Wednesday, 25 July 2018

Chợ Lớn Lịch sử địa lý, kinh tế và văn hóa Phần 3 (Nguyễn Đức Hiệp - Lê Quý Đôn Khung Trời Kỷ Niệm)

Chợ LớnLịch sử địa lý, kinh tế và văn hóaPhần 3



Nguyễn Đức Hiệp



Bến Chương Dương, Hàm Tử, Bình Tây, Bình Đông

Ngoài sông Saigon thì con đường thuỷ quan trọng thứ nhì vùng Sài Gòn - Chợ Lớn là Kinh Tàu Hủ (người Pháp gọi chung rạch bến Nghé và kinh Tàu Hủ là Arroyo Chinois). Sau này có thêm một kinh chạy song song với Kênh Tàu Hủ, nối với kinh Tẻ và rạch Bến Nghé ra sông Saigon gọi là Kinh Đôi.


Theo Vương Hồng Sển (4) thì :


“ Khảo ra vì Rạch Chợ Lớn cạn hẹp, (cũng vì thế nên sau Pháp lấp bỏ) nên để có một con kinh rộng lớn hơn, năm Gia Long thứ 18 (Kỷ Mão, 1819), Vua hạ lịnh cho đào Kinh Tàu Hủ. Phó Tổng Trấn Gia Định Thành là Huỳnh Công Lý (cha vợ Vua Minh Mạng), được phong làm Khâm Sai, hiệp với ông Tổng Thanh Tra Gia Định, điều khiển mười một ngàn bốn trăm sáu chục nhơn công (11.460), chia làm ba tốp, mỗi dân công có lãnh một số tiền và một khẩu phần, khởi công ngày 23 tháng giêng, đến ngày 23 tháng tư năm Kỷ Mão (1819) là hoàn thành, đúng ba tháng. Con kinh này bắt đầu từ Cầu Đề Thông (nôm gọi là Cầu Bà Thuông) chạy đến ngã tư sông Rạch Cát. Sách nói kinh dài 2.129 tầm và 1 bộ, bằng chín dặm rưỡi, (mỗi dặm 576 thước tây = 576 x 9,5 = 5.472 m). Bề ngang rộng mười lăm tầm (mỗi tầm 8 xích, tính ra 0,32 x 8 x 15 = 36m90). Bề sâu được 9 bộ (mỗi bộ 6 xích = 0,32 x 6 x 9 = 17m28). Mỗi bên kinh có chừa một bờ đất rộng 8 tầm, bờ kinh ấy thông liền với đường sứ rộng sáu tầm. Đào rồi, Vua Gia Long đặt tên khúc kinh ấy là An Thông Hạ.


Nay ráp với đoạn Chợ Quán và Cầu Ông Lãnh, gọi chung là Kinh Tàu Hủ (Tài liệu rút trong Phổ Thông số 15 ngày 15-7-1959, bài của ông Lê Ngọc Trụ viết). Theo bộ Gia Định Thông Chí của ông Trịnh Hoài Đức, thì vốn là lạch nhỏ cũ đào rộng ra, nhưng xét qua địa đồ xưa của ông Trần Văn Học vẽ về tỉnh Gia Định trước năm 1815 thì không thấy có con rạch nhỏ ấy.”


Cho tới các năm gần đây, dọc theo kinh Tàu Hủ là các bến tàu vẫn còn hoạt động : bến Chương Dương (Quai de Belgique), bến Hàm Tử (Quai Le Marne), bến Lê Quang Liêm (Quai de My Tho). Từ khi khởi công xây đại lộ Đông Tây, các bến này dần biến mất và không còn tàu ghé đến nữa. Các bến và cảnh quan chung quanh đã hầu như nhanh chóng thay đổi toàn diện qua sự cải tiến về hạ tầng cơ sở lưu thông đường bộ tương phản với sự thu hẹp mất dần giao thông đường thủy và một số khu nhà ổ chuột dọc bên kênh. Nhà cửa ở các khu phố dọc bến và bên trong cũng thi nhau biến dạng qua những kiến trúc tầng lầu tân thời, cao thấp, rộng hẹp mỗi nhà một vẻ.


