng nề: là phần tử hữu khuynh, dân tộc chủ nghĩa,…nhất là sau khi thoát khỏi vụ án Hồng Kông, trở về được Maxkva, Hồ Chí Minh không chỉ bị phê phán về quan điểm mà còn bị nghi vấn nghiêm trọng cả về chính trị.
 Có thể chía những hệ lụy mà Hồ Chí Minh phải chịu đựng, chung quanh mối quan hệ dân tộc và giai cấp, thành mấy giai đoạn như sau:

          Giai đoạn 1: 1928-1933 (từ Hội nghị hợp nhất đến khi N.A.Q.bị bắt)
          1. Sau phản biến của Tưởng Giới Thạch 12-4-1927, mặt trận Quốc - Cộng hợp tác tan vỡ, tín nhiệm của Hồ Chí Minh bị suy giảm, các nhân vật chủ chốt trong phái bộ của M. Borodine đều mất chức, ít năm sau thì bị thanh trừng. Hồ Chí Minh không được giữ lại Maxkva, phải tự tìm đường về Xiêm để tiếp tục hoạt động. Thời gian ở Xiêm, trước và sau Đại hội VI QTCS (1928), Hồ Chí Minh cũng không có liên lạc gì với QTCS.
          Trước tình trạng chia rẽ giữa các nhóm cộng sản trong nước, một thành viên cũ của tổ chức “Thanh Niên” đã tìm đường sang Xiêm báo cáo với Hồ Chí Minh. Ý thức được cương vị và trách nhiệm của mình đối với CM Việt Nam , Hồ Chí Minh đã chủ động đứng ra triệu tập Hội nghị Hợp nhất, xóa bỏ được bất đồng, thành lập Đảng CS Việt Nam, thảo Chính cương, Sách lược vắn tắt, ra Lời kêu gọi …Từ nội dung các văn kiện đến cách tiến hành hội nghị của Hồ Chí Minh, đều thể hiện sự quán triệt tinh thần của Lênin và nghị quyết Đại hội V QTCS (1924).
 Có thể tóm tắt mấy quan điểm cơ bản của Lênin trong Sơ thảo Luận cương cũng như khi ông phát biểu tại Đại hội II QTCS (1920) về vấn đề dân tộc và thuộc địa, như sau:
          - “Mọi phong trào dân tộc (ở thuộc địa) chỉ có thể là dân chủ tư sản thôi, vì quảng đại quần chúng nhân dân ở các nước lạc hậu là nông dân, tức là những người đại diện cho những quan hệ tư bản. Nếu…những đảng vô sản ở trong các nước đó…không ủng hộ phong trào này trên thực tế, mà lại có thể thi hành sách lược và chính sách cộng sản trong những nước lạc hậu đó, thì là không tưởng”.
          - “QTCS nên lập khối liên minh tạm thời với phái dân chủ tư sản ở các nước thuộc địa và các nước chậm tiến,…nhưng phải giữ vững tính độc lập của phong trào vô sản, dù cho phong trào này còn ở dưới hình thức phôi thai nhất”.
          - “Phải áp dụng như thế nào sách lược và đường lối chính trị cộng sản trong những điều kiện các quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa còn thống trị ở đó, vì thế không thể nói đến phong trào thuần túy vô sản được, do ở đó hầu như không có giai cấp vô sản công nghiệp”…[2]
          Những quan điểm này của Lênin đã được Nguyễn Ái Quốc tiếp thu vì nó đúng với thực tiễn của phong trào GPDT ở phương Đông và Việt Nam, nên đã quán triệt nó khi viết Đường Kách Mệnh và soạn thảo Chính cương, Sách lược vắn tắt,… Nhưng tất cả đều bị phủ định và phê phán, vì vào thời điểm này người ta đã xa rời các quan điểm đúng đắn ấy của Lênin.
          Vậy bước chuyển sang đường lối “tả” khuynh của Staline và Đại hội VI QTCS (1928) diễn ra trong bối cảnh lịch sử nào?
          -Cuộc phản biến của Tưởng Giới Thạch - đại biểu của giai cấp tư sản Trung Quốc- đã phá vỡ mặt trận hợp tác Quốc-Cộng của Tôn Dật Tiên đồng thời cũng làm thất bại sách lược liên minh của Staline và QTCS.
          -Cuộc Tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản 1929-1933 đang đến gần, dẫn đến những dự báo lạc quan về triển vọng bùng nổ CM vô sản ở châu Âu, đến sự đánh giá phiến diện về tính chất của giai cấp tư sản và vai trò của các đảng dân chủ xã hội QT2.  Khẩu hiệu “giai cấp chống giai cấp” được đề cao, họ nhấn mạnh độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản và nôn nóng thực hiện ngay CMVS,…
          -Đây cũng là thời điểm Staline đã giành được chiến thắng tuyệt đối trong cuộc đấu tranh giành quyền lực trong nội bộ ĐCS Liên Xô. Tại Hội nghị toàn thể BCH QTCS thời gian đó, Otto Kuusinen - Ủy viên Đoàn CT Quốc tế cộng sản, phụ trách vấn đề thuộc địa- đã kêu gọi các ĐCS “hãy gột rửa mình khỏi chủ nghĩa cơ hội để trở nên tinh khiết”. Ông cũng nhắc nhở các ĐCS ở thuộc địa cần có sự điều chỉnh chính sách, sao cho có tính chất giai cấp mạnh mẽ hơn.
Vì vậy, báo cáo của Nguyễn Ái Quốc về kết quả của Hội nghị hợp nhất đã không được thừa nhận. Trong một thư gửi Nguyễn Ái Quốc,  Ban Viễn Đông QTCS có viết: “Chúng tôi có thể quả quyết rằng, trong thực tế, đồng chí đã xa rời những nguyên tắc đó” (tức những nguyên tắc mà Đại hội VI QTCS (1928) đã thông qua, được nêu trong Chỉ thị mà Nguyễn Ái Quốc không nhận được-hoặc không được gửi cho).[3]
          Trần Phú, Ngô Đức Trì là những học viên lớp đầu của Trường Phương Đông trong khoảng thời gian từ 1927 đến 1930, đã được đào luyện rất kỹ theo tinh thần “giai cấp chống giai cấp” của Đại hội VI, trở thành những người cộng sản ‘cứng rắn”, được cử về để “uốn nắn” lại những “sai lầm” của Nguyễn Ái Quốc !
