Thursday 24 October 2019

Nhân văn - Giai phẩm: Nhà văn Thụy An (Nguyễn Ngọc Chính - Hồi Ức Một Đời Người)

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2012


Nhân văn - Giai phẩm: Nhà văn Thụy An

Cuối thập niên 80s tôi có một người học trò tuy tuổi đã cao nhưng cũng cố học Anh văn để được đoàn tụ cùng con cái ở nước ngoài. Đó là nhà văn Thụy An, người đã bị chính quyền miền Bắc thanh trừng trong vụ án Nhân văn - Giai phẩm trong những năm 1955-1957.
Nhưng thôi, chuyện học tiếng Anh của bà cụ chỉ là ‘chuyện nhỏ’, xin nói đến ở phần cuối của bài viết này. Bà Thụy An sinh năm 1916 tại Hà Nội (hơn tôi đến 30 tuổi), nhũ danh Lưu Thị Yến, viết văn, viết báo từ trước năm 1945.
Thụy An là nhà văn nữ duy nhất bị kết án ‘phản động’, ‘gián điệp’… với hình phạt 15 năm cải tạo thuộc ngũ nhân bang Nhân văn - Giai phẩm, dù tác phẩm của bà không phê phán chế độ một cách quyết liệt hay thâm trầm như Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt, Phan Khôi…
Là người có khiếu thơ văn từ nhỏ nên năm 13 tuổi bà đã có thơ đăng trên báo Nam Phong (1929) và 3 năm sau, lại nhận được giải thưởng văn chương của Triều đình nhà Nguyễn. Bà Thụy An đã từng làm chủ nhiệm những tờ Đàn Bà Mới (Sài Gòn), Phụ Nữ Tân Văn (Sài Gòn), Đàn Bà (Hà Nội), một thời là quyền giám đốc Việt Tấn Xã và phóng viên chiến trường
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%A5y_An)

Vũ Ngọc Phan viết trong Nhà văn hiện đại: “Tác giả Thụy An vốn là một nhà thơ. Tôi đã đọc thơ của Thụy An trong ‘Phụ Nữ Tân Văn’, trong ‘Đàn Bà Mới’ và trong tuần báo Đàn Bà”.
Đánh giá về tiểu thuyết Một linh hồn của Thụy An, Vũ Ngọc Phan viết: “Một linh hồn” chính là một tiểu thuyết tình cảm, tả những tính tình rất ngây thơ, rất trong sáng của Vân, một cô gái giàu lòng tín ngưỡng và giống như một bông sen, tuy “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”… Một linh hồn cũng đáng kể là một tiểu thuyết xuất sắc của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay: tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn”.
Chân dung nhà văn Thụy An

Bà Thụy An kết hôn với giáo sư Bùi Nhung, em ruột học giả Bùi Kỷ. Trong thời kỳ Nhân Văn–Giai Phẩm, nhà văn Phan Khôi nhận bà là con nuôi. Sau khi báo Nhân Văn và Giai Phẩm bị đình bản, bà bị bắt năm 1958 và trong phiên tòa xét xử bà tại Hà Nội, nhiều nhân chứng đều cho rằng bà đã có ảnh hưởng không nhỏ đối với một số văn nghệ sĩ tham gia phong trào này. Tuy nhiên, những người trong cuộc như Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt lại phủ nhận sự tham gia của bà trong nhóm.
Theo báo Nhân Dân (ngày 23/04/1958), bà Thụy An bị kết tội gián điệp vì có quan hệ gần gũi với gia đình tướng De Lattre de Tassigny và Giám đốc Sở mật vụ Pháp Marty.
Về vụ xử gián điệp, báo Thủ đô Hà Nội ngày 21/01/1960 (số 382) tr. 4. đưa tin:
“Ngày 19/1/1960, Tòa án Nhân dân Hà Nội đã xử vụ gián điệp có tổ chức do bọn Nguyễn Hữu Đang và Thụy An cầm đầu. Nhiều đại biểu các tầng lớp nhân dân Hà Nội đã tới dự phiên tòa này.
“Bọn gián điệp bị đưa ra xét xử gồm năm tên: Nguyễn Hữu Đang, Lưu Thị Yến tức Thụy An, Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, Phan Tại và Lê Nguyên Chí.
“Ông chánh án Nguyễn Xuân Dương, hai ông hội thẩm Nguyễn Tử Các và Phùng Bảo Thạch đã lần lượt hỏi các tội phạm, và bọn chúng đã được tự do trình bày hết tư tưởng và hành động của chúng trong thời gian phạm pháp.
“Thụy An là một tên gián điệp lợi hại của bọn đế quốc. Khi hòa bình được lập lại, y đã nhiều lần xuống Hải Phòng bàn định kế hoạch hoạt động gián điệp phá hoại với bọn tay sai của Mỹ – Diệm. Sau khi Chính phủ ta tiếp quản Hải Phòng, y trở về Hà Nội, chịu mệnh lệnh của một số phần tử người nước ngoài trong đó có tên là Đuya-răng, thi hành những âm mưu và hoạt động phá hoại miền Bắc nước ta. Âm mưu của chúng nhằm xuyên tạc sự thật, khích động lòng người, gây nghi ngờ, hoang mang chống đối với chế độ dân chủ nhân dân. Chúng gọi thủ đoạn này là thủ đoạn “phá hoại tư tưởng, phá hoại nền tảng chính trị”. Đó chính là một thủ đoạn gián điệp rất quỷ quyệt của Mỹ, tinh vi và độc ác hơn phá hoại bằng vũ khí, – lối gián điệp “tác động tinh thần”, “chiến tranh tâm lý”. Đối với nhiệm vụ gián điệp mà Đuya-răng đã giao cho, Thụy An thú nhận: “Tôi đã làm việc đó một cách thích thú, và nó phù hợp với tư tưởng phản động của tôi”.
“Năm 1956, Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi nhập thành một nhóm. Tháng 9/1956, dựa vào tiền bạc của những phần tử tư sản phản động, bọn chúng xuất bản tờ báo Nhân văn. Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Thực chất tư tưởng của tôi và những người theo tôi là phản động, cho nên lúc đó chúng tôi bàn ra một tờ báo để làm lợi khí chống đối. Tờ báo Nhân văn do chính tôi giữ một vai trò chủ chốt”.
“Thụy An thường xuyên gặp Đuya-răng báo cáo tình hình. Thụy An thú nhận: “Đuya-răng bảo tôi: giờ bà hãy đứng ngoài, nhưng phải để mắt trông nom mọi việc”. Do đó Thụy An không có tên trong tòa soạn báo Nhân văn nhưng y đã tích cực cổ động cho báo Nhân văn…, cho một tay chân của Phan Tại đến giúp việc Nguyễn Hữu Đang. Phan Tại đã vận động người giúp tiền cho Nhân văn, lợi dụng sân khấu, điện ảnh để tiến hành phản tuyên truyền; Minh Đức đã câu kết với một số phần tử xấu như nhóm Trương Tửu xuất bản một số sách nội dung giống như Nhân văn, mục đích đều là chống lại chế độ dân chủ nhân dân.
“Trong những hoạt động phá hoại của bọn Phan Tại, Minh Đức đều có bàn tay chỉ huy của Nguyễn Hữu Đang và Thụy An. Thụy An thú nhận “là cố vấn của Phan Tại”, còn Nguyễn Hữu Đang “là linh hồn của nhà xuất bản Minh Đức” (lời khai của Minh Đức). Hơn thế nữa, Nguyễn Hữu Đang còn mưu đồ thành lập một đảng chính trị phản cách mạng.
“Sau khi báo Nhân văn bị đóng cửa, bọn Nguyễn Hữu Đang và Thụy An vẫn câu kết chặt chẽ với nhau và tiếp tục hoạt động gián điệp phá hoại. Thụy An thú nhận: “Sau khi báo Nhân văn bị đình bản tôi vội đến báo cáo tình hình với Đuya-răng và xin chủ trương. Đuya-răng bảo tôi: Lúc này là lúc bà phải đi sát với họ”. 

