Saigon – Đường Catinat đầu thế kỷ 20 – Phần 2
Ông Nguyễn Liên Phong đã tả một góc cạnh của đường Catinat vào đầu thế kỷ 20 trong quyển “Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca” (9)đúng như các cơ sở kinh doanh Hoa, Ấn lúc ấy ở khu đầu đường Catinat như sau:
Nhứt là đường Ca-ti-na,
Hai bên lầu các, phố nhà phân minh
…
Máy may mấy chỗ quá nhiều,
Các tiệm tủ ghế dập dều phô trương
Đồ sành, đồ cẩn, đồ đương [đan]
Đồ thêu, đồ chạm trữ thường thiếu chi
…
Nhà in, nhà thuộc, nhà chà,
Nhà hàng ăn ngủ với nhà lạc son
Hai bên lầu các, phố nhà phân minh
…
Máy may mấy chỗ quá nhiều,
Các tiệm tủ ghế dập dều phô trương
Đồ sành, đồ cẩn, đồ đương [đan]
Đồ thêu, đồ chạm trữ thường thiếu chi
…
Nhà in, nhà thuộc, nhà chà,
Nhà hàng ăn ngủ với nhà lạc son
Tuy vậy cũng có một số cửa tiệm của người Việt trên
đường Catinat. Và trên đại lộ Bonnard có cửa tiệm may của ông Nguyễn An
Khương ở số 49 đại lộ Charner mà trong niên giám 1910 ghi là: “49. Nguyen-An-khuong, tailleur” (10). Ông Nguyễn An Khương chính là thân phụ của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh. Nhà may này về sau là khách sạn Chiêu Nam Lầu, trở thành một cơ sở tham dự trong phong trào Minh Tân do ông Gilbert Trần Chánh Chiếu lãnh đạo. Chiêu Nam Lầu
đón nhận những người An-Nam (Việt) ăn ở trú ngụ, khuyến khích người
Việt kinh doanh, canh tân đất nước. Cũng chính tại số 49 Charner là nơi
ông Phan Chu Trinh mất năm 1926, sau khi ông từ Pháp trở về Việt Nam và
trú ngụ tại Chiêu Nam Lầu.
Đi qua các cửa hàng cửa người Hoa và Việt là đến tiệm
thuốc tây của ông Holbé ở số 22 Catinat. Đây là tiệm đầu tiên của ông
Holbé, sau này ông chuyển đến tiệm thuốc tây Solirène ở số 171 Catinat
(góc Catinat và Bonnard). Nhà riêng của ông Holbé ở số 2, place du
Chateau d’Eaux (quảng trường tháp nước, nay là Hồ Con Rùa), nơi tụ tập
của nhiều nhân sĩ và trí thức Pháp, Việt ở Saigon.
Đến đây ta đến ngã ba Catinat và rue Turc (nay là Hồ
Huấn Nghiệp, ông Turc là thị trưởng đầu tiên của thành phố Saigon). Ở
bên kia đường Turc là cửa hàng bách hóa “Mottet et Cie.” Bắt
đầu từ đây lên ta sẽ thấy tiệm và phố người Pháp nhiều hơn và chiếm đa
số cho đến cuối đường Catinat ở quảng trường nhà thờ (ngày nay gọi là
quảng trường Công xã Paris).
|
Hình 6: Magasins genereaux Mottet et Cie, 1908. Cửa hàng bách hóa công ty Mottet. Góc đường Catinat và đường Turc. “Carte postale” này là do chính công ty Mottet sản xuất. |
Công ty Mottet có cửa hàng trên đường Catinat (số
24-30 Catinat và 1-2-3 Café hôtel de la maison Mottet, góc rue Catinat
và rue Turc, tức góc Đồng Khởi và Hồ Huấn Nghiệp ngày nay. Niên giám
Đông Dương 1908 ghi “Mottet et Cie. (approvisionnement général)”. Cửa hàng “Mottet et Cie.” là một trong hai cửa hàng bách hóa đầu tiên ở Saigon. “Mottet et Cie.” bán nữ trang, rượu (sỉ và lẻ), nước khoáng (eaux minérales), xe đạp (11), đăng ký gởi tàu biển, bán máy giặt. Niên giám 1908 có ghi “MM. Mottet et Ogliastro” (12) bán máy giặt chạy bằng hơi nước (Blanchisserie à vapeur), giày, nón, đại diện cho công ty đường sông (Compagnie de messageries fluviales)
ở Cần Thơ… Công ty cũng in các “carte postales” hình ảnh về Saigon và
nhiều nơi khác. Công ty Mottet et Cie. bắt đầu xuất hiện trong niên giám
Đông Dương vào năm 1906 bán nữ trang. Trong niên giám 1908 có ghi M.-S.
