Showing posts with label huyền thoại tiếng Việt trong sáng và giàu đẹp. Show all posts
Showing posts with label huyền thoại tiếng Việt trong sáng và giàu đẹp. Show all posts

Monday 25 January 2016

Xây dựng hải quân nhân dân Việt Nam vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Phó Đô đốc NGUYỄN VĂN TÌNH (Nguyễn Văn Tình - Đảng Cộng Sản Việt Nam)

Xây dựng hải quân nhân dân Việt Nam vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Phó Đô đốc NGUYỄN VĂN TÌNH

Cập nhật lúc 14h20  -  Ngày 25/09/2015
share facebookgửi emailin bài này
Phó Đô đốc NGUYỄN VĂN TÌNH*

Việt Nam là một quốc gia biển, vì thế biển đảo là một phần của lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nền văn minh lúa nước cũng như những thành quả của cuộc khai thác, sử dụng tài nguyên biển, truyền thống đánh giặc ngoại xâm và những chiến công trên chiến trường sông biển đã tác động, ảnh hưởng sâu sắc trong việc hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh. Trong hệ thống quan điểm của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm khá nhiều đến biển đảo, cũng như xây dựng lực lượng chuyên trách bảo vệ biển đảo.
Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức rõ vai trò của biển Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Từ năm 1910, với tư cách là thầy giáo dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết), cùng với việc phổ biến những bài ca yêu nước cho học trò của mình, tranh thủ những giờ ngoại khóa, Nguyễn Tất Thành thường đưa học sinh đến thăm những bãi biển đẹp (như bãi biển Thương Chánh) với một gợi cảm sâu xa: biển của ta giàu đẹp, nhưng tại sao người dân Việt Nam vẫn chịu cảnh lầm than. Những gợi cảm ẩn chứa của Người đã làm thức dậy lòng yêu nước, tinh thần quật cường dân tộc trong lòng mỗi học trò của mình.
Khi được đọc, được nghe bằng tiếng Pháp những từ “Tự do, bình đẳng, bác ái”, Nguyễn Tất Thành nung nấu quyết tâm tìm mọi cách ra nước ngoài, sang Pháp và các nước phương Tây để xem ở đó có những gì ẩn chứa đằng sau những lời hoa mỹ ấy. Ra đi bằng cách nào, bằng con đường nào? Người đã suy nghĩ rất nhiều và cuối cùng quyết định ra nước ngoài bằng đường biển, trên một chiếc tàu buôn của Pháp. Quyết định ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc bằng đường biển là quyết định đúng đắn, bởi Người nhận thức sâu sắc rằng, đây là con đường nhanh nhất có thể đến với các nền văn minh thế giới, nhất là nước Pháp.
Thực dân Pháp bằng con đường biển xâm chiếm thuộc địa, nô dịch các nước, trong đó có Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm đường cứu nước thoát khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp cũng bằng con đường biển, nhưng với chiều ngược lại, để đi đến nơi xuất phát của những đội quân viễn chinh đi xâm lược, được che đậy bởi luận điệu lừa bịp “khai hoá văn minh” cho nước khác. Hơn 30 năm rời xa Tổ quốc, trên nhiều con tàu, bằng đường biển, Người đã đặt chân đến nhiều châu lục trên thế giới. Trong suốt chặng đường hành trình đó, Người đã rút ra nhiều kết luận quan trọng về “những gì ẩn chứa sau nền văn minh tư sản”, nhưng đồng thời cũng khẳng định biển và đại dương luôn gắn liền với sự phát triển của văn minh nhân loại.
Với lòng yêu nước thiết tha và đi đến nhiều nước bằng đường biển, Hồ Chí Minh từng bước hiểu nền văn minh của nhân loại, dần đến với chủ nghĩa Mác Lênin, đến với con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn. Khi về Trung Quốc, mở các lớp huấn luyện, đào tạo thế hệ những người cộng sản Việt Nam đầu tiên, Người cũng chỉ đạo đưa người sang Trung Quốc bằng cả đường bộ và đường biển. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, trên cương vị là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, với tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân có đầy đủ thành phần, lực lượng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kéo dài chín năm gian khổ, Người quan tâm chỉ đạo các lực lượng vũ trang tiến công địch trên chiến trường sông biển và mở các con đường vận tải chi viện cho các chiến trường bằng đường biển, lập nên những chiến công trên dòng sông Lô (1947), sau đó là chiến dịch Biên Giới (1950)... Trước đó, sự ra đời của các đội vận tải biển gắn liền với những chiến công trên chiến trường sông biển miền Trung và Nam Bộ là minh chứng cụ thể. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp giao nhiệm vụ cho một bộ phận cán bộ miền Nam trong đoàn quân Nam tiến chở vũ khí vào Bến Tre bằng thuyền. Chuyến đi đó thành công, là cơ sở quan trọng để hình thành chủ trương mở con đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển Đông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau này. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của biển thể hiện rõ nét nhất thông qua lời di huấn khi Người về thăm bộ đội Hải quân năm 1961. Nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ, Người nhấn mạnh: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết  giữ gìn lấy nó”1. Luận điểm này là sự khái quát rất ngắn gọn và dễ hiểu về lịch sử truyền thống, khái niệm mới về Tổ quốc, cũng như về tiềm năng của biển nước ta và trách nhiệm của mọi thế hệ trong việc khai thác, quản lý, bảo vệ biển. Khi đất nước đang chìm trong đêm dài nô lệ, chúng ta dựa vào địa hình hiểm trở của núi sông, dựa vào đêm để đánh giặc. Khi dân tộc được giải phóng, Tổ quốc theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là vùng biển rộng lớn với nhiều tiềm năng cần được khai thác để phục vụ cho công cuộc xây dựng xã hội mới. Đây cũng là cơ sở để Đảng ta định ra nhiều chủ trương, giải pháp phát triển kinh tế biển, gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh, nhất là hình thành Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.
Hai là, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam.
Với quan điểm đúng đắn về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam phải có đầy đủ quân chủng, binh chủng. Từ chủ trương đó, ngay sau khi miền Bắc được hòa bình (năm 1954), việc xây dựng lực lượng chuyên trách để bảo vệ vùng biển mới giải phóng từ Móng Cái đến vĩ tuyến 17 là vấn đề hết sức cần thiết. Đó cũng là cơ sở cho việc ra đời Cục Phòng thủ bờ biển - tiền thân của Hải quân nhân dân Việt Nam sau này.
Vừa là lãnh tụ thiên tài, lại là người thủy thủ đầu tiên, với nhiều kinh nghiệm khi còn là thủy thủ trên những chiếc tàu buôn có mặt hầu hết các đại dương, đối với Hải quân, Bác ân cần dạy bảo những điều cụ thể, từ xây dựng lực lượng, huấn luyện cách đánh, cũng như các thao tác của mỗi thành viên trên tàu.
Trong giai đoạn 10 năm xây dựng hải quân trong thời bình (1955-1964), Người đã dành thời gian đến thăm, động viên và giao nhiệm vụ nhằm xây dựng và phát triển lực lượng Hải quân nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng biển, hải đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc. Hiểu Hải quân là lực lượng non trẻ, lại đảm nhiệm trọng trách nặng nề, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, phải trên cơ sở học tập kinh nghiệm chiến đấu hiện đại, đồng thời kế thừa và vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự Việt Nam, truyền thống đánh giặc của tổ tiên, phải thể hiện tính đặc thù của Hải quân Việt Nam cả về tổ chức biên chế, vũ khí trang bị kỹ thuật cũng như cách đánh.
Lần về thăm bộ đội Hải quân đầu tiên (tháng 3-1959), khi đến thăm cán bộ, chiến sĩ biên đội những con tàu sắt đầu tiên do Trung Quốc viện trợ, Bác căn dặn: Các chú xây dựng Hải quân thì phải học tập các nước anh em là đúng. Nhưng không phải học như thế nào thì làm y nguyên như thế, mà phải vận dụng vào điều kiện nước ta sao cho thích hợp, kể cả việc dùng chữ. Cũng lần ấy, Bác đã gợi ý thay đổi cách gọi của một số ngành, vị trí lên tàu rất Việt Nam. Ví dụ như: “buồng hàng hải” thành “buồng lái”; “buồng thủy vũ” (tức là nơi để vũ khí dưới nước) thành “buồng vũ khí dưới nước”. Bác còn dạy cho chiến sĩ cách tết dây mồi sao cho đẹp, ném đi được xa. Đáng ghi nhớ nhất là lần Người từng đội mũ hải quân, tự tay cầm lái tàu “Hải Lâm” (tàu du lịch của Bác giao cho Hải quân quản lý) đưa Titốp anh hùng phi công vũ trụ Liên Xô thăm Vịnh Hạ Long là một minh chứng sống động về những suy nghĩ, trăn trở, sự gắn bó, ân cần của vị lãnh tụ với sự trưởng thành của Hải quân nhân dân Việt Nam. Trong điều kiện miền Bắc còn nhiều khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng Quân chủng Hải quân phù hợp với tình hình phát triển kinh tế và tiềm lực của đất nước, điều kiện môi trường, chiến trường sông biển Việt Nam. Người nói: Hải quân Việt Nam phải học tập kinh nghiệm chiến đấu hiện đại, nhưng không được quên truyền thống đánh giặc của tổ tiên. Phải xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam của dân tộc Việt Nam chứ không phải hải quân của thế giới... Người đồng thời chỉ rõ con đường xây dựng Hải quân Việt Nam phải là con đường nâng cao ý chí độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Muốn vậy, phải coi trọng công tác lãnh đạo, chỉ huy; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao chất lượng kỹ thuật tàu. Thường xuyên rèn luyện toàn diện, phấn đấu không ngừng tiến bộ về mọi mặt để xây dựng hải quân mau chóng trưởng thành. Đến thăm những con tàu, đơn vị đảo, Người nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ hải quân phải không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, lòng yêu quê hương, đất nước. Điều đặc biệt, Người chỉ rõ yêu quê hương, đất nước đối với cán bộ, chiến sĩ hải quân là phải bằng những điều cụ thể. Đó là phải yêu đảo như nhà mình, phải chịu khó cải tạo, xây dựng đảo thành những mảnh đất vừa giàu, vừa đẹp, vừa có lợi cho mình, vừa ích cho đất nước.
Ba là, cùng với tư tưởng về xây dựng lực lượng hải quân non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn theo dõi, chỉ đạo sát sao mỗi bước trưởng thành, lớn mạnh của Hải quân nhân dân Việt Nam.
Khi Cục phòng thủ bờ biển mới thành lập, hiểu rõ vị trí quan trọng của vùng biển miền Bắc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong mối quan hệ với cách mạng thế giới cũng như cách mạng miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm theo sát mỗi bước trưởng thành của Hải quân nhân dân Việt Nam. Khi các lực lượng của Quân chủng Hải quân bắt đầu bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh đuổi tàu khu trục Ma Đốc, bắn rơi máy bay, bắt giặc lái Mỹ đầu tiên, lập nên chiến thắng trận đầu ngày 2 và ngày 5-8-1964, tiếp đó là những trận chiến đấu không cân sức cùng quân và dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ, Quân chủng lập nhiều chiến công, bắn chìm và bắn bị thương hàng chục tàu thuyền, máy bay Mỹ. Bác đã gửi thư khen ngợi Hải quân đã anh dũng chiến đấu, tích cực diệt địch, bắn rơi máy bay, đánh đuổi tàu chiến Mỹ, đoàn kết lập công, bảo vệ vùng trời, vùng biển của Tổ quốc. Đó là lời khen, sự động viên kịp thời, tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ, chiến sĩ tiếp tục nêu cao ý chí quyết tâm dám đánh, quyết đánh và biết đánh thắng Mỹ. Với tầm nhìn chiến lược, với việc vận dụng kinh nghiệm truyền thống đánh giặc của dân tộc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương chi viện cho chiến trường miền Nam bằng hai con đường trên bộ và trên biển. Theo chủ trương đó, con đường biển huyền thoại được khai thông từ cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX. Theo dõi sự vận hành của tuyến đường biển, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chỉ đạo sát sao, từ việc xây dựng lực lượng, xác định tuyến đi, phương thức vận chuyển sao cho hiệu quả. Thực hiện sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Quân ủy Trung ương; với khẩu hiệu “Vì miền Nam ruột thịt”, cán bộ, chiến sĩ hải quân đã vượt qua hàng chục cơn bão lớn, hàng trăm cuộc vây ráp của kẻ thù, nghiên cứu áp dụng nhiều phương thức vận chuyển độc đáo. Trong 14 năm (1961-1975), bộ đội hải quân đã thực hiện vận chuyển hàng trăm ngàn tấn vũ khí, hàng hóa cho chiến trường miền Nam, chủ yếu là đến những nơi mà con đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn chưa vươn tới, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Nhằm cắt đứt mối liên hệ giữa miền Bắc xã hội chủ nghĩa với cách mạng thế giới, hậu phương lớn với tiền tuyến lớn miền Nam, đế quốc Mỹ đã dùng nhiều thủ đoạn nham hiểm bao vây, phong tỏa miền Bắc. Thực hiện quyết tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị chính trị đặc biệt tháng 8-1964, Hải quân nhân dân Việt Nam đã vượt qua mọi hiểm nguy, đóng vai trò là lực lượng nòng cốt, nghiên cứu sáng chế ra nhiều phương tiện, khí tài và tổ chức rà phá hàng ngàn quả thủy lôi, bom từ trường của đế quốc Mỹ, nhanh chóng khai thông các cửa sông, cửa biển, luồng lạch, bảo đảm giao thông thông suốt, bảo đảm sự chi viện kịp thời cho chiến trường miền Nam. Theo dõi hoạt động rà phá của hải quân, và khi biết được chúng ta đã tháo gỡ được quả thủy lôi đầu tiên tại Cửa Hội, Người vừa động viên, vừa nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ hải quân phải thật sự khôn khéo, tránh mọi tổn thất hy sinh.