Nguyễn Hữu Đang và Thụy An lấy nhà Phan Tại làm một “câu lạc bộ” bí mật, tụ tập một số phần tử phản cách mạng chuyên đem những luận điệu phản tuyên truyền của bọn Mỹ – Diệm và những sách báo phản động của bọn đế quốc ra bàn và thảo luận những âm mưu phá hoại mới. Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Trong thời gian đi lại với Thụy An, những câu nói phản tuyên truyền của chúng tôi rất nhiều, và tôi nhận rằng tôi đã bịa đặt ra những việc không đúng sự thật và đã gây tai hại là gieo rắc hoang mang và hoài nghi…”
“Trong khi Nguyễn Hữu Đang và Thụy An ra sức “tác động tinh thần” như vậy, thì Minh Đức được Đang giới thiệu với những phần tử tư sản phản động cung cấp cho hàng triệu đồng (tiền cũ), cho in lại hàng loạt sách của thời thuộc Pháp để tiếp tục đầu độc các tầng lớp thanh niên, còn Phan Tại thì lợi dụng việc tập kịch, ca hát để phục hồi nếp sống trụy lạc, đồi bại của thời tạm bị chiếm. Đến khi chúng thấy âm mưu và hoạt động của chúng bị bại lộ, chúng định trốn vào Nam để tiếp tục làm tay sai cho Mỹ – Diệm. Lê Nguyên Chí thú nhận: “Đang nói với tôi, Đang vào theo Mỹ – Diệm sẽ được chúng tin dùng và sẽ làm được những việc lớn”. Đang cùng Lê Nguyên Chí chuẩn bị trốn đi Nam.
“Sau khi luật sư Đỗ Xuân Sảng bào chữa cho các tội phạm, căn cứ vào chính sách xét xử và trừng trị của Tòa án nhân dân là nghiêm trị bọn chủ mưu và bọn ngoan cố, khoan hồng với những người lầm đường, bị lừa gạt đã biết hối cải, Tòa án đã tuyên án:
(1)   Nguyễn Hữu Đang, 15 năm phạt giam, 5 năm mất quyền công dân;
(2)   Lưu Thị Yến tức Thụy An, 15 năm phạt giam, 5 năm mất quyền công dân;
(3)   Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, 10 năm phạt giam, 5 năm mất quyền công dân;
(4)   Phan Tại, 6 năm phạt giam, 3 năm mất quyền công dân;
(5)   Lê Nguyên Chí, 5 năm phạt giam, 3 năm mất quyền công dân.
Bà Thụy An
(người đứng giữ trong số 5 bị cáo Nhân văn-Giai phẩm)
Báo Quân đội nhân dân ngày 21/01/1960 viết về bà Thụy An:
“Thụy An tên thật là Lưu Thị Yến, trước Cách mạng tháng Tám đã từng làm tay sai cho bọn Mác-ty, Gờ-răng-giăng là những tên trùm mật thám thực dân ở Đông Dương. Khi toàn dân ta hy sinh gian khổ để kháng chiến, Thụy An được giặc tin dùng, cho làm Phó giám đốc Việt Tấn xã, một cơ quan tác động tinh thần của địch, chuyên phản tuyên truyền, chống kháng chiến. Nó đã có mặt ở nhiều nơi xảy ra chiến sự, trên xe bọc sắt của bọn võ quan cao cấp Pháp hay bọn chỉ huy cao cấp bù nhìn. Khi hòa bình vừa lập lại, nó chạy ra vùng tự do khai với chính quyền ta xin ở lại. Ở lại để làm gì, những sự việc trên đã cắt nghĩa khá rõ ràng.
“Bọn Nhân văn – Giai phẩm còn tung ra một loạt “tác phẩm” để minh họa cho “chính sách” phản động của chúng. Phan Tại viết và diễn một loạt kịch ‘Ghế chợ giời’, ‘Bù nhìn bắp cải’, ‘Hai con chuột’ để tuyên truyền cho nếp sống đồi trụy, đề cao thế lực đồng tiền, dùng danh từ mập mờ trên sân khấu để đả kích kháng chiến, khuyến khích người bỏ trốn đi Nam. 

Trần Duy viết ‘Những người khổng lồ’, ‘Tiếng sáo tiền kiếp’ để đả kích những người cộng sản, tuyên truyền cho thứ nghệ thuật đồi trụy, nuối tiếc thời nô lệ. Thụy An viết ‘Thiếu úy Nguyễn Lâm tòng quân’, ‘Trên bàn mổ’ để phục vụ bọn đế quốc, ca tụng bọn Việt gian bán nước, đả kích sự lãnh đạo của Đảng. Chúng sáng tác với một dụng ý rất thâm độc. 

Thụy An thú nhận trước Viện công tố: “Tôi viết truyện ‘Thiếu úy Nguyễn Lâm tòng quân’ để nói rằng trong tên Việt gian bán nước cũng có con người. Tôi viết truyện ‘Trên bàn mổ’ để nói lên là chuyên môn không phụ thuộc vào chính trị”. Những lời thú nhận đó càng xác nhận một lần nữa rằng bọn Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Phan Tại đã dùng vũ khí văn nghệ để hoạt động phản cách mạng.
***
Bà Thụy An là người phụ nữ duy nhất - ở trong hay ở ngoài phong trào - bị kết án làm gián điệp. Bà là một trường hợp đặc biệt, theo Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang, bà không ở trong Nhân Văn - Giai Phẩm, vậy mà tên bà được nêu lên hàng đầu trong hàng ngũ phản động với nhãn hiệu “Con phù thủy xảo quyệt” và những lời lẽ độc địa nhất dành cho bà: “Như vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn bò tới các câu lạc bộ Hội Nhà văn phun nọc độc mạt sát chế độ ta bần cùng hoá nhân dân”.
Vụ án Thụy An có phải là một vụ án chính trị hay là một sự quy kết oan uổng?
Nhà báo Nguyễn Hữu Đang (một trong những người sáng lập nên Hội truyền Bá Quốc ngữ, nguyên Thứ trưởng Bộ Thanh Niên và là người chỉ huy dựng Lễ đài Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân) khẳng định với RFA (Đài châu Á Tự do), nguyên văn như sau:
Bà Thụy An không tham gia gì vào nhóm Nhân Văn Giai Phẩm cả. Bà ấy không viết một bài, một câu, một chữ nào cho Nhân Văn cả. Bà ấy cũng không hề mách nước, bàn bạc gì với người khác hay với tôi bao giờ cả. Không, không hề có, tuy rằng có quan hệ, thỉnh thoảng có gặp nhau, cũng nói chuyện”.
Ông Nguyễn Hữu Đang
Nhà thơ Lê Đạt cho biết: “Tôi nhắc lại một lần nữa là chị Thụy An chưa bao giờ ở trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm cả. Nhưng chị Thụy An rất thân với anh em trong Nhân Văn Giai Phẩm và đặc biệt là thân với tôi. Người ta buộc tội chị Thụy An, người ta cứ buộc tội mập mờ thế thôi, nhưng tội chính của chị Thụy An là thế này: Là gián điệp cài lại để lũng đoạn nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Nhưng cho đến khi tôi biết thì tôi cũng chẳng thấy chị ấy viết bài nào cho Nhân Văn Giai Phẩm cả. Thế mà chị ấy đối với tôi thì lại rất quý, chị ấy luôn luôn mua đồ đạc cho tôi, cho vợ con tôi, và tôi cũng chẳng thấy chị ấy bàn với tôi về việc viết một bài nào cho Nhân Văn Giai Phẩm cả. Thế cho nên việc ấy tôi cho cũng là một cái oan rất lớn.
Tôi có thể bảo đảm 100% chị ấy không phải là gián điệp. Tại vì thế này: Nếu là gián điệp thì phải có chứng cớ chứ! Chị nhận tiền của ai? Nhận tiền ở đâu? Liên lạc với ai? Cho đến bây giờ tôi vẫn thấy đó là một câu hỏi mà nhà nước chưa trả lời tôi được. Chưa có chứng cớ thì làm sao có thể kết luận người ta là gián điệp được. Thì cứ cho tôi là người mù mờ đi, tôi bị chị mua chuộc đi. Tôi nhớ lại tất cả cuộc đời của tôi, thì chị ấy chưa mua chuộc tôi lần nào cả. Và chị ấy chỉ giúp đỡ tôi rất nhiều. 

