Saturday, 27 November 2021

Tìm về quá khứ - Quê cũ năm xưa : Hồi cư về Tam Tỉnh (Nguyễn Hữu Quyền - Di Cảo) - Kỳ 21

 

HỒI CƯ VỀ TAM TỈNH.

          Hồi này, chiến cuộc có phần lắng dịu, vì có lẽ cả hai đối phương trong cuộc chiến đều cần dừng lại để dưỡng sức. Pháp thì cần chấn chỉnh lại những vùng vừa chiếm được. Phía Việt Nam cũng cần nghỉ dưỡng sức một thời gian để củng cố lực lượng kháng chiến lâu dài. Dân Tam Tỉnh, nhiều gia đình đã lác đác hồi cư. Gia đình tôi sau cùng cũng hồi cư về quê nhà. Về quê nhà chưa được bao lâu thì gặp lúc Nhà nước đưa ra chính sách diệt giặc. Có ba thứ giặc : giặc NGOẠI XÂM, giặc DỐT và giặc ĐÓI. Giặc đói thì đã diệt xong. Chỉ còn hai thứ giặc là giặc NGOẠI XÂM và giặc DỐT. Giặc ngoại xâm được đặt trong chính sách TRƯỜNG KỲ KHÁNG CHIẾN, còn giặc Dốt thì đặt trong chính sách BÌNH DÂN HỌC VỤ. Phong trào Bình Dân Học Vụ lên cao hơn bao giờ hết. Ở Tam Tỉnh, xóm nào cũng có lớp Bình Dân học vụ. Tôi đã xung phong trở thành một giáo viên Bình Dân học vụ trong làng. Học viên của các lớp BDHV này, đa số là các bà lớn tuổi hoặc sồn sồn, có cả các cô nữa. Đây là những người, trước đây chưa có dịp đến trường để học, nên còn mù chữ. Tôi còn nhớ những bài giảng khi đó như sau : Chữ I và chữ T đều giống nhau, cả hai đều có móc, được đặt thành vè cho dễ nhớ là : I, TỜ giống móc cả hai. « I » ngắn có chấm, « Tờ » dài có ngang và « O » tròn như quả trứng gà, « Ô » thời đội mũ, « Ơ » là thêm râu. Vui đáo để !

Rồi còn  có những câu ca cổ động như là :

          «  Ai về chợ huyện Thanh Vân

          Hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa ?

          Đánh vần năm ngoái năm xưa

          Năm nay quên hết nên chưa biết gì ! »

          Ngoài ra, để thúc đẩy việc XÓA NẠN MÙ CHỮ, ở Thư Trì người ta còn lập ra những trạm kiểm soát trên những đường Liên xã hay trên đường làng để khảo chữ những người qua đường. Bất cứ ai đi qua cũng phải trả lời, đọc được những chữ mà kiểm soát viên đưa ra hỏi, hay ít ra cũng phải đánh vần được, thì mới được cho đi qua. Người nào không đọc được  hay chưa đánh vần được thì phải lộn trở về. Ai được đi tiếp thì qua một cái cổng có kết hoa lá và những lời chào thắm thiết, còn những người phải trở về thì phải qua một cái cổng xập xệ với những lời lẽ chê bai. Nhờ vậy mà phong trào Bình Dân Học Vụ diệt giặc DỐT, chỉ sau ít tháng đã đạt được kết quả tốt.

Friday, 26 November 2021

Tìm về quá khứ - Quê cũ năm xưa : Đi tản cư vào Riền (Nguyễn Hữu Quyền - Di Cảo) - Kỳ 20

 