          Người phê phán gay gắt nhất Nguyễn Ái Quốc là Trần Phú. Tại Hội nghị TƯ tháng 10-1930, ông phê phán những sai lầm về chính trị và tổ chức của Hội nghị hợp nhất là “chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh, ấy là một sự rất nguy hiểm”, về “chia địa chủ làm đại, trung và tiểu địa chủ”, về “nóí  phải lợi dụng bọn tư bản mà chưa rõ mặt phản cách mạng”, cùng một số sai lầm khác, sau đó ra nghị quyết ‘thủ tiêu Chính cương, Sách lược và Điều lệ cũ của Đảng”[4]. Sau Hội nghị TƯ 10-1930, trong thư gửi QTCS ngày 17-4-1931, ông còn phê phán nội dung Hội nghị hợp nhất “mang nặng dấu ấn các tổ chức CM cũ, các vấn đề cơ bản đều mâu thuẫn với đường lối QTCS (do thiếu một chính sách giai cấp),…mang dấu ấn nhất định của thời kỳ Quốc -Cộng hợp tác 1925-1927”[5].
          Trần Phú được cử làm Tổng bí thư, Nguyễn Ái Quốc sau đó bị mất vai trò lãnh tụ tối cao, chỉ còn là cái “thùng thư” trung chuyển giữa Ban TƯ trong nước với QTCS và ngược lại. Nhiều bài báo Nguyễn Ái Quốc gửi về Maxkva thời gian này đã không được đăng trên Inprecor, như chính Nguyễn Ái Quốc thắc mắc trong thư gửi QTCS ngày 2-1-1931.
          2. Sau khủng bố trắng 1930-1931, BCH TƯ trong nước hầu hết bị bắt và hy sinh, Nguyễn Ái Quốc và nhiều cán bộ của Chi nhánh Ban Viễn Đông ở Thượng Hải cũng bị bắt, nhân vật nổi lên lúc này là Hà Huy Tập. Tuy chưa về nước, nhưng trong những tài liệu viết gửi QTCS, để tỏ rõ sự kiên định mácxít của mình, ông đã không bỏ lỡ cơ hội nào có thể để phê phán những quan điểm “sai lầm” của Nguyễn Ái Quốc về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, về sắp xếp lực lượng cách mạng và về sách lược liên minh, hợp tác trong CM, v.v..
 Ông từng viết: Đường Cách mệnh là cuốn sách cực kỳ sơ đẳng, đã định nghĩa CM Việt Nam là một cuộc CM chống đế quốc “nhưng họ chưa bao giờ nói rõ rằng giai cấp nào phải là người lãnh đạo cuộc CM này (g/c tư sản hay g/c vô sản?)… Người ta cho rằng trước hết cần phải tiến hành CM dân tộc, trước khi làm CM thế giới, nhưng hoàn toàn quên rằng CMGPDT là một bộ phận không tách rời của CM thế giới,…Họ vẫn có một lý luận chính thức, theo đó cần phải liên kết tất cả mọi giai cấp trong thời kỳ tranh đấu chống chủ nghĩa đế quốc. Không hơn không kém, lý luận đó có nghĩa là sự hợp tác giai cấp,…không xác định động lực của CM Đông Dương và không hiểu đúng độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản…”[6]. Ông mỉa mai: đó là thứ lý luận “ngu ngốc”, “không thể nhịn cười được”.
 Ngay cả khi được tin Nguyễn Ái Quốc đã lâm bệnh, qua đời ở Hồng Kông, trong bài viết như để truy điệu, Hà Huy Tập cũng không quên nhắc đến những “sai lầm” của Nguyễn Ái Quốc: “Công lao mà ông đã đóng góp cho Đảng chúng ta thật là lớn. Song các đồng chí chúng ta trong lúc này không được quên những tàn dư dân tộc chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc, các chỉ thị sai lầm của ông về những vấn đề cơ bản của phong trào CM…Ông đã không đưa ra bàn luận trước về những sách lược mà QTCS đòi hỏi phải áp dụng để loại bỏ những phần tử cơ hội trong Đảng. Ngoài ra, ông còn khuyến dụ một sách lược cải lương và hợp tác sai lầm: trung lập hóa tư sản và phú nông, liên minh với trung và tiểu địa chủ”.[7]
Đương nhiên, đây là sự phê phán một chiều, do một mình Hà Huy Tập tiến hành, trong  khi Nguyễn Ái Quốc vẫn còn đang bị tù ở Hồng Kông.

Giai đoạn 3: 1934-1938 ( sau khi Nguyễn Ái Quốc đã trở về Maxkva)
Có thể nói đây là giai đoạn khó khăn nhất của Nguyễn Ái Quốc, là những năm tháng ông phải chịu đựng những thử thách nặng nề, phải vượt qua những nghi kỵ đau đớn, không phải trước kẻ thù mà trước những người đồng chí của mình. Trong thư ngày 29-6-1935 của bà V. Vasilieva gửi Ban bí thư Ban Viễn Đông, có nêu một nghi vấn: “Khó xác định được tại sao đồng chí ấy lại dễ dàng ra khỏi nhà tù và thoát khỏi tay cảnh sát Pháp và tóm lại tại sao đồng chí ấy lại nhận được một bản án nhẹ nhàng như vậy?”[8]
Thời gian này, Hà Huy Tập đã trở về Trung Quốc, đứng đầu Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng. Ngày 31-3-1935, trong thư gửi QTCS, ngoài nội dung chính là báo cáo kết quả của Đại hội Ma Cao, trong 10 điểm nói thêm, có 2 điểm báo cáo về Nguyễn Ái Quốc, ở điểm thứ mười, ông đã viết: “Ở Xiêm và Đông Dương, các tổ chức cộng sản đã tiến hành một cuộc đấu tranh công khai chống lại những tàn dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương của đảng Thanh niên và của đ/c Nguyễn Ái Quốc, những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản…Chúng tôi đề nghị đ/c Lin viết một quyển sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua”.[9] Ngoài ra, báo cáo còn nói thêm một vài điểm được “nghe kể lại” nữa, rất nguy hại về chính trị cho Nguyễn Ái Quốc.
