Thứ Sáu, ngày 07 tháng 2 năm 2014
Thử lý giải những sai sót để đời
của Nhà biên soạn từ điển-GS Nguyễn Lân
Hoàng Tuấn Công
"Học giả hoặc nhà văn, dù đã quá cố, vẫn phải vĩnh viễn chịu trách nhiệm về những gì họ đã viết" (AN CHI)
Kỳ 1
Phương pháp luận
Phương pháp luận là gì ? "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" đồ sộ, dày hơn hai ngàn trang của GS Nguyễn Lân không ghi nhận khái niệm này. Chúng ta không thể biết chính xác GS Nguyễn Lân "đãng trí", hay đối với Nhà biên soạn từ điển nổi tiếng Việt Nam, thực tế không có cái gọi là phương pháp luận. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, nguyên nhân đầu tiên dẫn đến những sai sót để đời của GS Nguyễn Lân trong các cuốn từ điển lại chính làphương pháp luận. GS Nguyễn Lân thiếu phương pháp luận đúng đắn để tiếp cận và giải quyết vấn đề.
Phương pháp luận hiểu đơn giản, ngắn gọn là tổng thể những phương pháp nghiên cứu, vận dụng trong khoa học nói chung. Khi GS Nguyễn Lân biên soạn từ điển nghĩa là đang bước vào địa hạt ngôn ngữ học, từ điển học, thành ngữ, tục ngữ học... Công việc này thành công hay không, phụ thuộc vào phương pháp luận mà GS vận dụng. Và kết quả cuối cùng chính là thước đo cho phương pháp luận của soạn giả.
Nhìn lại phần lớn những sai lầm mang tính hệ thống của GS Nguyễn Lân, có vẻ như phương pháp tiếp cận thành ngữ, tục ngữ của GS Nguyễn Lân là không áp dụng phương pháp nào cả. Nói đúng hơn là Nhà biên soạn từ điển dùng "phương pháp luận phỏng đoán", gọi theo ngôn ngữ thường ngày là "đoán mò" ! Nhận xét này có vẻ như một sự mạo phạm tới bậc thầy ngôn ngữ học. Tuy nhiên, nếu đánh giá, nhìn nhận cụ thể những sai lầm của GS Nguyễn Lân, bạn đọc sẽ thấy, chúng tôi đã gọi đúng tên bản chất vấn đề. Và "phương pháp đặc biệt" này được GS Nguyễn Lân áp dụng khá triệt để trong cả 3 cuốn từ điển "Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam", “Từ điển từ và ngữ Hán Việt”và “Từ điển từ và ngữ Việt Nam”.
Thành ngữ, tục ngữ có quy luật cấu trúc, nguyên tắc ngữ pháptrong cách đặt câu và ngữ nghĩa của dân gian. Bởi vậy, dù ngắn hay dài, dù đầy đủ hay đã bị tỉnh lược, thành ngữ, tục ngữ vẫn giữ được cốt lõi vấn đề, giúp người ta nhận ra những thông điệp dân gian gửi gắm. Mặt khác, thành ngữ, tục ngữ có nhiều kiểu cấu trúc ngữ pháp, dùng nhiều thủ pháp nghệ thuật để biểu đạt nhiều góc cạnh ngữ nghĩa. Bởi vậy, trong tay người nghiên cứu phải có cả "chùm chìa khóa" phương pháp luận. Thông qua việc phân loại, xác định cấu trúc, ngữ nghĩa của từng câu mà dùng chìa nào để mở. Tuy nhiên, với GS Nguyễn Lân, dường như thành ngữ, tục ngữ chỉ là những câu nói nôm na, những tập hợp từ lộn xộn. Bởi thế soạn giả đã tùy tiện thay đổi, gán ghép và cuối cùng là phỏng đoán, suy diễn nội dung, cách hiểu theo ý chủ quan của mình, bất chấp “quy luật muôn đời” dân gian đã tổng kết:
-Câu "Áo cứ tràng, làng cứ xã". "Tràng" từ cổ nghĩa là cái cổ áo. Câu này được diễn giải: cổ áo là bộ phận quan trọng nhất của chiếc áo, cũng giống như xã (trưởng) là người đứng đầu, cấp cao nhất của làng. Muốn nắm cái áo, cứ cổ áo mà cầm; muốn quản lý được làng, cứ ông xã (trưởng) mà nắm. Do không hiểu "tràng" là cái gì nên GS đổi thành "Áo cứ chàng, làng cứ xã" và cho rằng "chàng" ở đây là chàng trai, người chồng. Ý là: việc giặt giũ, vá may quần áo cứ để cho chồng làm nên gọi "áo cứ chàng"; việc của làng cứ ý vào ông xã (trưởng) nên gọi “làng cứ xã”, rồi giải thích: "Nói tính ỷ lại của người đàn bà, cũng như tính ỷ lại của người dân trong thôn xóm, không thấy được vai trò làm chủ của mình". Như thế, GS đã bất chấp quy luật cấu trúc ngữ pháp, ngữ nghĩa dân gian trong câu tục ngữ, biến chàng (trai) thành mộtbộ phận của cái áo. Rốt cuộc, câu tục ngữ đề cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu lại bị GS đoán là tính ỷ lại của người đàn bà và người dân trong thôn xóm. (Xin xem bài "Tràng hay chàng, vạt áo hay cổ áo" trên Blog tuancongthuphong).