Cho nên đến bây giờ tôi thấy là: Riêng về trường hợp chị Thụy An, tôi vẫn rất ân hận. Tại vì chúng tôi đã được phục hồi nhưng chị Thụy An chưa được phục hồi gì cả. Mà một trong những tội lớn nhất của chị ấy là mua chuộc tôi. Thì như các bạn đã biết, tôi chưa từng cảm thấy bị mua chuộc mà chắc cũng chưa ai mua chuộc được tôi. Cho nên tôi thấy riêng tôi bây giờ nói những dòng này, tôi vẫn khao khát và thiết tha có một dịp nào đó, người ta phục hồi chị Thụy An một cách chính thức. Không có thì riêng tôi, tôi đối với chị Thụy An, tôi vẫn cho là món nợ.
Còn về chị Thụy An, tôi phải nói thế này: Chị Thụy An là một người rất giỏi. Chị ấy là một trong những cây bút nữ đầu tiên của Việt Nam. Mà theo tôi, chị Thụy An nói kín hở cho tôi biết, thì chị ấy đã từng tham gia kháng chiến! Việc liên lạc với kháng chiến trong thời ấy thì mình mất mối là chuyện bình thường, mà mất mối thì mình không thể chứng minh được. 

Bây giờ cũng đã lâu rồi, đã gần 50 năm rồi. Tôi thấy chúng ta có thể mở những kho tài liệu ra để buộc tội hoặc minh oan cho một người cho rõ ràng và khi mình đặt rõ ràng về phận vị rồi thì mình phải trả lại danh dự cho người ta. Và lúc đó chúng ta hãy bàn đến vấn đề chị Thụy An đóng góp gì trong cái phong trào thời ấy. Lúc đó chúng ta có đủ bình tĩnh hơn để bàn về vấn đề này. Riêng tôi thì không bao giờ tôi quên công của chị Thụy An đối với tôi cả”.
Nhà văn Lê Đạt
Năm 1973, bà Thụy An cùng với Nguyễn Hữu Đang được thả trong diện “Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris”. Sau năm 1975, bà làm đơn xin vào Nam sinh sống để hy vọng được đoàn tụ với các con tại nước ngoài và đó cũng là lý do tôi trở thành người kèm Anh văn cho bà.
Trong “Hồi ký của một thằng… hèn”, có đoạn nói về Nhân văn - Giai phẩm. Nhạc sĩ Tô Hải, người đã soạn hàng trăm ca khúc ca tụng ‘đảng quang vinh’, đã viết: “Tôi… run khi Phùng Quán rủ tôi đến chơi một “nhà văn nữ có thể đọc ngược Hamlet (!) bằng tiếng Anh”: Thụy An” [sic].
Có lẽ vào thập niên 50-60 nhạc sĩ Tô Hải khi đó còn hăng say phục vụ cách mạng chứ chưa như thập niên 2000s đã ‘giác ngộ’ cách mạng nên mới nghĩ rằng trình độ Anh văn của bà Thụy An ở mức thâm hậu đến độ có thể ‘đọc ngược’ Hamlet của Shakespear. Không có điều gì để trách ông Tô Hải vì những gì ông biết về bà Thụy An chỉ thông qua bộ máy báo chí thời kỳ đó…  
Tuy nhiên phải nói lại cho đúng: Đây là chi tiết sai sự thật vì nếu bà Thụy An có trình độ tiếng Anh như ông Tô Hải mô tả thì chắc chắn tôi là người phải xin thọ giáo bà chứ không phải là người giúp bà học những câu như “How are you?” hoặc “My name is Yến”.
Thật trớ trêu, hồi xưa tôi lại là học trò của con bà, thầy Bùi Dương Chi, dạy Anh văn trên Ban Mê Thuột. Nhân vật Phong, trung úy biệt kích 81 trong truyện ngắn Năm tháng khó quên có phần hư cấu từ những chuyện bà kể về gia đình mình. Tôi đã lồng Phong vào hoàn cảnh gia đình đó, nhưng nhân vật Phong lại đội lốt trung úy pháo binh Ngô Nghĩa, người đã trốn trại cải tạo và bị xử bắn ngay sau khi bị phát hiện tại phi trường L19, Trảng Lớn.
Trong Năm tháng khó quên, gia đình Phong phải đối mặt với vấn đề vào Nam hay ở lại Hà Nội năm 1954. Bốn anh em cũng được hỏi ý kiến: muốn theo bố vào Nam hay ở lại Hà Nội với mẹ. Đến lượt Phong, chú bé đỏ mặt tía tai vì giận dữ: “Ông chẳng theo đứa nào hết!!!”. Theo lời kể của bà Thụy An, chính thầy Bùi Dương Chi đã nói câu đó trong phút tức giận của một chú bé đứng trước hoàn cảnh ly tan của gia đình!
Chân dung nhà văn Thụy An 
(trong cuốn "Nhà Văn hiện đại")
Tôi học hỏi rất nhiều điều từ bà Thụy An. Bà là một phụ nữ gầy còm, ốm yếu sau những năm dài cải tạo nhưng cũng từ dáng người mảnh khảnh đó tỏa ra một sức mạnh tinh thần đáng nể phục.
Trong thời gian cải tạo bà đã tự hủy hoại một con mắt để từ đó trở đi “chỉ nhìn đời bằng một con mắt”. Một hành động, theo tôi, là dũng cảm đối với một phụ nữ. Trên thế gian này chưa chắc có được một người đàn ông - chứ không nói gì một người phụ nữ - đủ can đảm, thừa nghị lực để tự chọc vào mắt mình!
Năm 1958, bà Thụy An đã từng nói: “Thế giới chỉ cần vài trăm người đàn ông đàn bà QUẢ CẢM. Thực hành QUẢ CẢM đó là những người dám tin vào CHÂN LÝ, dám diễn đạt CHÂN LÝ trong cuộc sống. Những người không run sợ trước CÁI CHẾT, hơn nữa còn chào mừng CÁI CHẾT…
Trong thời gian đầu khi bị giam giữ chờ ngày ra tòa, bà đã vượt qua mọi hình thức cân não, đấu tranh tư tưởng của cán bộ chấp pháp. Tuy nhiên, theo lời bà, sự căng thẳng duy nhất, khó vượt qua nhất, lại là tiếng giọt nước nhỏ đều đều suốt đêm từ robinet đâu đó vang đến phòng giam. Từng giọt… từng giọt… suốt đêm này qua đêm khác khiến thần kinh căng lên như giây đàn giữa đêm thanh vắng…

