Showing posts with label huyền thoại tiếng Việt trong sáng và giàu đẹp. Show all posts
Showing posts with label huyền thoại tiếng Việt trong sáng và giàu đẹp. Show all posts

Thursday 8 December 2022

Có quá đáng không?

Một độc giả Kiến Thức Ngày Nay số 129 (15-01-1994) than phiền với Huệ Thiên:

Chẳng lẽ tiếng Việt không có từ nào để thay thế cho từ “lô-gích”? Ta có 4000 năm văn hiến mà vẫn bị “hổng” khi đụng lô-gích nên đành “bỏ trống” hay sao? Vậy tiếng của ta để làm gì?

 

Huệ Thiên biểu đồng tình:

Ông cho biết mình ở Sài Gòn 40 năm nhưng trước năm 1975 chưa từng nghe người Việt Nam nào nói tiếng Việt mà lại xen vào hai tiếng lô-gích. Có lẽ ông đã nói không quá đáng. (An Chi (2006-1:172))

 

Thật ra lô-dích đã xuất hiện trên sách báo những năm ba mươi của thế kỷ trước.

* Đây là chưa bàn đến ý-nghĩa của lời thơ còn chỗ vụng, mà hẵng nói về thể-tài của thơ, thì cách lập-luận như thế không phải là phép tam-đoạn-luận trong lô-dích (logique) là gì. Nam Phong Tạp Chí số 196 (1934:341, Hải-hạc)

* Ông không có « lô-dích » tí nào cả. Phong Hóa Tuần Báo số 79 (1933:9)

* Hiểu lô-dích chưa ? Phong Hóa Tuần Báo số 79 (1933:9)

* 2. Dịch câu ấy không đủ lô-dích và đã « sa lạc vào chỗ sai lầm » (« tùng bê » dans l’erreur). Phong Hóa Tuần Báo số 108 (1934:2, Tứ-Ly)


Sau Hiệp Định Giơ-ne-vơ, sách vở miền Bắc lưu hành đồng thời nhiều dạng: lô dích,[i] gic,[ii] lô gíc,[iii] lô gich,[iv] lô gích.[v] Các dạng này cũng xuất hiện trong sách vở in ấn ở miền Nam trước 1975.
* Họ không hiểu rằng chế-độ thực-dân trong bản-chất của nó, là bạo-động và bất-nhân, và những người đi thực-dân phải bạo-động bất-nhân theo một « lô-gíc » nội-tại của dự-phóng thực-dân. Nguyễn Văn Trung (1963:30)

* Mà ông lại muốn đem cái lô-gích khả kính của phương Tây ra để truất cái thú duy nhất, cái quyền duy nhất đó của họ ư ? Nguyễn Hiến Lê (1974:73)
 

Từ điển của Châu Văn Cán (1963:558) lô-dích.

 

Lên báo kêu rằng chưa từng nghe hay chưa từng thấy thì cũng hơi quá đáng. Có gì để mà kêu ca?

 



[i] * Việc nghiên cứu những vấn đề căn bản về biện chứng pháp , về lô-dích biện chứng (logique dialectique), về nhận thức luận và một số vấn đề giáo dục cộng sản của nhân dân lao động, chưa làm cho mọi người thỏa mãn. Tập San Nghiên Cứu Văn Sử Địa số 19 (1956:70, Nguyễn Lương Bích)

* Chẳng qua là vì chúng ta thiếu cái "lô-dích" về đạo đức trong sự chiến thắng. Hồ Linh (1998:271)

CVC (1963:558), NQT (1992:235), LNT (1993:611)

[ii] * Cách đây hơn 2.000 năm, nhà toán học Hy-lạp Ơclít đã có gắng đặt một cơ sở lôgic chặt chẽ cho hình học đó, bằng cách xây dựng nên một hệ tiên đề rồi dùng suy diễn lôgic chứng minh các định lý. Tin Tức Hoạt Động Khoa Học số 2 (1960:19, Nguyễn-Cảnh-Toàn)