-Câu tục ngữ "Mài mực ru con, mài son đánh giặc" đúc kết kinh nghiệm mài mực (Tàu) và mài son: Mài mực phải nhẹ nhàng như ru con; mài son phải mạnh mẽ như đánh giặc. Do không hiểu thủ pháp so sánh, ẩn dụ đặc biệt của dân gian, GS đành đoán liều, bất chấp sự vô lý trong cách giảng giải: "Nói các ông đồ ngày xưa ngày thường ngồi dạy học đồng thời giúp vợ làm việc vặt trong nhà, nhưng khi có giặc thì tham gia phục vụ quân sự" (!)
-Tương tự, câu "Hay ăn nhà bếp, chóng chết quản voi". (Dị bản:No ăn nhà bếp, chóng chết quản voi). Câu tục ngữ này có hai vế đối xứng, cấu trúc từ theo kiểu tiểu đối: "Hay ăn" (tính từ) đi với "chóng chết" (tính từ); "nhà bếp" (danh từ chỉ nghề nghiệp) đi với "quản voi"(danh từ chỉ nghề nghiệp) bị GS Nguyễn Lân đổi thành "Hay ăn vàobếp, chóng chết quản voi". Thế là "vào bếp" (động từ) bị đem đối với"quản voi" (danh từ). Rốt cuộc chính GS Nguyễn Lân trở nên lúng túng khi nhận thấy sự vô lý của nó và thắc mắc: “Hai việc này không ăn khớp với nhau”. Nhưng có lẽ GS liên tưởng tới câu “Muốn ăn thì lăn vào bếp” nên phỏng đoán, giải thích bừa: "Hay ăn vào bếp, chóng chết quản voi" (Quản một con voi dữ thì nguy hiểm) Hai việc này không ăn khớp với nhau, nhưng chỉ có nghĩa là tự mình làm lấy mà ăn là một chuyện tất nhiên".Thế nhưng câu tục ngữ đang xét được hiểu tương tự như câu “Giàu thủ kho, no nhà bếp”. Nhà bếp thì hay được ăn (vì trực tiếp nấu ra đồ ăn thức uống); Quản voi thì dễgặp nguy hiểm (vì có thể bị voi quật chết bất cứ lúc nào). Nghĩa bóng: Ai gắn bó với nghề nào thì được hưởng lợi trước tiên hoặc cũng bị nguy hiểm trước tiên từ nghề đó. (Có câu “Sinh nghề, tử nghiệp” là vậy).
-Câu "Vịt già, gà tơ" thuộc loại tục ngữ có cấu trúc đối sánh: Vịtvới gà; già với tơ (non). Nhưng vì không xét đến quy luật cấu trúc câu, từ của dân gian là gì nên GS sẵn sàng để già (chỉ mức độ già, non) đối với to (chỉ khối lượng to, nhỏ). Rồi giải thích: "Vịt già, gà to Ý nói vịt già thì ăn được, còn gà thì phải to béo, chứ gà già thì thịt dai".Cách giải thích này trở nên vô lý bởi gà "to béo" đâu có nghĩa là gà tơ, thịt không dai ? Ngược lại, con gà "to béo" hoàn toàn có thể là con gà già, đã đẻ nhiều lứa, thịt dai.
-Hoặc câu “Màn hoa lại trải chiếu hoa, bát ngà lại phải chiếu ngà mâm son Tả cái cảnh xa hoa của gia đình giàu sang ngày trước”.
Nếu như GS Nguyễn Lân có phương pháp tiếp cận, tôn trọngnguyên tắc đặt câu, biểu đạt ngữ nghĩa của dân gian, GS đã chẳng đưa ra một dị bản sai, lủng củng, trùng lặp đến vậy. Ví như vế đầu đã có “chiếu hoa”, vế sau không nhắc lại “chiếu ngà” nữa mà phải đũa ngà.(Mà thực tế cũng không có chiếu nào gọi là “chiếu ngà”). Không phải“bát ngà” mà là bát ngọc. Bát ngọc đi với đũa ngà đặt trên mâm sonmới đúng. (Màn đi với chiếu, bát đi với đũa). Bỗng dưng cho bát đi vớichiếu: “bát ngà lại phải chiếu ngà mâm son” là tùy tiện. Câu Màn hoa lại phải chiếu hoa, Bát ngọc lại phải đũa ngà mâm son, ý nói: cái đẹp phải tương xứng, hài hoà, đồng bộ. Nói như Giáo sư: “tả cảnh xa hoa của gia đình giàu sang ngày trước” là thiếu căn cứ và lạc đề.
Sai lầm ở dạng chép sai hình thức thành ngữ, tục ngữ rồi đoán mò, suy diễn thành ngữ, tục ngữ theo ý chủ quan chiếm một phần lớn và rất nghiêm trọng trong "Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam" của GS Nguyễn Lân (xin xem lại các kỳ Dĩ hư truyền hư")
Đối với cuốn "Từ điển từ và ngữ Hán Việt", “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” GS Nguyễn Lân vẫn “tâm đắc” với phương pháp “xem voi” để giải nghĩa từ nguyên. Kết quả là "trật" nhiều hơn "trúng". Xin lấy vài ba ví dụ trong hàng trăm trường hợp "đoán trật" khi giải nghĩa từ nguyên của GS Nguyễn Lân (phần gạch đầu dòng là của GS Nguyễn Lân):
- Đèn huỳnh quang (Huỳnh: đom đóm; quang: ánh sáng).