Những thông tin của Hà Huy Tập, cùng với những nghi vấn đang đặt ra cho Nguyễn xung quanh vụ án Hồng Kông, đã dẫn đến quyết định của Ban Viễn Đông QTCS về tương lai của Nguyễn Ái Quốc:
- Không chấp nhận Nguyễn Ái Quốc là đại biểu chính thức của ĐCS ĐD tham dự ĐH VII QTCS sẽ diễn ra vào tháng 7-1935;
- Không chấp nhận Nguyễn Ái Quốc là đại diện thường trú của ĐCSĐD bên cạnh QTCS, đề nghị cử một ứng viên khác;
          -Thông báo về thân phận của Nguyễn Ái Quốc trong 2 năm tới: Sẽ cử đi học, phải nỗ lực học cho tốt, rồi mới có kế hoạch sử dụng sau.[10]
          Thời gian này, Nguyễn chỉ được tập trung vào việc học, không được viết báo, không được đi thực tế địa phương, xí nghiệp, công trường,…như các học viên khác. Sau khi tôt nghiệp, Nguyễn trở về nhận công tác ở Viện nghiên cứu các vấn đê dân tộc và thuộc địa, do Pavel Mif làm giám đốc. V.Vasilieva đã có những cố gắng để giải thoát cho Nguyễn. Bà lập một dự án đào tạo mới cho các học viên ĐD, “đề cử đ/c Lin tổ chức và điều hành trường này, lý do đ/c đã hoàn tất việc học tập và nghiên cứu của mình tại Maxkva”. Nhưng dưới bản đề nghị có bút phê của ai đó: “Mọi đề nghị đều bị hủy bỏ, chỉ giải quyết sau khi vấn đề đã được làm sáng tỏ”. Vấn đề gì, không ai biết, nên Nguyễn lại phải ghi tên vào học tiếp một lớp nghiên cứu sinh ngành lịch sử Đảng. Chẳng có thú vị gì phải ngồi học khi tình hình thế giới đang chuyển biến mạnh mẽ, nên kết quả học tập của Nguyễn đa số chỉ đạt trung bình!
          Vào thời kỳ này, trong ĐCS LXô diễn ra một cuộc thanh trừng lớn. L. Trotsky, G. Zinoviev, N.I.Boukharine đã bị đánh bại và xử trí từ 1928-29, nay đến lượt nhiều bạn bè, đ/c quen biết của Nguyễn bị vào cuộc: Pavel Mif-Giám đốc Viện nghiên cứu các vđ dân tộc và thuộc địa bị bắt năm 1937. Rất nhiều thành viên QTCS đã giúp thực hiện đường lối cứng rắn những năm 1928-29 cũng bị trừng trị: Rylsky, Gailis, Vasiliev, cả Piatnhítxky (tức Orgwald, một tên tuổi lớn), rồi Dombal, Voline,…đều bị  lôi cuốn vào cuộc thanh trừng.
          Vậy tại sao Nguyễn Ái Quốc lại có thể tồn tại được trong tình hình ấy? Nhờ đâu? Được ai bảo vệ? Hiển nhiên là Nguyễn Ái Quốc không tránh được có ý kiến khác với đường lối của Staline. Sự im lặng, phục tùng không đủ sức để cứu ông, nếu ông là người Ba Lan, Đức, Thổ nhĩ kỳ, người vùng Baltique - những nước láng giềng có chung biên giới với Liên Xô. Họ đều bị loại, trong khi đại diện các đảng CS Anh, Pháp, Mỹ - những nước ở xa, được đối xử khoan dung hơn. Trường hợp Nguyễn Ái Quốc có thể giải thích như thế nào?
          - Có thể vì chỉ là cán bộ cấp thấp, không quan trọng, là người bản xứ ở một nước xa xôi, không có vị trí chiến lược trong chính sách đối ngoại của LXô?
          - Có thể vì Nguyễn Ái Quốc biết giữ minh, biết hành xử thận trọng, không bao giờ tỏ ra là một nhà lý luận (không thích tranh cãi như M.N. Roy của Ấn Độ, ông này đã bị khai trừ ngay sau ĐH VI QTCS).
          - Có thể vì Nguyễn Ái Quốc đã nghiêm chỉnh chấp hành đầy đủ mọi quy định của QTCS trong thời gian kiểm tra, thử thách, được V.Vasilieva và André Marty,…bênh vực, che chở, được D.Manuilsky - một người có thế lực, thân cận với Staline - thông cảm, ủng hộ, v.v..?
          Năm 1938, Pavel Mif bị xử tử, giữa năm đó, Viện nghiên cứu các vđ dân tộc và thuộc địa bị đóng cửa. Có lẽ đây là thời điểm chín muồi để ngày 6-6-1938, Nguyễn Ái Quốc quyết định viết thư cho D.Manuilsky, giãi bày tâm trạng và nguyện vọng được “giúp đỡ thay đổi tình cảnh đau buồn” của mình: “Hãy phân tôi đi đâu đó…Hãy giao cho tôi làm một việc gì mà theo đồng chí là có  ích…đừng để tôi phải sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động, giống như là sống ở bên lề, bên ngoài của Đảng”.[11]
Ngày 29-9-1938, nguyện vọng của Nguyễn Ái Quốc được chấp thuận. Do đâu? Hiển nhiên là trước nguy cơ chủ nghia phát xít, các lực lượng dân chủ cần liên minh lại với nhau, ở Pháp đã hình thành Mặt trận Nhân dân, ở Trung Quốc, mặt trận hợp tác Quốc-Cộng lần thứ 2 đã được tái lập. Thực tế đó buộc người ta phải trở lại với quan điểm của Lênin về mặt trận thống nhất. Trước khi Nguyễn lên đường đi Trung Quốc, V.Vasilieva đã thuyết phục D.Manuilsky gặp để nghe ông phát biểu.
