Tuesday, 16 November 2021

Tìm về quá khứ - Quê cũ năm xưa : Một thoáng Nam Định (Nguyễn Hữu Quyền - Di Cảo) - Kỳ 10

 

MÔT THOÁNG NAM ĐỊNH.

          phần đầu, ta đã biết về lai lịch Ngã Ba Tuần Vường. Ở đây lần nữa, ta lại biết thêm một chút về Tuần Vường, tưởng cũng chẳng là thừa.

          Kẻ viết những dòng này còn nhớ rất rõ là hồi đang bảy tuổi (lúc chưa  bắt đầu đi học), thì ông già vừa 55 tuổi, là đúng tuổi về hưu. Ông hồi đó là giáo viên trường Tiểu học Jules Ferry của thành phố Namđịnh, cũng còn gọi là Trường Trong, tạo lập trên bề mặt của một thành quách cũ (còn Trường Ngoài là ở đâu thì chưa rõ), nên mới có câu thơ sau đây của LAN SƠN tả về ngôi trường cũ :

          Ngàn cây xanh ngắt mảng tường thành

          Ngày ông về hưu, tôi được biết trước ít lâu, và cũng đã được về quê trước đó ít hôm để mà chuẩn bị dự ngày lễ đón ông về làng. Hôm đó là ngày … tháng 12 năm 1936. Tôi cùng với một số người đợi đón ông ở bến đò Hữu Bị (bến đò trên sông Tuần Vường, đối diện với bến đò Hội Kê là quê tôi bên tả ngạn sông Hồng). Đứng trên bến đò Hữu Bị, nhìn sang bên kia sông, trên bến Hội Kê có cờ xí phất phơ, cùng đoàn người lố nhố đứng chờ đón người về. Tôi vô cùng xúc động, không biết cha tôi lúc đó cảm giác thế nào, chứ tôi thì thấy rằng có lẽ ngày đó là thời gian tôi cảm thấy sung sướng nhất đời. Sau khi về đến nhà, và các nghi thức đón rước đã gần xong, sang đến mục bình thơ và hát ả đào (ca trù). Tôi tuy còn nhỏ nhưng cũng đã đủ trí khôn để biết phân biệt và thưởng thức những gì cần biết. Tôi được nghe một đào nương – do các cựu môn sinh của cha tôi mang theo từ thành phố Namđịnh về để đóng góp cho cuộc vui – hát câu thơ của cựu môn sinh Hà Mai Anh, một dịch giả tên tuổi thời đó, vì đã dịch thành công tác phẩm TÂM HỒN CAO THƯỢNG từ nguyên tác LES GRANDS COEURS của tác giả Ý Edmond De Amicis. Câu thơ đó là :

                Bến VƯỜNG một dải xanh xanh

          Sông bao nhiêu nước, ân tình bấy nhiêu     Hai câu thơ này có được ghi vào trong Album lưu niệm mà ngày nay đã thất lạc, nhưng tôi vẫn còn nhớ mãi. Tôi đã tự đặt ngay câu hỏi trong đầu lúc đó : “Tại sao bến Vường lại là một dải xanh xanh ? Bến Vường tức Bến Tuần Vường là một khúc sông của Hồng Hà tức Fleuve Rouge hay Red River cơ mà ! Hay có lẽ các vị tiền bối, cả người Pháp và người Việt đã nhìn sai. Nhưng suy nghĩ lại thì nó là như thế này: Ông Hà Mai Anh là nhà văn và cũng là nhà thơ, cộng với tình cảm của ông lúc đó là “yêu mến”  thày và cái ân tình đối với thày nên đã thấy dòng sông Tuần Vường màu xanh chứ không có màu đỏ như những lúc khác. Vả lại lúc đó thì dòng sông Tuần Vường đã hiền hòa và không phải là mùa có nước đỏ hoặc có sóng dữ nữa.  Không lẽ một nhà văn, nhà thơ tầm cỡ như ông Hà Mai Anh lại bí vận đến nỗi phải đổi dòng sông Tuần Vường từ màu đỏ sang màu xanh ?

          Ngoài ra ông Hà Mai Anh còn có 2 câu đối nôm này nữa :

· Ba mươi năm trường,

bể học mênh mông thuyền thuận gió

· Năm lăm tuổi thọ,

chén Quỳnh ngất ngưỡng tiệc mừng xuân.