Truyện ngắn Thu Hương tôi đề cập đến trong Hồi ức một đời người (Chương 7: Thời Mở Lòng) cũng dựa theo một ý tưởng của bà Thụy An: con người có cái đầu, nói rõ hơn bộ não, là hoàn toàn của mình, không một sức mạnh nào, không một thế thế lực nào có thể xâm phạm vào quyền sở hữu riêng tư đó.
Đây là quan điểm chính trị của bà Thụy An nhưng trong truyện Thu Hương tôi kể lại cuộc tình của một người đàn ông có vợ nhưng vẫn ngoại tình, anh ta ‘kê cả một cái giường trong đầu để ân ái với người tình trong khi vẫn nằm bên vợ’. Một trường hợp đồng sàng dị mộng vẫn thường xảy ra trong cuộc sống tình cảm ngang trái của con người. Rất tiếc, bản thảo truyện Thu Hương nay đã thất lạc, không biết sau này tôi có đủ thời gian và kiên nhẫn để viết lại hay không.
Những ngày cuối đời, bà Thụy An sống cô đơn trong gian nhà nhỏ thuê gần đường Bùi Hữu Nghĩa, bên hông chợ Bà Chiểu, Sài Gòn. ‘Bạn vong niên’, theo lời bà vẫn thường nói đùa, chỉ có tôi năng lui tới.
Khi có quà của con cháu gửi từ nước ngoài về bà không quên chia xẻ với gia đình tôi: một cục xà bông Dial bà cắt làm đôi, phần tôi một nửa. Tuần sau bà lại cắt cho tôi một nửa phần còn lại, “Tôi chỉ cần ¼ cũng đủ rồi, anh đem nốt về cho các cháu dùng”.
Mang tiếng là kèm cho bà tiếng Anh nhưng thực ra công việc quan trọng nhất của tôi là chuyện trò với bà và dịch một số thơ của bà sang tiếng Anh. Đa số là trường ca lục bát kể lại những chuyện xưa như Thiếu phụ Nam Xương, Truyện trầu cau, Hòn vọng phu… Tôi đã bỏ ra rất nhiều công sức để dịch những trường ca của bà sang thơ bằng tiếng Anh.
Tôi làm công việc này với tất cả trân trọng của một người cảm thấy trách nhiệm của mình trước những tâm huyết bà dành cho người phụ nữ Việt Nam. Bản dịch được bà chuyển sang Mỹ, sang Pháp cho con cháu để hiểu rõ hơn về thân phận người phụ nữ Việt Nam, một đề tài mà trong những năm cuối đời bà theo đuổi.
Trong những năm tháng cuối cùng tại Sài Gòn, bà Thụy An có tham vọng dùng văn thơ để diễn tả những nghịch cảnh người phụ nữ Việt Nam phải đương đầu trong suốt chiều dài lịch sử. Thiếu phụ Nam Sương với nỗi oan khiên khi đêm đêm dùng cái bóng của mình trên vách để dỗ dành con trong lúc chồng đi chinh chiến. Đứa con ngây thơ không chịu nhận cha thật của nó khi chinh chiến trở về, thậm chí còn thẳng thừng từ chối “không, không cha tôi đến tối mới về…”. 
Trong Sự tích trầu cau, sự hiểu lầm của cặp song sinh Tân-Lang giống nhau như hai giọt nước đã khiến người vợ phải tuẫn tiết để minh oan cho những ngộ nhận giữa cả ba người. Cuối cùng thì họ đã biến thành lá trầu, cây cau và cục vôi để vĩnh viễn hòa quyện với nhau.
Hòn vọng phu, người ta tìm thấy tấm lòng chung thủy của người phụ nữ ôm con chờ chồng đi chinh chiến miền xa. Dù chờ cho đến hóa đá, một tình tiết mang tính cường điệu, nhưng vẫn biểu hiện tấm lòng của người phụ nữ trong cuộc sống bình thường. 
Suốt thời kỳ chiến tranh, người phụ nữ Việt Nam lại phải đương đầu với những tang tóc của chồng con trong cuộc chiến. Dù đó là bà mẹ miền Bắc hay miền Nam nhưng vẫn chung một niềm đau mất chồng, mất con…. Đến lúc hòa bình họ cũng vẫn chưa được hưởng những phút giây thanh thản khi chồng con phải ly tán trong trại học tập cải tạo. Hình như số phận của người phụ nữ Việt Nam lúc nào cũng hẩm hiu và bế tắc.   
Nữ văn sĩ Thuỵ An mất tại Sài Gòn năm 1989 khi chưa kịp sang Hoa Kỳ đoàn tụ cùng con cái. Đám tang của bà chỉ có vài người họ hàng thân thuộc và chòm xóm. Tôi nghĩ bà mất trong niềm hy vọng đoàn tụ là một đoạn kết có hậu (happy ending) vì nếu còn sống, niềm hy vọng đó sẽ mỏi mòn đối với một bà cụ sau khi đã cống hiến quãng đời 15 năm và một con mắt tại trại cải tạo Lý Bá Sơ ngoài miền Bắc. 
Hình như chúng ta vẫn nợ Một Lời Kết về bà Thụy An. Những người trong cuộc đã minh oan cho bà, vấn đề còn lại là trả lại danh dự cho một người đã khuất.
***
Trích Hồi ức một đời người, Chương 6: Thời Điêu Linh
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
  1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
  2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
  3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
  4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
  5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
  6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
  7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
  8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
  9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ) 
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
***
6 Comments on Multiply
nguoigiaonline wrote on Oct 18, '10
Hay quá anh ạ, và muốn nói một điều chi về những gian truân mà bà hay cả dân tộc mình đang oằn mình chịu đựng... chỉ trong một từ "Cộng sản mà"!
may9teen wrote on Oct 18, '10
Ca'm o+n anh Chinh
tanivioleta1 wrote on Oct 18, '10
Thế giới chỉ cần vài trăm người đàn ông đàn bà QUẢ CẢM. Thực hành QUẢ CẢM đó là những người dám tin vào CHÂN LÝ, dám diễn đạt CHÂN LÝ trong cuộc sống. Những người không run sợ trước CÁI CHẾT, hơn nữa còn chào mừng CÁI CHẾT…
THẬT ĐÁNG KHÂM PHỤC.
nguyenngocchinh wrote on Feb 7, '11
Tôi nhận được email của thầy Bùi Dương Chi về bài viết NVGP trên mạng Da Mầu. Nguyên văn như sau:

Chính thân mến,
Cách đây mấy ngày, tôi vào mạng Da Mầu va thấy bài này và tên N-N-Chính. Tôi tự hỏi không biết ai lại trùng tên như vậy. Tôi không nghĩ là anh. Tôi không đọc truyện vì lúc đó đang bận cái vụ Bài Trắc Nghiệm (bây giờ cũng còn bận) nên chỉ ngó qua các tiêu đề!!!!
Bài rất hay. Có đoạn anh viết về NVGP, tôi thấy từa tựa như má tôi (anh chắc biết chuyện vì đã dậy AV má tôi và dịch giùm truyện).
Tôi cũng viết và hy vọng sẽ đưa lên Da Mau hoac Talawas. Bây giờ có nhiều Blogs đứng đắn, sẽ có nhiều cơ hội để tham gia. Tôi thấy anh và tôi có loại sinh hoạt rất lý thú nhất là khi bắt đầu vào tuổi nhàn hạ.
BDChi
kennytran wrote on Sep 23, '11
The gioi hen ha, de tien cua bon CSVN chi dang nhin bang mot con mat.
Giam giu, day doa mot tai nang 15 nam trong tu khong bang chung, roi sau do giet chet bang cach bao vay, co lap, tuyen truyen voi ca bo may nha nuoc voi mot nguoi dan ba co the con gi da man hon.
Thuy An la mot nha van nu voi mot nhan cach lon, toi luon kinh phuc, cam on NNC cho nhung tu lieu qui gia.
songhong wrote on Sep 25, '11
Anh thật có duyên đã được tiếp xúc và gần gủi nhiều nhân vật lịch sử của nước mình.

Wednesday 23 October 2019

Về vụ án Nguyễn Hữu Đang, Thụy An (Đôi lời trao đổi với bà Thụy Khuê) (Nguyễn Xuân Đức - Hồn Việt Quốc Học)