* Mưu mô ấy bắt đầu ngay từ « nghệ thuật Lun-li » của thời đại trung cổ ; sau đó những khối óc như Lép-nít và La-pơ-lát-xơ đã tìm cách sáng tạo một toán thuật tuyệt đối trong toán học và lôgic học mà ông nói là có thể dùng để giải bất cứ bài toán nào ; trong mấy chục năm gần đây, những người nghiên cứu nhận thức luận ngữ nghĩa như Các-náp, Mô-rít, Cô-rơ-gíp-ski, cũng như các nhà lôgic học Ba-lan Tarski và Lu-ca-xe-vit tìm cách đặt ra « những bảng khoa học », phổ dụng và các thứ hệ thống « Siêu lôgic học », « Siêu ngôn ngữ học » và « Siêu ngữ pháp học ». Tin Tức Hoạt Động Khoa Học số 2 (1960:58)

* Ở Mác-bua ông đã thu hoạch những kiến thức vững vàng về toán, triết học, lôgic, vật lý, hóa học ; trong các môn khoa học tự nhiên ông nắm chắc khoáng học, thực vật và động vật học ; trong các ngành ứng dụng ông đã có kinh nghiệm thực tiễn về cơ khí, luyện kim ; ông lại biết khá nhiều về các nghề thủy tinh, đồ gốm, đồ sứ, làm muối, hàng hải, thiên văn và địa lý. Tin Tức Hoạt Động Khoa Học số 10 (1961:1, Tạ Quang Bửu)

PVB (1986:146)

* “Lô gic” nó thế! Huỳnh Dũng Nhân (2012:112)

* Thế mấy thằng ăn cắp cốp xe lúc nãy? Huỳnh Dũng Nhân (2012:112)

* “Lô gic” của nó thế, anh ạ. Huỳnh Dũng Nhân (2012:112)

* Nói một các “lô gic” – bọn em sống khổ lắm. Huỳnh Dũng Nhân (2012:113)

* “Lô gic” ở chỗ ấy đấy! Huỳnh Dũng Nhân (2012:113)

* “Lô gic” nó thế! Huỳnh Dũng Nhân (2012:112)

[iii] * Ở đây, chúng ta hãy nói vắn tắt về cái gọi là « tiêu chuẩn lô gíc của chân lý ». Tin Tức Hoạt Động Khoa Học số 2 (1960:58)

* Hình ảnh đó thật là hoàn chỉnh, khi ấy, tôi nghĩ người Việt Nam thật là đẹp, dũng cảm và không lô gíc. Nguyễn Bá Cộng (1979:599)

* Ông nghiên cứu lô gíc toán tại trường ĐHTH Cambridge Tạp Chí Thông Tin Toán Học tập 3 số 2 (1999:10, Ngô Việt Trung)

* Công việc tìm diệt tổ mối đáng căm hờn này, công việc bảo vệ đê, chống loài thuỷ tặc yêu quái này cung cấp cho con những dữ kiện để con xây dựng lô-gíc tư tưởng, lô-gic sống cho con: với cái xấu xa, đê hèn, cái cao cả phải biết mở đường, vượt qua, không có lý gì mà lại trở thành kẻ hèn hạ, trái lại phải hiên ngang, hiên ngang như những con đê. Ma Văn Kháng (2003III:130)

* Nó dựa vào nghĩa của từ điển, nhưng nhiều khi nó không giữ lại nguyên nghĩa ban đầu; thậm chí nhiều sắc thái nghĩa mới của nó không còn mang khái niệm lô-gíc để ta có thể định nghĩa nó một cách dễ dàng. Ngôn Ngữ & Đời Sống số 72 (2001:5, Nguyễn Lai)

[iv] * Xuất phát từ lý luận và khái niệm hiện có, qua suy diễn lô-gich hay suy dẫn toán học, qua sự tiếp xúc của các lý luận và khái niệm, người ta có thể thu được lý luận mới, dự kiến được sự thực mới. Tin Tức Hoạt Động Khoa Học số 7 (1960:50, Nguyễn Đăng Khê)

* Khi cái siêu hình đã hàm chứa cái lô-gich thì lại không còn là siêu hình nữa. Chu Lai (2009:251)

[v] * Và thành lập nhóm học tập về « lô-gích-toán », nhóm này đã bắt đầu hoạt động với sự tham gia của 10 cán bộ trường bạn. Tin Tức Hoạt Động Khoa Học số 5 (1960:36)