Trở lại cách đây đúng 150 năm, ta hãy đọc những gì Leopold Pallu, một sĩ quan Pháp, đã tả quang cảnh chung quanh bờ từ rạch Bến Nghé đến kênh Tàu Hủ vào năm 1861 trên đường vào Chợ Lớn như sau (17) :


“ Rạch Bến Nghé - Kênh Tàu Hủ (Arroyo chinois), mà ta vẫn thường nghe khi nói về Sài Gòn, rất có thể là rạch được đào hay ít nhất cũng là do tay người cải tiến thành kênh cho tàu bè thông thương. Kênh tách ra theo một hướng thẳng góc với sông Sài Gòn, mặt nước phẳng đều, rộng khoảng 100m, ăn sâu vào phía trong vùng xứ sở. Rạch Bến Nghé - Kênh Tàu Hủ nối với kênh Bà Bèo (Arroyo commercial, sau này gọi là kênh Tháp Mười nối sông Vàm Cỏ Tây với sông Tiền, là kênh buôn bán thương mại chính giữa Sài Gòn - Chợ Lớn với miền Tây. Từ kênh Tàu Hủ còn phải qua kênh Ruột Ngựa đến sông Rạch Cát hay sông Chợ Đệm đến sông Vàm Cỏ trước khi đến kênh Bà Bèo để đi qua sông Tiền, ghi chú người dịch) và họp với các kênh rạch khác tạo thành một đường giao thống huyết mạch, đổ vào sông Cambodge (tức Tiền Giang, ghi chú người dịch) mà tất cả thương mại ở miền Tây (basse Cochinchine) dựa vào.


Đi từ Saigon vào rạch, dọc hai bờ vương lên nhiều chòm cây mãng cầu, cây mít, cây hoa lài thơm ngát, cây lô hội và lau sậy. Cây cối bên bờ trái che khuất các ruộng lúa mênh mông đến tận chân trời. Hàng cây bên bờ phải thỉnh thoảng ở các khoảng cách hé lộ ra cho ta thấy được một miếu thờ nhỏ, được dựng lên để thờ một vị thần quen thuộc của vùng, nhưng thường hơn là những nhà xinh đẹp dễ chịu của người An Nam, các nhà này lợp ngói, có các cây xương rồng làm hàng rào bao quanh kho xuyên qua được.


Một con đường lớn được bảo trì khá tốt, rộng như một tỉnh lộ ở Pháp, được các cây xinh đẹp che làm bóng mát, chạy song song dọc với rạch Bến Nghé - kênh Tàu Hủ, chỉ cách bờ rạch khoảng 200m.Đó là một đoạn của con đường từ Sài Gòn đi Mỹ Tho. Rời Sài Gòn vào rạch, ở phía bên phải, là các chùa đã biến thành các đồn Barbé, đồn Ô Ma (des Mares, tức đền Hiển Trung vị trí ở sở nuôi ngựa và thành Ô Ma hay thành Cộng Hòa, trụ sở Công An sau này, ghi chú của người dịch), đồn Kiểng Phước (Clochetons), và đồn Cây Mai. Cũng về bờ bên phải, xa khỏi con đường, địa thế cao dần lên với cánh đồng trãi đến chân trời. Những cây cau, cây xanh được thay thế bởi những bụi cây cằn cỗi, các loại cỏ vàng. Quang cảnh trông rất cằn cỗi và buồn bã, bị nung đốt bởi mặt trời. Những nấm mồ, các mộ sáng chiếu và được sơn phết, duy nhất làm ta để ý. Cánh đồng người chết khổng lồ này là cánh đồng Kỳ Hòa. Xa hơn nữa là phòng tuyến của người An Nam, với địa hình mờ nhạt hòa vào với màu đất, chỉ có thể nhận ra bởi các kỵ binh và chòi canh gác trên đó.


Thành phố người Hoa, được biết với tên là Chợ Lớn, một từ tiếng Hoa, trải dài hai cây số dọc hai bên bờ rạch. Thành phố trông náo nhiệt bởi sự di chuyển rất đông của các cu li người Hoa và An Nam, không ngừng khiêng tải lên xuống các bao gạo, tiền đồng, dê con và cá khô. Những mái nhà ngói đỏ trông như tách rời một cách thôn dã giữa những bụi cây cau, mà thân cây thẳng và có khía rảnh trông giống các cột theo kiểu Corinthian (một loại kiến trúc cột Hy Lạp, chú thích người dịch) ”.


Sau này, Charles Lemire (18) vào năm 1884 cho biết đã có các tàu chở khách từ Sài Gòn vào Chợ Lớn theo rạch Bến Nghé và kênh Tàu Hủ rất thường, cứ mỗi nửa tiếng là có với giá 0,25 Fr. Quang cảnh đi tàu từ Sài Gòn đến Chợ Lớn rất đẹp mắt. Dọc theo bờ kênh và các bờ rạch trong Chợ Lớn, Lemire đã mô tả như sau (tr. 162) :




Hình 1 : Bến Chương Dương đầu thế kỉ 20.