          Cũng trong cuốn Album lưu niệm này, còn rất nhiều bài thơ và lưu bút của tân khách, nhất là của các cựu môn sinh của cha tôi như ông Hà Mai Anh vừa nói ở trên. Còn hai câu nữa mà tôi còn nhớ là :

                       Non Côi, sông Vị còn đây

                Còn Khoa Luân lý, ơn Thầy còn lâu.

          Hai câu này là của ông Nguyễn văn Luận, một nhà giáo đồng thời là nhà báo tên tuổi của tờ Đông Pháp thòi đó. Ông này trẻ tuổi, đẹp trai, khỏe mạnh và lém lỉnh. Xin kể chuyện một chuyện vui để chứng minh : Hôm đó, giữa lúc mọi người, gồm tân khách, bè bạn và các môn sinh, đồng nghiệp đang thân mật ngồi nói chuyện trên trời dưới đất, thì cái ông « nhà báo quậy » này tự nhiên ở đâu đến, xen vào ngồi giữa các cô đào nương (bốn năm cô gì đó) và ôm bế một cách tự nhiên một cô trẻ nhất lên ngồi lên lòng. Cô này ngỡ ngàng và tỏ vẻ sợ hãi thì ông ta vội lên tiếng : « Đừng sợ ! Anh là nhà báo Nguyễn văn Luận đây. Anh không phải là Ngô Quyền hay Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn trên sông Bạch Đằng ngày xưa đâu ! Anh đây mà ! Các em yên trí ! ». Các đào nương hồi đó cũng có trình độ nên hiểu ngay thâm ý của ông nhà báo, nên chỉ lườm nguýt mấy cái rồi thôi. Cái hiểm hóc và ngoắt ngoéo của ông này là như thế.

          Trở lại với hai câu thơ trên : Non Côi, thực ra là núi Gôi của huyện Ý Yên, gần nhà ga xe lửa CÁT ĐẰNG, nơi giáp giới của Namđịnh và Ninh Bình. Sông Vị tức sông Vị Hoàng xưa, nay không còn nữa, vì đã được lấp đi ngay chỗ hồ Raquette Namđịnh, gần nhà thờ Khoái Đồng bây giờ, kế ngay nhà trường St. Thomas của thị xã Namđịnh ngày trước. Có thể hồ Raquette là một khúc còn lại của con sông này ? Gọi là hồ Raquette vì hồ này hình dáng giống như một cây vợt (raquette) dùng để đánh quần vợt chăng ? Trên bờ hồ này hiện còn có nấm mồ của nhà thơ Tú Xương và tấm bia đề là nơi an nghỉ của nhà thơ đất Vị Xuyên. (Mộ này do Ủy ban Nhân dân thị xã Namđịnh mới cải táng ở nơi khác đưa về an táng ở đây cách đây ít năm để tôn vinh nhà thơ đất Vị Hoàng).

          Theo như ý nghĩa của bài thơ của Cụ Tú Xương còn truyền lại cho chúng ta thì :

                   Sông xưa rày đã nên đồng

               Nơi thì nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai

                   Đêm nghe tiếng ếch bên tai

               Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.

          Chỗ này trước đây là sông Vị Hoàng, sau này vì nhu cầu mở rộng thành phố, người Pháp đã cho lấp sông này đi để bây giờ thành khu vực làng Phù Long (còn đọc là Phù Luông để khỏi phạm húy). Làng Phù Long này, ngày nay nếu chúng ta ngồi xe đi từ Hànội về Thái Bình qua thành phố Namđịnh, phải đi qua vùng này để đến cầu Tân Đệ. Cầu Tân Đệ, một cây cầu bắc qua sông Hồng (với quy mô lớn như cầu Mỹ Thuận qua sông Tiền Giang ở miền Nam) mới xây cất xong ít năm nay để thay thế cho bến phà Tân Đệ xưa, nơi đã xảy ra giai thoại tranh nhau sang sông trước đây của hai nhân vật tên tuổi  thời đó là  Vi văn Định, đương kim Tổng đốc Thái Bình và Nguyễn Thế Truyền,  môt nhà cách mạng Việt Nam, lúc đó được coi như là Phò mã của Quốc vương Bỉ, được Toàn quyền Đông Dương Catroux rất kính nể. Chuyện này, dân Thái Bình và Namđịnh ai cũng biết.