Chữ “huỳnh” (煌)ở đây chính là cách đọc chệch của chữ hoàngdo kiêng húy (chúa Nguyễn Hoàng). Chữ "huỳnh" (hoàng 煌) do bộ hỏa (火) ghi nghĩa và chữ "huỳnh" (hoàng-皇 ghi âm) nghĩa là sáng sủa, sáng rực (ví dụ như huy hoàng 輝 煌). Còn chữ "huỳnh" (hoàng) với nghĩa đom đóm lại có tự dạng là 螢 (có bộ trùng 虫 ghi nghĩa). Có lẽ do đèn huỳnh quang có ánh sáng trắng giống ánh sáng trắng xanh của con đom đóm, nên GS đoán rằng chữ “huỳnh” này có nghĩa là “đom đóm”chăng ?
- Bắc thần (bắc: phương bắc; thần: tinh thần) Ngôi sao sáng nhất trong chùm sao tiểu hùng tinh, giúp người ta xác định hướng chính bắc.
Chữ thần (辰) ở đây chỉ chung mặt trời, trăng, sao. Chữ thần (辰)này khi đọc là thìn lại có nghĩa là rồng - chi thứ năm trong thập nhị chi.Còn chữ thần trong tinh thần có tự dạng là (神), không liên quan gì đến bắc thần (北辰).
-Thủy tạ (tạ: ngôi nhà xinh) Ngôi nhà xây trên mặt nước để làm nơi giải trí: Nhà thủy tạ ở Hồ Tây.
Chữ “tạ” (榭) trong thủy tạ có nghĩa là “cái đài có nhà ở”.Nhưng phải chăng do soạn giả ngắm nhà thủy tạ ở Hồ Tây thấy nó xinh xắn quá nên đoán rằng chữ tạ ở đây (có lẽ) nghĩa là ngôi nhà xinh (!?)
Nếu không phải là GS Nguyễn Lân “đoán mò”, tại sao chữ với nghĩa vốn rành rành ra đó lại "trật lất hết trơn", "Râu ông nọ cắm cằm bà kia” như vậy ? (Xin xem lại bài "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" mục chữ cái nào cũng có sai sót" của Hoàng Tuấn Công trêntuancongthuphong)
Cũng vì sai lầm trong phương pháp luận mà GS Nguyễn Lân chủ trương giải thích từ nguyên một cách triệt để. Đến mức, GS tìm nghĩa từ nguyên cho cả những từ vay mượn ghi âm Hán Việt. Ví dụ: “Câu lạc bộ(Câu: đều; lạc: vui; bộ: bộ phận - Do từ Anh club phiên âm ra tiếng Trung Quốc” (“Từ điển từ và ngữ Việt Nam”). Đã là từ phiên âm tiếng Anh thì từng từ đơn lẻ chỉ làm nhiệm vụ ghi âm chứ không ghi nghĩa. Việc giải nghĩa từng từ như trên là hoàn toàn sai về phương pháp luận. Bởi thế cái sai kiểu này của GS Nguyễn Lân mang tính hệ thống. Ta còn gặp một số từ phiên âm khác được GS Nguyễn Lân đem ra “giải nghĩa từ nguyên” như: bồ đề, nha phiến, bạch phiến....
Kiến thức, hiểu biết thấu đáo sẽ giúp soạn giả tìm ra phương pháp luận. Và phương pháp luận đúng đắn sẽ giúp soạn giả sử dụng hiệu quả kiến thức, hiểu biết. Nhưng có phương pháp luận trong tay mà thiếu kiến thức vẫn thất bại như thường. Bằng chứng là trong "Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam", GS Nguyễn Lân cũng đưa ra tiêu chí xác định, nhận diện thành ngữ: "Thành ngữ là những cụm từ cố định dùng để diễn đạt một khái niệm". Thế nhưng, do quan niệm đơn giản, máy móc rằng "thành ngữ là những cụm từ dùng để diễn đạt một khái niệm"nên GS Nguyễn Lân thu thập cơ man những cụm từ, thuật ngữ kinh tế, chính trị, ngoại giao, thể thao,...những danh từ, tổ hợp danh từ, quán ngữ...để đưa vào từ điển làm "thành ngữ tục ngữ". Như: Cách mạng xanh; Chạy đua vũ trang, Chiến tranh cân não; Chiến tranh chớp nhoáng; Chiến tranh lạnh; Chiến tranh tâm lý, Lãnh sự tài phán; Đấu vòng tròn; Khủng bố trắng; Khăn chữ nhất; Khăn đầu rìu;Khăn mỏ quạ; Khăn quàng đỏ; Khăn vành dây; Không chán mắt;Không chê được; Không tài gì; Không thể nào; Rất chi là; Rinh tùng rinh; Lễ lại mặt; Tuổi dậy thì,... (xin xem lại bài Dĩ hư truyền hư kỳ cuối).