* Bởi vậy, từ địa vị giám đốc trường Cao đẳng quốc phòng ngụy, Vĩnh Lộc quay sang chân giữ vườn cho trường Cao đẳng Cơ đốc Mỹ, là đúng con đường « việt gian hóa... kiếp » rồi, là lô gích. Nguyễn Khắc & Lê Kim (1976:162)

* Nhưng bắt đền người nhà thì kém “lô gích” lắm. Nguyễn Công Hoan (2005k107)

* Và con quyết sống theo lôgích của con! Ma Văn Kháng (2003III:490)

* Vậy phải thay lô-gích bằng “từ Việt” nào thì chúng tôi thấy rất khó. An Chi (2006-1:173)

* Một thực tế dữ dội dẫn đến một ý thơ quyết liệt là điều phù hợp với lô-gích của nghệ thuật: Huỳnh Như Phương (2008:35)

* Cái lô gích sách lược này làm đầu tôi dịu đi được một ít. Trần Đĩnh (2014-1:259)

KMA (1977b:528), NQT (1992:235), LNT (1993:611), LPT (2001:689), HHT (2002:325), NKT (2005:968), HP (2006:580), TTA (2009:74)

Sunday 19 June 2022

Mắc chứng gì rủ nhau đánh Huỳnh Công Tín?

Gần đến ngày nhà báo Việt Nam tự nhiên các nhà ngôn ngữ học xúm lại sỉ vả ông Huỳnh Công Tín chỉ vì mục từ NHÀ BÁO trong quyển từ điển từ ngữ Nam Bộ (Huỳnh Công Tín, 2007:894) giảng rằng nhà báo là những người không có công ăn việc làm, thất nghiệp, đang ăn bám vào gia đình. Trích một số ý kiến tiêu biểu (chữ màu tím):

 

Theo thạc sĩ ngôn ngữ học Phan Thế Hoài, không có cơ sở nào để khẳng định trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, người Nam Bộ sử dụng từ nhà báo theo nghĩa “thất nghiệp, ăn bám, báo cha, báo mẹ”. Cách nói này chỉ xuất hiện ở một số ngữ cảnh hẹp, mang tính trêu đùa, giải trí là chủ yếu.

Vị chuyên gia này cũng cho rằng nghĩa bóng về từ nhà báo với nghĩa tiêu cực như vậy không phù hợp để đưa vào từ điển. Ông khẳng định từ "nhà báo" chỉ có nghĩa gốc, mà theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê định nghĩa là "người chuyên làm nghề viết báo", chứ không có nghĩa chỉ người "thất nghiệp, ăn bám gia đình".

Đồng thời, thạc sĩ Phan Thế Hoài cũng nhấn mạnh từ "nhà báo" không có trong phương ngữ Nam Bộ mà chỉ xuất hiện trong một ngữ cảnh hẹp.

"Phương ngữ là hệ thống ngôn ngữ được dùng cho một tập hợp người nhất định trong xã hội. Cách giải thích nghĩa bóng của tác giả không thuyết phục về mặt chuyên môn", ông Hoài nêu quan điểm.

Đồng quan điểm, GS.TS Nguyễn Văn Hiệp, Viện trưởng Viện Ngôn ngữ, cho biết trong tiếng Việt có những từ "báo đời, báo cô, báo hại" để chỉ người "thất nghiệp, ăn bám gia đình".

"Chữ báo trong 'nhà báo' và báo trong 'báo đời, báo cô, báo hại' nghĩa hoàn toàn khác nhau. Nhà báo phải là từ chỉ một nghề nghiệp", ông Hiệp nói.

(PV, Định nghĩa nhà báo 'ăn bám, thất nghiệp' là rất tiêu cực

https://giaoducthudo.giaoducthoidai.vn/dinh-nghia-nha-bao-an-bam-that-nghiep-la-rat-tieu-cuc-10870.html)




Ngày 15-6, trao đổi với PLO, PGS.TS Phạm Văn Tình, Tổng thư ký Hội Ngôn ngữ học Việt Nam cho rằng, định nghĩa theo tác giả trong sách là không được.

Sẽ cho kiểm tra thông tin từ điển định nghĩa 'Nhà báo' là người thất nghiệp, ăn bám ảnh 2

Định nghĩa về nhà báo trong sách được nhiều người chia sẻ trên MXH. Ảnh: Zing.