Kế thừa truyền thống đánh giặc của tổ tiên, tìm cách đánh phù hợp với vũ khí, trang bị, kỹ thuật và con người Việt Nam, với phương châm: lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều; lấy vũ khí nhỏ tinh gọn đánh vũ khí hiện đại; bí mật, táo bạo, bất ngờ, áp sát, luồn sâu, đánh hiểm, đánh trúng, trong kháng chiến chống Mỹ, Hải quân nhân dân Việt Nam thành lập lực lượng đặc công nước. Qua 7 năm liên tục chiến đấu trên chiến trường Cửa Việt Đông Hà, đặc công nước đã tổ chức đánh hơn 300 trận, bắn chìm 339 tàu thuyền của Mỹ ngụy, phá hủy hàng ngàn tấn phương tiện chiến tranh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam. Hơn nửa thế kỷ xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, từ 141 cán bộ, chiến sĩ và 20 chiếc ca nô gỗ đầu tiên, đến nay Hải quân nhân dân Việt Nam đã phát triển trở thành một quân chủng tương đối hoàn chỉnh, cơ bản có đủ những binh chủng cần thiết (tàu mặt nước, tàu ngầm, tên lửa bờ biển, hải quân đánh bộ, đặc công nước, công binh). Các thế hệ cán bộ chiến sĩ quân chủng hải quân đã đúc kết nên truyền thống vẻ vang “Chiến đấu anh dũng, mưu trí sáng tạo, làm chủ vùng biển, quyết chiến quyết thắng”, xây dựng quân chủng thực sự là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc. Thành quả của 52 năm qua bắt nguồn từ nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quyết định là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ kính yêu.
Bốn là, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Biển nước ta từ xưa tới nay luôn đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kinh tế biển đã thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Biển còn là không gian chiến lược đặc biệt quan trọng đối với quốc phòng và an ninh quốc gia. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã cho chúng ta thấy biển luôn là một hướng tiến công quan trọng của hầu hết các cuộc xâm lược của kẻ thù bên ngoài, có khi là hướng tiến công chủ yếu.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định: phải đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội biển, đảo, gắn với bảo đảm quốc phòng an ninh và hợp tác quốc tế, phải xây dựng nước ta trở thành một quốc gia mạnh về phát triển kinh tế biển trong khu vực. Gần đây, Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã bàn và quyết định Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, nhằm làm cho nước ta giàu lên từ biển, mạnh lên từ biển. Những quan điểm, mục tiêu đó phản ánh trung thành mong ước của Bác Hồ kính yêu “Bờ biển ta dài, tươi đẹp. Ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Tiến ra khơi, khai thác nguồn lợi của biển làm giàu cho đất nước đang trở thành nhu cầu cấp bách trước mắt và lâu dài. Hướng ra biển để khai thác và làm chủ biển trở thành vấn đề sống còn của dân tộc chúng ta. Trong cuộc hành trình tiến ra biển và làm chủ biển, một trong những vấn đề hết sức quan trọng là phải xây dựng lực lượng bảo vệ biển thực sự vững mạnh, đặc biệt là hải quân. Cụ thể là:
Trước hết, phải xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao sức mạnh tổng hợp của quân chủng. Tiếp tục bồi dưỡng nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội cho cán bộ, chiến sĩ, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong bất kỳ tình huống nào, Hải quân nhân dân Việt Nam vẫn một lòng tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, tỉnh táo và kiên quyết đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Mỗi con tàu, hòn đảo, đài trạm sẽ trở thành những pháo đài thép bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Nhiệm vụ thường xuyên và có ý nghĩa rất quan trọng hiện nay là phải tiếp tục nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, nâng cao và tăng cường khả năng quản lý, bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo của Tổ quốc. Thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “học tập kinh nghiệm chiến đấu hiện đại, nhưng không quên truyền thống đánh giặc của tổ tiên”. Thực hiện huấn luyện bộ đội theo đúng phương châm: cơ bản, thiết thực, vững chắc, coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát với thực tế tình hình, các phương án chiến đấu của các lực lượng tàu, đảo, phòng thủ căn cứ và đối tượng tác chiến. Tổ chức tốt diễn tập hiệp đồng tác chiến giữa các lực lượng nhằm nâng cao trình độ cũng như bản lĩnh của cán bộ, chiến sĩ. Hiện nay, Nhà nước, Bộ Quốc phòng đang tạo ra những điều kiện tốt nhất để tăng cường huấn luyện cho bộ đội. Đây cũng là cách tốt nhất để chuẩn bị sẵn sàng đối phó hiệu quả với mọi cuộc chiến tranh xâm lược, kể cả chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Cùng với huấn luyện, phải từng bước nâng cao năng lực quản lý vùng biển, tăng cường lực lượng tuần tiễu, trinh sát, theo dõi, nắm chắc tình hình mặt biển, các hoạt động xâm phạm chủ quyền, gây rối an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên biển, đảo, nhất là các vùng trọng điểm. Chủ động phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang và các địa phương xử lý kịp thời, chính xác mọi tình huống theo đúng quan điểm đường lối của Đảng, luật pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Cùng với sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, Bộ Quốc phòng, phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường, tiếp tục hoàn thiện tổ chức biên chế, xây dựng lực lượng, nâng cao chất lượng các loại vũ khí trang bị kỹ thuật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Để đáp ứng nhiệm vụ làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, Hải quân nhân dân Việt Nam cần được kiện toàn tổ chức lực lượng theo hướng tinh gọn, mạnh, linh hoạt, cơ động nhanh, có sức chiến đấu cao, coi trọng tính hợp lý, đồng bộ giữa các lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên, lực lượng chiến đấu với cơ quan phục vụ. Xây dựng lực lượng phù hợp với điều kiện hiện nay, đồng thời từng bước đáp ứng cho chiến tranh trong tương lai nếu xảy ra. Ưu tiên xây dựng đối với các lực lượng làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, lực lượng bảo vệ mục tiêu trọng điểm trên biển, đảo và thềm lục địa. Bảo đảm cho các lực lượng trong quân chủng có thể tác chiến độc lập, liên tục dài ngày ở vùng biển gần cũng như vùng biển xa thắng lợi.
Là một quân chủng chiến đấu bằng lực lượng binh chủng hợp thành và phương tiện kỹ thuật hiện đại, cùng với đầu tư phù hợp để mua sắm trang bị, đóng mới tàu thuyền, xây dựng hạ tầng cơ sở, cần phát huy ý chí tự lực, tự cường, thực hiện tốt Cuộc vận động “Quản lý, khai thác vũ khí trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”. Duy trì tốt hoạt động của vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có, đồng thời nắm bắt các thành tựu khoa học công nghệ mới nhất để nghiên cứu cải tiến, sáng chế, góp phần đổi mới trang thiết bị, cơ sở hậu cần, kỹ thuật theo hướng ngày càng hiện đại, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhiệm vụ xây dựng và sẵn sàng chiến đấu của Quân chủng Hải quân.
Để đánh thắng kẻ thù tiến công xâm lược nước ta từ hướng biển phải phối hợp hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng, ngay trong thời bình phải chú trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân trên vùng biển đảo vững chắc, trong đó Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt. Đây là một trong những nội dung quan trọng trong quá trình triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám khoá IX, Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Để hoàn thành tốt, một mặt phải nâng cao chất lượng, hiệu quả phối hợp tuyên truyền về chủ quyền vùng biển, đảo của Tổ quốc trong các tầng lớp nhân dân, nhằm nâng cao nhận thức về chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trên các vùng biển, đảo và trách nhiệm công dân trong việc bảo vệ, khai thác tài nguyên vùng biển đảo nước ta. Xây dựng và nâng cao chất lượng huấn luyện, quản lý lực lượng tự vệ biển, lực lượng dự bị động viên có cơ cấu và số lượng hợp lý. Chủ động hiệp đồng chặt chẽ giữa hải quân với các lực lượng vũ trang, các lực lượng quản lý, bảo vệ và khai thác tài nguyên trên biển, đảo, trong đó chú trọng luyện tập các phương án sát với tình huống của chiến tranh. Quán triệt và để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Hải quân nhân dân Việt Nam phải tham gia tích cực vào quá trình phát triển kinh tế xã hội biển, đảo. Đặc biệt là phát huy năng lực hiện có, tận dụng tối đa thế mạnh của các doanh nghiệp vào những ngành kinh tế biển. Chủ động hướng dẫn, hỗ trợ ngư dân làm ăn, sinh sống trên các vùng biển xa, tổ chức hiệu quả việc cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai. Đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại quân sự, nhất là với hải quân các nước trong khu vực, hướng tới xây dựng vùng biển hòa bình và ổn định.
Để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Thực hiện tốt Cuộc vận động Xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII, Nghị quyết Trung ương 3 khoá X, đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Xây dựng mỗi chi bộ đảng, mỗi cán bộ, đảng viên trong quân chủng phải thực sự là những tấm gương tiêu biểu về phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị và năng lực hành động. Chú trọng xây dựng chi bộ tàu, đảo, nhà giàn đủ sức lãnh đạo đơn vị hoạt động độc lập, kể cả tác chiến xảy ra trên biển, đảo, hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Nguồn: Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự: Chủ tịch Hồ Chủ Minh với sự nghiệp xây dựng quân đội,
 Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007, tr.591-605.
 (http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/tu-lieu-ve-dang/sach-chinh-tri/books-1924201511165546/index-092420151112164627.html)
–––––––––––––––
* Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Chính ủy Quân chủng Hải quân.
1. Dẫn theo: Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.80