“ Cuối cùng thẳng hàng dọc theo bờ, là những tòa nhà thương mại lớn của người Hoa, các kho chứa gạo, đường, cây chàm, sáp ong, lụa, gốm men, gốm đất, da trâu, bò, da rắn, da cọp, chim, cá khô, đậu phọng, vân vân. Vào trong các kho ta sẽ thấy đủ loại cân đo với kích thước khác nhau, các bao hàng, các mẫu hàng giữa rất nhiều các nhân viên, các cu-li hay công nhân khuân vác.


Rạch Lò Gốm và đủ loại các kênh rạch khác trong Chợ Lớn cho phép các ghe tàu đến tận chân các kho này và cho phép các tàu đi lại trong khắp thành phố. Những ghe của người An Nam, xuồng, tàu đánh cá, ghe của người Cam Bốt đi qua lại và đậu san sát trong những kênh rạch này. Những ghe xuồng giống như những hành lang nổi, dài, hình chữ nhật, làm bằng gỗ, độn tre bên ngoài. Những tàu khác có khoang cá mà người An Nam dùng để chứa cá tươi mà họ mang ra chợ bán...


Không có gì náo nhiệt hơn là quang cảnh mà người ta có thể thấy khi đứng từ trên cao ở cầu Jaccareo nhìn xuống (rạch Jaccareo bây giờ đã lấp thành đường Tản Đà, chú thích người dịch). Các ghe, tàu, xuồng tụ họp mà phía đằng sau là một màn cây xanh đối diện với đồn Cây Ma, những bến tàu mà người ta thấy tàu đậu san sát, các cu li luôn hoạt động, các nhân viên kho hàng, các tiểu thương, tất cả tạo thành một tập hợp rất lý thú và làm cho những người còn hoài nghi về tương lai của Nam Kỳ phải suy nghĩ lại.








Hình 2 : Bến Chương Dương ngày nay vẫn còn sót lại một số nhà cổ người Hoa dọc đại lộ Đông Tây

Đầu thập niên 80 của thế kỷ 20, qua chính sách thâu mua lúa gạo của nhà nước cộng với sự phát triển và hiệu quả kinh tế của đường bộ từ Sài Gòn và các tỉnh đến Miền Tây và ngược lại đã đưa đến sự cạnh tranh và qua đó giảm đi tầm quan trọng của sư chuyên chở nông sản, hàng hóa qua đường sông và kênh rạch phân phối đến Sài Gòn và các tỉnh miền Đông. Vì thế vị trí trung tâm trung chuyển của Chợ Lớn với miền Tây đã lần lần mất đi, kéo theo vai trò chủ lực kinh tế của Chợ Lớn. Mặc đầu vậy, cho đến trước khi Đại lộ Đông Tây được khởi xây và quyết định của chính quyền thành phố không cho phép ghe thuyền đậu ở các bến trên Kênh Tàu Hủ, hàng hóa tiêu dùng sản xuất từ Chợ Lớn hay phân phối từ các nơi khác và sản phẩm miền Tây vẫn còn được vận chuyển đến Chợ Lớn và từ Chợ Lớn đi các nơi khác. Ngoài ra, hiện nay một số chợ buôn bán nông và hải sản trong Chợ Lớn cũng phải di chuyển ra ngoài đến khu chợ mới được xây ở Bình Điền và hoàn thành vào năm 2010.


Các bến tàu dọc theo kênh Tàu Hủ và gần trung tâm Chợ Lớn không còn là kho và nguồn hàng hóa nữa cho Sài Gòn-Chợ Lớn và các nơi khác, và thực sự chấm dứt hoạt động khi Đại Lộ Đông Tây được xây dựng.




Hình 3 : Khu phố cổ còn lại của người Hoa ở bến Chương Dương. Bến Hàm Tử thì hoàn toàn không còn sót lại các nhà cổ có kiến trúc của người Hoa thời Pháp thuộc như ở bến Chương Dương.





Sự thay đổi cơ bản về kinh tế ở Chợ Lớn là khuynh hướng chung ở nhiều nơi trong thời kỳ có nhiều biến chuyển về chính sách và tốc độ phát triển kinh tế của toàn khu vực. Điều này đòi hỏi sự thích ứng của Chợ Lớn vào môi trường kinh tế mới, không những phát triển kỷ nghệ mới nhưng cũng tận dụng và phát huy những di sản cơ sở vật chất sẵn có với những ưu điểm và tìm năng đặc thù của nó để tìm thị trường và nguồn thu hút mới như nhiều thành phố khác đã làm với các qui hoạch có tầm nhình xa của họ.