“Nói gì thì nói phương ngữ phải chỉ rõ phương ngữ vùng nào, sử dụng ra sao, còn từ nhà báo Tiếng Việt toàn dân là chỉ một người có nghề nghiệp đàng hoàng và phải định nghĩa cho đúng”- ông Tình nói.

PGS.TS Phạm Văn Tình cũng nêu dẫn chứng, có khi người ta hay nói là có người ở nhà ăn báo hại thì đó là khẩu ngữ nói vui thì được, nhưng đưa vào từ điển phải thận trọng.

(Viết Thịnh, Sẽ cho kiểm tra thông tin từ điển định nghĩa 'Nhà báo' là người thất nghiệp, ăn bám

https://plo.vn/se-cho-kiem-tra-thong-tin-tu-dien-dinh-nghia-nha-bao-la-nguoi-that-nghiep-an-bam-post684704.html)



Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt, Viện trưởng Viện Ngôn ngữ và Văn hóa phương Đông, cách định nghĩa nhà báo như vậy đây không phải ngôn ngữ địa phương, chỉ là cách nói đùa sau đó lan truyền và trở nên phổ biến.

Ông ví dụ, ở miền Bắc, người dân có cách nói tương tự như "ăn bám", "ăn báo cô" - tức chỉ những người không việc làm, nhàn rỗi thất nghiệp. Tuy nhiên, đây chỉ là cách nói đùa thông dụng ở địa phương, không phải văn hoá hay từ ngữ đặc trưng đại diện cho văn hoá địa phương.

"Tác giả sách này chưa phân biệt được giữa cách nói thông dụng ở địa phương và ngôn ngữ đặc trưng vùng miền, địa phương. Ngôn ngữ địa phương có hệ quy chiếu, tiêu chuẩn riêng để phân biệt với những từ ngữ thông dụng, nói đùa", vị chuyên gia nói.

Mặt khác, GS Đạt cũng cho rằng, "nhà báo" là từ dành cho các phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên... làm nhiệm vụ sản xuất các sản phẩm báo chí phục vụ công chúng. "Tác giả Huỳnh Công Tín - chủ biên sách, cần giải nghĩa rõ từ ngữ, tránh tạo ra hiệu ứng xấu đến nghề nghiệp của những người làm công tác báo chí".

Thầy Phan Thế Hoài, giáo viên dạy Văn ở TP.HCM bày tỏ, không có cơ sở để khẳng định trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, người Nam Bộ thường sử dụng từ “nhà báo” theo nghĩa “thất nghiệp, ăn bám, báo cha, báo mẹ”. Cách nói này chỉ xuất hiện ở một số ngữ cảnh hẹp, mang tính trêu đùa, giải trí là chủ yếu.

Ví dụ, người A hỏi: Thời gian qua anh/chị làm gì? Người B trả lời: Tôi làm nhà báo. Từ “nhà báo” trong câu này phải được đặt trong ngữ cảnh A và B là bạn học của nhau, đã tốt nghiệp đại học, nhưng B chưa xin được việc làm. Dĩ nhiên câu nói này chỉ có A và B hiểu, người ngoài không hiểu theo nghĩa “thất nghiệp”, “ăn bám”,…

"Nghĩa bóng về “nhà báo” với nghĩa tiêu cực như vậy không phù hợp để đưa vào từ điển. Từ “nhà báo” là người chuyên làm nghề viết báo (theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê biên soạn), chứ không có nghĩa chuyển chỉ người “thất nghiệp, ăn bám, báo cha, báo mẹ”, ông Hoài nói.

Ông cũng cho rằng, từ “nhà báo” không có trong phương ngữ Nam Bộ, mà chỉ xuất hiện trong một ngữ cảnh hẹp, mang tính trêu đùa, giải trí là chủ yếu. Phương ngữ là hệ thống ngôn ngữ được dùng cho một tập hợp người nhất định trong xã hội. Ngoài ra, về bản chất “nhà báo” là người hoạt động báo chí được cấp thẻ nhà báo theo quy định của Luật Báo chí năm 2016.