          Xin kể thêm một bài thơ nữa, cũng của cụ Tú Xương, để thấy rõ rằng nơi đây, trước kia là sông Vị Hoàng :

                             THƯƠNG VỢ                Quanh năm buôn bán ở mom sông

          Nuôi đủ năm con với một chồng

          Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo xèo mặt nước buổi đò đông

          Một duyên, hai nợ, âu đành phận

          Năm nắng, mười mưa, dám quản công

          Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

          Có chồng hờ hững cũng như không.

          Làng Vị Xuyên, quê hương của Trần Tế Xương (Trần Tế Xương, chứ không hề có nhà thơ Trần Kế Xương như đã ghi ở trên bảng tên đường, chỗ trường Đông Ba, đường Phan Đăng Lưu – Phú Nhuận), lại là địa điểm có đường giao thông lớn giữa Namđịnh và Thái Bình, tức là chỗ quốc lộ 10, nơi đã xảy ra câu chuyện vừa nói trên. Bên phía Namđịnh là làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc ; bên phía Thái Bình là làng Bách Tính, huyện Thư Trì. Hai bên đầu cầu Tân Đệ ngày nay hay hai bên bến phà Tân Đệ  ngày xưa là hai huyện Mỹ Lộc của Namđịnh và Thư Trì của Thái Bình (tức quê tôi).

          Làng Bách Tính bên Thái Bình có một nho sĩ là Trịnh Hữu Thăng, đã trúng tuyển Tiến sĩ đệ nhất danh trong kỳ thi cuối cùng của triều đình Việt Nam tổ chức ở Huế năm 1916 ( ?). Ông được vua KHẢI ĐỊNH ban thưởng cho làm lễ VINH QUY BÁI TỔ ở quê nhà.

          Thật tình cờ, kẻ viết những dòng này lúc đó chỉ là một chú bé con ở cạnh « ông già » để « điếu đóm », nhất là khi có khách, nên đã may mắn nghe lóm được câu chuyện này, khi nhân vật Trịnh Hữu Thăng kể lại cho bạn bè nghe trong lúc trà dư tửu hậu. Tuy còn nhỏ nhưng tôi đã đủ sức hiểu được và còn nhớ như in cho đến ngày nay.

          Từ Huế về Thái Bình, đương nhiên phải qua huyện Mỹ Lộc, Namđịnh. Và cũng thật là ngẫu nhiên, ông Nghè Thăng này lại là con rể ông Hàn Hòa, một tay cự phú của Namđịnh thời bấy giờ, mà sau này tôi đã có cái may mắn tình cờ là ăn ngủ trọ ở nhà từ đường của ông trong suốt một năm học cấp III thời kháng chiến chống Pháp, tỉnh Hà Nam, làng Bích Trì. (Chuyện này sẽ nói tiếp ở phần sau). Ông Hàn Hòa không chỉ là tay cự phú ở Namđịnh, mà còn là ân nhân của ông Tổng đốc Namđịnh nữa vể phương diện tiền bạc gì đó. Điều này không ai biết chắc, nhưng có điều chắc chắn là ông Tổng đốc Namđịnh này rất nể ông Hàn Hòa, nên mới có chuyện vui sau đây :

          Ông Trần Tích Phiên, người làng Vị Xuyên (không rõ có bà con gì với nhà thơ Tú Xuơng không ?). Ông Phiên cũng là một cử nhân Hán học, nhưng không chịu ra làm quan mà chỉ ở nhà vui thú điền viên, trồng vườn làm ruộng như các nhà nông khác ở làng. Một hôm, ông vào yết kiến viên tri huyện Mỹ Lộc sở tại. Ông nói với viên tri huyện Mỹ Lộc rằng : « Chúng tôi là dân làng Vị Xuyên thuộc Namđịnh, mà sao quan lại bắt chúng tôi phải đi đón rước ông Nghè tân khoa là người bên Thái Bình ? Chúng tôi chẳng có liên quan gì với ông Nghè Thăng ở bên ấy cả. Thật là chuyện vô lý ! » ». Viên tri huyện Mỹ Lộc vốn biết « cha » này chẳng phải tay vừa nên đã ôn tồn trả lời :

          - Tôi cũng thấy như ông anh, nhưng vì đây là thông sức của CỤ THƯỢNG, mà tôi là thuộc quan, không thể không thi hành, xin ông anh lờ đi như không biết để chúng tôi làm cho xong chuyện.

