(TNO) Sau gần 30 năm, di cốt của Giáo
sư (GS) Nguyễn Duy Xuân - Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh Niên
cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa - đã được người con gái đưa từ nghĩa
địa trại cải tạo Ba Sao (Nam Định) về gửi trong một ngôi chùa ở Sài Gòn.
(TNO) Sau gần 30 năm, di cốt của Giáo sư (GS) Nguyễn Duy Xuân - Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh Niên cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa - đã được người con gái đưa từ nghĩa địa trại cải tạo Ba Sao (Nam Định) về gửi trong một ngôi chùa ở Sài Gòn.
GS Nguyễn Duy Xuân - Ảnh: chụp lại tư liệu gia đình GS Xuân
|
Ba ngày làm bộ trưởng
Trước thời điểm 30.4.1975 hai ngày, GS Nguyễn Duy Xuân từ vị trí
Viện trưởng Viện Đại học Cần Thơ lên giữ chức Tổng trưởng Bộ Văn hóa,
Giáo dục và Thanh Niên của chính phủ mới do Tổng thổng Dương Văn Minh
lập.
Ngày 30.4.1975, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trên
đài phát thanh trước đại diện quân giải phóng miền Nam. Chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa chính thức sụp đổ.
|
Sau 1975, qua một thời gian cải tạo ở Thủ Đức, GS Xuân được đưa đi
học tập, cải tạo ở trại Ba Sao thuộc tỉnh Hà Nam Ninh (nay thuộc tỉnh
Nam Định) lúc đó.
Năm 1983, trong một lần ra Hà Nội dự họp, GS Võ Tòng Xuân khi đó là
đại biểu Quốc hội có ý định vô trại Ba Sao để thăm lại vị viện trưởng
của mình khi còn ở Viện Đại học Cần Thơ.
GS Xuân liên hệ với ông Hoàng Xuân Sơn, lúc đó là Giám đốc Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nam Ninh, nhờ ông Sơn giới thiệu với
ban quản lý trại Ba Sao để vào thăm GS Nguyễn Duy Xuân.
GS Võ Tòng Xuân nhớ lại: Gặp lại đồng nghiệp, GS Nguyễn Duy Xuân
rất mừng. Khi đó do giỏi tiếng Anh nên ngoài thời gian lao động, ông
Xuân được trại giao dịch lại một số tài liệu của Mỹ cho chính quyền. Ở
trong trại, hai ông GS đều tên Xuân luận bàn về chỉ thị khoán 100 đang
sôi nổi trong ngành nông nghiệp lúc đó. GS Nguyễn Duy Xuân tỏ ra vui
mừng khi hay tin Đại học Cần Thơ tham gia góp phần hỗ trợ nông dân sản
xuất lương thực, ít nhiều tác động đến chỉ thị khoán 100.
GS Nguyễn Duy Xuân cũng là người ít nhiều tác động GS Võ Tòng Xuân
về nước làm việc. Năm 1972, khi đang công tác ở Viện Nghiên cứu lúa gạo
quốc tế (Philippines), GS Xuân nhận được thư của GS Nguyễn Duy Xuân gợi ý
về nước làm việc.
“Anh Xuân nói đồng bằng sông Cửu Long là cái vựa của lúa gạo nên
rất cần những nhà khoa học về nông nghiệp như tôi. Chiến tranh rồi có
ngày hòa bình, đất nước sẽ cần những người như tôi. Đó là một trong
những lý do tôi về công tác ở Đại học Cần Thơ”, GS Xuân kể lại.
Lần gặp gỡ ở trại Ba Sao là lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng sau
năm 1975 mà GS Võ Tòng Xuân gặp lại GS Nguyễn Duy Xuân. Do tuổi già và
mắc bệnh hiểm nghèo, GS Nguyễn Duy Xuân đã qua đời vào năm 1986 khi đang
ở trại Ba Sao.