Trước hết, xin thổ lộ đôi điều về duyên cớ có bài viết này. Tôi sinh gần như cùng thời với bà Thụy Khuê ở một tỉnh miền Trung xa xôi. Khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm xảy ra, có lẽ cũng như bà Thụy Khuê, tôi còn nhỏ chẳng biết gì. Lớn lên, học đại học khoa văn mới được biết về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm qua bài giảng của thầy giáo, dĩ nhiên theo quan điểm chính thống của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng rồi nghề mọn văn chương không thuộc khu vực này nên dù về sau có tiếp xúc với một số tài liệu viết về trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, tôi cũng đọc cho biết rồi bỏ đó.
Ông Nguyễn Hữu Đang
Đầu năm 2007, “sự kiện” đầu tiên làm tôi chú ý là sau khi bác Nguyễn Hữu Đang mất, tôi được đọc 2 bài viết: một của bác Phùng Quán nhan đề Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập, do báo Tuổi Trẻ đăng lại và bài Vĩnh biệt vị trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập của nhà sử học Dương Trung Quốc, đăng trên báo Người Lao Động. Hai bài báo này đã đem lại những thông tin mới, thậm chí trái ngược với những gì tôi được học trước đây về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Tuy vậy, nghĩ những vấn đề đó không thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình nên đọc rồi, tôi cũng bỏ đó. Năm 2012, ở cái tuổi nghỉ ngơi, tình cờ tôi được đọc cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc của bà Thụy Khuê (ngay từ những chương phát trên mạng), thì sự tò mò trong tôi trỗi dậy. Bằng cách tập hợp, phân tích một khối lượng tư liệu khá lớn, tác giả đưa ra những nhận xét, đánh giá về nhiều con người liên quan đến phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Nếu tính về thời gian thì cuốn sách này được viết từng phần, đã công bố dần trên đài RFI từ hàng chục năm trước, nay được tập hợp lại, in thành sách dưới một tên chung Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc. Nói điều này tôi vừa muốn ghi nhận công thu thập tài liệu, gặp gỡ nhân chứng và suy ngẫm suốt một quá trình dài như một nhà khoa học của tác giả về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nhưng cũng muốn nói về những gì thiếu nhất quán, thiếu tập trung, là sự gán ghép chẳng ăn nhập nhau lắm giữa các mảng nội dung của cuốn sách. Đặc biệt, dường như bị mục tiêu phê phán Nhà nước Cộng sản Việt Nam chi phối, nên tác giả đã sử dụng sai lệch nhiều tư liệu có được, làm giảm đi tính khách quan, khoa học của công trình. Thiết nghĩ, dù phê phán hay bênh vực bên nào thì làm khoa học cũng cần sự sòng phẳng, sòng phẳng trong sử dụng tài liệu và cũng sòng phẳng cả trong cách tiếp cận vấn đề. Trong bài viết này tôi muốn trao đổi cùng bà Thụy Khuê đôi điều chung quanh vụ án nhà hoạt động văn hóa Nguyễn Hữu Đang và nhà báo Thụy An. Bài viết của tôi xin được sử dụng những tài liệu do chính bà Thụy Khuê cung cấp trong cuốn sách nêu trên, dù rằng trong tay tôi hiện đã có trên 50 tài liệu khác nhau về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.
1. Nguyễn Hữu Đang - công và tội
a) Nguyễn Hữu Đang - những đóng góp thời kỳ 1949 về trước
Lấy mốc 1949 về trước để chỉ thời kỳ Nguyễn Hữu Đang được Cụ Hồ trọng dụng và việc ông được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương thời gian đó như là lời khẳng định về những đóng góp của ông cho đất nước. Tuy từ năm 1950, Nguyễn Hữu Đang vẫn giữ chức Trưởng ban thanh tra Nha Bình dân học vụ nhưng thực chất ông đã bỏ Hà Nội về Thanh Hóa làm việc cho nhà in Minh Đức. Có thể tóm tắt công trạng của ông trong thời gian từ 1949 về trước như sau:
- Là người có năng lực tổ chức, có tư tưởng đổi mới; đã tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn hóa cứu quốc; có đóng góp lớn trong Hội Truyền bá quốc ngữ và phong trào văn hóa cứu quốc, chống nạn mù chữ.
- Đã giữ các chức vụ cao trong hệ thống Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, Thứ trưởng Bộ Thanh niên, Chủ tịch Ủy ban vận động Mặt trận văn hóa, Trưởng ban tuyên truyền xung phong Trung ương, Trưởng ban thanh tra Nha Bình dân học vụ…
- Từng được Hồ Chí Minh trọng dụng, trong đó có việc giao phó nhiệm vụ khó khăn - làm Trưởng ban tổ chức Lễ tuyên bố Độc lập ngày 2-9-1945.
Những đóng góp nêu trên rất to lớn cần được ghi nhận và chính là cơ sở để sau này ông được xem xét phục hồi những quyền lợi vật chất như cấp lương hưu, cấp nhà ở Hà Nội cùng nhiều đồ dùng sinh hoạt khác.
b) Nguyễn Hữu Đang và vai trò tổ chức chống đối qua Nhân Văn
Nguyễn Hữu Đang là người có tài và có cơ mưu chính trị. Về cá tính, ông là người khó khép mình vào khuôn phép của tổ chức. Ông từng có mối quan hệ tự do với các tổ chức, phe nhóm chính trị khác nhau trong và ngoài nước, điều mà thời kỳ đó kỷ luật Đảng không cho phép. Vì thế, mặc dù lúc 16 tuổi ông đã tham gia tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, rồi Đông Dương Cộng sản đảng, là đối tượng kết nạp Đảng từ năm 1929, nhưng đến năm 1947 mới được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong tài liệu viết tay của mình, sau đoạn “Cuối năm 56 đầu năm 57: Tổ chức, lãnh đạo và biên tập báo Nhân Văn. Giúp đỡ tập san Giai Phẩm, Nguyễn Hữu Đang cũng thừa nhận: “Những hoạt động này là tự ý làm ngoài công tác, vô tổ chức”.
Năng lực và cá tính ấy đã tạo ra bước rẽ lớn của Nguyễn Hữu Đang khi ông bất đồng ý kiến với ông Trường Chinh, người đang giữ chức vụ cao trong Đảng, trong đó có vai trò lãnh đạo văn nghệ. Chính Thụy Khuê đã nhận rõ vấn đề này trong khi viết về Nguyễn Hữu Đang.
Ngay từ thời kỳ theo cách mạng, Nguyễn Hữu Đang đã có tư tưởng khác, không nhận đường lối văn hóa xã hội chủ nghĩa, tự đi ra ngoài trật tự của Đảng, muốn lập một đảng riêng (đảng Nhân văn) với một thể chế chính trị riêng. Từ quan điểm đó, Nguyễn Hữu Đang đã nhanh chóng rời khỏi hàng ngũ của Đảng và tổ chức lực lượng chống đối.
Ở chương viết về Nguyễn Hữu Đang trong cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Thụy Khuê khẳng định: “Trong 6 năm từ 48 đến 54, Nguyễn Hữu Đang đã ngừng mọi hoạt động với chính quyền cộng sản. Ông giúp Trần Thiếu Bảo điều hành Nhà xuất bản Minh Đức, in lại các sách giá trị thời tiền chiến đã bị cách mạng lên án, hoặc cấm lưu hành của Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng v.v…” [Thụy Khuê, sđd, tr.204].
Tuy có những hành động như vậy, nhưng tôn trọng tài năng và đóng góp của ông, nên khi hòa bình vừa lập lại, năm 1954, thực hiện ý kiến của Trường Chinh, Tố Hữu đã mời Nguyễn Hữu Đang ra làm Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội, nhưng Nguyễn Hữu Đang đã từ chối và yêu cầu được làm biên tập báo Văn Nghệ cùng với Lê Đạt [lời chứng của Lê Đạt với RFI và lời Nguyễn Huy Tưởng ghi trong Nhật ký. Nhưng khi trở lại báo Văn Nghệ, Nguyễn Hữu Đang lại tiếp tục bộc lộ quan điểm riêng của mình, gây khó khăn cho những người lãnh đạo, kể cả những người bạn thân. Nguyễn Huy Tưởng đã ghi trong Nhật ký: “Ở đâu cũng thấy không vừa ý, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em tòa soạn khen là chí công, vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến sĩ làm cách mạng bất mãn” (Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, ngày 21-4-1955. NXB Thanh Niên, 2006).
Cho đến nay, không ít người vẫn nghĩ rằng Nguyễn Hữu Đang bị oan trong vụ án xử năm 1960. Có bài báo đã khẳng định Nguyễn Hữu Đang là “vị cách mạng lão thành”, “là người hoạt động cách mạng, nhà báo, nhà truyền bá quốc ngữ nổi tiếng” và để tránh nói về việc Nguyễn Hữu Đang bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội phạt tù, bài báo chỉ hạ một câu: “có cuộc đời long đong…” (Dương Trung Quốc: Vĩnh biệt vị trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập, báo Người Lao Động 25-2-2007).