          - Quan Bác đã nói thế thì chúng tôi cũng xin thông cảm, nhưng chỉ xin Quan Bác giúp cho một việc sau : Nhờ Quan Bác  chuyển giùm bài thơ này cho quan Nghè tân khoa khi qua đây, thế thôi ! (Bài thơ này chẳng biết có đến tay quan Nghè tân khoa hay không, nhưng đó lại là chuyện khác). Bài thơ rất giản dị, chỉ có 4 câu tứ tuyệt như sau :


1.     Rước sách năm nay vớ được Nghè

Tuy còn nhỏ, nhưng vừa nghe xong, tôi đã nhận được ra ngay cái ý xỏ xiên của người viết. Rước đã vậy, chứ sao lại còn sách  (đồng âm với xách). Còn vớ được Nghè, thì ông Nghè là cái thứ gì trên đường  đi mà lại vớ đuợc ?

          Và rồi câu tiếp theo :

Dù ai có chửi mặc thằng nghe.

Câu này mới thực là tài tình, không kém gì những câu hay nhất của nữ sĩ HỒ XUÂN HƯƠNG ngày xưa.. Ta cứ thong thả đọc lại mấy chữ cuối mặc thằng nghe theo lối nói lái của họ Hồ thì thấy ngay thằng nghe      « nghè thăng » chứ còn ai nữa ! Có người còn cho rằng mặc thằng nghemẹ Nghè Thăng. Có lẽ không đến nỗi vậy. Xin tùy ý các vị độc giả.

          Câu thứ ba là :

2.     Khoe mẽ cậy nhờ lưng bố vợ

Riêng câu này, nếu ai chưa có dịp biết đến chữ LƯNG ngày xưa được dùng trong những trường hợp để chỉ về vốn liếng làm ăn như « Lưng vốn phải dài thì mới dễ buôn bán làm ăn được », hay như trong việc chơi bài TỔ TÔM hay TÀI BÀN của các cụ ngày xưa, cũng đôi khi có những câu như « Bài chờ rồi, nhưng thiếu lưng »  hoặc « Bài đẹp quá, nhưng không lưng, nên không « ù » được ». Tóm lại lưng bố vợ ở đây không có nghĩa là « phần sau ngực » của ông bố vợ mà chính là vốn liếng tiền bạc để làm ăn của ông bố vợ.

          Rồi đến câu thứ tư là câu cuối cùng, mới thật là tuyệt tác :

3.     Chúng ông khác tổng sợ gì đe[1]

          Có lẽ đây là câu kết luận của một bài thơ mà chúng ta có thể cho là hay nhất.

Nếu đem so sánh với những câu cùng loại của bà Hồ Xuân Hương thì cũng đại khái như vậy thôi. Ta thử đọc lại bài « Vịnh người ái nam ái nữ » bà đã viết :

          Mười hai bà mụ ghét chi nhau

          Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu

          Rúc rích thây cha con chuột nhắt

          Vo ve mặc mẹ cái ong bầu

          Đố ai biết được vông hay tróc[2]

          Còn kẻ nào hay cuống với đầu[3]

          Thôi thế thì thôi đành thế vậy

          Ngàn năm càng khỏi tiếng nương dâu.

---ooo0ooo---



[1] Tục ngữ Việt Nam có câu « Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng tổng », để nói về những người ngu dại, huyênh hoang và ăn nói hàm hồ.

 

[2] Để tả về đàn bà ở hai vị thế khác nhau thì “Ngồi xổm lá vông, chổng mông lá tróc”. Lá tróc lá trúc đọc chệch đi. Lá trúc cũng như lá tre, chiều ngang thì ngắn, chiều dọc thì dài. Còn lá vông thì ngang dọc gần bằng nhau.