Tác giả giải thích dùng từ với nghĩa bóng, không chỉ những người làm nghề báo mà là câu nói trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, theo ông Hoài là không thuyết phục về chuyên môn. Cuốn từ điển này cần chỉnh sửa ở lần tái bản hoặc thu hồi, tiêu hủy, vị này đề xuất.

(Hà Cường - Từ điển định nghĩa 'nhà báo là ăn bám': Đại diện nhà xuất bản nói gì?
https://vtc.vn/tu-dien-dinh-nghia-nha-bao-la-an-bam-dai-dien-nha-xuat-ban-noi-gi-ar680838.html
)


Trao đổi với PLO, PGS.TS. Ngôn ngữ học Lê Khắc Cường, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng bày tỏ: "Tôi chưa từng nghe ai chơi chữ theo cách này cả".

Định nghĩa về nhà báo: Cần rà soát lại các ấn phẩm từ điển trên thị trường ảnh 1

Định nghĩa về Nhà báo trong cuốn Từ điển gây xôn xao dư luận. Ảnh: Zing

“Có thể vì tôi không phải là người nói phương ngữ Nam Bộ và cũng không sống ở Tây Nam Bộ - vùng phương ngữ chính mà TS. Huỳnh Công Tín dựa vào để xây dựng cuốn “Từ điển từ ngữ Nam Bộ”. Tuy nhiên, tôi có hỏi thăm bạn bè, đồng nghiệp ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long thì một số người nói cũng có nghe, dù không thật phổ biến. Những cách chơi chữ phổ biến hơn là “báo đời, báo cô, báo hại, báo cơm”- ông Cường nói.

Cũng theo ông Cường, từ điển có thể giải thích nghĩa gốc và nghĩa phái sinh của một từ. Nghĩa gốc là nghĩa ban đầu, nghĩa cơ sở của từ. Nghĩa phái sinh là những nghĩa xuất hiện sau nghĩa ban đầu, trong đó có nghĩa bóng.

Định nghĩa về nhà báo: Cần rà soát lại các ấn phẩm từ điển trên thị trường ảnh 2

PGS.TS. Ngôn ngữ học Lê Khắc Cường.

Trừ từ điển từ mới, còn các từ điển giải thích khác có một nguyên tắc là chỉ chọn giải thích những từ ngữ phổ biến, ý nghĩa hay khái niệm của chúng (các nhà chuyên môn gọi là nghĩa biểu niệm) đã ổn định và được công chúng sử dụng nhiều trong giao tiếp.

Do vậy, việc đưa nghĩa bóng theo kiểu chơi chữ “Nhà báo được diễn giải là những người không có công ăn việc làm, thất nghiệp, đang ăn bám vào gia đình", theo ý kiến của cá nhân tôi là thiếu cân nhắc.

Quan trọng hơn, với những nghĩa có tính tiêu cực, đụng chạm đến một nghề nghiệp hay những người làm một nghề nghiệp nào đó trong xã hội thì cần hết sức thận trọng.

“Từ điển, do tính chất đặc thù của nó, có thể tác động đến kiến thức và cả nhận thức của nhiều người nên người làm từ điển càng phải thận trọng, thận trọng gấp đôi. Với những trường hợp “nhạy cảm” như thế này thì ví dụ dẫn trong từ điển nhất thiết phải được trích từ văn bản, tác phẩm,… có độ tin cậy, được nhiều người biết thay vì do tác giả tự điển tự viết hoặc nghe ai đó nói rồi viết lại”- PGS.TS. Ngôn ngữ học Lê Khắc Cường bày tỏ.

Từ đó, ông Cường cũng đề nghị nhân vụ việc này, mong Hội Ngôn ngữ học Việt Nam rà soát lại các ấn phẩm từ điển trên thị trường để bảo vệ uy tín của mình.

Ngoài việc giải thích nghĩa của từ ngữ, theo ông, tác giả cũng cần xem lại việc phiên âm vì nhiều chỗ chưa thật chuẩn, cả phiên âm âm vị học (phiên âm giữa hai dấu /-/) và phiên âm ngữ âm học (phiên âm giữa hai dấu [-]).