Mottet là nhà thương mại và niên giám 1907 cho biết ông Mottet là lãnh
sự đại diện cho nước Nga hoàng (imperial Russie).
Niên giám năm 1911 ghi ông Hauff (“maison Mottet”) là đại diện lãnh sự Nga và ông Novella (“maison Ogliastro”) đại diện lãnh sự Ý. Cũng trong niên giám năm 1911 có ghi ông Blanc ở nhà số 23 rue Bangkok là chủ“maison Mottet et Cie” và là người kế nhiệm của công ty “Mottet et Cie.”
ở đường Catinat bán rượu sỉ và lẻ. Như vậy có thể nói năm 1911, hai ông
Blanc và Hauff đã kế nhiệm ông Mottet điều hành công ty Mottet et Cie. Và đúng như vậy, niên giám Đông Dương năm 1915 chính thức ghi hai ông H. Blanc và P. Hauff là “successeurs Mottet et Cie.” ở các cơ sở công ty trên đường Catinat, đường Turc và đường Vannier
Hai ông Blanc và Hauff cũng là chủ khách sạn “Hôtel de l’Univers” ở đường Turc. Nếu ở góc đường Catinat và đường Turc, ta quẹo phải vào đường Turc và đi đến hết đường thì sẽ thấy “Hôtel de l’Univers”
ở bên phải, số 3 rue Turc, cạnh quảng trường Rigault de Genouilly
(quảng trường Mê Linh). Quang cảnh ở quảng trường này đầu thế kỷ 20 như
trong hình sau (hình 7)
Hình 7: Carte postale trong bộ sưu tập của nhà thương mại Poujade de Ladevèze – Tượng kim tự tháp tưởng niệm Douard de Lagrée và tượng Rigault de Genouilly nhìn từ đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng). Trong hình, nếu ở đường Paul Blanchy ta quẹo phải khoảng 30m thì sẽ đến khách sạn “Hôtel de l’Univers” trên góc đường Turc và Vannier và cơ sở thương mại của ông Poujade de Ladevèze ở đầu đường Vannier (7 rue Vannier, niên giám 1909) cạnh khách sạn. |
Hai nhà thương mại xuất nhập khẩu Henri Blanc và P. Hauff cũng biên tập và in các “carte postale” ký hiệu “en nuage” in các hình ảnh chụp trên khắp Đông Dương, và các hình ảnh chụp ở Trung Hoa: phần lớn các ảnh này nằm trong bộ sưu tập “Collection Phénix” (vers 1907), số còn lại trong bộ sưu tập “Collection Sylvia”
(xem phụ lục 3 về các nhà nhiếp ảnh ở Saigon). Sau này vào thập niên
1930, số 24 đường Catinat là tiệm ông J. Aspar, người in quyển sách chỉ
dẫn về đường phố, sinh hoạt ở Saigon, quyển “Guide pratiques” in năm 1934.
Bây giờ từ ngã ba Catinat và rue Turc nơi cửa hàng bách hóa “Motte et Cie”,
chúng ta đi lên về hướng nhà hát thành phố, sẽ gặp tiệm nữ trang, bán
súng đạn đi săn (bijoutier, Noel, armurier) của ông Cafford ở số 32-36
Catinat (theo niên giám 1910, 1911) mà trước đó (1909) là tiệm nữ trang
(bijoutier) của ông bà Fernand Michel. Sau này vào thập niên 1950-1960,
tiệm bán nữ trang, súng đạn Cafford chuyển về ở góc đường Tự Do và
Nguyễn Thiệp, đối diện với quán café Brodard.
Kế tiệm nữ trang Cafford là tiệm thịt nổi tiếng và lâu đời nhất ở đường Catinat: tiệm thịt “Boucher, charcutier A. Guyonnet” số 38-40 Rue Catinat.
Hình 8: Rue Catinat vào năm 1950 (café Brodard nằm ở góc Nguyễn Thiệp và Đồng Khởi ngày nay). Tiệm bán thịt A. Guyonnet ở số 121 rue Catinat, gần Brodard (131 Đồng Khởi). |
Tiệm của ông Guyonnet trước kia ở số 48 Catinat (theo niên giám 1908 và 1916, ông Guyonnet hành nghề “boulangerie, charcuterie, boucherie, fruits primeurs”). Sau đó tiệm chuyển đến số 38-40 rue Catinat (niên giám 1925 và niên giám 1933-1934 đề tựa “Frigorifique de l’alimentation, alimentation générale, R.C Saigon no. 501”). Và cuối cùng ở thập niên 1950 th́ì chuyển đến số 121 rue Catinat. Ông Alban Guyonnet (cùng thời với công ty tiệm cầm đồ Ogliastro-Hui Bon Hoa) là hội viên Phòng thương mại (niên giám 1933-34).