Monday 27 October 2014

Lê Mạnh Chiến: Hai quyển tự điển rất có hại cho tiếng Việt (Lê Mạnh Chiến)

|

Lê Mạnh Chiến: Hai quyển tự điển rất có hại cho tiếng Việt

I. Vài lời của tác giả nhân việc đăng bài lên mạng Internet
Bàì viết về hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt mà quý vị độc giả sẽ đọc dưới đây được viết theo lời nhắn nhủ từ một biên tập viên của báo Người Đại biểu Nhân dân (nay là báo Đại biểu Nhân dân). Trước đó, tác giả đã viết bài 170 sai lầm trong một cuốn từ điển và đã gửi cho tạp chí Thế Giới Mới để đăng nhiều kỳ, nhưng chỉ mới đăng được 6 kỳ (từ số 582 ra ngày 26/4/2004 đến số 587 ra ngày 31/5/2004) với 67 ví dụ thì bị dừng lại. Tác giả đã đến Văn phòng đại diện của tạp chí Thế Giới Mới ở Hà Nội để tìm hiểu sự tình và được một biên tập viên ở đó cho biết, đại ý như sau: “Bài này được độc giả hoan nghênh nhiệt liệt vì đã vạch rõ những cái sai nghiêm trọng trong một cuốn từ điển từng được nhiều người “có tiếng” ca ngợi. Tuy nhiên, dẫu chưa nêu rõ ai là tác giả của quyển từ điển có hại kia nhưng nhiều độc giả đã phát hiện ra GS Nguyễn Lân, mà như ông đã biết, GS Nguyễn Lân được coi là một ngôi sao sáng của ngành giáo dục Việt Nam, còn tạp chí Thế Giới Mới là cơ quan thuộc Bộ Giáo dục, cho nên, nếu “vạch áo cho người xem lưng” một cách kỹ quá thì cũng có phần “bất tiện”. Nghe vậy, tác giả rất thông cảm và biết ơn tạp chí Thế Giới Mới.
Giáo sư Nguyễn Lân 1906-2003
Giáo sư Nguyễn Lân 1906-2003
Dường như hiểu được khó khăn của tác giả trong việc công bố một bài mà một biên tập viên đáng kính của báo Đại biểu Nhân dân cho là “rất cần phổ biến rộng rãi”, người này đã nhắn tin qua nhà văn Vương Trí Nhàn và nhắc rằng do chức năng và khuôn khổ của báo Đại biểu Nhân dân, nên chỉ có thể đăng được bài ngắn mà thôi. Thế là tác giả phải gói ghém lại trong khoảng 4000 chữ, với 20 ví dụ về những lầm lỗi của GS Nguyễn Lân. Vì phải đụng chạm với một ngôi sao trong làng từ điển tiếng Việt (được trao tặng Giải thưởng nhà nước năm 2001 về khoa học và công nghệ cho “Cụm công trình về giáo dục học từ điển tiếng Việt”) nên tác giả phải “dè dặt”, bèn đặt tiêu đề là “Những quyển từ điển có rất nhiều sai lầm”. Trong khi đó, tác giả cũng gửi bài gần giống bài này (lấy những ví dụ khác) cho tạp chí Nghiên cứu và Phát triển với tiêu đề Hai quyển từ điển có hại cho tiếng Việt thì được BBT tạp chí này thêm một chữ rất (trở thành Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt) và đăng ngay. Tạp chí Văn hóa Nghệ An số 56 (tháng 01/2005) cũng đăng bài này với tiêu đề ấy. Tác giả rất cảm ơn và thấy đúng là phải đặt tiêu đề như thế. Bởi vậy, ở đây, tác giả xin lấy tiêu đề như tạp chí Nghiên cứu và Phát triển đã sửa chữa giùm.
Cũng xin nói thêm về “số phận” của bài này sau khi được đăng trong hai số báo Người Đại biểu Nhân dân (số 67 và 68, ngày 27 và 29 tháng 4 năm 2005).
Sau khi bài này được đăng trên báo Người Đại biểu Nhân dân chừng hai tháng, nhân khi tác giả đến tòa soạn để nộp một bài khác (hình như là bài Chớ nên bịa đặt cứ liệu lịch sử nói về việc bịa đặt cứ liệu lịch sử trong sách Lịch sử Hà Tĩnh (nói rằng sách Đường thư đã ghi chép việc “Mai Thúc Loan từng làm phu gánh quả vải tươi sang kinh đô Trường An”, mà tất cả các nhà sử học hàng đầu, được gọi là “tứ trụ” của giới sử học đều phạm phải) nên đã hỏi thăm về phản ứng đối với bài Những quyển từ điển… Tác giả được biết rằng tình hình ở đây tuy giống như ở tạp chí Thế Giới Mới (bài báo được hoan nghênh) nhưng có hơi khác một chút xíu. Số là ngay trong ngày 27/4/2005, nghĩa là khi bài báo mới in được một nửa, GS Nguyễn Lân Dũng đã gọi điện thoại đến tòa soạn (vì ông là đại biểu Quốc hội, được phát báo đến tận tay), cực lực phản đối việc đăng bài này, với lý do đại để nói rằng ”GS Nguyễn Lân là một nhân vật nổi tiếng đã “thành danh”, sao dám làm mất uy tín của ông? Ban biên tập đã trả lời đại ý là: “Vì thấy bài này viết rất chặt chẽ, có chứng cứ đầy đủ, rất có trách nhiệm và rất bổ ích nên chúng tôi đăng. Còn nếu đồng chí thấy có gì sai thì cứ viết bài phê phán, chúng tôi sẽ đăng ngay”. Từ đó đến nay đã gần 8 năm trôi qua mà vẫn không thấy GS Nguyễn Lân Dũng hoặc bất cứ ai vạch được điều gì sai trái của tác giả. Điều đó chứng tỏ rằng những sai lầm nghiêm trọng của GS Nguyễn Lân mà tác giả Lê Mạnh Chiến đã phê phán là hoàn toàn chính xác, không thể bác bỏ. Sự im lặng của GS Nguyễn Lân Dũng và của những người mê tín GS Nguyễn Lân là bằng chứng hùng hồn nhất để khẳng định điều đó.
Mặc dầu những người muốn phản đối bài báo này đều đành phải bó tay nhưng tác giả vẫn cảm thấy rất đáng buồn, bởi vì, tuy người ta vẫn luôn mồm nói câu “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” nhưng báo Giáo dục và thời đại thì từ chối, không đăng bài nói về mối hại đối với tiếng Việt, Bộ Giáo dục thì coi như không có vấn đề gì xảy ra. Đặc biệt, GS Nguyễn Lân Dũng, một đại biểu Quốc hội được tiếng là thẳng thắn, cương trực, vì dân, v.v. thì lại cực lực phản đối bài báo rất cần cho dân, sau đó, liên tục cho tái bản hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt mà vẫn không có ai lên tiếng. GS tiêu biểu, được coi là chuyên gia hàng đầu về tiếng Việt, ngôi sao của ngành giáo dục thì như vậy, GS Đại biểu Quốc hội thì như vậy, Bộ Giáo dục thì như vậy, các trường đại học và cả một đội ngũ giáo sư đông đảo… tất cả đều thờ ơ với số phận của tiếng Việt như vậy, thử hỏi, làm sao mà nền giáo dục không “xuống cấp”, văn hóa không lụn bại, đạo đức không suy đồi? Tác giả tuy có quyền tự hào nhưng vẫn mang trong mình một nỗi đau khôn nguôi.