Về hình thức, thành ngữ là một cụm từ, chưa phải là một câu như tục ngữ. Điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian nói đến. Tuy nhiên, cần hiểu thêm: thành ngữ không phải là cụm từ bình thường mà là một cụm từ đặc biệt, có kết cấu chặt chẽ, tính khái quát, so sánh, gợi tả cao và đầy ẩn ý. Bởi thế, khái niệm mà thành ngữ diễn đạt cũng không phải là khái niệm bình thường mà là khái niệm đặc biệt. Nói cách khác, khái niệm mà thành ngữ nói đến không phải “khái niệm chết" chỉ để gọi tên sự vật hiện tượng nào đó mà có nghĩa hàm ẩn, nghĩa suy ra từ nghĩa đen của cụm từ được gọi là thành ngữ. Ví dụ câu "Ếch ngồi đáy giếng". Nội dung, khái niệm thành ngữ nói đến không dừng ở nghĩa đen con ếch ngồi ở dưới đáy giếng mà nhằm so sánh, ám chỉ một người hiểu biết nông cạn, hạn chế, nên nhận thức sai về sự vật xung quanh. Trong khi cũng là cụm từ, cũng nhằm diễn đạt một khái niệm với lối ấn dụ, so sánh, nhưng "Chiến tranh lạnh" hay "Cách mạng xanh" mà GS Nguyễn Lân đưa ra không được xem là thành ngữ. Bởi nội dung cụm từ này chỉ dừng ở việc gọi tên một dạng chiến tranh,một kiểu cách mạng trong nông nghiệp. Hoặc Khăn chữ nhất, Khăn đầu rìu, Khăn mỏ quạ ngoài ý nghĩa gọi tên các loại khăn theo hình dáng của nó thì các cụm từ này không mang nghĩa hàm ẩn nào khác. Hay Không chán mắt, Không chê được; Không tài gì; Không thể nào...các nhà nghiên cứu xếp vạo loại “quán ngữ” (từ quen dùng) chứ không phải thành ngữ.
Trong “Đôi lời tâm sự thay lời tựa” của sách “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” GS Nguyễn Lân viết: “Nhận thấy rằng sinh viên và học sinh các trường không có một từ điển tiếng Việt nào để tra cứu, một số chúng tôi đã quyết định cùng họp lại để giải quyết sự thiếu thốn ấy. Vì thế năm 1969, quyển Từ điển tiếng Việt đầu tiên của chế độ ta đã được ra mắt bạn đọc”. Từ điển là khoa học. Bởi thế, dù được biên soạn bởi ai, dưới chế độ nào đều phải đảm bảo tính khoa học, khách quan. Không rõ GS Nguyễn Lân quan niệm từ điển “của chế độ ta” khác những gì với từ điển của những chế độ trước đó ? Ví như“Việt Nam tự điển” của Hội Khai Trí Tiến Đức xuất bản năm 1931 đến bây giờ vẫn là công cụ hữu ích của các nhà nghiên cứu. Trong đó, chúng ta tìm thấy dấu ấn lịch sử của ngôn ngữ mà không thấy dấu ấn, bàn tay của chế độ thực dân phong kiến. Ở một khía cạnh nào đó, dường như GS Nguyễn Lân bị quan điểm giai cấp chi phối công việc của người làm khoa học. Ví như dân gian có tư duy, nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng theo kiểu của dân gian. Tư duy đó tiến bộ, khoa học hay hạn chế đều mang dấu ấn lịch sử của quá trình nhận thức thế giới tự nhiên và mối quan hệ xã hội. Nhiệm vụ của người làm từ điển là tập hợp và giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng, cách hiểu, cách dùng thành ngữ, tục ngữ dân gian một cách khách quan, đúng như nó vốn được đúc kết, được hiểu, được dùng trong thực tế. Thế nhưng, GS Nguyễn Lân lại vi phạm nguyên tắc khách quan, khoa học đó khi đứng trên quan điểm giai cấp, cá nhân cực đoan, đả phá, phản đối nội dung nhiều câu thành ngữ, tục ngữ:
Đắng cay cũng thể ruột rà, ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng Quan niệm cũ kỹ cho rằng người có họ với mình, dù ăn ở không tốt, cũng hơn là ngừơi dưng tử tế với mình.
Máu loãng còn hơn nước lã Quan niệm cũ cho rằng dù là họ hàng xa cũng còn hơn người dưng.
Máu mủ chẳng thương, thương thiên hạ hàng xứ Lời trách móc theo quan niệm cũ cho rằng có họ hàng với nhau thì phải đùm bọc, thương yêu hơn là đối với người dưng.
Ba câu trên khuyên người ta phải biết yêu thương người thân, máu mủ, ruột thịt; đề cao tình cảm huyết thống, dòng tộc. Điều đó không có gì là xấu, là “quan niệm cũ kỹ”. Bởi “Gia đình là tế bào của xã hội”, con người trước tiên phải ý thức được tình cảm máu mủ, ruột thịt, phải biết yêu thương ông bà, cha mẹ mới có thể yêu thương anh em, bạn bè, đồng chí. Rộng hơn nữa là ý thức đồng bào, dân tộc rất đáng được trân trọng. Và thương yêu người thân không có nghĩa ghét bỏ người dưng. Người trong một nước thương yêu nhau không có nghĩa là ghét bỏ nhân loại. Như câu ca dao “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Vậy GS nghĩ sao ?
Với GS, tất cả những gì dính dáng tới xã hội cũ, phong kiến, quan lại, đàn ông đều là xấu xa, đều là cũ kỹ, lạc hậu. Ngược lại, những cái thuộc về ngày nay đều muôn phần tốt đẹp:
- Bạc thì dân, bất nhân thì lính. Lời phàn nàn của bọn quan lạitrong chế độ phong kiến, khi người ta đối xử không hậu hĩ với chúng.