Ghi nhận công lao đóng góp to lớn cho cách mạng của Nguyễn Hữu Đang giai đoạn 1949 về trước là đúng, nhưng không thể không nhìn thấy mưu đồ riêng của ông đã manh nha từ khi theo cách mạng và được bộc lộ qua hành động chống đối vào những năm sau đó.
Tội của Nguyễn Hữu Đang đã được Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử công khai trong phiên tòa mở ngày 19 tới 21-1-1960, có tranh tụng và bào chữa cho bị cáo của luật sư Đỗ Xuân Sảng, có phát biểu nhận tội của Nguyễn Hữu Đang.
Lần lại hồ sơ, nhân chứng… liên quan đến Nguyễn Hữu Đang, có thể thấy: thái độ chống đối của ông bộc lộ rõ rệt từ tháng 8-1956. Vào ngày cuối cùng của lớp học tập dân chủ do ông tổ chức (từ 8-8 đến 26-8-1956), Nguyễn Hữu Đang đã có bài tham luận chỉ trích gay gắt đường lối văn nghệ của Đảng và những người lãnh đạo văn nghệ, được một số trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến hưởng ứng. Nhà thơ Lê Đạt kể lại: “Trong cuộc học tập này, anh em phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang (…) Trong buổi học tập văn nghệ đó, anh Ðang có đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi - Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ - Ðang nói rằng: “Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm” [Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI, Thụy Khuê thực hiện]. Tờ báo này chính là tờ Nhân Văn, và kết quả tờ Nhân Văn số 1 đã ra vào ngày 20-9-1956 do Phan Khôi làm Chủ nhiệm, Trần Duy làm Thư ký tòa soạn, với một loạt bài của: Phan Khôi, Hoàng Cầm, XYZ, Lê Đạt, Trần Dần…
Rõ ràng manh nha từ trong ý thức, Nguyễn Hữu Đang đã có âm mưu sử dụng người của nhóm Giai Phẩm làm báo Nhân Văn và trong đó không ít tiếng nói trái với đường lối văn nghệ của Đảng. Báo Nhân Văn, vì thế, ra được từ số 1 đến số 5, số 6 định ra vào tháng 12-1956 thì bị đình bản.
Hành động tổ chức chống đối của Nguyễn Hữu Đang, chính những người cùng sống và làm việc với Nguyễn Hữu Đang đều thừa nhận:
+ Về vai trò tổ chức, tập hợp của Nguyễn Hữu Đang đối với nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, nhà thơ Trần Dần khẳng định: “Nếu không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo… mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn” [Trần Dần, Tự thú - tài liệu do Phạm Thị Hoài biên tập và xuất bản tại Paris].
+ Về hành động khuynh loát báo Nhân Văn hướng về mục tiêu chính trị kích động chống đối xã hội của Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy - nguyên Thư ký tòa soạn báo Nhân Văn, thuật lại: “Số văn nghệ sĩ tham gia Nhân Văn hầu như không có mấy quyền hạn với tờ báo, nên các việc của tờ báo là do Đang và Đạt quyết định”.
Vì thế, khi thấy tình hình chính trị Đông Âu, Ba Lan… đang có những chuyển biến bất lợi cho cách mạng Việt Nam, Nguyễn Hữu Đang đã tự thay đổi nội dung báo Nhân Văn số 6, hướng về những vấn đề ở Ba Lan, Đông Âu… để kích động phong trào chống đối Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trần Duy kể lại:
“Đến khi chuẩn bị làm số 6, tôi và Lê Đạt, Văn Cao bàn đổi hướng để tờ báo nói về hội họa, nên đã chuẩn bị cho số báo chuyên về tranh áp phích của Ba Lan. Tôi đến làm việc với sứ quán Ba Lan và có đủ tài liệu về tranh áp phích của Ba Lan. Ngay ngày hôm sau đó có giấy của Thủ tướng triệu tập… (về việc này tôi đã viết trong bài tưởng niệm ông Phan Khôi năm 2007). Tôi được mọi người cử đi và đã gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Tôi về nói lại với Lê Đạt, Văn Cao, Nguyễn Hữu Đang những điều căn dặn của Thủ tướng. Nguyễn Hữu Đang bỏ cuộc họp tự động đến nhà in. Văn Cao và Lê Đạt cùng nói với tôi:
- Thế là Đang sẽ thay đổi nội dung tờ báo, sẽ hướng về tình hình chính trị Đông Âu, Ba Lan, Tiệp Khắc…”. [Trần Duy: Một câu hỏi còn chưa được trả lời, talawas.org-?p=7293]
Sau khi đã trực tiếp viết luôn mấy bài xã luận chuẩn bị trước cho tư tưởng chống lại chế độ, trong số 6 báo Nhân Văn, Nguyễn Hữu Đang đã viết một bài kêu gọi biểu tình. Trần Duy khai: “Chúng tôi tưởng rằng số 6 Nhân Văn ra được thì bọn gián điệp sẽ ngóc đầu dậy, bọn chiến tranh tâm lý sẽ có đất hoạt động…, sẽ có biểu tình, súng nổ…, tiếp theo đó là những mưu đồ lật đổ” [Bọn gián điệp mà Trần Duy nói tới ở đây là Trần Minh Châu, Nguyễn Quang Hải… bị xử án trước đó, đã có điều kiện hoạt động ráo riết trở lại trong thời gian này - NXĐ].
Tình hình chính trị Đông Âu, Ba Lan… lúc đó là gì?
Tháng 6-1956 có cuộc nổi dậy chống nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Poznan, Ba Lan. Chính cuộc nổi dậy ở Ba Lan đã châm ngòi cho cuộc bạo loạn vũ trang ở Hungary vào tháng 10, 11-1956.
+ Về âm mưu của Nguyễn Hữu Đang lợi dụng thời cơ chính trị trong và ngoài nước… để tổ chức chống đối, chính bà Thụy Khuê nhận xét:
“Nguyễn Hữu Đang đã tìm đúng thời cơ. Trong nước, vị thế của Trường Chinh và Đảng Cộng sản yếu đi sau chiến dịch Cải cách ruộng đất đẫm máu. Ngoài nước, việc hạ bệ Staline ở đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô là những lực đẩy khuynh hướng tranh đấu cho tự do dân chủ có cơ hội hành động. Nguyễn Hữu Đang, trong lớp học 18 ngày, đã chiếm được lòng tin của giới trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến. Ông nắm cơ hội, đứng ra tổ chức Nhân Văn Giai Phẩm với những người bạn đã hoạt động trong kháng chiến Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo; với Lê Đạt, Hoàng Cầm đã làm Giai Phẩm Mùa Xuân” [Thụy Khuê, sđd, tr.208].
+ Về hành động che giấu âm mưu thủ đoạn của Nguyễn Hữu Đang theo kiểu “ném đá giấu tay”, Thụy Khuê viết: “Tuy ít bài ký tên thật, nhưng dấu ấn của ông không thiếu trên báo Nhân Văn: Những bài phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Đặng Văn Ngữ về vấn đề dân chủ do Nguyễn Hữu Đang thực hiện” [Thụy Khuê, sđd, tr.209].
Lời thuật của Trần Duy sau đây về cuộc đàm thoại với cụ Phan Khôi, càng cho thấy đầy đủ hơn mưu mô thủ đoạn chính trị của Nguyễn Hữu Đang. Trần Duy viết:
“Nhân bài viết Trả lời ông Nguyễn Chính(**) trên báo Nhân Văn tác giả ký tên bốn người: Trần Dần, Trần Duy, Lê Đạt, Hoàng Cầm.
Ông Phan tìm hỏi tôi:
- Anh có biết ông Nguyễn Chính không?
Tôi trả lời: “Không”.
Ông hỏi tiếp:
- Anh có đọc bài viết của ông Nguyễn Chính trong báo Nhân Dân không?
Tôi trả lời: “Không”.
Ông Phan Khôi nói:
- Anh không biết người ta, anh không đọc bài người ta viết mà anh dám ký tên vào bài người khác viết để đả kích người ta.
Tôi không trả lời - ông nói tiếp:
- Anh làm ăn kiểu gì lạ vậy? Mục đích khi đặt ra là văn thơ, nay lại quay mũi nhọn sang chính trị, chống báo của Đảng nghĩa là tuyên chiến với Đảng đấy!!!
Sau cùng ông hỏi:
- Thật ra bài ấy của ai?
Tôi trả lời:
- Của Nguyễn Hữu Đang.
Ông khó chịu nói:
- Ông Đang có đủ chữ để viết một bài như vậy mà lại không đủ can đảm để nhận là tác giả của bài viết ấy, lại còn gắp lửa bỏ tay người, làm việc cách này dễ dắt nhau vào tù lắm!!!”.
[Tưởng niệm về nhà văn Phan Khôi. Bài do Trần Duy gửi Ban tổ chức buổi tọa đàm tưởng niệm nhà văn - nhà báo Phan Khôi (1887-1959) nhân 120 năm sinh, do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, tạp chí Xưa và Nay và gia đình đồng tổ chức (Hà Nội, 5-10-2007)].
Đoạn đàm thoại trên cho thấy chính cụ Phan Khôi đã vạch thói “gắp lửa bỏ tay người” của Nguyễn Hữu Đang, đồng thời khẳng định thủ đoạn của Nguyễn Hữu Đang chuyển mục đích của báo Nhân Văn “khi đặt ra là văn thơ, nay lại quay mũi nhọn sang chính trị” - “chống báo của Đảng nghĩa là tuyên chiến với Đảng”.