[3] Cuống với đầu là do câu tục ngữ “Cái đầu đi xuống, cái cuống đi lên”, tức là bộ phận sinh dục của đàn ông

Monday, 15 November 2021

Tìm về quá khứ - Quê cũ năm xưa : Công ơn của cụ bà Nguyễn Hữu Đoài (Nguyễn Hữu Quyền - Di Cảo) - Kỳ 9

 

CÔNG ƠN CỦA CỤ BÀ NGUYỄN HỮU ĐOÀI

          Nói về sự phát triển của dòng họ NGUYỄN HỮU mà không đề cập đến công ơn của Cụ Bà Nguyễn Hữu Đoài thì quả thực là chưa đủ.

          Cụ Bà Nguyễn Hữu Đoài nhũ danh là Nguyễn thị Đơn, trưởng nữ của một gia đình Công giáo thuần thành ở làng Gia Lạc. Cụ kết hôn với cụ Đoài vào lúc dân tộc Việt Nam đang gặp nhiều ngược đãi. Bị áp bức ở làng Hội Kê, vì là con của cụ Nguyễn Hữu Vinh – một người Tử Đạo – nên cụ Đoài phải bỏ làng sang ngụ cư tại làng Phú Cốc, một làng ở bên kia sông Hồng. Năm 1814, triều đình Huế ký hiệp ước với người Pháp, trong đó có điều khoản phải đổi lại chính sách đối với đạo Thiên Chúa. Triều đình lần lần hạ chiếu tha đạo. Cụ Đoài đưa gia đình, vợ con về Hội Kê. Hai cụ bắt tay ngay vào việc cày cấy. Ngày đó Hội Kê là đất tân bồi, còn nhiều lau sậy, đất rộng người thưa. Ai chịu khó lao động cũng dễ trở nên khá giả. Chẳng bao lâu, kinh tế gia đình cụ Đoài đã ổn định. Cụ bèn giao hết việc nhà cho cụ Bà, để cụ có rộng thì giờ lo cho việc trong xã. Cụ Bà làm việc suốt ngày, không biết mệt mỏi. Thấy hạt cơm rơi vãi trên mặt đất, Cụ bao giờ cũng trân trọng nhặt lên. Rất tiết kiệm đối với bản thân, nhưng khi bà con lối xóm, ai có việc gì nhờ đến Cụ là Cụ giúp đỡ tận tình, sẵn sàng chia cơm, xẻ áo.

          Quanh nhà Cụ, có nhiều bờ ngòi, bờ ao rãnh nước bỏ không, một vài chỗ trồng khoai ngứa. Cụ Bà thấy đất tốt, nên trồng rất nhiều khoai. Năm đó, thời tiết thuận lợi, lúa khoai được mùa lớn. Khoai của Cụ chất đống đầy sân, nhà dùng không hết, bán chẳng ai mua. Cụ phải cho luộc chín, đánh thành đống, lấy bùn trát kín để giữ được lâu. Năm sau, trời làm mất mùa. Những đống khoai của Cụ bán được một món tiền lớn. Nhờ có vốn này, Cụ lập vườn “trầu không”, vườn trầu đầu tiên ở bãi Hội Kê. Vườn trầu giúp Cụ thêm giàu có. Ngoài ruộng lúa, vườn trầu, vườn rau, cây ăn quả, còn ruộng dâu, ruộng mía, nuôi tằm, ươm tơ, kéo mật, nuôi heo; sinh hoạt hàng ngày trong gia đình rất tấp nập. Phụ nữ thì người nào việc nấy, mấy người con trai thì chăm lo đèn sách, không một ai được ở không. Mọi việc trong nhà đều do một tay Cụ cắt đặt, quán xuyến.

          Cụ Bá Ông, tính tình hào phóng, ưa kết giao, hiếu khách. Cụ thường nói với mọi người : “Tân khách bất lai môn hộ tục”, nghĩa là nhà mà không có khách lui tới thì chẳng hóa ra cái nhà quê mùa lắm sao ?”. Các khoản chi tiêu trong việc khách khứa trong nhà đều do một mình Cụ Bà lo liệu mà không bao giờ có một lời than vãn. Mỗi sáng Cụ thường chuẩn bị sẵn một rổ cả chục nắm cơm để cho những người đến xin. Sau khi Cụ Ông mất đi, mọi việc trong gia đình vẫn tiếp tục như thường lệ, y như lúc Cụ Ông còn sống. Gia phong đã thành quy củ, nền nếp vững bền. Cụ Bà giáo dục con cháu rất nghiêm theo phương châm của Cụ Ông để lại :

- Một là con cháu phải chăm chỉ làm ăn, sống tiết kiệm.