Ngày nay bộ mặt của bến Chương Dương, Hàm Tử, Lê Quang Liêm đã thay đổi rất nhiều, nhất là từ khi đại lộ Đông Tây xây dọc theo bờ bên phải kênh Tàu Hủ từ bến Chương Dương đến bến Lê Quang Liêm (Trần Văn Kiểu). Tất cả các bến này đã biến mất. Hiện nay chỉ còn một vài dãy nhà phố cổ ở dọc bến Chương Dương từ khi đại lộ Đông Tây được xây dựng. Riêng bến Hàm Tử thì hoàn toàn không còn các khu dãy nhà cổ, thay vào đó là các nhà kiến trúc tân thời không đồng bộ, rất nhếch nhác về cảnh quan.


Ngay ở cửa vào rạch Bến Nghé từ sông Sài Gòn vào Chợ Lớn, nơi xưa kia các tòa nhà lớn như Ngân hàng Đông Dương (Banque de L’ Indochine), Phòng Thương Mại (Chambre de Commerce, do ông Vương Thái xây, có thời được dùng làm trụ sở của thị trưởng và Hội đồng quản hạt thành phố Sài Gòn trước khi Tòa thị sảnh được xây, sau này là Thượng nghị Viện chính quyền Sài Gòn và nay là Phòng Giao dịch Chứng khoáng) ngự trị, đã biến đổi với các tòa nhà này chìm trong các kiến trúc cao tầng thiếu trật tự khác.


   


Hình 4 (trái) : Kênh Tàu Hủ - Bến Hàm Tử - Lê Quang Liêm đầu thế kỷ 20
Hình 5 (phải) : Quai My Tho - Bến Lê Quang Liêm (Trần Văn Kiểu ngày nay) - Chợ Lớn



Đối diện bên kia kênh là các bến Vân Đồn, Phạm Thế Hiển, Bến Bình Đông. Các bến này vẫn còn nhưng cũng như bến Chương Dương và Hàm Tử đã biến dạng rất nhiều. Nhất là bến Bình Đông, nhiều nhà, chùa cổ đã biến mất. Nơi đây xưa kia là các nhà máy xay lúa gạo nơi lúa gạo từ miền Tây đổ về, và từ đây được xuất cảng đi nhiều nước.






Hình 6 : Rạch Bãi Sậy - Bình Tây

Từ bến Lê Quang Liêm (thời Pháp gọi là “Quai My Tho” vì là bến nơi tàu, ghe từ Mỹ Tho và miền Tây đổ về đây), hàng hóa nông phẩm, trái cây được đưa đến chợ Bình Tây và các chợ khác khắp Sài Gòn và hàng sản xuất từ Chợ Lớn được đưa xuống trở lại miền Tây. Vì thế Chợ Lớn là trung tâm thương mại ở miền Nam. Ngày nay tất cả các bến Chương Dương – Hàm Tử - Trần Văn Kiểu đều không còn hoạt động thay thế bằng đại lộ Đông Tây. Bến Bình Đông và bến Mễ Cốc bên kia kênh hầu như cũng không còn hoạt động, duy chỉ có những ngày gần Tết, một số thuyền bè từ miền Tây được phép mang cây kiểng, bonsai, hoa mai… lên đoạn cuối bến Bình Đông gần bến Mễ Cốc bán cho các nhà buôn cây kiểng dọc bến.


Dọc bến, có nhiều nhà kho, nhà ở đã có từ lâu đời với kiến trúc kết hợp đông và tây. Các nhà này giống như kiến trúc nhà cổ ở Singapore, Malacca, Quảng Châu vì xưa kia các thương gia, nhà thầu gốc Hoa từ những thành phố này đã có mặt nơi đây. Họ cùng các thương gia Chợ Lớn xây dựng các cơ sở vật chất, nhà cửa, kho hàng…


   


Hình 7 : Từ cầu Chà Và ở bến Hàm Tử - Trần Văn Kiểu (Quai Mytho) nhìn sang bến Bình Thông ngày nay
Hình 8 : Bến Bình Đông đang thay đổi
Hiện nay các khu phố cổ Chinatown và Clark Quay ở Singapore được bảo tồn và trở thành nơi du lịch có giá trị văn hóa nổi tiếng ở xứ này. Khu Clark Quay kế bờ sông, xưa kia là nơi buôn bán, có nhiều nhà kho chứa hàng và nhà ở san sát từ các tàu buôn (giống như bến Lê Quang Liêm, bến Bình Đông dọc kênh Tàu Hủ), ngày nay là khu thanh lịch có nhiều nhà cổ đầy cá tính đặc biệt của kiến trúc đầu thế kỷ 20 và được người dân và du khách đông đảo ưa chuộng viếng thăm. Tiếc thay ở Chợ Lớn, chúng ta đã chưa làm được như vậy, mà ngược lại nhiều nhà cổ, và ngay cả đình đã biến mất.