Bao giờ nền giáo dục nước ta mới hồi sinh?
Bài này được viết đã lâu nhưng chưa hiện diện trên mạng Intternet. Nhận thấy nó còn giữ nguyên ý nghĩa thời sự, tác giả mong được các blogger cho phổ biến tới đông đảo độc giả. Sau đây là bài mà báo Người Đại biểu Nhân dân đã đăng ở số 67 và 68, ngày 27 và 29 tháng 4 năm 2005.
II. Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt
Mùa thu năm 2003, thầy giáo về hưu H.H.Phúc ở Hà Tĩnh có đưa cho chúng tôi xem một quyển từ điển giải nghĩa các từ Hán-Việt dày hơn 860 trang, mà theo thầy thì nó rất tồi tệ, rất có hại cho người sử dụng vì nó có quá nhiều sai lầm nghiêm trọng. Thầy đề nghị chúng tôi đọc và phân tích, phê phán những chỗ sai để cảnh báo trước toàn xã hội về tai hại của nó. Chúng tôi liền mở ra xem, lướt qua vài chục tờ ở vần A thì giật mình khi thấy ở từ ác ôn, soạn giả giải thích rằng ôn nghĩa là bệnh dịch. Thực ra, vốn là 惡 棍 ác côn, do sự biến âm chút ít mà thành ra ác ôn. Chữ côn có nghĩa gốc là cái gậy và nghĩa mở rộng là kẻ hư hỏng; nó có mặt trong các từ du côn, côn đồ. Do đó, ác ôn là kẻ hư hỏng, gây nhiều tội ác. Lướt qua vài trang, gặp từ anh hùng thì thấy giải thích rằng hùng nghĩa là loài thú khỏe nhất. Tuy từ điển này không ghi chữ Hán, nhưng qua cách giải thích như vậy thì ta biết rằng soạn giả nghĩ đến chữ hùng (熊) nghĩa là con gấu. Nhưng, trong từ anh hùng 英雄 thì hùng (雄) nghĩa là người có tài trí kiệt xuất. Cách giải thích các từ tố ôn và hùng như thế chứng tỏ rằng soạn giả không hề biết chữ Hán (mặc dầu có thể đã từng đi học chữ Hán, nhưng “chữ của thầy đã trả hết cho thầy” rồi), mà chỉ đem lời đoán mò để giảng giải các từ ngữ Hán-Việt, may ra thì đúng. Lật vội mấy trang nữa, liếc vào từ đại sứ 大使, một từ rất quen thuộc, ta lại phải kinh ngạc vì ở từ này, chữ đại nghĩa là lớn (大) thì soạn giả lại giảng rằng đại nghĩa là thay thế (代).
Chỉ với ba ví dụ vừa nêu cũng đủ để kết luận ngay rằng quyển từ điển này không đáng tin cậy và rất có hại cho người sử dụng nó. Lúc bấy giờ, chúng tôi chưa biết ai là người biên soạn, vì quyển sách bị xé mất mấy trang đầu và vài trang cuối. Thầy H.H. Phúc bảo tôi: “Rồi ta sẽ biết tên sách và tên tác giả thôi, nhưng trước mắt, ông nên chiu khó đọc và phát hiện thêm nhều sai lầm trong đó để cảnh báo trước công luận về mối nguy hại do nó gây ra”. Tôi đồng ý với thầy vì thấy điều đó là cần thiết, hơn nữa, tôi cũng có chút tò mò, muốn biết soạn giả này liều lĩnh và vô trách nhiệm đến mức nào. Thế là tôi phải đọc tương đối kỹ hơn, và bước đầu đã phát hiện được khoảng 170 sai lầm trong cuốn từ điển này.
Tạp chí Thế Giới Mới từ số 582 đến số 587 (từ ngày 26.4. đến 31.5.2004 ) đã công bố bài 170 sai lầm trong một cuốn từ điển nhưng độc giả chưa biết tên cuốn từ điển đó. Bài ấy đã được đăng liên tiếp trong 6 kỳ mà chỉ mới nêu được 68 từ phạm sai lầm. Nhưng, như thế cũng đủ cho thấy nhiều sai lầm rất đáng sợ mà soạn giả đã phạm phải.
hinh-bia-tu-dien-tu-va-ngu-VN
Sau đó, được một số độc giả mách bảo, chúng tôi đã xác định được rằng quyển sách chứa hàng đống sai lầm kia chính là Từ điển từ và ngữ Hán Việt của GS Nguyễn Lân (bản mà chúng tôi đã đọc là của Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, HN, 2002). Một số độc giả còn cho biết thêm rằng những sai lầm mà chúng tôi đã nêu đều có mặt đầy đủ trong quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000), mà người biên soạn cũng chính là GS Nguyễn Lân. Chúng tôi đã đối chiếu hai quyển với nhau thì thấy rằng Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2112 trang) chứa gần như trọn vẹn cả Từ điển từ và ngữ Hán Việt (867 trang), cho nên, những từ bị giảng sai trong Từ điển từ và ngữ Hán Việt thì đều có mặt trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam. Ngoài ra, chúng tôi cũng được đọc bài Đọc lướt Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, trong quyển Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm của tác giả Huệ Thiên (do Nhà xuất bản Trẻ phát hành vào quý 3 năm 2004; bài này được in lại từ tạp chí Văn ở TP Hồ Chí Minh , số 6, tháng 9 và số 8, tháng 11 năm 2000), trong đó, tác giả chỉ mới ‘’đọc lướt’’ các vần A, B, C (chiếm 1/5 quyển sách) mà đã vạch ra được 117 điều “chưa ổn’’. Những ý kiến phê bình của ông Huệ Thiên rất xác đáng. Tuy nhiên, vì chỉ mới “đọc lướt’’ cho nên trong phần mà ông đã đọc qua vẫn còn những sai lầm nghiêm trọng chưa bị phát hiện. Từ đó, chúng ta biết rằng ngoài những sai lầm giống như ở Từ điển từ và ngữ Hán Việt (mà chúng tôi đã tìm thấy hơn 200 trường hợp), Từ điển từ và ngữ Việt Nam còn chứa vô số sai lầm khác nữa, rất có hại cho việc học tập và giảng dạy tiếng Việt.

hinh-bia-tu-dien-tu-va-ngu-han-vn
Như vậy, riêng GS Nguyễn Lân đã biên soạn ra hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt. Điều này làm cho nhiều người đau lòng, nhưng đó là sự thực không thể chối cãi. Với số lượng sai lầm nhiều đến mức ấy thì phải in thành sách hoặc đăng nhiều kỳ liên tiếp mới có thể tải hết được. Trong phạm vi một bài viết cho một lần đăng báo, chúng tôi chỉ có thể nêu vài chục ví dụ về những sai lầm nằm trong cả hai quyển từ điển kể trên để độc giả chứng giám.