Tiếp tục đi, ta sẽ đến tiệm sách lớn “Librairie des Écoles” cho học sinh của ông bà Léon Rousseau ở số 64-72 Catinat (1910, 1918).
Đi lên một chút nữa ta sẽ đến một ngã tư thứ hai: đó là ngã tư rue Catinat và rue d’Ormay (13) (Mạc Thị Bưởi ngày nay). Ngay ở góc đường Catinat và rue d’Ormay là nhà in “Imprimerie commerciale”: địa chỉ “74-86 Catinat, M. Rey (Marcelin) imprimerie commerciale” và “60-64 d’Ormay, Rey Imprimerie commerciale dépôt”.
Nhà sách và nhà in của ông Marcelin Rey in đủ các loại sách, các quảng
cáo thương mại kể cả các sách viết bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán và chữ
Khmer.
Nếu ta quẹo trái đi vào đường d’Ormay về hướng đại lộ
Charner, gần góc đường d’Ormay và đại lộ Charner, số 63 rue d’Ormay là
tòa nhà cơ sở điện ảnh (cinématographe) của công ty điện ảnh “Pathé frères”
do ông Lebreton làm giám đốc (niên giám 1910). Sau này ở nơi đây, ông
Louvet (nhà quay phim, cinematographe) làm nơi chiếu phim. Một nơi giải
trí rất được ưa chuộng vào ban đêm, trước khi có rạp Eden (đường
Catinat) và rạp Casino (đường Bonnard) sau này.
Qua đường d’Ormay, theo niên giám 1909, 1910, 1911
thì số 88 Catinat là tiệm thịt (charcutier) của ông J. Martinon, và từ
số 90 đến 94 Catinat là tiệm tạp hóa, trái cây, kim, chỉ, nút quần áo
(épicerie-mercerie) của ông A-Koune (người Hoa còn có tên là Huynh-Can
theo niên giám 1890). Năm 1912 thì ông J. Martinon dời tiệm thịt đến số
116 Catinat. Quay đầu về hướng ta đã đi qua, ta sẽ thấy phía bên kia
đường là tòa nhà góc đường Catinat và d’Ormay ở số 25-27 Catinat của ông
Lacaze (3) như trong hình dưới đây (hình 9).
Hình 9: Đường Catinat, bên phải có lẽ là văn phòng nhà in báo Impartial (14).
Bên phải là đường d’Ormay. Hình chụp về phía bến Bạch Đằng, khoảng thời
gian cuối thập niên 1920 hay đầu 1930s. Đây là hình trong bộ sưu tập
của nhà nhiếp ảnh F. Nadal. Để ý hai cột đèn nối nhau ở giữa đường. Điện
thắp sáng Saigon bắt đầu từ năm 1896, từ nhà máy phát điện đầu tiên ở
vị trí sau Nhà hát thành phố trên đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng ngày
nay). Sau đó đầu thập niên 1910 thì nhà máy điện nhà đèn Chợ Quán được
xây và đưa vào hoạt động cung cấp cho toàn Saigon và Chợ Lớn. Nhà máy
phát điện cũ, sau nhà hát thành phố, trở thành trạm phụ (sub-station)
biến thế cung cấp từ nhà đèn Chợ Quán.
|
Đi lên nữa, ta sẽ đến ngã ba đường Catinat và đường Amiral Dupré (15)
(góc Đồng Khởi và Đông Du ngày nay). Theo niên giám 1909, số 49-55
đường Amiral Dupré là tiệm làm bánh mì (boulangerie) của bà Soundan, sau
này trở thành nhà hàng (1910, 1911, 1912). Đây chính là quán café, hộp
đêm và vũ trường “Croix du Sud” hay Tự Do sau này ở thập niên 1950-1970.
Bên kia đường Amiral Dupré là cửa hàng bách hóa
Courtinat, cửa hàng bách hóa đầu tiên ở Saigon thành lập ít nhất từ năm
1890 (theo niên giám Đông Dương 1890). Công ty “A. Courtenat et Cie” hay Bazar Saigonnais (niên giám 1911). Địa chỉ số 96 đến 106 rue Catinat, và số 95 Rue Catinat (magasins de nouveautés).
Hình 10: Bộ sưu tập Nadal – Cửa hàng bách hóa A.