   


Hình 9 : Một khu phố cổ ở bến Bình Đông vẫn còn nhưng xuống cấp vì không bảo trì
Hình 10 : Bến Bình Đông - bến Mễ Cốc nhìn sang đoạn cuối của bến Trần Văn Kiểu, nay có cầu của đại lộ
Đông Tây bắc qua giao điểm của rạch Lò Gốm (chảy ra phía trái) và kênh Tàu Hủ
   


Hình 11 : Các nhà kho dọc bến Bình Đông lần lượt biến mất
Hình 12 : Ghe từ Bến Tre mang cây kiểng đến bến Bình Đông những ngày giáp tết 2011

   
   
Hình 13 : Bến Bình Đông với cây kiểng từ miền Tây mang lên trong dịp sắp tết
Hình 14 : Một ngôi chùa ở bến Bình Đông
Xưa nay gạo là nguồn hàng nông sản thương mại chính của Chợ Lớn. Gạo từ các nhà máy xay lúa dọc kênh Tàu Hủ được phân phối đi các tỉnh thành miền Nam, Trung Bắc và xuất ra nước ngoài (như Singapore, Hong Kong). Chợ gạo, đường Trần Chánh Chiếu gần bến xe Chợ Lớn, là đầu mối bán sỉ gạo và từ đây các thương gia mua hàng dùng xe tải mang gạo đến các chợ và các nơi khác. Gần đây (2008), “chợ gạo” Trần Chánh Chiếu (thật ra là các dãy nhà của các hộ gia đình tiểu thương) không còn phép hoạt động, phải dời đi đến chợ đầu mối nông sản Bình Điền. Cộng với các nhà máy xay lúa không còn ở Chợ Lớn và các thương gia, xe hàng ngày nay đi đường bộ đến thẳng miền Tây và các nhà máy xay lúa ở đó, vai trò của Chợ Lớn là đầu vựa của nông sản gạo không còn như xưa nữa.





Tổng luận về Chợ Lớn và tương lai phát triển




Ngày nay tốc độ phát triển đô thị ở Sài Gòn - Chợ Lớn rất là nhanh chóng, bộ mặt thành phố đổi thay rất nhiều. Điều quan trọng là các di sản, kiến trúc văn hóa lịch sử, nơi sinh hoạt tôn giáo, văn hóa nên được bảo tồn, gìn giữ để chúng trở thành cảnh quan có giá trị tinh thần vô giá cho thành phố và các thế hệ sau nối tiếp. Hiện nay trong vùng Chợ Lớn, các di tích được quan tâm, bảo tồn là những chùa, đình, hội quán đã được xếp hạng thuộc diện di tích lịch sử cấp quốc gia do Bộ Văn hóa công nhận. Tuy nhiên những khu phố có cảnh quan đặc biệt, các dãy nhà hay các nhà cổ có những kiến trúc đặc thù tiêu biểu cho một thời trong các thế kỷ trước thì hoàn toàn không có quy định gì liên quan đến phát triển, bảo tồn mà hoàn toàn tùy thuộc vào địa phương quản lý. Chính quyền thành phố vì thế đóng một vai trò rất quan trọng trong qui hoạch bảo tồn di sản cảnh quan văn hóa tạo ra cá tính đặc thù của thành phố mình.


Như đã đề cập, vị trí trung chuyển và cơ cấu kiến trúc kinh tế ở Chợ Lớn đã thay đổi qua sự biến mất của các bến tàu, kho hàng. Vì thế phải chuyển cơ bản kinh tế Chợ Lớn từ cung cấp, phân phối hàng hóa đến kinh tế chủ yếu dựa vào dịch vụ. Dựa vào các di sản văn hóa của người Hoa duy trì cho đến nay và các cơ sở vật chất để lại do lịch sử Chợ Lớn bắt nguồn từ kinh tế qua sông rạch, một trong những dịch vụ có tìm năng cao là du lịch và phục vụ khách thăm viếng. Điều này đòi hỏi cảnh quan có giá trị văn hóa lịch sử phải được bảo tồn và đầu tư phát triển mà chỉ có chính quyền thành phố Hồ Chí Minh mới có thể làm được qua quy hoạch, khuyến khích đầu tư và hợp tác với cộng đồng địa phương. Tôi tin rằng người dân Chợ Lớn với truyền thống tinh thần mở đường, gan dạ và can trường trong thương mại của họ có từ lâu đời sẽ biến Chợ Lớn thành một thành phố xứng đáng với tìm năng của nó như Singapore và Hồng Kông trong lãnh vực kinh tế và du lịch.