 Đến đây, kết thúc thời kỳ gần 10 năm Nguyễn Ái Quốc bị đánh giá sai, nghi kỵ, vô hiệu hóa, để về nước trực tiêp lãnh đạo CM Việt Nam đi tới thắng lợi năm 1945.

    Giai đoạn 4: 1945-1950 (thời kỳ CM Việt Nam bị cô lập với phong trào CSQT)

           -Bối cảnh chính trị thế giới và Việt Nam giai đoạn này:

          Năm 1943, QTCS tuyên bố tự giải tán, để cho các ĐCS được quyền tự chủ công việc của mình theo đặc điểm mỗi nước (một phần là sách lược, do LX đã gia nhập Đồng Minh, phần khác, do hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, khó có điều kiện chỉ đạo). Đến khi chiến tranh kết thúc, tháng 7-1947, Staline cho lập ra Cục thông tin Quốc tế CS (Kominform) để nắm dần lại.
          Việt Nam giành được độc lập từ trong tay Nhật, nhưng chỉ vài ngày sau lễ tuyên ngôn độc lập, gần 20 vạn quân Tưởng và các tổ chức tay chân ồ ạt kéo vào miền Bắc; hàng vạn quân Anh-Ấn, núp sau là quân viễn chinh Pháp, kéo vào miền Nam; tàn quân Pháp tháo chạy sang Vân Nam trước đây, được tái vũ trang, cũng đang rục rịch trở lại miền Băc .
          Vào thời điểm đó,Việt Nam như hòn đảo tự do giữa vòng vây của thế giới tư bản, với sức ép của một lực lượng quân đội nước ngoài khổng lồ ở ngay cạnh sườn (kể cả quân đội Nhật chưa giải giáp, con số lên đến non nửa triệu quân), trong khi lực lượng vũ trang của chúng ta còn quá nhỏ bé, trang bị rất thô sơ, chưa được huấn luyện về chiến đấu, có thể bị đè bẹp bất cứ lúc nào.
          Về chính trị, Tiêu Văn vào Việt Nam còn để hỏi tội Hồ Chí Minh: đã nhận lời hợp tác với họ để hỗ trợ “Hoa quân nhập Việt” sao lại dám lập chính phủ độc quyền cộng sản? Sau nhiều lần hạch sách, trách cứ, có lần họ đã giữ Hồ Chí Minh lại tại bản doanh như một kiểu giữ con tin để gây áp lực. Các tổ chức Việt Quốc,Việt Cách dựa thế quan thày, ra sức gây rối hòng giành chính quyền về tay họ. Ngày 8-11-1945, Nguyễn Hải Thần gửi tối hậu thư yêu cầu Hồ Chí Minh từ chức, xóa bỏ ngay chế độ độc tài, lập chính phủ mới không có sự kiểm soát của ĐCS! Tối hậu thư này, được sự chuẩn bị và chuẩn y của Lư Hán và Tiêu Văn, đe dọa: nếu Hồ Chí Minh không chấp nhận tối hậu thư, họ sẽ không chịu trách nhiệm về một cuộc xung đột vũ trang giữa hai bên!
          Một cuộc đảo chính quân sự có thể xảy ra dưới sự đạo diễn và hỗ trợ của quân đội Tưởng, đó là việc trong tầm tay của họ. Trước khả năng ấy, cần phải hy sinh, nhượng bộ một cái gì đó để thoát hiểm.[12] Có thể tham khảo ý kiến của ai? ĐCS TQ ở tít tận Diên An và Mãn Châu. ĐCS Pháp, từ sau CM tháng Tám, chưa có liên hệ gì với Việt Nam. Trước nguy cơ mất còn, tự mình phải quyết đoán. Hồ Chí Minh đã thuyết phục Trường Chinh, rồi với tinh thần dũng cảm, sẵn sàng chịu trách nhiệm trước lịch sử, ông đã đưa ra một quyết định phi thường:
          1. Tuyên bố ĐCS ĐD tự giải tán ngày 11-11- 1945 (thực chất là Đảng rút vào hoạt động bí mật, báo Cờ Giải phóng được thay bằng tờ Sự Thật, lập ra tổ chức mới: Hội những người nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, song vai trò lãnh đạo CM của Đảng vẫn được giữ nguyên).
          2. Chấp nhận cải tổ Chính phủ (lùi ngày Tổng tuyển cử, tạo điều kiện cho các đảng đối lập tham gia, rồi thuyết phục Quốc hội mới chấp nhận cho họ thêm 70 ghế đại biểu không qua bầu cử), lập Chính phủ Liên hiệp gồm 10 bộ (Việt Minh 2, Dân Chủ 2, Việt Quốc 2, Việt Cách 2, Không đảng phái 2).
          Sự nhượng bộ này là một cách tháo ngòi nổ của một cuộc đảo chinh quân sự (mà phe Tưởng đang chuẩn bị tiến hành), nhằm bảo vệ thành quả CM mà vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn tồn tại trong thực tế. Tuy vậy, giải pháp này đã gây ra phản ứng trong một bộ phận cán bộ của Đảng (dù không bộc lộ công khai). Họ cho rằng quyết định này làm tổn hại đến uy tín của Đảng và đòi Đảng phải được khôi phục lại ngay[13] .