Bà
Nguyễn Thị Nguyệt Nga ôm di cốt ba mình gửi lên chùa Thiên Hưng ở đường
Vạn Kiếp, Bình Thạnh (TP.HCM) - Ảnh: chụp lại tư liệu gia đình GS Xuân
|
Giận ba ghê gớm
Bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga – con gái đầu của GS Nguyễn Duy Xuân – cho
hay trước khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, mẹ bà đã dẫn hai
người em kế là Nguyễn Thị Minh Tâm và Nguyễn Như Đức di tản khỏi Sài
Gòn. Ban đầu ba mẹ con sống ở đảo Guam khoảng 8-9 tháng rồi mới sang
Pháp. Riêng bà Nga khi bảy tuổi đã được bà ngoại đưa sang Pháp từ năm
1968.
Sống xa gia đình từ nhỏ, lại không rành tiếng Việt nên với bà Nga,
kí ức về người ba khá mờ nhạt. Số lần mà bà Nga gặp ba mình chỉ đếm trên
đầu ngón tay. Đó là những lần GS Xuân sang Pháp công tác hay lần cô bé
Nga tròn 13 tuổi lần đầu tiên về thăm Việt Nam vào năm 1974.
“Về Việt Nam lần đó, tôi có xuống Cần Thơ thăm ba. Ba dẫn tôi đi
thăm đồng ruộng, thăm Viện Đại học Cần Thơ đang xây dựng. Ba giới thiệu
với tôi chỗ này chỗ kia. Nhớ về ba đó là người rất ham học. Ông thường
giúp đỡ những sinh viên nghèo, giúp học bổng cho họ”, bà Nga nói.
Bà Nga cho biết thời gian GS Xuân cải tạo ở trại thi thoảng gia
đình vẫn gửi thư và nhờ người thân ở Việt Nam vào thăm, gửi lương thực
vào cho ba mình. Ngược lại, GS Xuân cũng viết thư cho vợ con.
“Trong thư ba động viên má đừng buồn, cố gắng giữ sức khỏe để lo
cho con cái. Với ba chị em tôi, ba khuyên phải cố gắng học tập, đặc biệt
là phải đọc nhiều sách và giúp đỡ người khác”, bà Nga xúc động kể.
Dù ba viết thư động viên như vây nhưng những năm sau 1975, có lúc
cô bé Nga giận ba mình ghê gớm. Cô hờn trách và thấy tủi thân khi nghĩ
về ba. Cô không thể lý giải và không ai lý giải cho cô biết là tại sao
trước và sau ngày 30.4.1975, ba cô có cơ hội ra nước ngoài đoàn tụ với
gia đình nhưng ông vẫn ở lại Việt Nam, để mẹ con cô bơ vơ ở đất khách
quê người.
Bà Nga cố kìm xúc động thổ lộ: “Tại sao lúc đó ba không ở bên má để
lo cho chúng tôi mà đi lo cho người khác. Những ngày Sài Gòn hỗn loạn,
gia tài mà má và hai em tôi di tản chỉ là một cái va li nhỏ đựng áo quần
dù trước đó ba đã nhờ cậy Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn giúp đỡ. Sự hờn
trách ba cứ đeo đuổi tôi nhiều năm sau này”.
Theo GS Võ Tòng Xuân, trước ngày 30.4.1975, những người nào có chức
sắc ở Viện Đại học Cần Thơ đều được cấp một tấm giấy coi như giấy thông
hành để ra nước ngoài khi có biến cố. Với chức vụ tương đương bộ
trưởng, GS Nguyễn Duy Xuân có thể ra nước ngoài bất cứ lúc nào nếu muốn
nhưng ông vẫn ở lại Việt Nam.
“Ba muốn ở lại quê hương”
Bà Nga lý giải việc tìm mộ của ba hơi muộn là do khi sang Pháp, cả
gia đình phải lo ổn định cuộc sống. Và những năm ở Pháp, gia đình không
hiểu chính sách Việt Nam có cho phép bốc mộ với những người từng tham
gia chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và bị đưa đi cải tạo hay không.