ĐI TẢN CƯ VÀO RIỀN

          Chúng tôi đã chọn làng Riền để đến tản cư. RIỀN là một làng quê cổ kính, ở cách xa Tam Tỉnh khoảng trên 10 km, ở trong sâu thuộc huyện Duyên Hà. Nơi đây không thuận lợi cho quân đội Pháp chiếm đóng hay đổ bộ từ Namđịnh sang càn quét. Riền là tên gọi thông tục ở bên ngoài, còn trong giấy tờ chính thức thì là làng Duyên Lãng, tức giáo xứ Duyên Lãng thuộc địa phận (giáo phận) Bùi Chu bây giờ. Khi Thái Bình chưa được tách ra thành địa phận riêng như ngày nay, thì Duyên Lãng vẫn còn thuộc quyền cai quản của Bùi Chu, mặc dầu Bùi Chu nằm trong lãnh thổ của Namđịnh. Duyên Lãng thường là nơi đón nhận những chủng sinh của Bùi Chu gửi sang để rèn luyện và thực tập. Do đó, những ngày tản cư ở Riền, anh em tôi (ông Quyến và tôi) sau những buổi lễ ở nhà thờ thường hay có dịp tiếp xúc với những chủng sinh này để chuyện trò về thời cuộc hay hòa nhạc với nhau. Ở đây, chúng tôi đã quen thân với một tu sĩ là Thầy Sáu Trần Đức Huynh. Mấy năm sau, khi Thái Bình được tách ra thành lập địa phận riêng, những tu sĩ vốn ở Bùi Chu trước đây lại được trở về địa phận gốc. Thầy Sáu (sáu chức) về Bùi Chu được thụ phong Linh mục (bảy chức) và trở thành Linh mục Hiệu trưởng trường Trung học HỒ NGỌC CẨN Bùi Chu, hồi Bùi Chu và Phát Diệm trở thành hai tỉnh mới của quốc gia Việt Nam hồi đó. (thời Quốc Trưởng Bảo Đại). Chuyện liên hệ của ông Quyến và tôi với Bùi Chu còn dài. Xin sẽ được kể tiếp ở một chương sau.

          Ở làng Riền, gia đình tôi đến tản cư tại nhà  ông Chánh Trượng một dân vai vế trong làng. Hai ông bà chủ nhà rất niềm nở, đã vui vẻ đón tiếp gia đình chúng tôi, không những không phải thuê mướn gì cả, mà còn dành cho chúng tôi ở những chỗ tốt nhất trong nhà. Phải nói đây là một điểm son trong thời kỳ tản cư hồi kháng chiến chống Pháp, vì ở tất cả các địa phương có người tản cư đến ở, mọi người đều được đón tiếp như vậy. Nhà ông Chánh Trượng, tương đối rộng rãi, mát mẻ và nhất là không có trẻ con. Chỉ có ao nước trong nhà là rất thiếu vệ sinh : nước trong ao là nước của một ao tù, lưu cữu đã từ nhiều năm, màu xanh lè, và trong nước lúc nhúc những sinh vật li ti, khi có những tia nắng xuyên qua trông rất rõ. Nhất là đỉa thì thật là kinh khủng ! Khi có người khuấy nước để rửa tay, rửa chân hay làm gì đó, thì  lũ đỉa con thấy động, nhâu nhâu bơi ra, lúc nhúc trông đến phát sợ. Vì vậy, sau đó ít lâu gia đình tôi lấy cớ này nọ phải dọn sang tản cư ở làng Mạc, là một làng nhỏ cách Riền một cánh đồng khá rộng. Ở đây, gia đình tôi  cũng lại được ông chủ nhà là ông Chánh Thống, một lão nông chất phác, cùng với cả nhà đón tiếp  một cách niềm nở, chân tình. Gia đình tôi ở đây được vừa ý và đã tá túc ở đây cho đến lúc hồi cư về quê nhà.

Thursday, 25 November 2021

Tìm về quá khứ - Quê cũ năm xưa : Mộng đẹp không thành (Nguyễn Hữu Quyền - Di Cảo) - Kỳ 19

 

MỘNG ĐẸP KHÔNG THÀNH.

          Nhà ông Trần Hạnh Lâm ở Hội Kê, sát liền cạnh nhà tôi, là nơi đón tiếp một gia đình bà con ở thành phố Namđịnh đến tản cư ở đó. Ông Lâm là một cựu công chức của sở Hỏa xa Hànội, về nghỉ dưỡng bệnh ờ quê nhà. Ông hơn tôi đến 10 tuổi, tính tình rất phóng khoáng, nên đã coi tôi là bạn vong niên và giao du rất thân mật. Ông đã giới thiệu tôi với con gái người bà con tản cư của ông (bà Hanh) tên là cô Liên Thành. Cô này cùng trạc tuổi với tôi, một thiếu nữ dễ thương và là dân thành phố. Chúng tôi quen nhau dễ dàng, và chỉ ít ngày sau đã có quan hệ tình cảm với nhau khá sâu đậm. Nhân thế ông Lâm gợi ý là tôi nên tính đến việc xây dựng tổ ấm với cô Thành. Tôi vui vẻ đón nhận ý kiến của ông Lâm và đã phác họa ra, mơ tưởng đến cái cảnh nên thơ và lãng mạn của tuổi trẻ ngày xưa « Một túp lều tranh, hai trái tim vàng ». Sau đó, tôi đã hý hửng trình bày việc này với cha tôi, hy vọng là cha tôi sẽ đồng ý và  giúp  đỡ. Không ngờ cha tôi đã nghiêm nghị trả lời : « Mày vừa mới lớn, chưa kịp học hành và chưa có nghề ngỗng gì mà đã nghĩ đến chuyện vợ con là thế nào ? Rồi làm gì mà sống đây ? Sẽ sống bằng cái gì ? Không lẽ « ăn đất » mà sống à ? » Tôi mắc cỡ với cha tôi, bị khớp và hoàn toàn cụt hứng. Từ đó, tôi không còn dám nghĩ và nhắc đến việc này nữa. Tôi cũng đã buồn bã mất mấy ngày, quên ăn mất ngủ, nhưng rồi việc ấy cũng nguôi ngoai dần.