          Nhưng đến năm 1949, thì sự phản ứng này đã bộc lộ công khai, thành một sự kiện làm ảnh hưởng đến quan hệ của Đảng CS ĐD, nhất là của Hồ Chí Minh, với ĐCS Liên Xô và Staline. Đó là sự kiện Trần Ngọc Danh - nguyên Trưởng phái đoàn đại diện Chính phủ ta ở Paris, tự ý bỏ nhiệm vụ, đào ngũ sang Praha, từ đó viết 2 bức thư gửi BCH TƯ ĐCS Liên Xô, với nội dung:
          +Phê phán đường lối chính trị cơ hội của ĐCS ĐD: đã công khai giải tán Đảng ngày 11-11-1945, việc này được thực hiện với sự can thiệp tích cực của Hồ Chí Minh. Đường lối mà Hồ Chí Minh áp dụng hiện nay chính là sự tiếp tục đường lối mà ông ta đã khởi xướng từ năm 1930 (tức Chính cương, Sách lược vắn tắt) và đường lối ông ấy đưa ra tại Hội nghị TƯ 8 tháng 5-1941, là đường lối theo chủ nghĩa dân tộc tư sản.
          +Từ đó, Trần Ngọc Danh quy kết những người cộng sản Việt Nam hiện nay đang đi ngược lại chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã trở thành người chống Đảng, thù nghịch với Liên Xô, đã từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản và học thuyết đấu tranh giai cấp của Mác,…Cuối thư, Trần Ngọc Danh cam kết trung thành với ngọn cờ của Lénine và Staline, mãi mãi là người cộng sản chân chính…[14]
          Sự kiện Trần Ngọc Danh xảy ra tháng 10-1949, gần kề với chuyến đi của Hồ Chí Minh tới Bắc Kinh và Maxkva đầu năm 1950, nhằm phá vòng vây, tìm kiếm sự công nhận về ngoại giao và sự viện trợ quân sự cho cuộc kháng chiến của Việt Nam, sự kiện đó đã gây cho Hồ Chí Minh không ít phiền toái!
          -Bối cảnh chuyến đi của Hồ Chí Minh đầu năm 1950:
          Như đã nói ở trên, cuộc kháng chiến của Việt Nam diễn ra trong tình thế gần như bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài: ít được thế giới biết đến, không nhận được sự chi viện nhỏ nào, dù chỉ về chính trị-tinh thần. Ngay Đảng cộng sản Pháp lúc đó cũng chưa mặn mà gì với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, vì họ vẫn coi trọng đấu tranh giai cấp, còn đấu tranh giải phóng dân tộc vẫn bị coi là thuộc phạm trù cách mạng tư sản ![15]
Hồ Chí Minh đã làm gì để phá thế bị bao vây đó?
          Đầu năm 1946, Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư và công hàm chính thức tới Liên Hiệp Quốc và những người đứng đầu Chính phủ 4 nước lớn là Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Hoa Tưởng Giới Thạch, đề nghị 2 điều: can thiệp để giúp chấm dứt cuộc đổ máu đang diễn ra ở Nam Việt Nam và đưa vấn đề Việt Nam ra Liên Hiệp Quốc. Nhưng không nhận được hồi âm nào. Sau này được biết: Liên Xô nhận công hàm, nhưng có bút phê của Thứ trưởng Kozyrev khi đó: “Không trả lời”.
          Sau khi ký Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, Hồ Chí Minh quyết định cử 2 phái đoàn thân thiện của Chính phủ ta đi thăm Pháp và Trung Hoa. Phái đoàn đi Paris do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, phái đoàn đi Trùng Khánh lúc đầu giao cho Cố vấn Vĩnh Thụy, nhưng ông ta không nhận, nên Nghiêm Kế Tổ, người của VNQDĐ, lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, được làm trưởng đoàn. Đến Trùng Khánh, đoàn xin được yết kiến Tưởng, nhưng Tưởng không nhận tiếp phái đoàn một Chính phủ cộng sản,  chỉ  nhận tiếp riêng một mình cựu hoàng Bảo Đại!
          Tiếp theo, Chính phủ ta cho lập 2 Văn phòng thông tin của nước VNDCCH, một ở Paris, một ở Bangkok, để tuyên truyền quốc tế cho cuộc kháng chiến của ta, nhưng hoạt động cũng không mấy hiệu quả. Năm 1947, Hồ Chí Minh cử Phạm Ngọc Thạch, với tư cách đại diện Văn phòng Chủ tịch Hồ Chí Minh,  vượt sông Mê công, sang Pháp gặp M.Thorez và J.Duclos, rồi sang Thụy Sĩ gặp Đại sứ Liên Xô Koulajenkov, đến Ấn Độ vừa tuyên bố độc lập, gặp J.Nerhu,…để thông báo về cuộc kháng chiến anh dũng của Việt Nam, đề nghị giúp đỡ về vật chất và tinh thần,…Nhưng đều không đạt kết quả gì.
          Trong khi đó, giữa năm 1948, Liên Xô lại ra tuyên bố chính thức công nhận Chính phủ Jakarta và lập quan hệ ngoại giao ở cấp lãnh sự! Chính vào đêm 28-5-1948, sau lể thụ phong hàm Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp, về đến nơi nghỉ, Hồ Chí Minh mở radio nghe bản tin đêm, thì sửng sốt nhận được tin này.[16]
          Thu-Đông 1947, ta đánh thắng chiến dịch 2 gọng kìm của Pháp, nhưng xuýt nữa, họ bắt được cơ quan đầu não của ta. Nếu Pháp liên minh được với Tưởng, dưới đánh lên, trên đánh xuống, cuộc kháng chiến của quân dân ta có nguy cơ bị thất bại. Điều đó cho thấy phải tranh thủ cầu hòa với Chính phủ Tưởng Giới Thạch, nhằm trung lập hóa vai trò của họ. Cuối 1948 (hay đầu 1949), một phái đoàn được cử sang Trung Quốc, đến Nam Kinh, Thượng Hải, tất nhiên với “lễ vật” hậu hĩnh. Đến nay, chuyến đi vẫn chưa được giải mã, nên chưa thể nói cụ thể, chỉ biết rằng trong chuyến đi đó, có mang theo một cuốn “Tiểu sử Hồ Chủ tịch” để dịch và xuất bản ở Thượng Hải[17].