Courtenat số 96-106 rue Catinat và 48 Amiral Dupré (bên phải hình). Trên
tòa nhà phía đường Dupré có đề chữ “A. Courtenat Cie, nouveauté”
(bazar). Công ty có văn phòng ở Lyon, buôn bán cửa hàng dầu thơm, nước
hoa, máy may, cung cấp dụng cụ điện và dịch vụ gắn điện… Ngoài ra công
ty Courtenat còn có cửa hàng ở Rue Amiral Dupré (nay là đường Đông Du)
số 19, 21, 23 etc. (Loueurs en garni), và số 48 Amiral Dupré (bazar de
nouveautés)
|
Ông Auguste Courtinat bắt đầu buôn bán ở Saigon it nhất là từ năm 1890 khi ông có tên trong niên giám Đông Dương (“Annuaire générale de l’Indochine”). Trong niên giám năm 1900 ông là hội viên Phòng thương mại Saigon (“Chambre commerce de Saigon”). Ông là người cùng thời với ông Paul Blanchy (thị trưởng Saigon 1895-1901), và ông Holbé (dược sĩ và nhà sưu tầm khảo cổ học).
Ngoài ra công ty “Courtenat et Cie” còn có đất canh tác ở Vị Thủy (Rạch Giá) (theo niên giám 1917).
Bên kia đường, số 89 Catinat là tiệm thuốc tây của
ông Molinier (1905, 1906, 1907-1911). Theo niên giám 1912, số 95 là trụ
sở của Hội Âm thanh Viễn Đông (Société phonique d’Extrême-Orient),
mà các năm trước đó là tiệm đổi tiền của người Ấn. Theo niên giám Đông
Dương từ 1906 đến 1910, thì ông F. Coudurier và Montégout là chủ nhà
sách và nhà in (imprimeurs libraires) ở số 119 đến 129 Catinat. Trước đó
vào năm 1905, thì cơ sở in và nhà sách này vẫn còn là của công ty của
ông Claude (“Claude et Cie.”). Năm 1906, nhà in “Coudurier et Montégout” in cuốn sách hướng dẫn về Saigon “Saïgon-Souvenir
“ của L. I. (8). Cuốn sách này rất có ích cho những ai muốn tìm hiểu về
sinh hoạt Saigon đầu thế kỷ 20. Sau đó, theo niên giám 1912, thì ông
Portail thay thế ông F. Coudurier và ông Montégout (“ancienne maison Coudurier et Montégout”).
Đến năm 1924 thì ông A. Portail dời đến số 171-173-175 rue Catinat. Đây
chính là tiền thân của nhà sách Xuân Thu ngày nay. Nhà in của ông
Portail đã in nhiều sách của các tác giả sống ở Saigon, như quyển tiểu
thuyết “L’Âme de Cochinchine” của Albert Viviès, và các Niên giám Đông Dương như niên giám các năm 1933, 1934.
Hình 11: Bộ sưu tập Nadal – Pharmacie Normale 123 rue Catinat (theo Guide pratiques, 1934).
Khoảng thập niên 1920 (theo sư hiện diện của các xe hơi trong hình).
Theo niên giám 1922, L. Sarreau (pharmacien) có tiệm thuốc ở số 119 rue
Catinat (ancienne maison Bérenguier, Molinier, de Mari). Hình chụp từ
trước tòa nhà Courtenay et Cie. hướng về quảng trường nhà hát thành phố.
Góc đường giữa hình gần 2 xe đậu song nhau là đường Carabelli (Nguyễn
Thiệp sau này). Xem bức hình này với hình chụp năm 1950 (hình 8) trong
đó có cửa tiệm A. Guyonnet ở số 121 rue Catinat, thì ta thấy tòa nhà “Pharmacie Normale” gần như không thay đổi (16).
|
Kế cửa hàng bách hóa “Courtenat et Cie.” là
tiệm đồng hồ, nữ trang, in khắc (horloger, bijoutier, graveur) của ông
Reynault Monnier ở số 108-110. Đi lên nữa về hướng Nhà hát thành phố, ta
sẽ gặp tiệm nón và giày (chapellerie et chaussures) của ông Canavaggio ở
số 118-120 Catinat. Chính nơi này đầu thập niên 1920 là nơi nhà nhiếp
ảnh Ả Rập Fernand Nadal có tiệm nhiếp ảnh và buôn bán dụng cụ nhiếp ảnh.
Ông Nadal đã để lại các hình ảnh và các bộ sưu tập quý giá về Saigon.