-Mẹ chồng không ai nói tốt nàng dâu Đó là hiện tượng khá phổ biến trong xã hội cũ, nhưng ngày nay trái lại, nhiều khi mẹ chồng yêu con dâu như con đẻ của mình.
-Tài trai lấy năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ lấy một chồngLuận điệu ích kỷ của bọn đàn ông trong chế độ phong kiến.
-Trai làm nên, năm thê bảy thiếp; gái làm nên thủ tiết thờ chồng Nói lên cái tính ích kỷ của bọn đàn ông trong chế độ đa thêthời phong kiến.
-Mấy đời gỗ mục đóng nên thuyền rồng ý nói Bản chất xấu thì không thể trở nên người tốt. Tuy nhiên trong xã hội ta, nhiều người xấu được cải tạo cũng trở nên tốt.
Đọc những lời trên, chúng ta có cảm giác GS Nguyễn Lân đang lên lớp trong một tiết học có nội dung chống đế quốc phong kiến chứ không phải đang làm từ điển. Mặt khác, cách phê phán của GS cũng không đúng. Ví dụ câu "Mấy đời gỗ mục đóng nên thuyền rồng" tục ngữ không nói đến việc "bản chất xấu không thể cải tạo thành người tốt",mà ý nói vật cũ nát, tầm thường thì không thể sử dụng vào việc lớn. Điều này có thực tế nghĩa đen và rất biện chứng. Thế nên sách Luận ngữ ra đời cách nay hàng ngàn năm đã viết: “Hủ mộc bất khả điêu dã, phấn thổ chi tường bất khả ô dã” Nghĩa là: Gỗ mục không thể chạm khắc, vách đất không thể tô vẽ (Luận ngữ - Công Dã Tràng).
Thậm chí GS Nguyễn Lân còn đứng trên quan điểm duy vật biện chứng của triết học Mác-Lê nin để áp đặt cho tư duy dân gian và phê phán nội dung nhiều câu thành ngữ, tục ngữ. Ví dụ câu: “Dương làm sao, âm làm vậy” phần nào thể hiện tín ngưỡng, tôn giáo, thế giới quan của người xưa, đã không được GS giải thích, ngược lại bị “sổ toẹt” bằng một câu: “lời tin nhảm của kẻ mê tín” !
Thực tế, dù làm nghề đào đất cũng phải nắm được thân đất mình đào là đất sét hay đất cát, đất sỏi đá hay đất tơi xốp, rồi mới tính chuyện nên sử dụng mai, thuổng, hay xẻng, xà beng để đào cho hiệu quả. Thật khó cho GS Nguyễn Lân bởi một khi chưa có hiểu biết cần thiết về cơ sở ngôn ngữ học nói chung và thành ngữ tục ngữ nói riêng làm sao có thể nói đến việc lựa chọn phương pháp tiếp cận nào cho đúng ? Những sai lầm mang tính hệ thống trong các sách từ điển do GS Nguyễn Lân biên soạn có nguyên nhân chủ quan và khách quan. Phương pháp luậnchỉ là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của GS Nguyễn Lân ở lĩnh vực biên soạn từ điển.
**
THỬ LÝ GIẢI NHỮNG SAI SÓT ĐỂ ĐỜI
của Nhà biên soạn từ điển-GS Nguyễn Lân
Hoàng Tuấn Công
Kỳ 2
Thiếu kiến thức cơ sở ngôn ngữ học
GS Nguyễn Lân - Nhà biên soạn từ điển, Học giả nổi tiếng Việt Nam, tác giả và đồng tác giả của 10 cuốn từ điển tiếng Việt và từ điển song ngữ. Sao có thể nói “thiếu kiến thức cơ sở ngôn ngữ học” ? Nhận xét này quả là hồ đồ !
Kiến thức cơ sở ngôn ngữ học được hiểu là nền tảng kiến thức, những hiểu biết cơ bản nhất về bộ môn khoa học này. Nền tảng có vững thì những công trình xây dựng trên đó mới vững. Vậy, chúng ta hãy xem GS Nguyễn Lân đã nắm vững hoặc hiểu biết thấu đáo những thuật ngữ, khái niệm, thuộc tính của ngôn ngữ, thành ngữ, tục ngữ hay GS lẫn lộn giữa cái nọ với cái kia, sai lầm này đẻ sai lầm khác ?