Thêm lý do nữa, khi di tản, gia đình bà mất hết liên lạc với những người đồng nghiệp của ba ở Viện Đại học Cần Thơ trước đây.
Những năm gần đây, mỗi năm bà Nga dành ra một tháng để về Việt Nam
làm từ thiện, chủ yếu giúp đỡ trẻ dị tật, có hoàn cảnh khó khăn. Khi đó
bà mới chủ động hỏi thông tin để tìm mộ ba mình. Năm 2014, bà Nga liên
hệ với trường Đại học Cần Thơ và được giới thiệu tới gặp GS Võ Tòng
Xuân. Rất tiếc là dịp bà về năm ngoái trùng với đợt GS Xuân công tác dài
ngày ở Ấn Độ nên ước nguyện không thành.
Về phía GS Xuân, sau khi nghe được tâm nguyện của bà Nga, ông âm
thầm nhờ một người quen là ông Lê Quang Mẫn, nhà ở Long Xuyên (An Giang)
nhưng quê ở Nam Định tìm giúp. Trong một lần về quê, ông Mẫn đã lên
trại cải tạo Ba Sao hỏi. Từ những thông tin mà ông Mẫn cung cấp, quản lý
trại đã chỉ ông Mẫn ra nghĩa địa của trại. Ngôi mộ của GS Nguyễn Duy
Xuân được đánh số thứ tự 93.
Nhận được tin, GS Xuân gửi thư điện tử báo để bà Nga về Việt Nam.
Cuối tháng 3.2015, bà Nga về tới Việt Nam. Ngày 29.3, GS Xuân và bà Nga
ra Nam Định, lên trại Ba Sao để làm thủ tục xin bốc mộ. Sau khi bốc lên,
phần xương được hỏa táng, lấy tro bỏ trong tiểu nhỏ. Sau đó, gia đình
đã đưa làm lễ cầu siêu tại một ngôi chùa ở Ninh Bình.
Bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga nhớ về những kỉ niệm với GS Nguyễn Duy Xuân - Ảnh: Trung Hiếu
|
“Cái hay là khi chôn cất, để làm dấu tránh thất lạc, những người
chôn cất đã đặt mấy đồng tiền trong tay anh Xuân. Khi bốc mộ, mấy đồng
tiền vẫn còn nguyên”, GS Võ Tòng Xuân nói.
Ngày 5.4, phần tiểu chứa tro cốt GS Nguyễn Duy Xuân đã được người
con gái đưa về Sài Gòn bằng đường tàu lửa, sau đó đem gửi ở chùa Thiên
Hưng trên đường Vạn Kiếp, quận Bình Thạnh (TP.HCM).
Bà Nga kể nỗi giận hờn ba kéo dài đến năm bà 44 tuổi. Sau này em
trai mất, rồi tới mẹ mất, bà tìm đọc sách Phật, đọc lại tư liệu về ba
mình, tìm đọc về những đất nước có hoàn cảnh chiến tranh, chia cắt như
Việt Nam, bà mới lý giải một phần lý do khi đó ba mình muốn ở lại quê
hương. Vốn là người yêu nước, tính tình hay giúp đỡ người khác lại xuất
phát từ giáo dục nên GS Nguyễn Duy Xuân mong muốn ở lại để góp một tay
xây dựng quê hương sau chiến tranh.
Khi đã hiểu được tâm nguyên của ba, nỗi giận hờn, buồn tủi khi nghĩ
về ba trong bà Nga dường như tan biến. Từ đó, hàng năm bà đều dành một
tháng về Việt Nam giúp đỡ trẻ em nghèo khó như thực hiện một phần tâm
nguyện của ba mình. Khi hiểu ý nguyện của ba, bà Nga rất đỗi tự hào về
người ba của mình.