1. ẩn lậu 隱漏
Theo soạn giả thì ẩn = giấu kỹ, lánh đi, ngầm; lậu = rỉ ra ngoài, và ẩn lậu nghĩa là giấu giếm, không thẳng thắn nói ra. Quả thật, trong chữ Hán, chữ lậu 漏 này có nghĩa là rỉ ra ngoài. Nhưng như thế thì các từ tố ẩn và lậu có vẻ như trái nghĩa với nhau, bởi vậy, giải nghĩa như vậy là không thoả đáng, mà có thể nói là sai. Chữ lậu còn có vài nghĩa khác nữa, mà trong trường hợp này nó có nghĩa là lọt, là thoát (lậu võng nghĩa là lọt lưới), cũng là trốn tránh mà thôi. Vậy ta có thể nói rắng, ẩn lậu nghĩa là giấu giếm, là lẩn tránh. Soạn giả định nghĩa rằng ẩn lậu nghĩa là giấu giếm, không thẳng thắn nói ra là để “khắc phục” điều mâu thuẫn mà ông cũng nhận thấy như chúng tôi chăng, nhưng, không thẳng thắn nói ra nghĩa là nói một cách ấp úng vì sợ sệt, hoặc là ở trong tình thế không thể giấu giếm được nên đánh phải nói ra chứ đâu có phải là ẩn lậu.
2. bàn hoàn 盤桓
Từ bàn hoàn có hai nghĩa: a) quanh quẩn không dứt ra được; b) quấn quýt với nhau. Giải thích như thế cũng tạm được. Về các từ tố, soạn giả cho rằng bàn là quanh co, hoàn là uốn éo. Thực ra, bàn 盤 nghĩa là vòng vèo, còn chữ hoàn 桓 này có các nghĩa như sau: a) cột gỗ dựng bên cạnh các dịch trạm (tức là trạm chuyển công văn) hoặc các công thự để quy định vị trí đứng đợi. Như vậy, từ bàn hoàn 盤桓 có nghĩa ban đầu là đi lại quanh quẩn cái cột mốc để mong ngóng. Về sau, nó có nghĩa mở rộng là bồi hồi, vương vấn, và quấn quýt.
3. bắc thần 北辰
Bắc thần nghĩa là sao bắc cực. Chữ thần 辰 này có nhiều nghĩa, trong đó, có nghĩa là thiên thể, là tinh tú, là ngày tháng, là đế vương (khác hẳn với chữ thần 臣 nghĩa là kẻ bề tôi hoặc chữ thần 神 trong từ tinh thần 精神). Trong trường hợp này, thần 辰 có nghĩa là ngôi sao. Nó còn có âm là thìn để chỉ ngôi thứ 5 trong 12 ngôi địa chi (tí, sửu, dần, mão, thìn, tị…). Soạn giả đưa ra một định nghĩa rất dài dòng: bắc thần là ngôi sao sáng hình như đứng yên một chỗ trên bầu trời và giúp ta xác định hướng chính bắc. Ðịnh nghĩa này không sai nhưng quá rườm rà. Ðiều không thể tha thứ được là ông đã “phán” bừa rằng thần nghĩa là tinh thần.
4. bị cáo 被告
Bị cáo là người bị tố cáo và bị toà án đem ra xét xử. Soạn giả đã hiểu đúng nghĩa của từ này, nhưng thật đáng ngạc nhiên khi thấy ông giải thích rằng cáo nghĩa là báo cho biết! Nếu đúng như vậy thì từ bị cáo chẳng liên quan gì với việc báo cho biết. Ðành rằng chữ cáo 告 cũng có nghĩa là báo cho biết, nhưng nó còn có một số nghĩa khác nữa, mà cụ thể ở đây làbuộc tội, vạch tội.
5. bức xạ 輻射
Theo soạn giả, bức nghĩa là bắt buộc, xạ nghĩa là bắn; bức xạ là sự phát và truyền năng lượng dưới dạng sóng và dạng hạt. Có thể chấp nhận định nghĩa này về bức xạ. Nhưng soạn giả đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi ông đoán liều rằng bức nghĩa là bắt buộc. Chữ bức 輻 ở đây (khác hẳn chữ bức 逼 là bắt buộc) có nghĩa gốc là nan hoa ở bánh xe, và có nghĩa mở rộng là toả ra khắp mọi phía xung quanh.
6. cử tọa 擧座
Về từ tố cử, soạn giả nêu ra các nghĩa: cất lên, đưa lên, nổi dậy, thi đỗ; còn tọa thì có nghĩa là ngồi. Thực ra, chữ tọa 座 ở đây có nghĩa là chỗ ngồi (khác với chữ tọa 坐 nghĩa là ngồi). Về chữ cử, ngoài vài nghĩa mà soạn giả đã nêu, còn có nhiều nghĩa khác, trong đó có nghĩa là tất cả., và đó chính là nghĩa của nó trong từ cử tọa. Vì thế, cử tọa nghĩa là tất cả những người ngồi dự một cuộc họp
7. dạ hợp 夜合
Theo lời soạn giả thì dạ = ban đêm; hợp = thích hợp; và dạ hợp là một loài cây cùng họ với ngọc lan, hoa trắng rất thơm, nở về ban đêm. Cách cắt nghĩa từ tố hợp như trên đã khiến ông tin rằng dạ hợp nghĩa là thích hợp với ban đêm nên loài hoa này ắt phải nở về đêm! Ðó là một điều sai nghiêm trọng. Ðúng là chữ hợp 合 có một nghĩa là thích hợp, là phù hợp, nhưng nó còn có nhiều nghĩa khác nữa. Trước hết, nghĩa ban đầu của nó là khép lại, mà đó cũng chính là nghĩa cụ thể trong từ dạ hợp 夜合. Từ điển Từ nguyên nói về cây dạ hợp như sau: “mộc bản, diệp trường, hoa thanh bạch sắc, hiểu khai dạ hợp, cố danh”. Nghĩa là: thân gỗ, lá dài, hoa màu trắng xanh, trời sáng thì nở, ban đêm thì cụp lại, do đó mà có tên ấy. Như vậy, vào ban đêm, hoa dạ hợp không thể nở được, dẫu đã nở rồi cũng phải cụp lại.
8. Ðịa Trung Hải 地中海
Ðịa là đất, là lục địa; trung là ở trong, ở giữa; hải là biển. Ðịa Trung Hải là biển ở trong lục địa. Tuy nhiên, từ này đã trở thành tên riêng để chỉ một biển cụ thể, có diện tích 25 triệu km2, nằm ở phía nam Châu Âu, phía bắc Châu Phi, phía tây Châu Á, thông với Ðại Tây Dương qua eo biển Gibraltar và thông với Biển Ðỏ qua kênh đào Suez. Ðiều đáng ngạc nhiên là sau khi giải thích rằng Ðịa Trung Hải là biển ở giữa lục địa, soạn giả đưa ra một câu ví dụ: Biển Caxpiên của Liên xô là một địa trung hải. Như vậy, ông đã không định nghĩa được từ Ðịa Trung Hải, lại còn dùng từ này như một danh từ chung, với nghĩa là cái hồ lớn. Hơn nữa, biển Caxpiên còn có 43.200 km2 thuộc chủ quyền của Iran chứ không hoàn toàn thuộc Liên Xô trước đây.
9. đồng lõa 同伙
Có lẽ ai cũng biết rằng từ đồng lõa có hai nghĩa: 1) người trong cùng một nhóm để làm một việc bất chính (danh từ), và 2) cùng tham gia một nhóm làm việc bất chính (động từ). Soạn giả dạy rằng lõa là cái bọc. Thực ra, lõa là âm đọc chệch từ chữ hỏa 火 nghĩa là lửa, là bếp. Theo binh chế thời xưa, mười người lính thì cùng nấu một bếp, tạo thành một hỏa, như một tiểu đội vậy. Đồng hỏa 同伙 (chữ hỏa 火 ở đây thường được viết là 伙 để chỉ người) nghĩa là người trong cùng một bếp ăn, mở rộng ra là bọn người cùng một nhóm “làm ăn với nhau” (thường là bất chính.)
10. giám quốc 監國
Soạn giả cho biết: giám nghĩa là trông coi, quốc là nước. Đúng. Nhưng ông định nghĩa rằng giám quốc là người đứng đầu một nước cộng hoà tư sản thì sai to. Càng sai nữa khi ông viết rằng Ngày nay người ta dùng từ “tổng thống” để thay từ “giám quốc”. Thực ra, giám quốc là người cầm quyền tạm thời khi vua vắng mặt hoặc khi vua còn nhỏ. Ví dụ, năm 1908, Phổ Nghi lên ngôi khi mới hai tuổi, đình thần nhà Thanh đã cử cha của ông ta là Tải Thuần làm giám quốc. Cuối năm 1787, tướng của Nguyễn Huệ là Vũ Văn Nhậm ra Bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh rồi lập Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận (chú của Lê Chiêu Thống ) làm giám quốc vì Lê Chiêu Thống đã chạy khỏi kinh thành để cầu cứu quân Thanh. Khi Nguyễn Huệ ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm, ông vẫn để Lê Duy Cận làm giám quốc.
11. kinh lạc經絡
Soạn giả cho biết rằng chữ kinh 經 có các nghĩa: sửa trị, đường dọc, sách vở, từng trải, thường. (Chúng ta hiểu rằng trong từ kinh lạc, thì kinh có nghĩa là đường dọc). Còn chữ lạc thì ông cho rằng đó là dây thần kinh, và kinh lạc là hệ thống dây thần kinh nối liền các huyệt. Nhưng, theo từ điển Từ Hải thì kinh lạc là mạng lưới các đường vận chuyển khí huyết (theo quan niện của Đông y, gần có nghĩa như năng lượng) trong cơ thể. Kinh 經là những đường chính chạy theo chiều dọc của cơ thể; lạc絡 là những đường nối ngang giữa các đường dọc ấy; các huyệt châm cứu đều nằm trên mạng lưới kinh lạc. Hệ kinh lạc khác hẳn hệ thần kinh, và các đường kinh lạc không trùng với các dây thần kinh.