“Nam Kỳ nhơn vật diễn ca” (1906) đã tả cảnh khu giữa gần nhà hát thành phố đường Catinat nơi có nhiều cửa hàng người Pháp như sau:
..Những đồ Đại Pháp, Huê Kỳ
Ăng-lê, Nhựt Bổn món gì cũng sang
Hàng Tây các sấp nhẩy tràn
Xiêm, Miên, Bắc thảo đồ đoàn bố vi
Ăng-lê, Nhựt Bổn món gì cũng sang
Hàng Tây các sấp nhẩy tràn
Xiêm, Miên, Bắc thảo đồ đoàn bố vi
Số 128 là tiệm của bà Wirth ở (1907, 1908, 1909), một
nhà buôn bán tạp hóa. Tiệm tạp hóa của bà Wirth trước đó ở số 120
Catinat (1905, 1906). Ngoài bán hàng, bà Wirth còn sản xuất và thương
mại các ảnh “cartes postales” từ cuối thế kỷ 19 với các ảnh xưa
ở Saigon, quí hiếm trong giai đoạn đó cho đến đầu thế kỷ 20. Tiệm bà
Wirth cạnh ngay khách sạn và quán “Café de la Terrasse” nổi
tiếng của ông Bénard (1909, 1910, 1912) ở địa chỉ 130 Catinat, ngay góc
đường Catinat và quảng trường Francis Garnier. Sau này số 128 Catinat là
tiệm nữ trang “Bijouterie Parisienne” (1910, 1911) và năm 1912
do Guintoli và Bardotti làm sở hữu chủ, thì tiệm nữ trang dời tới địa
chỉ 130 Catinat, ngay ở địa điểm của quán “Café de la Terrasse”.
Bây giờ trước khi đi đến quảng trường Francis
Garnier, ta hãy nhìn lại đoạn đường vừa đi qua. Ta sẽ thấy cảnh quang
giống như hình dưới đây (hình 12)
Hình 12: Bộ sưu tập Nadal – Đường bên phải là
Carabelli chứ không phải Garabaldy như trong hình (Carabelli là tên của
ông thị trưởng người gốc Corse của thành phố Saigon vào cuối thế kỷ 19,
rue Carabelli là đường Nguyễn Thiệp ngày nay). Tòa nhà ngay góc đường,
141-143 Catinat và 2 Carabelli, là quán “Café de l’Union” của bà Aymés. Cũng tại quán Café này là trụ sở “Amicale Bretonne” (Hội ái hữu Bretonne). Sau này là tiệm café Brodard, Gloria Jeans (131 Đồng Khởi). Cạnh “Café de l’Union”,
số 131 đến 139 Catinat là tòa nhà của ông Lorin (1912), Flarin (1910),
O. Sammarcelli (1909), với hai tiệm đổi tiền của hai người Ấn (Theo niên
giám 1909, 1910, 1912, Va. Mougamadoucharif số 131 và
Mougamadoumeinedine số 139, hai người Ấn này có thể mướn hai địa chỉ
này). Trên đường Carabelli, thì số 1 Carabelli là hội “Amicale Corse”, nơi những người gốc Corse hội họp. Ảnh chụp về hướng bến Bạch Đằng. Để ý cạnh tòa nhà số 131-139 và 141-143, là tòa nhà “Pharmacie Normale”.
|
Từ “Café de l’Union” đi qua đường Carabelli là tiệm thuốc tây của ông Trombetta ở số 145-147. Đi lên chút nữa, 149-151, là tiệm tóc “Lavatory Saigonnais” của ông Hombert và khách sạn “Hôtel de France” như hình dưới đây (hình 13).
Hình 13: Hình này trong bộ album hình sưu tập của P. Dieulefils (hình chụp khoảng trước năm 1900). Bên trái hình là khách sạn “Grand Hôtel de France” (157 rue Catinat theo niên giám 1905-1906 do bà Dabène làm chủ, 159bis rue Catinat theo niên giám 1907-1911, 157bis 1er étage theo niên giám 1912). Tòa nhà bên phải là “Café de la Terrasse”
và khách sạn (ngày nay là khách sạn Caravelle). Hình chụp vào đầu thế
kỷ 20 (đầu thập niên 1900). Bức hình này tương tự như ảnh carte postale
trong collection Poujade de Ladeveze. Hình chụp về phía quảng trường Nhà
hát thành phố (“Place Francis Garnier” hay “Place du Théâtre”)
và nhà thờ Đức Bà. Trên đường chưa có xe hơi, như vậy là hình chụp
trước ít nhất khoảng năm 1910. Hình chụp cho thấy khách sạn “Grand Hôtel de France” chưa đổi đến góc đường ở số 159bis, như vậy hình chụp khoảng năm 1905-1906 hay trước đó.
|
Góc đường Catinat và đại lộ Bonnard, số 159bis cũng là địa chỉ của công ty “Compagnie Générale exportation”
(1907-1912), nơi nhà thương gia Edouard Tréfaut và kế toán Gaston
Phélyzon trú ngụ. Số 159 là tiệm đổi tiền của người Ấn, Condassamy
(1907-1911). kế bên ở số 157bis là tiệm tạp hóa và quần áo (epicerie et mercerie) của Hoa kiều có tên Soa-a-Pan, Sina et Cie (niên giám 1907-1912). Cùng địa chỉ 157bis
năm 1910 là tiệm mứt kẹo (confiseur) của ông Marius Rousseng và tiệm
đổi tiền của N. Labigang (niên giám 1910-1912). Đến năm 1922, theo niên
giám Đông Dương, thì 157bis vẫn là của N. Labigang (“Maison Rousseng, Pâtisseur – Confiseur – Chocolatier”).