Cũng tỏ ra bất ngờ với định nghĩa nhà báo trong từ điển nêu trên, PGS.TS Nguyễn Thị Phương Trang (Trường ĐH KHXH&NV) cho biết, bản thân bà cũng chưa nghe cách nói này.

“Tất nhiên tôi là người Bắc và tôi không sống ở Miền Tây Nam Bộ, nhưng tôi sống ở miền Nam hơn 20 năm rồi chưa nghe cách nói như thế với nghĩa phương ngữ. Đó chỉ là kiểu đùa không phải là định nghĩa trong từ điển”- bà Trang nói.

(Viết Thịnh - Định nghĩa về nhà báo: Cần rà soát lại các ấn phẩm từ điển trên thị trường

https://plo.vn/dinh-nghia-ve-nha-bao-can-ra-soat-lai-cac-an-pham-tu-dien-tren-thi-truong-post684843.html)

Nguyễn Phương Trang là ái nữ của cố giáo sư Nguyễn Quang Hồng, người viết lời giới thiệu quyển từ điển của Huỳnh Công Tín (2007). Bà Trang (và các vị chỉ thắc mắc về mục từ NHÀ BÁO) có thể đọc (hoặc đọc lại) lời giới thiệu dài hơn hai trang của thân phụ bà Trang để hiểu rõ mục đích và giới hạn khối lượng công việc mà người biên soạn quyển từ điển đó đã xác định khi thực hiện công trình. Cũng nên đọc thêm phần tác giả thuyết minh về nội dung và cấu tạo của từ điển (Huỳnh Công Tín, 2007:16-26) để tránh sự vọng văn sinh nghĩa.


Ông Huỳnh Công Tín chắc chắn rành lời ăn tiếng nói của người Nam Bộ hơn tất cả các vị đã dẫn ở trên. Nếu trong lời ăn tiếng nói của người Nam Bộ có hiện tượng nào các vị chưa bao giờ nghe, chưa bao giờ gặp thì đó cũng là chuyện rất bình thường. Đã có quyển sách của ông Huỳnh Công Tín có thể giúp quý vị bổ khuyết kiến thức. Trong quyển sách đó ông Huỳnh Công Tín đã cần mẫn ghi chép một số hiện tượng mà ông cho là đáng lưu ý và quý vị cũng nên lưu ý thay vì cưỡng bách người khác chỉ được nói một kiểu, chỉ được hiểu một cách, là cách của quý vị, ở mọi nơi mọi lúc.

Tiện thể ca đô cho quý vị mười từ trong văn xuôi Nam Bộ đầu thế kỷ 20: bắt sua, bom hơi, dầu măn, đão ba tê, la ép ép, làm bong, lính sách tê, giấy xếch, hát xiết, xẩy dê. Tiếc là vì không có ai làm công việc ông Huỳnh Công Tín (2007) đã làm nên người đời sau không cách nào hiểu được lời ăn tiếng nói của người đời trước nữa. Lúc nào cũng sẵn người giảng giải thế nào là ngôn ngữ, thế nào là lời nói, thế nào là phương ngữ, thế nào là chơi chữ, thế nào là từ điển... chứ không mấy ai chịu hì hục làm cái việc ông Huỳnh Công Tín (2007) đã làm.

Sunday 1 May 2016

Năm ấy Bác Hồ không đi thăm rừng Cúc Phương

Năm ấy Bác Hồ không đi thăm rừng Cúc Phương
(http://thptchonthanh.com.vn/BacHo/chuyen76.htm)

    Sinh thời, các chiến sĩ và cán bộ Cục Hàng không thường đưa Bác đi công tác trên chiếc máy bay của nhân dân Liên Xô tặng mang biển số Mi-4 VN 50D. Trong các chuyến đi gần và ít người, các chú phụ trách đã đề nghị Bác dùng trực thăng như trong các chuyến đưa Bác đến Lạng Sơn, Tân Trào, Quảng Ninh...