-Không phân biệt được cụm từ (đơn thuần), ngữ danh từ, thuật ngữ, quán ngữ với thành ngữ:
Trong một số bài trước đây, chúng tôi đã nói đến vấn đề nhận diện thành ngữ, tục ngữ của GS Nguyễn Lân. GS không phân biệt được cụm từ, ngữ danh từ, quán ngữ với thành ngữ, chưa phân biệt được tục ngữvới ca dao. Có bạn đọc gửi ý kiến phản hồi, đề nghị chúng tôi xem lại, bởi cho rằng có sự nhầm lẫn nào đó chăng ? Thú thực, ban đầu chúng tôi cũng không tin GS Nguyễn Lân-người làm từ điển thành ngữ, tục ngữ lại đến mức chưa đủ kiến thức nhập môn về thành ngữ. Có lẽ nguyên nhân nào đó khiến “đội quân” ngữ danh từ, quán ngữ, thuật ngữ đã "trà trộn" vào từ điển thành ngữ, tục ngữ của GS. Nhưng muốn biện hộ cho GS mà chẳng xong ! Bởi những "ngụy” thành ngữ này được chính GS Nguyễn Lân tuyển chọn, "biên chế" vào hàng ngũ hẳn hoi. Khi rải rác, lúc dày đặc, từ A đến Y, vần nào cũng thấy có mặt "chúng", lại được GS giải thích "như ai”. Thậm chí GS còn cho chúng có cả nghĩa đen, nghĩa bóng (!) Sau khi xuất bản (1989), “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam” còn có hàng chục lần tái bản (kể cả khi GS Nguyễn Lân còn sống). Nếu là sai sót về mặt cơ học (như khâu chế bản) những “ngụy thành ngữ” này phải được loại bỏ. Vậy cái sai này hoàn toàn không phải do sơ suất. Dường như nguyên nhân của nó đã nằm ngay trong cách giải nghĩa từ “ngữ” của GS Nguyễn Lân: “Ngữ dt Thành ngữ nói tắt: Từ điển từ và ngữ Việt Nam”. Như vậy, đối với GS Nguyễn Lân, “ngữ” chỉ có một nghĩa duy nhất là “thành ngữ”. Trong khi “Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê) giải nghĩa: “ngữ d đơn vị ngữ pháp trung gian giữa từ và câu; ngữ danh từ; ngữ cố định; đồng nghĩa: cụm từ”.
Sau đây, mỗi mục chữ cái chúng tôi chỉ lấy ví dụ một vài trường hợp. Có mục, chúng tôi thống kê theo thực tế để thấy GS Nguyễn Lân đã xem những ngữ danh từ, cụm từ, quán ngữ “bình đẳng” với thành ngữ, tục ngữ chính hiệu như thế nào. (Phần in nghiêng, nghiêng đậm là nguyên văn cụm từ của GS Nguyễn Lân, Hoàng Tuấn Công cắt phần giải thích để đỡ dài dòng): Anh em cọc chèo, Ăn cắp ăn nảy, Bay lả bay la, Bi ba bi bô; Cách mạng xanh; Chạy đua vũ trang; Chiến tranh cân não; Chiến tranh chớp nhoáng; Chiến tranh lạnh; Chiến tranh tâm lý; Da bánh mật; Da bọc xương; Đấu vòng tròn; Ẽo à ẽo ẹt; Ê a ề à; Gầm ghè gầm gừ; Hả lòng hả dạ;Hí ha hí hoáy; Hơi đâu mà; Ì à ì ạch; Khủng bố trắng; Khăn chữ nhất; Khăn đầu rìu; Khăn mỏ quạ; Khăn quàng đỏ; Khăn vành dây; Không chán mắt; Không chê được; Không tài gì; Không thể nào; Lãnh sự tài phán; Lễ lại mặt; Mất công toi; Mới đấy mà đã; Nói chuyện gẫu, Nói gì thì nói, Phát canh thu tô;Quan phụ mẫu; Quân trang quân dụng; Rất chi là; Rinh tùng rinh; Rắc rối to; Râu quai nón; Rất chi là; Sát sàn sạt; Sóng bạc đầu; Tái xanh mặt; Tân giai nhân; Tân lang; Tuổi dậy thì; Thi đua hai tốt; Ú a ú ớ; Ù tay trên; Ừ à ừ ào; Ưỡn à ưỡn ẹo; Vị thành niên, Xa lắc xa lơ; Xanh hoa lý; Y như nhau, Y như rằng; Ý trung nhân;...
Trong hàng trăm “ngụy” thành ngữ trên, có vài ba câu có thể “cải tạo” để chúng trở thành thành ngữ thực thụ. Nhưng với điều kiện phải thêm, bớt từ và giải thích theo hướng khác. Ví dụ: “Bi ba bi bô” vốn được GS Nguyễn Lân giải nghĩa là“nói tiếng trẻ em mới tập nói hoặc người lớn mới học một ngoại ngữ”, chỉ được xem là một cụm từ láy. Nếu sửa lại: Bi bô như trẻ học nói hoặc Bi bô như trẻ lên ba, và giải nghĩa: Ám chỉ người nói ngọng hoặc đang cố gắng phát âm một ngoại ngữ, ta có một đơn vị có thể gọi là thành ngữ. Bởi Bi bô như trẻ học nóicũng là cụm từ, nhưng bản thân nó đã đưa ra một nhận xét, một so sánhbằng liên từ “như” rất đặc trưng của thành ngữ. Hoặc “In như nhau”GS giải thích “Nói hai vật hoặc hai người hết sức giống nhau”. Nếu sửa lại: Giống như in, Giống như đúc, Giống như hai giọt nước và giữ nguyên cách giải thích của GS, ta cũng có một đơn vị có thể gọi là thành ngữ. Hoặc như câu “Tân giai nhân” GS Nguyễn Lân giải thích“Nghĩa đen: Người con gái đẹp - Chỉ cô dâu mới về nhà chồng”, đây mới chỉ là một ngữ danh từ. Nếu sửa thành Bẽn lẽn như tân giai nhânhoặc Như tân giai nhân, (thành ngữ: Như gái mới về nhà chồng) và giải thích: Nói ai đó giao tiếp rụt rè, không được tự nhiên, thì danh từ đơn thuần sẽ trở thành cụm từ đặc biệt, có thể gọi là thành ngữ. Còn lại, đối với một số ngữ danh từ như: Quân trang quân dụng tức quần áo và đồ dùng của quân đội", “Đấu vòng tròn nói cuộc thi đấu thể thao đấu lần lượt với mọi đấu thủ”, “Thi đua hai tốt Khẩu hiệu do Hồ Chủ tịch đưa ra để yêu cầu thầy giáo học tốt và học sinh học tốt”(đúng ra phải là thầy giáo dạy tốt chứ ?) hoặc quán ngữ: Nói gì thì nói, Rắc rối to...Từ láy: Ú a, ú ớ; Ì à ì ạch, thì chỉ có phép “thần thông quảng đại” mới có thể biến chúng thành “thành ngữ” như GS đã làm.