Số 157 là tiệm đổi tiền của người Ấn (1907-1912), tòa nhà trước đó là khách sạn “Hôtel de France” (1905-1906). Sau này vào năm 1922, số 157 Catinat (theo niên giám 1922) là “Imprimerie Librairie de l’Union” của ông Nguyễn Văn Của mà ông G. Durrwell, một nhà nghiên cứu văn hóa, là người có trách nhiệm về luật pháp (fondé de pouvoir).
Theo Vương Hồng Sển (10) nhà in này trước đó là của ông Đinh Thái Sơn,
sau chuyển nhượng lại cho ông Nguyễn Văn Của vào năm 1918. Ông Durrwell
cũng là chủ tịch “Hội Nghiên cứu Đông Dương” (“Société des Etudes Indochinoises”). Nhà in của ông Của đã có in các tập san nghiên cứu của hội Nghiên cứu Đông Dương.
Ngoài ra nhà in “Imprimerie de l”Union” (157 Catinat) đã in các tác phẩm của nhà văn Hồ Biểu Chánh, Lề Hoàng Mưu và các quyển sách nghiên cứu có giá trị như “Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon”
năm 1917 về lịch sử thành phố Saigon, và nguồn gốc các tên đường dưới
sự hướng dẫn của thư ký tòa thị sảnh thành phố (9), quyển “Recueil de Morale Annamite par Yên Sa Diệp Văn Cương” năm 1917, quyển “Monographie de la province de Bac Lieu, par Louis Girerd” in năm 1925, quyển “La pagode des clochetons et la pagode Barbé, contribution à l’histoire Saigon-Cholon par P. Midan” in năm 1934 ở nhà in “Imprimerie de l’Union” (57 rue Lucien Mossard).
Bây giờ ta đứng ở tiệm “Café de la Terrasse”
mà trên lầu là khách sạn. Đây là giao điểm của đường Catinat với quảng
trường Francis Garnier (hay quảng trường nhà hát thành phố), “Café de la Terrasse”
ngày nay là khách sạn Caravelle (đặt theo tên một loại máy bay của hãng
hàng không Air France, hảng này có văn phòng ở tầng trệt của khách
sạn). Nhìn về phía tay phải của quảng trường, ta sẽ thấy nhà hát thành
phố, được xây vào cuối thế kỷ 19 và hoàn thành vào năm 1900, năm đầu của
thế kỷ 20.
Nguyễn Đức Hiệp
Chú thích:
(9) Nguyễn Liên Phong tác giả “Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca”
xuất bản tại Sài Gòn năm 1909, sách mô tả cuộc sống ở Lục tỉnh và các
nhân vật tiếng tăm (đa số thân Pháp) vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ
20. Sách có nhiều tư liệu có giá trị về sinh hoạt xã hội, phong tục tập
quán vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 ở khắp lục tỉnh Nam Kỳ.
(10) Theo Vương Hồng Sển thì tầng dưới cửa
tiệm là do em gái của Nguyễn An Khương (tức cô của Nguyễn An Ninh)
trông coi cửa hàng may mặc trong khi trên lầu là khách sạn có các phòng
cho mướn. Cũng tương tự như nhà in “Imprimerie de l’Union” của Nguyễn Văn Của, dưới làm nhà sách, trên lầu là cho người mướn ở.
(11) Xem phụ lục 4 về quảng cáo tiệm “Viên An” bán xe đạp có đề cập đến tiệm Mottet, trên báo “L’Ère Nouvelle”.
(12) Ông Louis Ogliastro, người Pháp gốc
Corse, là một trong những doanh nhân có thế lực ở Saigon trong những năm
đầu người Pháp hiện diện ở Nam Kỳ. Cũng như các doanh nhân người Hoa
như Vạn-Hòa (Ban-hap), Vương Thái (Wangtai), ông là hội viên của Phòng
Thương mại (Chambre de Commerce) Saigon như trong niên giám Nam Kỳ 1885,
1887 cho biết (18). Lúc đầu, ông có cơ sở thương mại trồng tiêu ở Hà
Tiên (1876). Ông là đại diện lãnh sự Ý ở Saigon từ năm 1887, giám đốc
công ty “Société Générale de Tramways à vapeur” và chủ công ty cầm đồ (mont-de-piété) “Ogliastro et Cie.”
ở số “50 Quai de l’Arroyo Chinois” (“quai de Belgique”, Bến Chương
Dương ngày nay). Sau này trong thập niên 1930, công ty cầm đồ “Ogliastro et Cie.” hợp tác với công ty cầm đồ của ông Hui Bon-Hoa (chú Hỏa) thành công ty “Ogliastro, Hui Bon Hoa et Cie.” có trụ sở ở số 66 rue d’Alsace Lorraine (Phó Đức Chính ngày nay).