Xin lưu ý thêm rằng, cuối năm 1956, dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Hữu Đang, các ấn phẩm Nhân Văn, Giai Phẩm đồng loạt được tung ra đều nằm trong mục đích “quay mũi nhọn sang chính trị” như nhận xét của cụ Phan Khôi. Chỉ từ tháng 9 đến tháng 12-1956, 6 số Nhân Văn được xuất bản (trong đó số 6 bị đình bản) và đồng loạt Giai Phẩm Mùa Xuân (tái bản), Giai Phẩm Mùa Thu, Giai Phẩm Mùa Đông ra mắt bạn đọc với nhiều tập khác nhau. Đặc biệt, nếu trong 4 số Nhân Văn đầu đang có chuyên mục “Địa ngục miền Nam”, thì từ số 5 trở đi, chuyên mục này đã bị bỏ.
Những chứng cứ nêu trên (phần nhiều do Thụy Khuê thu thập) cho thấy: tội tổ chức chống phá cách mạng của Nguyễn Hữu Đang là sự thật. Trong trả lời phỏng vấn đài RFI, ông cũng thừa nhận: “Ra tòa tôi nhận hết, chứ tôi không có bào chữa, không cãi cọ gì nhiều cả. Thậm chí là sau khi bị kết án 15 năm thì tôi cũng không có ký chống án gì cả. Từ bấy giờ đến nay tôi cũng không viết một cái đơn nào để thanh minh, phân trần, xin xỏ, khoan hồng hay là nọ kia. Không! Cái việc đó không!”. Chắc chắn trên thế giới này không một nhà nước non trẻ nào, dù cộng sản hay không cộng sản, có thể bỏ qua những hành động chống đối như vậy.
2. Bị xử án cùng một phiên tòa với Nguyễn Hữu Đang còn có nhân vật quan trọng thứ hai là nhà báo Thụy An - Lưu Thị Yến. Trong phiên tòa mở ngày 19-1-1960 Thụy An và Phan Tại không thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, tuy nhiên bà rất thân và có ảnh hưởng rất sâu rộng “đối với anh em văn nghệ sĩ trẻ tham gia Nhân Văn Giai Phẩm[Lê Đạt, Tự thú].
 Bà Thụy An
Về hành động chống phá Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Thụy An, cho đến nay, một số người vẫn còn hoài nghi về tội danh của bà, rằng Thụy An không phải là một gián điệp, không phải là người tổ chức chống phá chính quyền… Ngay trong cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, tác giả cũng đòi hỏi: “Đáng lẽ bà phải có chỗ đứng xứng đáng trên văn đàn, bởi bà là nhà báo đầu tiên chủ trương các tờ Đàn Bà Mới tại Sài Gòn, từ 1934, và Đàn Bà, Hà Nội, 1937. Bà là nhà văn nữ tiên phong với tiểu thuyết Một linh hồn, 1942. Nhưng cho đến nay, chính quyền chưa hề trả lại cho bà phần danh dự bị bôi nhọ trong hơn nửa thế kỷ, với những lời nhục mạ tàn nhẫn, một cái án 15 năm phi lý, và cho đến chết bà vẫn chưa hề được phục hồi danh dự” [Thụy Khuê, sđd, tr.170].
Thế nhưng, chính ông Nguyễn Hữu Đang thừa nhận: “Bà Thụy An bị cơ quan an ninh nghi bà ấy làm gián điệp cho Pháp, vì thời tạm chiếm, bà ấy có quan hệ với nhiều người Pháp. Đến lúc đi, người ta sắp cử bà ấy làm giám đốc đài phát thanh cơ mà! Như thế là bà ấy cũng có địa vị, có uy tín, thì đáng nhẽ là bà ấy phải theo chính quyền Ngụy vào trong Nam chứ, bà ấy lại không theo vào”(?), và ông biện hộ: “bà ấy ở lại vì lý do chuyện cá nhân của bà”(!) [Nguyễn Hữu Đang trả lời phỏng vấn RFI]. Lời của Nguyễn Hữu Đang cho thấy Thụy An không chỉ là người “có quan hệ với nhiều người Pháp” mà còn là người “có địa vị, có uy tín” với chính phủ Pháp, “sắp được cử làm giám đốc đài phát thanh”, “đáng nhẽ phải theo chính quyền Ngụy vào Nam”, nhưng “bà ấy ở lại vì lý do cá nhân”. Đó là lý do gì? Chính bà Thụy Khuê đã trả lời hộ: “Thụy An là người có liên hệ chặt chẽ với những người Quốc dân đảng như Đỗ Đình Đạo (Giám đốc Quân thứ lưu động của Việt Nam Quốc dân đảng) và người Pháp như Đại sứ Sainteny, các tướng Tassigny, Cogny…”. Còn chứng cứ về mối quan hệ ở mức “Nghĩa tử quốc gia” giữa Thụy An với nước Pháp thời kỳ đó thì chính Bùi Thư Linh (con gái Thụy An) xác nhận với Thụy Khuê trong cuộc điện đàm giữa hai người ngày 17-10-2009:
“- Đến năm 1954, Bùi Thư Linh (16 tuổi) đi Pháp, tại sao?
- Tôi bị bệnh lao xương, mẹ gửi tôi đi Pháp chữa bệnh ngày 20-5-1954.
- Gia đình túng thiếu, lấy tiền đâu ra?
- Đi theo diện Pupille de la Nation (Nghĩa tử quốc gia), chính phủ Pháp lo hết”.
[Thụy Khuê, sđd, tr.178].
Thụy Khuê cũng khẳng định: “…Khi ra Bắc, Thụy An đã có chủ đích chính trị: đặt bản doanh chống chính quyền cộng sản ở Hòa Xá, quê hương bà, nơi có những người tin cẩn nhất. Hòa Xá cũng là một trong những làng có truyền thống chống cộng. Và để đánh lạc hướng, bà nhận cả công tác do thám Pháp cho chính quyền cộng sản. Với hành động này, Thụy An trở thành nhà văn đầu tiên tổ chức chống chính quyền cộng sản, trong lòng chế độ” [Thụy Khuê, sđd, tr.178].
Thực ra, Thụy An đã cùng con cái vào Nam từ 1952, nhưng vẫn thường xuyên trở ra Hà Nội để tổ chức cơ sở chống lại Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên tháng 3 năm 1957 bà bị bắt trên đường lẩn trốn từ Hòa Xá, Hà Đông đến Phủ Lý (quê chồng). Và hành động đó của bà đã được chính con trai bà thừa nhận. Trả lời câu hỏi “Thụy An thường xuyên ra Hà Nội với mục đích gì?”, Bùi Thụy Băng, con trai thứ của Thụy An, nói: “Bà cụ tôi ra Bắc, với hai mục đích: - Về quê mình để thu thập tất cả những gì quý báu nhất trong nhà ông ngoại tôi. Thứ nhì, bà cụ tôi muốn đặt cái bản doanh chống lại chính quyền ở Hòa Xá - chúng tôi nhấn mạnh” [Bùi Thụy Băng, điện đàm ngày 16-12-2004 - Thụy Khuê, sđd, tr.179].
Những chứng cứ trên cho thấy Thụy An là “Nghĩa tử quốc gia” của Pháp, là người đã có những hoạt động và tổ chức hoạt động chống lại chính quyền cộng sản ở miền Bắc Việt Nam. Vậy là tội trạng của Thụy An đã quá rõ, còn mục tiêu sâu xa của bà trong việc gây ảnh hưởng “đối với anh em văn nghệ sĩ trẻ tham gia Nhân Văn Giai Phẩm(như lời của nhà thơ Lê Đạt) cũng không hẳn là việc làm ngẫu nhiên.
* * *
Từ những chứng cứ vừa nêu trên có thể thấy Thụy An và Nguyễn Hữu Đang không phải là một, nhưng có sự gặp nhau về tư tưởng chống Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, và trên thực tế cả hai cũng đã bắt đầu có những động thái địch lại với nhau. Điều này cũng giải thích vì sao Thụy An đã vào miền Nam vẫn ra Bắc (trên danh nghĩa nhà báo), còn Nguyễn Hữu Đang lại tìm đường trốn vào Nam và bị bắt vào tháng 4-1958.
Với những chứng cứ về hoạt động chống đối của mình, trước quan tòa, trước luật sư bào chữa cho mình, Thụy An và Nguyễn Hữu Đang đã nhận hình phạt 15 năm tù giam, không kháng án.
Trong vụ án này, ngoài Nguyễn Hữu Đang ra, không có ai tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị bắt, bị xử, kể cả Chủ nhiệm báo Nhân Văn là cụ Phan Khôi và Thư ký tòa soạn là họa sĩ Trần Duy. Cả hai vị chủ trương tạp chí Giai Phẩm là Hoàng Cầm và Lê Đạt cũng không bị truy tố. Trong khi, theo Trần Duy, việc mở báo Nhân Văn là mưu đồ của Nguyễn Hữu Đang nhưng được Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Hoàng Cầm… hưởng ứng. Những người này đều có tên tuổi trên văn đàn, nhưng điều khiến họ không thể đứng tên xin ra báo vì họ là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, có thể được cử đến làm ở các tờ báo của Đảng, của các đoàn thể, nhưng lại không thể đứng tên xin ra báo tư nhân. Vì thế họ đã tìm đến cụ Phan Khôi và Trần Duy. [Trần Duy: Một câu hỏi còn chưa được trả lời, talawas.org-?p=7293].
Việc truy tố Nguyễn Hữu Đang, Thụy An mà không truy tố những người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chứng tỏ pháp luật Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã xử đúng người, đúng tội (ở đây tôi không nói tới mức án nặng, nhẹ đối với mỗi người). Có trong tay những tư liệu tôi vừa mượn dẫn vậy mà bà Thụy Khuê lại lờ đi hoặc sử dụng méo mó nhằm biện hộ cho Nguyễn Hữu Đang và Thụy An để kết tội Nhà nước Cộng sản Việt Nam. Với tôi, cả ông Nguyễn Hữu Đang và bà Thụy An là những người có tài, thuộc bậc cha chú; họ đã mất sau khi chấp hành án không chống đối, không nên “kết tội” lại. Tuy nhiên, bà Thụy Khuê đã nhân danh một nhà khoa học viết một công trình biên khảo, khảo cứu lại vụ án, rất dễ gây lòng tin đối với độc giả, nhưng cách viết lại thiếu khách quan, khoa học khiến nhiều bạn đọc lầm tưởng. Vậy xin có đôi lời trao đổi lại.
Hà Nội, tiết Thanh minh năm 2013