Hội đồng thành phố và thị trưởng (được dân bầu ở các nước dân chủ) hay Ủy ban nhân dân và bí thư thành ủy có quyền hoạch định chính sách, đưa ra quy định về tiêu chuẩn phát triển khu dân cư, thương mại, bảo tồn kiến trúc, cảnh quan có giá trị văn hóa lịch sử và thực thi trong công tác quản lý trong phạm vi thành phố.


Để có thể thực hiện được sự hài hòa trong phát triển và bảo tồn cảnh quan văn hóa và môi trường sinh thái. cơ chế quản lý và hoạch định đô thị phải được tuân thủ dựa theo các nguyên lý cơ bản và các kinh nghiệm đã thâu lượm được trong nhiều năm qua trong vấn đề quản lý sự phát triển bền vững và hoạch định đô thị trên thế giới :


- Trong suốt trong quá trình hoạch định và quản lý


- Sự tham dự của các thành phần liên quan (stakeholders) trong đó có cộng đồng địa phương bị ảnh hưởng trực tiếp, các tổ chức phi chính phủ (chính quyền không thể có tai mắt ở khắp mọi nơi)


- Nguyên lý cẩn trọng (precaution principle) : nếu hệ quả do con người tác động không xác định được chính xác nhưng nếu xảy ra sẽ to lớn thì chúng ta không nên làm. Liên quan đến nguyên lý cẩn trọng là trong đề án phát triển và bảo tồn lúc nào cũng phải có bài toán xác định rủi ro (risk assesment).


- Phù hợp với luật môi trường (như đa dạng sinh học,..), luật bảo tồn văn hóa và các qui định, điều lệ về cảnh quan đô thị.


Chúng ta nên học hỏi và áp dụng các bài học và kinh nghiệm ở nhiều nơi trên thế giới. Tất cả đều cho thấy rằng 


- Giao thông bền vững (sustainable transport) sẽ đưa lại các hệ quả kinh tế cao, lợi ích an sinh và sức khỏe rất to lớn. Xây thêm, nới rộng đường không phải là giải pháp lâu dài cho xe cộ. Xây dựng hệ thống di chuyển khối lựợng (mass transit) có hiệu quả (như hệ thống xe điện) mới chính là giải pháp bền vững cho giao thông, nhất là trong tình trạng quá tải hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh.


- Chỉ số phát triển GDP (Gross Domestic Product) chỉ tập trung vào kinh tế không còn hợp với trào lưu phát triển bền vững hiện thời. Chỉ số mới trong đó tiêu chuẩn sống như môi trường, y tế, giáo dục được mang vào trong hoạch định phát triển con người và xã hội. Bảo tồn cảnh quan văn hóa và môi trường sống của thành phố sẽ nâng cao giá trị và tiêu chuẩn đời sống văn hóa an sinh xã hội trong cộng đồng và cho cả mỗi thành viên.


Thành phố Hồ Chí Minh (bao gồm Sài Gòn - Chợ Lớn) cần có quy định hay ít nhất có kế hoạch rõ về các khu phố, các nhà có giá trị văn hóa cần được giữ lại nét đặc thù, đặc trưng cho khu vực và sự cần thiết tăng nhanh chóng diện tích cây xanh cho khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ nhiều năm nay, trong khu vực Chợ Lớn và phụ cận, nhiều kênh rạch bị lấp hay thu hẹp, mật độ đường xá và các khu dân cư mới tăng nhanh, cộng với thiếu diện tích cây xanh đã làm khả năng rút nước trên mặt và ngầm dưới đất suy giảm nhiều, đưa đến tình trạng dễ lụt trong mùa mưa, nhất là khu vực thấp gần chung quanh rạch Bến Nghé  - kênh Tàu Hủ. Giải quyết các vấn đề trên là tiên quyết cho sự phát triển bền vững Sài Gòn - Chợ Lớn. Không phải là dễ nhưng không phải là không làm được, với sự kiên trì trong mục tiêu, sự trong suốt và sự tham dự với cộng đồng công dân của thành phố.


Nguyễn Đức Hiệp




Tham khảo

(1) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, Nxb Đồng Nai, 


(2) Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur : Impr. coloniale (Saïgon), 1885.


(3) Les colonies françaises : notices illustrées / publ. par ordre du sous-secrétaire d'état des colonies sous la dir. de M. Louis Henrique, Quantin (Paris), 1889-1890.


(4) Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, 1992, Nxb Trẻ.


(5) Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De Batavia à Sài Gòn : notes de voyage d’ un marchand chinois (1890), Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191.