          Bỗng nhiên, một buổi sáng sớm có tiếng la ơi ới : « Anh em ơi ! Tây lên ! Tây lên ! Tây đã đổ bộ lên làng mình để càn quét rồi đấy ! Chạy đi ! Chạy mau đi ! » Tôi cùng nhiều người khác, chẳng còn biết làm gì ngoài việc chạy trốn cho lẹ ! Tôi chạy sang làng bên (Gia Lạc), được một lát thấy mệt quá, bèn nghĩ cách lội xuống ao một nhà gần đó bên đường, giấu mình núp trong một bụi cây sát bờ, ngụy trang sau một đám bèo Nhật Bản thật kín đáo, rồi chờ cho bọn Tây đi qua. Lúc bọn Tây đi qua, tôi được thấy rõ đủ cả, nào lính Lê dương (bọn lính chuyên đi đánh thuê ở Âu châu), nào lính thuộc địa Phi châu (tụi Maroc và Sénégal đen xì, rạch mặt) đi trên đường. Đang đi, tự nhiên chúng dừng lại. Tôi hết hồn, phen này chắc là chết rồi. Thì ra có một con bê mà chủ nó chưa kịp đắt đi chạy loạn, còn nằm đó. Chúng sắp sửa dắt con bê này đi để mang về làm chiến lợi phẩm. Nhưng rồi chúng thấy rằng đây là một con bê cái, có thể thay cho một phụ nữ nào đó mà chúng chưa tìm bắt được chăng ? Thế là mấy thằng trong bọn, thi nhau lần lượt hiếp con bê này một cách rất tự nhiên, man rợ, còn cười nói ồn ào nữa ! Tôi đã không ngờ, được chứng kiến cảnh tượng hãi hùng này, một hình ảnh quái dị và tồi tệ nhất của thời chiến, hết chỗ nói. Sau đó, chúng lại đi tiếp, không quên dắt con bê đi theo ! Tôi thoát nạn rồi trở về nhà an toàn. Thật là hú vía !

          Thời gian này,  thực dân Pháp lại mở rộng mặt trận bên Namđịnh thêm ra vài cây số, đồng thời lập thêm một đồn bốt mới trên sát bờ sông, chỗ bến đò Hữu Bị, tức bốt Hữu Bị ngay Ngã Ba Tuần Vường ngày xưa, đối diện với nhà ngoài, chỗ tôi ở bên này sông. Ngồi đọc sách ở nhà, qua cửa sổ, tôi thấy rõ ràng từng tên lính đi lại trong sân đồn. Đồn binh này khá lớn, có lẽ đến hơn một trăm lính (phỏng đoán vậy mà thôi). Suốt ngày bọn chúng thỉnh thoảng lại bắn thị uy vu vơ sang bên này sông. Tiếng đạn nghe « tắc bọp » dễ sợ, vì đạn nổ hai lần, một lần nổ khi đạn ra khỏi nòng súng và một lần nổ nữa khi đã hết đà hoặc khi tới đích. Người ta gọi loại  đạn này là đạn « đum đum ». Một lần giữa ban ngày, chúng lại cao hứng nã một trái « moóc chê » sang qua sông, rơi trúng ngay vào nơi một người đang cày ruộng là ông Phó Thôn ở Phú Hậu. Cả người và bò đều chết ngay tại chỗ, giữa cánh đồng. Sau vụ này, dân Tam Tỉnh hoảng sợ, thấy cần phải đi tản cư tị nạn ở nơi khác.