- Hai là phải hòa thuận, nhường nhịn lẫn nhau.

- Ba là phải trên hết giữ điều liêm sỉ và chính nghĩa.

          Những con trai Cụ, dù đã trưởng thành và có danh phận ngoài xã hội, vẫn phải luôn luôn cung kính vâng lời Cụ như hồi còn nhỏ tuổi. Ông con trai thứ ba Nguyễn Hữu Phú, đang làm lý trưởng được ba năm, tuân theo lời Cụ, xin từ chức để về làm trùm họ đạo Hội Kê và để chức lý trưởng cho ông con trai thứ năm là ông em Nguyễn Hữu Ngũ. Ông con trai thứ tư Nguyễn Hữu Quý, có chức phận ở nơi tỉnh thành về thăm Cụ, nhưng vì Cụ giận nên phải che ô đứng ngoài mưa cả buổi, đợi hai ông anh xin với Cụ, nên mới được Cụ cho phép vào nhà.

          Khi người Pháp đến đô hộ, đạo được tự do, nhưng những phong trào chống Pháp đều nghi kỵ giáo dân. Những giáo dân yêu nước, khi tham gia phong trào thường gặp nhiều khó khăn hơn người thường. Các con trai Cụ Bá đều có liên hệ với một số tổ chức cách mạng với sự đồng tình của Cụ Bà. Đặc biệt, ông Nguyễn Hữu Lục được Cụ rất mực thương yêu vì là con út, nhưng Cụ vẫn khuyến khích con trốn ra hải ngoại để mưu đồ hoạt động phục quốc. Các Cụ Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần biết chuyện này, rất lấy làm ngợi khen và cho là một việc đáng tuyên dương.

          Ở Trung Quốc, ông Nguyễn Hữu Lục đã được Cụ Nguyễn Hải Thần giới thiệu vào học trường Võ bị Hoàng Phố và ông cũng đã luyện tập được môn võ thuật Trung Hoa tới một trình độ khá cao cường, chẳng hạn như ông có thể vỗ tay rồi nhảy tót từ mặt đất lên nóc nhà một cách rất nhẹ nhàng.

          Năm Cụ Bà được 80 tuổi, gia đình tổ chức Lễ Thượng Thọ rất long trọng, kéo dài đến hơn một tháng. Có những vị tân khách là thân hào, thân sĩ ở các tỉnh xa cũng lục tục đến dự. Dân chúng trong vùng cho là một thịnh sự chưa từng có, và ca tụng Cụ là một hiền mẫu, có đức độ, có tài trị gia và đáng phục hơn hết là biết đặt đại nghĩa dân tộc lên trên quyền lợi gia đình.

          Tại sao cuộc lễ Thượng Thọ lại được tổ chức kéo dài đến như thế ? Thực ra, cuộc lễ Thượng Thọ này không chỉ có mục đích là để báo hiếu, làm vui lòng mẹ cha như ở các gia đình khác, mà còn là để có dịp giao lưu với các nhân sĩ khác trong vùng với mục đích như đã nói ở trên.

          Cụ Cử Bình, một nhà nho, y, lý, số có tiếng ở Namđịnh, chuyên nghiên cứu Dịch lý, Địa lý phong thủy đã khen Cụ có phúc tướng, không những vượng phu ích tử, mà còn phúc trạch dồi dào, con cháu mấy đời sau vẫn còn được hưởng.

          Ngày nay, chúng ta là con cháu Cụ, chúng ta phải tìm hiểu rõ hơn về cuộc đời và nhân cách của Cụ. Chúng ta phải thừa nhận là đã gặp nhiều may mắn khi phải trải qua bao nhiêu biến chuyển đầy phong ba bão táp lịch sử của nửa thế kỷ gần đây. Phải chăng đó là nhờ phúc đức tại mẫu, tại tổ mẫu ?

Xin anh hồn Cụ phù hộ độ trì cho chúng con được luôn luôn bình an trong tay Chúa.

Và cũng xin Đấng Thượng đế Tối cao giúp chúng con giữ vững niềm tin như bây giờ và hằng có đời đời.