(13) Ormay là tên một bác sĩ quân y người
Pháp sống ở Saigon vào cuối thế kỷ 19. Ông thường khuyên các bệnh nhân
nên theo sự chỉ dẫn điều trị của ông, nếu không (như ông nói đùa) là sẽ
bị chuyển xuống “Jardin d’Ormay” (tức là nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi, nay là công viên Lê Văn Tám) sớm.
(14) Địa chỉ các tờ báo ở Saigon thay đổi
rất nhiều tùy qua sự thay đổi sở hữu chủ của tờ báo. Theo “Guide
pratiques” (1934), địa chỉ các báo là: “L’Impartial” 64 rue Catinat, “La Dépêche” 25 rue Catinat, “L’Opinion” 146 rue Pellerin, “La Tribune indochinoise” 72 Lagrandière, “L’Alerte” 201 rue Fr. Louis, “La Presse indochinoise” 16 rue Colombert, “Le Populaire d’Indochine” 100 rue Lagrandière, “L’Annam” 73 rue Mac-Mahon.
Niên giám 1908 cho các thông tin và các địa chỉ báo chí ở Saigon: “Luc Tinh Tan Van, hebdomadiare 6 rue Krantz – Pierre Jeantet redacteur en chef”, “Nông Cổ Mín Đàm, hebdomadaire. G. Chieu redacteur en chef”, “Moniteur des provinces, hebdomadaire, langue Annamite, G. Garros directeur”, “L’Opinion, quotient independant 12e année (ancienne Semaine colonial), 13 et 15 rue Catinat”.
Sau này theo niên giám 1922, báo “l’Opinion” ở địa chỉ 146 rue Pellerin với “Lucien
Héloury propietaire-directeur politique, Pierre Jeantet redacteur en
chef, Albert Oudot administrateur, M. Agier, I. Isidore redacteurs”, “Courrier Saigonnais” 19e année (ancient “Courrier de Saigon”): “paraissant les lundi, mercredi, vendredi et samedi; J Ferriere Directeur, G. Moullet secretaire de redaction”.
Niên giám 1925: “L’Impartial” 25-27 Catinat (theo
niên giám 1909, 1910, 1911, 1912 thì số 17-25 Catinat là cơ sở buôn bán
của ông Lacaze, và theo niên giám 1909, 1910, 1911 thì số 29 Catinat là
tiệm in và đóng sách (imprimerie-reliure ) của Hoa kiều Ki-Cheong, và
niên giám 1912 thì nơi này trở thành cơ sở in ấn và đóng sách “Nam-Tai imprimerie-reliure”). Báo “L’Impartial” hiện diện bắt đầu từ năm 1917 cho đến năm 1934 (19). Tờ báo “L’Opinion” và “Cong Luan Bao”
ở số 146 rue Pellerin (nay là đường Pasteur) và số 71 Catinat (theo
niên giám 1909, 1910 thì số 65-77 Catinat là của ông Felix Delost, “maison Graf-Jacques et Cie”, một công ty nhập khẩu các đồ kim loại và có cơ xưởng cơ khí kim loại ở “quai de Khanh Hoi”, tức bến Vân Đồn ngày nay).
Nhà in người Việt đầu tiên là của ông Đinh Thái Sơn,
tự Phát Toán hay Nguyễn Văn Toán, ở số 55-57 rue d’Ormay. Niên giám Đông
Dương 1909 ghi “55-57. Nguyen-van-Toan, relieur” và niên giám năm 1910 ghi “55 et 57. Phat-Toan, imprimeur”.
Ông Đinh Thái Sơn là người công giáo, trước đó đã làm phụ in các sách
quốc ngữ tại nhà in giáo sứ Tân Định. Nhà in Phát Toán số 55-57 đường
Ormay in, bán sách và bán xe máy (xe đạp). Nhà in Phát Toán đã in quyển “Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca” của Nguyễn Liên Phong vào năm 1909.
(15) Amiral Dupré là đề đốc Pháp, làm
Thống đốc Nam Kỳ từ 1871-1874, kế nhiệm thống đốc Nam Kỳ Amiral de La
Grandière, sau hai thống đốc tạm thời là Amiral Ohier và Amiral
Cornulier-Lucinière. Thống đốc Dupré là người bắt đầu sự can thiệp của
Pháp vào Bắc kỳ, mà cao điểm là gởi Francis Garnier, một sĩ quan trẻ,
phiêu lưu mạo hiểm đánh thành Hà Nội. Đề đốc hải quân cuối cùng làm
thống đốc Nam Kỳ là Amiral Lafont (1877-1879). Sau đề đốc Lafont là
thống đốc dân sự đầu tiên, ông Le Myre de Villers, chính thức chấm dứt
thời đại ”amiraux gouverneurs” (đề đốc làm thống đốc) của Hải quân Pháp, chủ lực trong quân đoàn viễn chinh Pháp ở Việt Nam vào thế kỷ 19.