12. linh sàng 靈床
Linh là thiêng liêng, là liên quan đến người chết; sàng là cái giường. Các từ tố này đã được soạn giả giải nghĩa đúng. Nhưng ông cho rằng linh sàng là giường thờ người mới chết chưa đem chôn. Nếu như vậy thì phải chăng Nguyễn Du đã dùng sai từ này ở hai câu thơ trong Truyện Kiều:
Sang nhà cha, tới trung đường,/ Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
Thật ra, từ linh sàng có hai nghĩa: 1) giường đặt thi thể người chết khi đám tang; 2) cái bàn nhỏ đặt trước bàn thờ, làm “chỗ nghỉ” cho linh hồn người chết khi chưa hết tang. Đó chính là cái “giường thờ”, rồi từ đó, dân ta cũng gọi cái bàn thờ là “giường thờ” khiến nhiều người, kể cả những người biên soạn từ điển tiếng Việt đã định nghĩa: “giường thờ” là bàn thờ tổ tiên, cao và rộng! (Hoàng Phê). Trong hai câu thơ trên đây, linh sàng mang nghĩa thứ hai.
13. lộng hành 弄行, lộng quyền 弄權
Lộng hành nghĩa là hành động một cách coi thường mọi người. Lộng quyền nghĩa là đem quyền hành ra làm trò đùa, muốn làm gì thì làm, chẳng kể gì đến phép tắc luật lệ. Chữ lộng 弄 có một số nghĩa thông thường là: chơi đùa; đem sự vật khác hoặc sự việc khác ra làm trò đùa; khinh nhờn, coi thường. Với nghĩa như thế, người ta còn có từ lộng nguyệt, nghĩa là chơi đùa với trăng, tức là vui chơi dưới ánh trăng, lộng ngôn là nói năng bừa bãi, thích nói gì thì cứ nói, và lộng bút nghĩa là viết lách vô trách nhiệm, không biết cũng viết bừa, coi thường mọi người. Tiếc thay, soạn giả chỉ nắm được nghĩa sơ sài của các từ lộng hành và lộng quyền rồi suy ra rằng lộng nghĩa là lấn át. Chưa kể đến hàng trăm trường hợp giảng giải liều lĩnh khác, chỉ riêng trường hợp này cũng đã đủ cho phép mọi người coi ông là một kẻ lộng bút.
14. lưu chiểu 留照
Soạn giả giảng rằng lưu = giữ lại; chiểu = văn bản; và lưu chiểu là tác phẩm văn nghệ nộp cho cơ quan lưu trữ của nhà nước để làm tài sản chung. Nhưng, chẳng có chữ chiểu nào có nghĩa là văn bản cả. Hơn nữa, chúng ta biết rằng chữ chiểu ở đây chính là biến âm của chữ chiếu 照, tức là đối chiếu, là so sánh để phát hiện thật hay giả hoặc đúng hay sai. Lưu chiểu là giữ lại bản mẫu của văn bản đã lưu hành để so sánh, kiểm tra khi cần thiết. Mục đích chính của việc lưu chiểu là như thế chứ không phải để làm tài sản chung. Soạn giả đã không hiểu chữ chiểu và cũng không hiểu gì về từ lưu chiểu.
14. lỵ sở治所
Lỵ sở là trung tâm hành chính của một địa phương. Nhưng thật là sai lầm khi soạn giả đoán rằng lỵ là đến nơi. (Chữ này có mặt trong từ lỵ nhậm 蒞任, nghĩa là đến nơi nhậm chức). Ông không biết rằng lỵ sở vốn là trị sở治所 nhưng bị đọc chệch đi và đã trở thành thói quen. Lỵ ở đây chính là trị 治, nghĩa là cai quản, điều hành công việc, và cũng dùng để gọi tắt từ trị sở.
15. thôi thúc 催促
Từ này tưởng là quá đơn giản, thế mà soạn giả đã giảng sai. Theo ông, thôi nghĩa là thúc giục, và thúc nghĩa là buộc. Thực ra, chữ thúc 促 này có nghĩa là giục giã, là đòi phải tăng tốc, như trong từ đốc thúc, khác với chữ thúc 束 nghĩa là buộc. Chữ thúc trong từ thôi thúc cũng có âm là xúc, và có mặt trong từ xúc tiến.
16. thế nghiệp 世業
Soạn giả đã giảng rằng thế nghĩa là quyền lực hoặc trạng thái (có dạng chữ Hán là 勢), nghiệp nghĩa là nghề, và thế nghiệp là chức vụ do cha ông để lại trong thời phong kiến. Thực ra thế 世 nghĩa là đời, nghiệp 業 là sự nghiệp hoặc sản nghiệp. Thế nghiệp 世業 là sự nghiệp hoặc tài sản do đời trước để lại. Các bộ từ điển đáng tin cậy đều định nghĩa như thế.
18. trữ tình 抒情
Vì không biết “mặt chữ” mà chỉ phỏng đoán theo cảm tính nên soạn giả đã giảng giải rằng trữ là chứa chất, tình là tình cảm; trữ tình là chứa chất tình cảm. Thật là sai lầm nghiêm trọng. Nên nhớ rằng ở đây, trữ 抒 nghĩa là biểu đạt, là bày tỏ. Trữ tình nghĩa là bày tỏ tình cảm. Cần phân biệt chữ trữ 抒 này với chữ trữ 貯 trong từ tích trữ.
19. vi điện tử 微 電 子
Vi điện tử là hạt điện tử rất nhỏ, đó là cách giải thích của soạn giả, khiến người đọc buồn cười. Điện tử, tức electron, là một loại hạt cơ bản bền vững, là hạt tích điện âm trong mọi vật chất thông thường, có khối lượng bằng khoảng 9,11 x 10-28gram và điện tích khoảng -1,602 x 10-19 coulomb. Như vậy, điện tử có khối lượng và điện tích rất cụ thể, làm gì có thứ điện tử rất nhỏ khác nữa?
Từ vi điện tử vốn được dịch từ tính từ microelectronic(al) trong tiếng Anh (hoặc micro-electronique trong tiếng Pháp), nó chỉ có thể đóng vai trò tính từ, như trong các cụm từ như mạch vi điện tử, thiết bị vi điện tử, v.v. để chỉ mạch điện tử hoặc thiết bị điện tử có kích thước cực kỳ nhỏ bé.
20. viễn phố 遠浦
Soạn giả giải thích rằng viễn = xa; phố = chỗ bán hàng, nhà trạm; và viễn phố = nơi ở xa. Rồi ông trích dẫn câu thơ Gác mái, ngư ông về viễn phố… của Bà huyện Thanh Quan. Ông không hiểu rằng ở đây, phố 浦 nghĩa là bến sông chứ không phải phố 鋪 là cửa hàng. Viễn phố 遠浦 nghĩa là bến sông ở xa. Bà huyện Thanh Quan ở thế giới bên kia hẳn phải nổi giận và vô cùng đau lòng cho đất nước nếu bà biết rằng có một nhà biên soạn từ điển tiếng Việt ở cuối thế kỷ XX đã giảng giải thơ của bà như thế.
Vài chục thí dụ trên đây chỉ là một phần mười của những sai lầm mà chúng tôi đã phát hiện được trong Từ điển từ và ngữ Hán Việt, mà cũng nằm cả trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân. Đương nhiên, vì Từ điển từ và ngữ Việt Nam chứa trọn nội dung của Từ điển từ và ngữ Hán Việt và còn thêm rất nhiều từ ngữ khác ít liên quan đến Hán ngữ nên nó còn phạm vô số sai lầm khác mà tác giả Huệ Thiên đã cho thấy một phần qua bài Đọc lướt Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân.
Qua những thí dụ này, chúng ta thấy soạn giả Nguyễn Lân luôn luôn sẵn sàng “sáng tác” nghĩa cho các từ tố; hơn nữa, ông lại rất thiếu kiến thức về văn hóa, lịch sử và khoa học. Nếu trong đời một giáo viên đứng trên bục giảng mà một hai lần phạm vài sai lầm như những trường hợp kể trên thì cũng trở thành trò cười và mang tiếng cả đời rồi. Huống chi, từ điển là sách cung cấp những hiểu biết chính xác về từ ngữ, ở đây là từ ngữ tiếng Việt, mà phạm đến vài trăm sai lầm lớn như thế, sao có thể chấp nhận được?
Một thực tế rất đáng buồn là Từ điển từ và ngữ Hán Việt chứa nhiều sai lầm nghiêm trọng như vậy nhưng sau lần xuất bản đầu tiên năm 1989 (Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh), nó đã được tái bản nhiều lần. Vì thế nên đến năm 2000, GS Nguyễn Lân lại cho ra đời quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam lớn hơn và càng nhiều sai lầm hơn. Đặc biệt, Từ điển từ và ngữ Hán Việt thì được GS Lê Trí Viễn coi là cuốn từ điển Hán Việt tốt nhất từ trước đến nay, và nó sẽ là công cụ tra cứu không thể thiếu được đối với bất kỳ ai, trước hết là học sinh, sinh viên, các thầy cô giáo, các nhà biên soạn, khi muốn nắm được nghĩa chính xác của từ và ngữ Hán Việt trong tiếng Việt hiện nay. Còn về giá trị của Từ điển từ và ngữ Việt Nam thì GS Vũ Khiêu cho rằng “trí tuệ và tâm huyết của tác giả đã tạo ra một tác phẩm rất có giá trị mà cả xã hội đang mong đợi” (theo Lời giới thiệu).
Khỏi phải bàn về tính khả tín của hai vị giáo sư này.
© Lê Mạnh Chiến
Nguồn: Bauxit Việt Nam