Trong “Lời nói đầu” sách “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam”, GS Nguyễn Lân cho biết: “Chúng tôi chỉ chọn những thành ngữ có 3 từ trở lên và coi những thành ngữ có hai từ là những từ ghép”. Cách đưa ra tiêu chí này có vấn đề. Cách diễn đạt của Nhà biên soạn từ điển cũng không ổn. Bởi nếu đã là thành ngữ thì hai, ba hay bốn hoặc năm từ nó vẫn là thành ngữ và ngược lại. Trong thực tế, không hề có loại thành ngữ chỉ có hai từ. Bởi vậy, không cần đưa ra tiêu chí để loại bỏ chúng. Viết như vậy khác nào đưa ra tiêu chí phân biệt cuốn sáchvới tờ giấy và nói rằng: “Những cuốn sách chỉ có một trang chúng tôi sẽ không xem là một cuốn sách mà xem là một tờ giấy" (!). Giới hạn “cẩn thận” là vậy, nhưng rốt cuộc trong sách từ điển của GS vẫn có một đơn vị “thành ngữ” chỉ có hai từ, đó là “Tân lang” với lời giải thích của GS“chàng trai mới, chỉ chú rể mới”.
-Không phân biệt tục ngữ với ca dao:
Cũng như thành ngữ với tục ngữ; tục ngữ và cao dao có không ít câu khó phân biệt rạch ròi. Tuy nhiên xét về hình thức và nội dung của mỗi thể loại, cơ bản chúng ta vẫn nhận diện được. Ví như: Tục ngữ thường là một câu ngắn gọn; Ca dao thường có hình thức lục bát; Tục ngữ là tri thức, kinh nghiệm, tư duy về cuộc sống, sản xuất, thế giới tự nhiên... Ca dao thiên về tình cảm, tính chất trữ tình... Ca dao có thể dùng để hát, để ru...Tục ngữ không ru, không hát được. Một số câu tục ngữ có hình thức lục bát nhưng nội dung là tục ngữ thì phải xem là tục ngữ (Ví dụ: Én bay thấp mưa ngập bờ ao, Én bay cao mưa rào lại tạnh). Tuy nhiên, những câu mà cả hình thức lẫn nội dung đều thuần ca dao, không có lý do gì lại xếp vào tục ngữ, thành ngữ như GS Nguyễn Lân đã làm. Ví dụ:
“Chiều chiều ngó ngược ngó xuôi,
Ngó không thấy mẹ ngùi ngùi nhớ thương”.
Hoặc:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều”
-Không phân biệt thành ngữ, tục ngữ với câu đố.
Câu đố là sự thách đố đơn thuần về lý trí. Cách cấu tạo câu đố là khai thác đặc điểm nào đó của sự vật, nhân cách hóa nó, chơi chữ, thành ra mập mờ, kỳ lạ, khiến người ta khó hiểu, phải phán đoán thế này thế kia. Cuối cùng khi nghe giảng giải mới vỡ lẽ: hiện tượng, sự vật ấy ở ngay trước mắt mà không biết. Dùng câu đố làm tục ngữ, hoặc dùng tục ngữ làm câu đố là chuyện rất khó bởi chúng là hai thể loại khác nhau, mục đích khác nhau. Vì không hiểu đặc trưng của câu đố nên GS Nguyễn Lân mới "tuyển chúng" vào làm tục ngữ (phần gạch đầu dòng là của GS Nguyễn Lân):
- Con đóng khố, bố cởi truồng Tả cảnh nghèo khổ của nhân dân trong chế độ cũ.
Thực ra đây là câu đố về cây măng và cây tre
-Đào chẳng thấy, lấy chẳng được Tức là: Sâu kín quá, không sao phát hiện được.
Thực ra đây là câu đố về mặt trăng in bóng dưới ao.
-Con lành con ở cùng bà, váng mình sốt mẩy con ra ngoài đồng Nói lên cái ích kỷ nhẫn tâm của bọn địa chủ thời xưa đối với người làm trong nhà.
Thực tế, đây là câu đố về quá trình cất giữ, ngâm ủ và đem gieo của hạt giống lúa.
Đến nhận diện tục ngữ, thành ngữ, ca dao, câu đố còn lúng túng, việc giải thích thành ngữ, tục ngữ sai tràn lan của GS Nguyễn Lân là điều dễ hiểu. Nguyên nhân của sai lầm trên là gì, nếu không phải là thiếu hiểu biết cơ bản về thành ngữ, tục ngữ dân gian ?