(6) Hình ảnh, tư liệu : Belle Indochine 


(7) Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon), 1876.


(8) Eugène Bonhoure, Indo-Chine, Challamel (Paris), 1900.


(9) Lê Văn Lưu, Pagodes chinoises et annamites de Cholon (orné de 26 photogravures), Imprimerie Tonkinoise, Hanoi,1931.


(10) Séance du 2 mars 1893, Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1893, pp. 63, 1893, Société des études indochinoises (Saïgon).


(11) Pierre Passerat de la Chapelle, L’industrie du decorticage du rizBulletin de la Société des études indochinoises, année 1901, 1901/1 (no. 41)-1901/6, pp. 53, Société des études indochinoises (Saïgon).


(12) Louis Finot, Les papiers de LandesBulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient,1903, Vol. 3, No. 3, pp. 657-660.


(13) Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l'Indochine française, publié après la mort de l'auteur par Antoine Cabaton, 1935, Contributeur: Cabaton, Antoine (1863-1942). Éditeur scientifique, 




(15) Choi Chi-Cheung, Cheung Ah-Lum, A biographical note, Journal of the Hong Kong. Branch of the Royal Asiatic Society, v. 24 (1984), pp. 282-7. ().


(16) Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. de l'Union (157 rue Catinat, Saïgon), 1917.


(17) Léopold Pallu de la Barrière, Histoire de l’Expedition de Cochinchine en 1861, Berger-Levrault et Cie, Paris 5 Rue des Beaux-Arts, 1888.


(18) Charles Lemire, L'Indo-Chine. Cochinchine française, royaume de Cambodge, royaume d'Annam et Tonkin ; 3e edition, Challamel aîné (Paris), 1884.
(http://thaolqd.blogspot.com/2015/09/cho-lon-lich-su-ia-ly-kinh-te-va-van_10.html)

Tuesday, 24 July 2018

Chợ Lớn Lịch sử địa lý, kinh tế và văn hóa Phần 2 (Nguyễn Đức Hiệp - Lê Quý Đôn Khung Trời Kỷ Niệm)