Monday 28 April 2014

Trình độ Việt Ngữ của BBC và VOA tiếng Việt (Đào Văn Bình - Ái Hữu Biên Hòa)


Trình độ Việt Ngữ của BBC và VOA tiếng Việt - Đào Văn Bình
(03/21/2013 01:14 PM) (Xem: 428)

Trình độ Việt Ngữ của BBC và VOA tiếng Việt

    Khoảng hơn 20 năm nay tôi hầu như không bao giờ mở nghe đài VOA hoặc BBC bởi vì nếu là tin tức thế giới thì đã được các hãng thông tấn AP, UPI, Reuters… rồi các hãng truyền hình lớn như CNN, Fox News, các báo như New York Times, Washington Post tranh nhau loan tin sớm nhất. Rồi thì báo chợ, báo biếu Việt ngữ lan tràn ở cộng đồng cho nên chẳng cần nghe BBC hay VOA làm gì. Nhưng mấy lúc gần đây vì cần theo dõi tin tức ở trong nước cũng như những diễn biến dồn dập ở Biển Đông cho nên tôi mới “mò” vào xem các trang Việt ngữ của BBC và VOA bởi vì các hãng này loan tin khá nhanh song nhiều khi cũng “cóp” lại bản tin trong nước.  Nhưng tôi thật kinh hoàng khi phải đọc một thứ Việt ngữ xa lạ, không còn là thứ Việt ngữ mẫu mực mà tôi đã được học, được nghe, rồi viết rồi học hỏi gần như suốt đời.
     Đó là một thứ Việt ngữ cẩu thả, kém cỏi của những người không biết học tiếng Việt ở đâu. Văn phạm thì sai, chữ dùng thì làm dáng hoặc “đao to búa lớn”, câu văn tối nghĩa, què hoặc văn không phải là văn Việt mà là văn dịch  theo kiểu “mot à mot”. (*). 
Việt Nam đã bước vào Thế Kỷ 21 với một gia tài học thuật, văn chương phong phú, trác tuyệt do bao thế hệ cha ông để lại từ Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu, Ngô Gia Văn Phái, La Sơn Phu Tử, Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều…rồi cận đại có Hoàng Xuân Hãn, Tự Lực Văn Đoàn, Đặng Thái Mai, Ngô Tất Tố, Đào Trinh Nhất, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, Tản Đà, Vũ Hoàng Chương.  Về kinh tế, luật học, chính trị học có Vũ Văn Mẫu, Đoàn Thêm, Nguyễn Cao Hách…và bao nhiêu nhà văn, nhà thơ, nhà biên khảo lỗi lạc của Miền Nam…mà lại sản sinh ra một thứ Việt ngữ đương thời như thế.
      Thật chua xót! 
Càng đọc các trang Việt ngữ của BBC và VOA ngày nay tôi lại càng tiếc thương những khuôn mặt cũ của BBC và VOA -  hoặc đã qua đời hoặc đã về hưu vì tuổi già bóng xế như: VOA với Lê Văn, Nguyễn Sơn, Bùi Bảo Trúc, Phạm Trần v.v.. BBC với Đỗ Văn, Thành Xuân Hồng, các xướng ngôn viên như Xuân Kỳ, Hữu Đại, Hồng Liên, Vĩnh Phúc v.v.. Văn sao chải chuốt, khuôn mẫu, đứng đắn, chừng mực và giọng đọc thu hút người nghe như những xướng ngôn viên thượng thặng của đài truyền hình Mỹ. Tôi cảm phục tài lựa chọn người đọc và biên tập viên Việt ngữ của các vị giám đốc VOA & BBC ngày xưa …có lẽ các vị này cũng đã già nua quá hoặc đã qua đời.

       Làm văn hóa mà sai thì di hại đến ngàn đời sau. Viết loại văn “ba trợn ” mà đăng trên các báo chợ thì tác hại không bao nhiêu, nhưng nếu nó được đăng trên trang điện tử lớn như BBC hoặc VOA với cả triệu người đọc thì tác hại khôn lường. Loại “tiếng Việt kinh hoàng” này lâu dần sẽ trở thành tiếng Việt chính thống. Và khi đó thì  thì ôi thôi…4000 năm văn hiến: “Quốc Tổ có về cũng khóc thôi”! 
         
Nói có sách, mách có chứng. Dưới đây tôi sẽ trích dẫn một số tiêu đề hoặc một số đoạn văn để quý vị thấy trình độ Việt ngữ của các biên tập viên người Việt của BBC và VOA như thế nào:
  

 1) BBC tiếng Việt ngày 27/1/2013: “Nhạc sỹ Phạm Duy có tiền sử bệnh tim và từng qua hai lần giải phẫu tim.” Đây là câu văn quái dị. Danh từ “tiền sử” (Pre-history) có nghĩa là thời kỳ ăn lông ở lỗ. Không ai dùng hai chữ “tiền sử” để nói trong quá khứ đã từng mắc một bệnh gì đó. Câu văn gọn nhẹ là, “Nhạc sĩ Phạm Duy đã từng bị bệnh tim và đã qua hai lần giải phẫu.” 2) VOA tiếng Việt ngày 7/2/2013: “Các phần tử cực đoan đang đe dọa sẽ làm trật đường rầy tiến trình chuyển đổi sang dân chủ của Tunisia.” Động từ “derail “ nghĩa đen là làm trật bánh, nhưng nghĩa bóng là “làm lệch hướng” hoặc “làm chệch hướng”. Do đó câu văn chỉnh sẽ là, “ Các phần tử cực đoan đang đe dọa làm lệch tiến trình dân chủ của Tunusia.
 
3) BBC tiếng Việt ngày 8/2/2013: “Giáo sư Mỹ bị đòi đuổi việc vì chê VN”. Đây là câu văn tối nghĩa, giống như một ông Tây, ông Mỹ không rành tiếng Việt mà nói tiếng Việt. Đọc kỹ nội dung thì ông giáo sư này xúc phạm tới người Việt Nam chứ không phải “chê”. Chê và xúc phạm- mức độ nghiêm trọng khác nhau. Do đó câu văn chỉnh sẽ là, “ Kêu gọi sa thải giáo sư Mỹ đã xúc phạm người Việt Nam.” 4) VOA ngày 7/2/2013; “Chuyện làm tình nguyện ở Mỹ”. Câu văn không sai nhưng thiếu trình độ. Câu văn khá hơn là, “Chuyện phục vụ thiện nguyện ở Mỹ”. 5) BBC ngày 10/2/2013: “Hà Nội cũng có kế hoạch đóng mới một tàu biển đa năng có khả năng chịu sóng lớn để làm tàu bệnh viện.”. Chữ “mới” ở đây thừa vì đóng tàu là đóng tàu mới rồi. Không ai đóng tàu cũ cả.
 
6) VOA tiếng Việt ngày 10/2/2013: “Hơn một tỉ người châu Á trên khắp thế giới đã bước vào năm con Rắn bằng những màn pháo bông, ăn nhậu và đi thăm người thân.” Tết Nguyên Đán đối với người Việt Nam ngoài việc đón mừng năm mới còn là cả một truyền thống văn hóa bao trùm lên các lãnh vực gia đình, làng nước, xã hội, tâm linh chứ không phải là chuyện “ăn nhậu” bình thường. Người viết bài này có thể không phải là người Việt Nam hoặc dịch từ một bài viết bằng Anh Ngữ của một ký giả người Anh không am hiểu văn hóa Á Đông. Tiêu đề gọn, chỉnh về ý và lời có thể như sau,” Hơn một tỉ người Châu Á khắp thế giới bước vào năm con Rắn bằng những màn đốt pháo bông, tiệc tùng và thăm viếng người thân.” 7) VOA tiếng Việt ngày 10/2/2013: “Vùng đông bắc nước Mỹ bắt đầu dọn dẹp sau cơn bão tuyết hung bạo.” Hai chữ “hung bạo” dùng cho người. Còn đối với loài động vật hoặc thiên nhiên thì người ta thường dùng các chữ dữ dội”, “ác liệt v.v…Do đó câu văn chỉnh sẽ là “ Vùng Đông Bắc nước Mỹ bắt đầu dọn dẹp sau trận bão tuyết dữ dội.”
 
8) BBC tiếng Việt ngày 16/2/2013: Xuất hiện ảnh hậu phẫu của Hugo Chavez. Đây là loại tiếng Việt kém mà lại làm dáng. Tại sao không viết cho gọn nhẹ và trong sáng hơn: “Ảnh Ô. Hugo Chavez sau cuộc giải phẫu” hoặc ngắn gọn hơn, “Ô. Hugo Chavez sau cuộc giải phẫu”.