-Về một số khái niệm, thuật ngữ nói chung:
Trong sách “Muốn đúng chính tả” (NXB Văn Hóa Thông Tin-2010), GS Nguyễn Lân lẫn lộn cái nọ với cái kia. Ví dụ, GS viết: “Một số tiếng Hán Việt bắt đầu từ tr khi đã Việt Nam hóa mà đọc chạnh đi thì lại thành những tiếng bắt đầu bằng ch”. Hoặc “Những tiếngKinh bắt đầu từ vần tr thì tiếng Mường bắt đầu bằng cl” (tr.8) Rồi:“Đa số tiếng Hán Việt bắt đầu bằng d thì trong tiếng Trung Hoa(tiếng Bắc phương) bắt đầu bằng âm i hoặc âm u” (tr.10) Ở đây, GS nhầm lẫn giữa “từ” (đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất), “âm” (đơn vị ngữ âm nhỏ nhất) với “tiếng” (ngôn ngữ của một dân tộc hoặc giọng nói của một địa phương). Thực tế, hoàn toàn không có cái gọi là “tiếng Hán Việt” trừ khi người Việt có cách dùng từ, ngữ pháp y hệt như người Hán (hiện đại), chỉ khác phát âm theo cách của người Việt. Ví dụ, vốn nói:Đồ đạc của tôi, nay nói: Ngã đích đông tây. Hoặc vốn nói: Vợ (của) anh, lại nói: Nhĩ lão bà; Đàn ca tài tử lại nói Tài tử đàn xướng,v.v...
Tiếng Trung Hoa là ngôn ngữ của người Trung Hoa. Giống như tiếng Anh, tiếng Pháp vậy. Nếu ý GS muốn biểu đạt “tiếng” ở đây nghĩa là cách phát âm, giọng chuẩn của người Trung Quốc thì phải viết làtiếng Bắc Kinh chứ không phải là “tiếng Trung Hoa”. Mặc dù GS đã mở ngoặc là “tiếng Bắc phương”, nhưng “Bắc phương” ở đây là nhìn từ Việt Nam hay nhìn từ Trung Quốc ? Nếu nhìn từ Trung Quốc thì “Bắc phương” (phía Bắc) Trung Quốc biết bao dân tộc, lấy đâu làm chuẩn ?
Thuật ngữ, khái niệm của Nhà biên soạn từ điển mà nôm na, thiếu chính xác như vậy, việc giải nghĩa từ vựng theo kiểu “đoán chừng” của GS cũng là điều dễ hiểu (Xin xem lại Kỳ 1-Phương pháp luận)
Trong sách "Tôi yêu tiếng Việt" (NXB Khoa học Xã hội, 1995) GS Nguyễn Lân cũng không phân biệt được thế nào là phát âm sai,phát âm lẫn lộn, thế nào là tiếng, giọng (phương ngữ, thổ âm, thổ ngữ) của các vùng miền. Ví dụ GS Nguyễn Lân nhận xét: "Ở miền Nam, một số đồng bào, nhất là ở thôn quê:
-Lẫn phụ âm v và d, nên đi vô nói là đi dô, vái lạy nói là dáilạy...
-Lẫn khuôn âm iên với khuôn âm iêng, nên có người tên đáng lẽ viết là Liên lại viết là Liêng.
-Ở Nghệ Tĩnh, nhiều người lẫn lộn dấu ngã (~) và dấu (.), như đọc Hà Tĩnh thành Hà Tịnh" (Dẫn theo “Một số trở ngại trong thống nhất chính tả của chúng ta”-GS NGND Nguyễn Lân-Tạp chí Tác phẩm mới-2013)
Theo GS Nguyễn Lân, sự “lẫn lộn” đó là những nguyên nhân khiến người ta viết sai chính tả. Tuy nhiên, trong thực tế, tuy phát âm là Hà Tịnh nhưng người xứ Nghệ vẫn viết là Hà Tĩnh, chứ không phải Hà Tịnh như GS lầm nghĩ. Hơn nữa, nếu coi đây là sự lẫn lộn thì cả miền Nam lẫn lộn chứ không riêng gì Hà Tĩnh. Ai cũng biết đó là bản sắc ngôn ngữ, tiếng địa phương, thổ âm, thổ ngữ của vùng miền. (GS Nguyễn Lân có mấy cuốn sách dạy viết đúng chính tả và luôn kêu gọi phải viết đúng chính tả. Nhưng chính GS lại là người viết sai chính tả bậc nhất. Chúng tôi sẽ có riêng một kỳ thử lý giải về vấn đề này).
Tất cả những hiểu biết trên đây đều thuộc dạng nhập môn của ngôn ngữ nói chung và thành ngữ, tục ngữ nói riêng. Độc giả đọc loạt bài của Hoàng Tuấn Công chắc sẽ nhận thấy, một số ý trùng lặp. Điều này chúng tôi đã lý giải ở kỳ trước. Ví như kiến thức, hiểu biết thấu đáo sẽ giúp soạn giả tìm ra phương pháp luận. Và phương pháp luận đúng đắn sẽ giúp soạn giả sử dụng hiệu quả kiến thức, hiểu biết. Phương pháp luận cũng chính là kiến thức. Bởi vậy, phương pháp luận và kiến thức tuy hai mà một, có mối quan hệ khăng khít với nhau. Sai sót để đời của GS Nguyễn Lân do nhiều nguyên nhân. Cái nọ liên quan đến cái kia. Sự phân loại của chúng tôi chỉ mang tính chất tương đối để bạn đọc tiện theo dõi.
H.T.C
**