 

4-1.jpg

 
    Một lần Bác đi công tác Vĩnh Phú, theo chương trình thì chiều là Bác đi ô tô về Hà Nội. Nhưng lần ấy, tối mịt Bác mới xong việc. Anh em trong đoàn vừa lo đường sá, vừa sợ Bác mệt, nên xin điều một máy bay trực thăng để đưa Bác về. Trực thăng đỗ ở sân bóng đá Vĩnh Yên. Tỉnh ủy thưa với Bác và đề nghị Bác lên trực thăng về Hà Nội. Bác cảm ơn rồi nói:
- Bác có ô tô. Bác về Hà Nội bằng ô tô. Chú nào đã điều máy bay lên thẳng thì chú ấy ra ngồi máy bay mà về...
Đầu năm 1969, sau khi nghe Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp báo cáo tình hình rừng cây bị phá hoại, phần thì bom đạn, phần thì dân đốt phá, đẵn làm gỗ, làm củi và “cứ đà này, vài năm nữa ta sẽ hoàn thành kế hoạch... tiêu diệt rừng”. Nhân đó, Tổng cục trưởng mời Bác vào thăm rừng Cúc Phương. Tuy sức không còn khỏe, nhưng Bác vẫn vui vẻ nhận lời và nói:
- Phải đi thăm hang người Việt cổ...
Bác đề nghị bác Nguyễn Lương Bằng thu xếp cho chuyến đi. Anh em đề nghị Bác không đi ô tô nữa mà đi bằng “trực thăng”. Trước hết, Bác uốn nắn:
- Tại sao chú không gọi là “lên thẳng” mà cứ gọi là “trực thăng” ? “Trực thăng” thì hơn gì “lên thẳng”?
- Bác đi ô tô. Các chú cứ cho rằng hễ là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước đi đâu, muốn “đi” gì cũng được à? Không phải thế đâu! Để Bác khỏe lên, Bác đi ô tô đến thăm Cúc Phương. Đi máy bay lên thẳng thì thôi, chờ dịp khác. Máy bay lên thẳng để dành khi nào có đồng bào bị tai nạn, bị đau nặng ở vùng rừng núi hẻo lánh khó chạy chữa thì đưa đồng bào nhanh chóng vào bệnh viện. Sau khi mưa bão, lũ lụt cần hộ đê, cứu dân thì dùng.
    Lần ấy chỉ vì không chịu đi máy bay lên thẳng mà Bác đã không đến được Cúc Phương. Mãi mãi anh chị em công nhân, cán bộ trông nom rừng Cúc Phương không đón được Bác để thực hiện một điều mong ước nhỏ.
Ngày nay, trong rừng Cúc Phương vẫn còn có cái thang của công nhân, cán bộ làm để Bác leo lên thăm hang người Việt cổ. Cái thang ấy không được in dấu chân Người. Ngày ngày, mỗi khi nhìn vào thang, mọi người càng thương nhớ Bác. Họ đặt tên cho cái thang ấy là “Cái thang thương nhớ”.

Phải bảo vệ từng cành cây
    Hôm ấy, tôi có nhiệm vụ mắc đường dây điện thoại qua vườn Phủ Chủ tịch. Tôi đang trèo lên một cây ở ngay cạnh đường thì nghe có tiếng chân người. Tôi nhìn về phía đó thì thấy Bác đi tới. Tôi loay hoay định tụt xuống thì Bác đã giơ tay ra hiệu dừng lại và nhẹ nhàng hỏi:
- Cẩn thận kẻo ngã. Chú trèo cây làm gì?
- Thưa Bác, cháu mắc dây điện thoại ạ!
Trong lúc ấy, tay tôi vít chặt làm gẫy một cành cây nhỏ. Tôi giật mình nhìn Bác, lo lắng. Bác không nói gì chỉ chú ý xem từng động tác của tôi ra dây, mắc dây vào cành cây. Sau đó, Bác chỉ vào một cành cây to ở cạnh ngay chỗ tôi, nói:
- Sao chú không mắc dây vào cành kia, vừa to vừa chắc chắn hơn. Các chú mắc dây cần phải chú ý bảo vệ từng cành cây nhỏ, nếu không làm gì có cây to, cành to mà mắc dây.
Nói xong, Bác đi vào nhà làm việc. Tôi nhìn theo Bác cho đến khi Bác vào hẳn trong nhà. Nhìn vào cành cây vừa gẫy, nhìn vào đường dây đang mắc, tôi càng thấm thía hơn lời dạy của Bác.
(Theo cuốn “Hồ Chí Minh- Một huyền thoại kỳ vĩ”, NXB Lao động)