 9) BBC tiếng Việt ngày 16/2/2013: “Malaysia bắt giữ thượng nghị sỹ Úc”. Đọc tiêu đề người ta ng tưởng rằng ông thượng nghị sĩ Úc bị chính quyền Mã Lai bắt vì phạm tội gì đó. Nhưng khi đọc nội dung thì không phải vậy. Ông thượng nghị sĩ này chỉ bị giữ tại phi trường, không cho nhập cảnh vì lý do an ninh. Vậy tiêu đề đúng và phản ảnh nội dung là “ Malyasia chặn giữthượng nghị sĩ Úc tại phi trường.”
 10) BBC tiếng Việt ngày 17/2/2013: Bắc Hàn kỷ niệm ngày mất Kim Jong-il. Đáng lý ra phải viết “Bắc Hàn kỷ niệm ngày Kim Jong-il qua đời”. Đây là loại tiếng Việt kém cỏi, xem thường người đọc quá đỗi. 11) BBC tiếng Việt ngày 18/2/2013: “Báo TQ phê Mỹ về Bắc Triều Tiên”. Hiện nay trong nước và hải ngoại, hai chữ “phê bình”. “phê điểm” được tóm gọn thành một chữ là “phê”. Thậm chí chích xì ke ma túy khiến ngây ngất cũng gọi là “phê” (effet của tiếng Pháp). Thật là loại tiếng Việt hỗn loạn không thấy có trong bất kỳ cuốn từ điển Việt Ngữ nào.
 12) BBC tiếng Việt ngày 18/2/2013: Phim giá rẻ Trung Quốc gây sốt. Đọc kỹ nội dung bài viết chúng ta thấy đây là một cuốn phim sản xuất không tốn kém chứ không phải giá rẻ, nhưng thu lợi nhiều (thành công) chứ chẳng “gây sốt” gì cả nhưng lại được tác giả viết bừa bằng lối văn “ giá rẻ hay rẻ tiền”. Câu văn chỉnh hơn là “Trung Quốc: Phim không tốn kém nhưng thành công bất ngờ”. Xin tác giả nhớ cho “giá rẻ” và “ít tốn kém” ý nghĩa khác nhau. Nếu không rõ nghĩa thì nhớ tra từ điển.
 13) BBC tiếng Việt ngày 18/2/2013: “Phóng viên BBC đình công vì giảm việc làm”. Câu văn này bị lỗi về văn phạm. Phải phải thêm chữ “bị” nữa thì câu văn mới hoàn chỉnh. Câu văn chỉnh phải viết “ Phóng viên BBC đình công vì bị cắt giảm việc làm” hoặc “Phóng viên BBC đình công vì việc làm bị cắt giảm”. 14) BBC tiếng Việt ngày 7/12/2012: “Cấm quan chức Nga 'vi phạm nhân quyền’ “. Câu văn này gây hiểu lầm là Nga ngăn cấm các viên chức của mình không được phép vi phạm nhân quyền. Nhưng thực ra đây là biện pháp Hoa Kỳ trừng phạt các giới chức Nga đã vi phạm nhân quyền. Do đó câu văn chỉnh phải là, “Trừng phạt các quan chức Nga vi phạm nhân quyền”.
 15) VOA tiếng Việt ngày 28/2/2013: Tàu không gian này sẽ kết nối với một môđun không gian thử nghiệm gọi là Thiên Cung 1. Môdun= Module= Bộ phận rời, bộ phận phụ. Ngoài ra đoạn văn “ sẽ kết nối với một môđun không gian thử nghiệm gọi là Thiên Cung 1” rất tối nghĩa, phải dịch là, “ sẽ ráp nối với một bộ phận thí nghiệm ngoài không gian gọi là Thiên Cung 1” 16) VOA tiếng Việt ngày 28/2/2013: “Công dân cao niên Mỹ quan ngại về việc cắt giảm ngân sáchTác giả tiêu đề này dùng chữ khó và cầu kỳ quá. Tại sao không viết một câu văn đơn giản hơn? “Người già ở Mỹ lo sợ việc cắt giảm ngân sách”. Đây chỉ là một tin tức bình thường của đời sống mà tác giả lại dùng lối văn “đao to búa lớn” thuộc lãnh vực chính trị của thế giới chẳng hạn như “Thế giới quan ngại về việc gia tăng ngân sách quốc phòng bất thường của Trung Quốc.” Điều đó chứng tỏ tác giả bài viết kém hiểu biết về ngôn ngữ. 17) BBC tiếng Việt ngày 18/3/2013: “Nhật Bản sẽ giúp phát hiện ra bất kỳ cú phóng tên lửa nào từ Bắc Hàn.” Lời văn đang chững chạc, bỗng dưng tác giả “phang” câu cú phóng rất “bình dân” giống như  của mấy chú bé cửi trần đánh đinh đánh đáo nói chuyện với nhau ở vỉa hè. Ngoài ra người ta chỉ nói “cú đấm”, “cú đá chứ chẳng ai nói “cú phóng tên lửa” cả!
18) VOA tiếng Việt ngày 19/3/2013: “Tội danh giết người có khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù giam, tù chung thân hoặc tử hình.” Không ai nói “khung hình phạt” cả, mà là “mức hình phạt từ”. hoặc “hình phạt quy định từ 12 năm tới 20 năm.” Người viết bản tin này không có kiến thức về luật pháp. 19) BBC tiếng Việt ngày 18/3/2013: Mỹ và Nga vẫn nắm giữ hai vị trí đầu tiên trong danh sách (xuất cảng vũ khí)này.. Tác giả không phân biệt được thế nào là “đầu tiên” và thế nào là “hàng đầu”. Đầu tiên là trước tiên, nói về thời gian trước sau. Còn hàng đầu/đứng đầu nói về vị trí cao thấp. Câu văn chỉnh phải là “Mỹ và Nga vẫn nắm giữ vị trí hàng đầutrong danh sách xuất cảng vũ khí.” 20) BBC tiếng Việt ngày 19/3/2013: “Ông (Tony Blair) còn được tin là đã cố vấn cho một số tập đoàn tài chính như JP Morgan và Zurich International.” Đây là bản dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt nhưng lại không phải là tiếng Việt! Nếu đúng là tiếng Việt thì phải dịch như sau, “Còn có tin Ô. Tony Blair đã cố vấn cho một số tập đoàn tài chính như JP Morgan và Zurich International.”
            Tôi sẽ còn tiếp tục theo dõi các trang BBC và VOA tiếng Việt để quý vị biết thêm về trình độ Việt Ngữ của các đài này. Dĩ nhiên họ đều là người Việt Nam và được đài tuyển chọn, nhưng không hiểu sao họ lại có một thứ Việt ngữ kém cỏi và lạ lùng đến như vậy? Nếu ngày xưa chúng tôi ở Lớp Nhất (Lớp 5 bây giờ) mà viết những đoạn văn què và tối nghĩa như thế, chắc chắn thầy/cô sẽ sổ toẹt (gạch chéo) từ trên xuống dưới và đề nghị hiệu trưởng cho xuống Lớp Nhì (Lớp 4 bây giờ) để học thêm Việt văn. Nhưng nói thế thì cũng tội nghiệp cho những học sinh Lớp Nhì thuở xưa. Ở trình độ Lớp Nhì, Lớp Nhất ngày xưa ở Hải Phòng, chúng tôi đã thuộc lòng như “cháo chảy” Quốc Văn Giáo Khoa Thư, rồi đọc các tiểu thuyết trinh thám của Phạm Cao Củng, dã sử như Tiêu Sơn Tráng Sĩ, các đoạn văn của Thanh Tịnh, các tiểu thuyết ủy mị như Đồi Thông Hai Mộ, Hồng và Cúc, Phạm Công Cúc Hoa, các truyện Tàu như  Tây Du Ký, Hán Sở Tranh Hùng và đủ loại kiếm hiệp nhảm nhí như Kim Hồ Điệp, Long Hình Quái Khách v.v… Rồi khi lên Trung Học Đệ Nhất Cấp là cuốn Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển dày cộm của Dương Quảng Hàm ..xương sống của nền văn chương Việt Nam. Rồi khi lên lớp Đệ Nhị (Lớp 11) thì học Tiểu Thuyết Luận Đề của các tác giả thuộc Tự Lực Văn Đoàn. Còn khi lên Lớp Đệ Nhất (Lớp 12) thì phải “nhá” cuốn Luận Lý Học của Trần Văn Hiến Minh…nhức cả đầu. Riêng bản thân tôi tiếp tục với 4 năm ở Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, hai năm ở Ban Cao Học thuộc Học Viện Quốc Gia Hành Chánh - cộng với hơn 20 năm viết văn ở hải ngoại…mà mỗi khi đặt bút viết cũng phải hết sức đắn đo suy nghĩ xem mình dùng chữ có đúng không, văn có chỉnh, gẫy gọn không, có lai căng và dễ hiểu không? Tôi còn nhớ văn hào Victor Hugo của  Pháp mỗi khi viết xong một đoạn văn ông đều đọc cho chị quét dọn trong nhà nghe xem có hiểu không. Khi mình viết một đoạn văn mà người đọc lúng túng, ngỡ ngàng tức mình đã viết một câu văn tối nghĩa.  Khi người đọc nhăn mặt tức mình viết một câu văn sai hoàn toàn- người xưa gọi là “văn bất thành cú”.       Là  người cầm bút ai cũng phải thận trọng với văn chương và ngôn ngữ vì nó là bộ phận văn hóa tiêu biểu của dân tộc. Do đó tôi mong mỏi các bạn đang phụ trách các trang Việt Ngữ của Đài VOA và BBC nếu có đọc bài này nên coi lại vốn liếng Việt Ngữ của mình. Nếu thấy còn thiếu sót nên học thêm các lớp văn chương Việt Nam, đọc thêm các sách về chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế, tôn giáo, triết học, quân sự, ngoại giao… để cống hiến cho độc giả những bản tin, những bản dịch có trình độ trí thức và là khuôn mẫu cho các thế hệ mai sau, nhất là cho ngành báo chí. Ngoài ra cũng nên nhớ cho “Ngoài trời còn có trời” tức là còn rất nhiều người giỏi hơn mình. Do đó mình cần tiếp nhận những lời phê bình để thành công và tiến xa hơn. Mong lắm thay./.
 Đào Văn Bình
 
(California ngày 20/3/2013)

 (*) Mot à mot là lối dịch theo dòng, từng chữ một mà không tìm hiểu ý của cả đoạn văn.  Dịch theo kiểu “mot à mot” thì văn ngây ngô giống như ông Tây hay ông Mỹ nói tiếng Việt không rành.