______
(*) PGS-TS ngành Văn học Dân gian, nguyên Phó hiệu trưởng ĐH Sư phạm Vinh.
(**) Bài này có tên: Trả lời bạn Nguyễn Chương và báo Nhân Dân: Chúng tôi cực lực phản đối luận điệu vu cáo chính trị (báo Nhân Văn số 2, ngày 30-9-1956).

Tuesday 22 October 2019

Phải dịch điều 1, khoản 9, mệnh đề 7 của hiến pháp Mỹ như thế nào?



Ông nọ ở bên Mỹ, tên Brian Wu, dạy cách dịch điều 1, khoản 9, mệnh đề 7 của bản Hiến Pháp Hoa Kỳ như sau:

Như vậy cả câu Anh ngữ "No money shall be drawn from the Treasury, but in Consequence of Appropriations made by law; and a regular statement and account of receipts and expenditures of all public money shall be published from time to time." nên dịch là "Không khoản tiền nào được rút ra từ Ngân Khố, ngoại trừ khi có (bản) Ký kết Biểu quyết ngân sách, được ban ra theo luật định; và một bản báo cáo thông thường và bản kê khai các khoản thu chi của công quỹ sẽ được thi thoảng công bố.



Ông chê Nguyễn Cảnh Bình dịch vừa thiếu vừa sai:

Vậy khi ta đọc lại câu dịch của tác giả Nguyễn Cảnh Bình "Không một khoản tiền nào được lấy từ ngân khố Liên bang nếu không có một đạo luật cho phép. Bản báo cáo tài chính thường kỳ về những khoản tiền thu chi của công quĩ phải được công bố thường xuyên.", thì:

1. Câu dịch "nếu không có một đạo luật cho phép" hoàn toàn không đúng với câu Anh ngữ "but in Consequence of Appropriations made by law;".

2. Câu dịch "VỀ những khoản tiền thu chi của công quĩ" cho câu "and account of receipts and expenditures" là sai. Vì ở đây, có 2 bản báo cáo cần được công bố, đó là bản báo cáo (tài chính) thường lệ (a regular statement) VÀ (chứ không là VỀ) bản kê khai các khoản thu chi (account of receipts and expenditures).

Nên câu dịch của tác giả Nguyễn Cảnh Bình, chẳng những thiếu (Consequence of Appropriations) mà còn sai (nếu không có một đạo luật cho phép / VỀ những khoản tiền thu chi của công quĩ.

3. Từ "from time to time" là thỉnh thoảng, thi thoảng, chứ không là thường xuyên như tác giả Nguyễn Cảnh Bình dịch.

Điều 1 Khoản 9 Mệnh đề 7 này rất quan trọng, bạn nên đọc kỹ nó.

Còn tại sao tác giả Nguyễn Cảnh Bình dịch thoát và sai như vậy, chỉ có tác giả mới trả lời được.

Mời bạn


Rồi như thường lệ ông nhũn nhặn:

Dĩ nhiên mình có thể sai, nếu có mời bạn lên tiếng để mình cùng học hỏi.

Thanks

Brian


Có lẽ Cảnh Bình ngán ngẩm quá nên không buồn giảng cho ông Brian biết rằng from time to time  không chỉ có cái nghĩa ông Brian đã biết mà còn có cả cái nghĩa mà ông Brian không biết, là định kỳ. Mình có một quyển từ điển in năm 1776. Ông muốn mượn thì mình gửi cho ông đọc, cho ông biết.


Với cái nghĩa mà ông Brian biết rõ (thỉnh thoảng), ông lại dạy Cảnh Bình viết thi thoảng, vốn chỉ dùng giữa hai người đang yêu nhau hay hai đứa trẻ trâu đang cãi nhau... Ai dùng thi thoảng để viết hiến pháp? 

Từ điển tiếng Việt đầy trên cõi đời này, nhưng chắc ông không tin từ điển mà chỉ tin vào ngữ cảm của bản thân ông. Ông Brian hay khuyên người ta Google. Nhưng mình nghi ông không biết dùng Google. Cũng có thể ông không rảnh nên chưa tìm ra văn bản hành chính, pháp luật nào có từ thi thoảng.

Mình còn một thắc mắc nhỏ: trên đời này có nhà nước nào thi thoảng mới công bố cách tiêu tiền của dân? Mình đọc cái điều, cái khoản, cái mệnh đề rất quan trọng kia rồi thì chỉ hiểu rằng không một khoản tiền nào có thể được xuất khỏi kho bạc (từ cũ là ngân khố), trừ phi được một đạo luật phân bổ ngân sách cho phép ; báo cáo tài chính và giải trình thu chi công quỹ phải được công bố thường xuyên định kỳ.

Mình đã xem kỹ các bản dịch bên tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Tàu. Hoang mang lắm. Vì nếu ông Brian Wu đúng thì thiên hạ sai cả.