(16) Ngoài “Pharmacie Normale” còn có các tiệm thuốc tây “Pharmacie Solirène” 169 rue Catinat, “Pharmacie Centrale” 197 rue Catinat, “Pharmacie de l’Indochine” 134 rue d’Espagne. Theo niên giám Đông Dương 1908, 1909, 1910, “Pharmacie Holbé” (của ông Holbé mà sau này cũng là chủ “Pharmacie Solirène”) ở số 20-22 rue Catinat, tức là ở gần công ty “Mottet et Cie.” số 24-30 rue Catinat (bên kia đường Turc) và “Grande Pharmacie Indochinoise” của ông Trombetta ở số 143-147 rue Catinat.
Tham khảo
(1) Annuaire général de l’Indo-Chine française
[“puis” de l’Indochine], Publisher: F.-H. Schneider (Hanoi) 1906, 1907,
1908, 1909, 1910, 1911, 1912, 1914, 1922, 1925
(2) L. Lacroix-Sommé, R. J. Dickson et A. J.
Burtschy, Annuaire complet (européen et indigène) de toute l’Indochine,
commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières…:
Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934, A. Portail (Saigon), 1933
(3) Guide pratique, renseignements et adresses. Saïgon, J. Aspar (24 rue Catinat Saïgon), 1934.
(4) Huỳnh Ngọc Tráng, Trương Ngọc Tường, Phạm Thiếu
Hương, Nguyễn Đại Phúc, Đỗ Văn Anh, Saigon-Gia Định xưa, Tư liệu &
Hình Ảnh, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1996.
(5) Annuaire de Cochinchine Française pour l’ année 1887, Saigon, Imprimerie Coloniale 1887.
(6) L’Ère Nouvelle, 28/8/1926, 11/01/1927, 28/2/1928
(7) Arthur Delteil, Un an de séjour en Cochinchine: guide du voyageur à Saïgon, Challamel aîné (Paris), 1887.
(8) L. I., Saïgon-Souvenir, petit guide saigonnais à
l’usage des passagers des débutants dans la colonie, Coudurier et
Montégout (Saïgon), 1906.
(9) Notice historique, administrative et politique
sur la ville de Saïgon. Publiée par les soins du secrétaire général de
la mairie, Impr. de l’Union (Saïgon), 1917
(10) Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, 1992, Nxb Trẻ.
(11) Các hình ảnh từ belleindochine.free.fr, http://www.delcampe.net và http://www.flickr.com/photos/13476480@N07/sets/
(12) Nguyễn Liên Phong, Nam Kỳ nhơn vật diễn ca, quyển 1: www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa và quyển 2: http://www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa2
(13) Christopher Goscha, ‘The modern barbarian’: Nguyen Van Vinh and the complexity of colonial modernity in Vietnam, European J. of East Asian Studies, 2004, Vol. 3, no. 1, pp. 135-169.
(14) Joseph Ferrière, Georges Garros, Alfred Meynard,
Alfred Raquez, L’ Indo-Chine 1906, publíé sous les auspices du
Gouvernement général de l’Indo-Chine, 1906.
(15) Annuaire de l’Indo-Chine française, première partie: Cochinchine, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1897.
(16) Emile Jottrand, Saigon et Cholen, opinions et
souvenirs, La Vie coloniale: revue de la colonisation, du commerce et de
l’industrie, No. 78 1/3/1909, pp. 47-48, No. 79, 1/4/1909 pp. 65-66.
(17) Louise Bourbonnaud , Les Indes et l’Extrême-Orient, impressions de voyage d’une Parisienne, Paris, 1889, http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5684832m/f178.tableDesMatieres
(18) Annuaire de la Cochinchine pour l’année 1876
(1879, 1880, 1881, 1885, 1887), Imprimerie du Gouvernement (Coloniale),
Saigon, 1876 (1879, 1880, 1881, 1885, 1887).
(19) Xavier Guillaume, La Terre du Dragon Tome 1, Publibook, Paris, 2004.
(20) Antoine Brébion, Dictionnaire de
bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l’Indochine
française, publié après la mort de l’auteur par Antoine Cabaton, 1935.
(21) Vương Hồng Sển, Saigon Tạp Pín Lù, Nxb Văn Hóa-Thông Tin, 1997.
(22) Horace Fabiani, Souvenirs d’Algérie et d’Orient, E. Dentu (Paris), 1878.
(23) Christina Firpo, personal communication.
No comments:
Post a Comment