          Tại sao cần thiết phải công bố Tiểu sử Hồ Chí Minh vào thời gian này, lại chỉ công bố ở nước ngoài, nhằm mục tiêu gi? Các thế lực chống đối Hồ Chí Minh chỉ nghĩ ra được một điều xuyên tạc tầm thường: Hồ Chí Minh chẳng phải người có đạo đức khiêm tốn gì, tự mình viết TS để ca ngợi mình(?) v.v..Nếu chỉ cần có thế thì Hồ Chí Minh đã có thừa. Sự tôn kính, lòng cảm phục và tin tưởng của nhân dân Việt Nam đối với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh được hình thành từ cuộc đời bôn ba cách mạng, vào tù ra khám của Người; sau thắng lợi của CM tháng Tám lại được bổ sung thêm bằng những “sáng tác dân gian”, làm cho tên tuổi Hồ Chí Minh đã sớm trở thành huyền thoại, có viết thêm nữa cũng không sánh được !
          Cuốn sách này ra mắt chủ yếu nhằm thực hiện sách lược chính trị đối ngoại. Như đã nói ở trên, vào thời gian này, Hồ Chí Minh đang đứng trước hai làn đạn: các Chính phủ phương Tây (Anh, Mỹ, Pháp, Tưởng,…) coi ông là Cộng sản nên chống lại, còn Quốc tế cộng sản  lại cho ông là đã xa rời học thuyết đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, rơi vào hữu khuynh, dân tộc chủ nghĩa, có vẻ muốn “ve vãn” phưong Tây nên cũng không công nhận! Trước mắt, để tránh hiểm họa, muốn cầu thân với Tưởng, phải làm giảm nghi ngờ của họ. Cuốn “Hồ Chí Minh truyện” do Trương Niệm Thức dịch, xuất bản ở Thượng Hải tháng 6-1949 (chưa giải phóng) là nhằm mục tiêu đó.
          Vì vậy, cuốn truyện của Trương Niệm Thức chủ ý muốn làm cho người đọc thấy Hồ Chí Minh vốn có nhiều mối quan hệ thân tình với Trung Quốc. Mở đầu, cuốn sách đưa ra bài viết của tướng Hoàng Cường - người đã từng du học ở Pháp, có quen biết Nguyễn Ái Quốc, thời kháng Nhật là Tham mưu trưởng Lộ quân thứ 19, sau ngày Nhật đầu hàng, ông vào bắc Việt Nam giải giáp quân Nhật- đã bài viết ca ngợi Hồ Chí Minh: là nhà CM giản dị và nhân hậu, biết nhiều ngoại ngữ, đã có nhiều năm sống ở Trung Quốc, rất thạo tiếng Quảng Đông và cả tiếng phổ thông, đã từng dịch cuốn “Tam Dân chủ nghĩa” của Tôn Dật Tiên ra tiếng Việt,..Tác giả muốn chứng minh rằng VNTNCM đồng chí Hội được tổ chức theo chính cương, đường lối và phương pháp đấu tranh của Tôn Dật Tiên: Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc. Có người hỏi: ông Nguyễn theo CNCS hay theo CN TDTiên, ông trả lời rất khéo: Khổng tử, Jésus, Mác, TDTiên, các vị đó đều có mục tiêu giống nhau là mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại…Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của họ. Tôi vẫn là tôi ngày trước: một người yêu nước (nhất cá ái quốc giả), v.v..(Những nội dung này không có trong bản in ở Pháp - thay vào đó là bài của Léo Poldès có nội dung cần cho người đọc ở phương Tây, điều này không có trong “Những mẩu chuyện…” lần đầu tiên được xuất bản 1955 ở Hà Nội cũng như các lần tái bản sau).
          Tuy nhiên, tình hình quốc tế đã chuyển biến quá nhanh. Cuối năm 1949, CM Trung Quốc thành công, nước CHND Trung Hoa ra đời, làm nghiêng hẳn cán cân lực lượng về phe xã hội chủ nghĩa. Tháng 10 năm đó, nước CHDC Đức thành lập. Cuộc chiến tranh lạnh đã lên đỉnh cao ở Châu Âu. Ở Châu Á, thắng lợi của cách mạng Trung Quốc khiến Mỹ lo ngại: một số nước ở ĐNÁ có khả năng  ngả theo con đường cộng sản hóa, nếu Pháp thất bại ở Đông Dương. Mỹ thấy đã đến lúc phải nhảy vào can thiệp,…
          Tình hình đó khiến Hồ Chí Minh thấy tự mình phải xuất tướng phá vòng vây, trước tiên là đàm phán với Trung Quốc, sau đó qua trung gian của Trung Quốc để tới Liên Xô. Chuyến đi có 2 thuận lợi: một là quân đội nhân dân Việt Nam vừa lập một chiến công đầy tinh thần quốc tế: phối hợp với giải phóng quân Trung quốc trong chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, giải phóng Long Châu, Khâm Châu, Phòng Thành,…một vùng biên giới sát với Cao Bằng. Chiến công này được Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai,…hết sức ca ngợi, coi đó là một biểu hiện cao cả của chủ nghĩa quốc tế vô sản; hai là chuyến đi lại trùng khớp với cuộc hội đàm Trung - Xô để ký kết Hiệp định hợp tác tương trợ giữa 2 nước vừa bắt đầu tại Maxkva.
          Cuộc đàm phán Trung -Việt diễn ra thuận lợi, những yêu cầu Hồ Chí Minh nêu ra với Trung Quốc đều nhanh chóng được đáp ứng, vì nó gắn liền với lợi ích thiết thân của Trung Quốc. Sau đó, nhờ sự thuyết phục của Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đang có mặt tại Maxkva với Staline, Hồ Chí Minh đã được mời sang thăm Liên Xô.
          Nhưng Hồ Chí Minh đã được Staline đón tiếp như thế nào?
          - Hồ Chí Minh đến Maxkva, TƯ Đảng cộng sản Liên Xô mở tiệc chiêu đãi, có mặt đủ cả, riêng Staline tránh mặt, không tiếp. Một, có thể là do bị ràng buộc bởi Hiệp định bất tương xâm đã ký với De Gaulle năm 1944 (có giá trị 20 năm), ông không muốn làm mất lòng Pháp, vì Pháp có vị trí chiến lược quan trọng trong chính sấch đối ngoại của Liên Xô ở châu Âu hơn là Việt Nam. Hai, Staline vốn có thành kiến sẵn với Hồ Chí Minh là hữu khuynh, dân tộc chủ nghĩa, qua những thông tin mà KGB thu lượm được về cuộc tiếp xúc của người Mỹ với Nguyễn Đức Quỳ (Trưởng Văn phòng đại diện của chính phủ ta tại Bangkok) trong năm 1948-49, nhất là qua 2 bức thư tố cáo của Trần Ngọc Danh. Staline rất đa nghi, e rằng đây có thể là một nhân vật “Tito thứ hai”ở châu Á!
          - Với sự kiên trì thuyết phục của Mao và Chu rằng Hồ là nhà ái quốc nhiệt thành đồng thời là người cộng sản, người chiến sĩ quốc tế chân chính, cuối cùng Staline cũng nhận tiếp Hồ Chí Minh, ngay tại phòng làm việc của mình, với sự có mặt đông đủ các nhà lãnh đạo chủ chốt của Liên Xô, phía Trung Quốc có Đại sứ Vương Gia Tường, phía Việt Nam có Trần Đăng Ninh.
Staline mở đầu: Chúng ta là những người bạn, người anh em thân thiết, gặp đồng chi hơi muộn một chút, xin thứ lỗi! Hồ Chí Minh báo cáo tóm tắt tình hình cơ bản về ĐCSĐD, về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam  và đề nghị Liên Xô giúp đỡ,…
Staline phát biểu chậm rãi nhưng rành rọt, đại ý:
   *Tại sao các đồng chí tự ý giải tán Đảng? Đ/c tưởng lừa được chủ nghĩa đế quốc à, chính là đ/c lừa chúng tôi, vì ở xa, không biết thực hư thế nào ( có ý trách là không xin ý kiến).
   *Chính phủ các đ/c là cái chính quyền gì, sao mà lắm nhân sĩ, trí thức, địa chủ, quan lại thế?( ý nói không phải chính quyền công nông).
   *Tại sao đến nay các đ/c không tiến hành CCRĐ? Để đánh thắng đế quốc Pháp, sự chi viện của quốc tế là cần thiết, nhưng phải phát động quần chúng, động viên quần chúng, đem lại lợi ích thiết thân cho họ, đó mới là điểm mấu chốt làm nên thắng lợi. Staline tỏ ý không hài lòng lắm, hỏi: trong 2 cái ghế dân tộc và giai cấp, đ/c ngồi trên cái ghế nào? (có ý phê bình lập trường g/c còn mơ hồ ).
   *Về vấn đề viện trợ cho cuộc kháng chiến của Việt Nam , Staline nói: CM Trung Quốc nay đã thành công, Trung Quốc đã trở thành trung tâm của CM châu Á, từ nay chi viện cho Việt Nam sẽ do Trung Quốc đảm nhiệm, vì sát với Việt Nam . Liên Xô có nhiệm vụ giúp Trung Quốc xây dựng kinh tế, những vũ khí chúng tôi giúp Trung Quốc, nay kết thúc chiến tranh, cái gì không dùng nữa, hợp với Việt Nam, thì có thể chuyển cho Việt Nam (như một sự phân công quốc tế); đồng thời Staline cũng nhắc nhở Việt Nam phải ra sức học tập kinh nghiệm của Trung Quốc!.[18]
          Tóm lại, Liên Xô không muốn dính vào vấn đề Việt Nam ở thời điểm này. Cuộc đón tiếp được coi là hờ hững[19]. Nhưng thắng lợi lớn nhất của chuyến đi phá vỡ vòng vây đã đạt được, đó là sự công nhận chính thức về ngoại giao đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Trung Quốc ngày 18-1, Liên Xô ngày 30-1-1950, sau đó là các nước DCND còn lại, cả Nam Tư. Đảng cộng sản Việt Nam đã tái hòa nhập với phong trào cộng sản quốc tế. Cần thừa nhận rằng thành công này có sự đóng góp quan trọng của Đảng cộng sản Trung Quốc, bởi nếu không phá được vòng vây này, chưa rõ CM Việt Nam sẽ lâm vào hoàn cảnh khó khăn như thế nảo?

Kết luận

Trình bày lại những điều này để hiểu được những hệ lụy phức tạp mà chúng ta phải gánh chịu về sau. Rất khó có thể giữ được hoàn toàn độc lập, tự chủ trong hoàn cảnh ấy. Sự viện trợ về quân sự đi liền với áp đặt về chính trị. Hồ Chí Minh chỉ có thể trì hoãn chứ không thể từ chối. Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế là một song đề phức tạp của phong trào cộng sản thế giới, không phải lúc nào nó cũng thống nhất được với nhau, giữa nói và làm, nhất là ở những Đảng lớn. Chính người cộng sản - ái quốc Hồ Chí Minh, trong vai trò “huyền thoại kép” này, đã giúp ông đạt được những thành tựu diệu kỳ cho đất nước, nhưng nó cũng gây cho cá nhân ông bao hệ lụy cay đắng phải gánh chịu cho đến ngày nay. Sở dĩ ông vượt qua được và thành công chính là nhờ khả năng vận động uyển chuyển giữa hai cực đó, nghĩa là biết điều chỉnh và thỏa hiệp nhất định với thực tế cay nghiệt của hoàn cảnh để tồn tại và phát triển, vì lợi ích của dân tộc và lợi ich của cách mạng. Có lẽ vì vậy mà ông được thừa nhận rộng rãi ở phương Tây “là một chính trị gia và một nhà ngoại giao tài giỏi, một người đã để lại cho đất nước mình một khuôn mẫu về  xây dựng liên minh và thỏa hiệp mà mọi quốc gia đương thời đều đánh giá cao”[20]. Đó là một di sản tinh thần quý báu Hồ Chí Minh để lại mà chúng ta phải thấm nhuần và phát huy thật tốt ở bối cảnh chính trị thế giới đang biến chuyển cực kỳ phức tạp và lắt léo hiện nay./.
                   

 


[1] J. Sainteny: Face à Ho Chi Minh , Seghers, Paris, 1970, tr.33
[2] V.I.Lênin: Toàn tập, Tiến bộ, M., 1978, tâp 41, các trang: 292, 204, 293
[3] Dẫn theo: Tài liệu tham khảo lịch sử cận đại Việt Nam, BNC Văn-Sử-Địa xb, 1956, tập 6, tr.187
[4] Văn kiện Đảng TT, CTQG xb 1998, t. 2, tr. 110-112
[5] Tài liệu lưu trữ tại Phông QTCS, nay là Trung tâm  bảo tồn và nghiên cứu các tài liệu lịch sử hiện đại Nga,viết tắt là R.C. ký hiệu  495.154.462.
[6] Văn kiện Đảng TT, t.4, tr. 367
[7] Bài đăng trên Tạp chí Bônsêvích (Cahier du Bolchévisme) số 8, tháng 12-1934. Dẫn lại theo Daniel Hemery : Ho Chi Minh , De l’Indochine au Viet Nam , p. 73
[8] Tư liệu lưu tại R.C., ký hiệu 495.201. hồ sơ 1, các tr. 154-155-155a. Toàn văn bức thư đã được dịch va in trong sách Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông  1931-1933, CTQG, 2004, tr.239
[9] Văn kiện Đảng TT, t. 5, tr. 204
[10] V. Vasilieva: Thư gửi các đồng chi Đông Dương, R.C. ký hiệu 495.154.585, tr.11
[11] Hồ Chí Minh TT, T.3, tr. 90
[12] Stein Tonnesson, trong cuốn Vietnam 1946: How the war began (Việt Nam 1946: Chiến tranh đã khởi đầu như thế nào), NXB ĐH, California, Berkeley, 2010, đã đề cập đến khả năng đảo chính này, nhưng theo ông, Quốc dân đảng Trung Hoa không  thực hiện mà ép bọn tay chân phải tham gia CP liên hiệp. Nếu họ cũng hành động như người Mỹ với CP thiên tả ở Seoul, như người Anh với CP ở Jakarta,…thì CP Hồ Chí Minh  rất ít cơ hội tồn tại. Thay vì cảm ơn, Việt Nam lại chê trách họ (!). Đây là một ngộ nhận của nhà sử học. Điều cần nói là Hà nội năm 1946 khác xa với Seoul và Jakarta cùng thời điểm ấy.Trung Hoa QDĐ cũng không có thế mạnh như Anh, Mỹ. Sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý chi ngoan cường đấu tranh để bảo vệ nền Độc lập của nhân dân Việt Nam như thế nào, những người Trg Hoa QDĐ có mặt ở Hà Nội đã nhận thấy, họ rất muốn làm mà không dám làm vì đang phải lo đối phó với thất bại trong cuộc nội chiến. Đáng tiếc, đó lại là điều mà ô.. S.Tonnesson chưa nhận thấy.
[13] Có thể số thắc mắc không it, nên đến Hội nghị cán bộ TƯ lần 5 (từ 8 đến 16-8-1948, thay mặt Ban Thường vụ TƯ, Lê Đức Thọ đã phải giải thích về sự kiện này. Xem Văn kiện Đảng TT, t.9, tr. 316-317.
[14] Xem thêm: Christopher E. Goscha “Tai bay vạ gió trong ngoại giao? Những nỗi chuân chuyên của Việt Nam trên đường hội nhập phong trào Quốc tế cộng sản 1945- 1950”.Đông Hiến dịch. Talawas 13-02-2007.
[15] M. Thorez, TBT ĐCS Pháp, năm 1946 đang làm Phó Thủ tướng trong  CP liên minh với Đảng Xã hội, đã nói với Đô đốc D’Argenlieu rằng: “Đô đốc ạ….tất nhiên tôi momg rằng mọi sự giải quyết êm thấm với Việt Minh, nhưng tóm lại-với một giọng chắc nịch- màu cờ của chúng ta trên hết! Vậy nếu phải đánh thì cứ đánh, đánh cho mạnh!(Nguyên văn: “Amiral,…je souhaite naturellement que tout se règle aux mieux avec le Vietminh, mais enfin- d’un ton convaincu- nos couleurs avant tout! Et donc s’il faut cogner, cognez et cognez dur’. ( Chronique d’Indochine 1945-1947 của A. Thierry D’Argenlieu, nxb Albin Michel, p. 168).
[16] Trong “Nhật ký của một bộ trương”, ông Lê Văn Hiến đã ghi lại cảm xúc vô cùng cay đắng, khó hiểu của mình vào giờ phút đó: Tại sao Staline có thể công nhận một CP tư sản mà CP Hồ Chí Minh do ĐCS lãnh đạo lại không được ông đoái hoài?
[17] Cũng thời gian này,  1 cuốn TS tương tự cũng đươc xuất bản bằng tiếng Việt ở Paris, đề tên tác giả là Nghị sĩ Trần Ngọc Danh, do Chi hội Liên Việt tại Pháp xuất bản năm 1949.
[18] Theo Trương Quảng Hoa: “Ghi chép bí mật về quyết sách giúp Việt Nam chống Pháp”, đăng trên T/c Viêm hoàng xuân thu, số 10 năm 1995.
[19] Trong cuộc tiếp, nhân trên bàn có cuốn họa báo “Liên Xô trên công trường”, có ảnh Staline, Hồ Chí Minh bèn xin Staline một chữ ký để làm kỷ niệm. Staline ký tặng rồi sau đó sai KGB bí mật lấy lại. Điều này làm cho Hồ Chí Minh rất bức xúc: “Làm sao lại có thể có chuyện đó giữa những đ/c cộng sản với nhau”?.
[20] Sophie Quinn-Judge: “Ho Chi Minh- The Missing Years”. University of California Press Berkeley Los Angeles, p.
256-257.

21-4-11