Chợ Lớn 
Lịch sử địa lý, kinh tế và văn hóa 
Phần 2



Nguyễn Đức Hiệp



Sinh hoạt tôn giáo, giáo dục: các chùa, đình, nhà thờ ở Chợ Lớn


So sánh các cơ sở hoạt động văn hóa người Hoa ở các thành phố người Hoa hay khu phố Tàu (Chinatown) trong khu vực Đông Nam Á như Singapore, Bankgkok, Kuala Lumpur, Hong Kong thì ta có thể nói thành phố Chợ Lớn hơn hẳn về số lượng, bề thế, giá trị mỹ thuật và lịch sử của sự hoạt động liên tục lâu đời khi người Hoa đến định cư. Các chùa của người Hoa ở Chợ Lớn chủ yếu là do các cộng đồng người Hoa ở các bang (tỉnh) vùng Hoa Nam như Phúc Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam… thành lập qua các hội quán của mỗi bang. Các hội quán được lập ra để tương trợ những người cùng bang, ngoài ra còn lập ra các trường học kế bên hội quán hay chùa để giáo dục con cái cộng đồng của họ theo chương trình của họ. Do đó một trong những hoạt động chính của Hội quán là tín ngưỡng và giáo dục.
Về phương diện giáo dục, sau này vào năm 1908, qua sự cần thiết đào tạo các kế toán, thư ký, thông dịch, hành chánh… phục vụ trong các cơ sở thương mại, ngân hàng, chuyên chở đường sông biển liên hệ đến chính quyền hay với các công ty Pháp; các đại diện người Hoa và người Pháp của các nhà băng, các công ty Pháp và cơ sở thương mại người Hoa, các phòng thương mại đã nhóm họp và đồng ý trợ giúp tài chánh xây dựng và lập ra một trường trung học Pháp-Hoa, gọi là Lycée Franco-Chinois. Toàn quyền Pháp Jean Paul Beau đã đồng ý thành lập trường, vì theo ông Beau nó còn tạo thêm ảnh hưởng văn hóa Pháp vào cộng đồng người Hoa, để cho họ khỏi phải gởi con cái họ đi học ở những nơi khác như Hong Kong, Thiên Tân hay Nhật Bản (lúc bấy giờ phong trào Đông Du trong cộng đồng người Việt và Hoa rất mạnh). Thời đó những người tốt nghiệp trường Lycée Franco-Chinois, vì biết hai hay ba thứ tiếng (Việt-Pháp-Hoa) là trung gian lý tưởng nên rất có giá và thế trong xã hội trong lãnh vực thương mại khắp Nam kỳ lục tỉnh. Họ được người Saigon-Chợ Lớn và Lục tỉnh gọi là “Mái Chín”. Một số truyện của Hồ Biểu Chánh và Bình Nguyên Lộc có nói về các ông Mái Chín. Lycée Franco-Chinois sau này là trường Bác Ái và sau năm 1975 trở thành Trường cao đẳng sư phạm.
Các chùa đình của người Hoa ở Chợ Lớn là những công trình văn hóa tín ngưỡng đặc sắc có giá trị cao và hầu hết được nhà nước công nhận là các di tích lịch sử văn hóa nghệ thuật quốc gia. Các đình chùa được xây dựng từ các thế kỷ 18, 19 và đầu thế kỷ 20. Trong các đình chùa có những di sản văn hóa quí giá như chuông đồng, lư hương, tượng đá, gươm giáo, bàn ghế gỗ quí, hoành phi, trang phục,.. từ những thế kỷ 18, 19 và rất nhiều các di vật này là được mang từ Trung quốc sang. Ngay cả vật liệu xây cất, trang trí trên nóc như gạch, gốm men được mang sang Chợ Lớn từ Trung Quốc để xây chùa bà Thiên hậu của bang Quảng Đông.
Các chùa của các hội quán xây kiểu kiến trúc đặc trưng cùa người Hoa là hình ấn, với 4 ngôi nhà liên kết nhau hình chữ nhật tạo thành mặt bằng giống chữ "khẩu" hoặc chữ "quốc". Ở giữa các dãy nhà này có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), làm chùa thoáng đãng, có đủ ánh sáng và có chỗ thoát khói hương. Bước vào cổng là tiền điện hai bên, rồi trung điện và chánh điện và dãy nhà sau cùng là hậu điện. Dọc hai bên các điện thờ sau cửa vào là văn phòng hội quán. Các hội quán đều có ban quản trị do bang lập nên để quản trị chùa và trường học hay bệnh viện cho bang.
Trong Nhà truyền thống người Hoa ở góc đường Triệu Quang Phục và Nguyễn Trãi (xưa gọi là đường Cây Mai) thường có triển lãm và các hình ảnh xưa ở Chợ Lớn cùng các sản phẩm mỹ thuật. Nhà Truyền thống trước đây là nhà hát Tam Đa (hay Vàm Cỏ) của người Hoa Triều Châu trong vùng. Cạnh nhà truyền thống ở số 137 đường Triệu Quang Phục là trụ sở Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc, chủ yếu là của người Hoa. Trụ sở là Hội quán của chùa bà (Thiên Hậu) cho mượn. Hoạt động của Hội gồm hội họa, thư pháp, nhiếp ảnh, xuất bản văn học. Ngoài ra còn có ban bảo trợ văn hóa người Hoa, với chi hội ca múa nhạc có trụ sở là nhà văn hóa Quận 5, đường Trần Hưng Đạo.
Chùa Thiên Hậu của bang Quảng Đông nằm ở góc đường Nguyễn Trãi và Triệu Quang Phục. rất nhiều du khách nước ngoài viếng thăm. Kiến trúc chùa rất đẹp với các tượng trên nóc, mái chùa bằng sành sứ rất công phu và các tranh khắc trên tường là những tuyệt tác rất trang nhã của nghệ thuật người Hoa. Chùa có tên chính thức là Huệ thành hội quán, của người Quảng Đông, hay còn gọi là bà Miễu hay Chùa Bà, được xây vào các năm 1825-1830 dưới thời vua Tao Kouan (Đạo Quang) nhà Thanh (9). Huệ thành là tên một địa danh gần Quảng Châu. Đền thờ Thiên hậu thánh mẫu. Chuông lớn trong đền có ghi năm thứ 10 đời vua Tao-Kouan (1831). Chùa được trùng tu năm 1859 với sự đóng góp của bang Quảng Đông.
Ông Vương Thái, một thường gia giàu có vào cuối thế kỷ 19 ở Saigon-Chợ Lớn, là bang trưởng Quảng Đông và đã giúp đỡ tài chánh chùa và hội quán, cũng như bảo vệ quyền lợi và đặc ân cho hội quán qua sự can thiệp và những hoạt động của ông với chính quyền Pháp ở Phòng Thương Mại và Hội đồng Quản Hạt. Ngày lễ bà thiên hậu là ngày 23 tháng 3 năm âm lịch. Ngay cạnh chùa là trường học Quảng Đông do Huệ thành hội quán thành lập. Trường nằm trong khu đất của hội quán, ngày nay có tên là trường Mạch Kiếm Hùng.


Hình 1 -Kiến trúc chùa bà Thiên hậu, Chợ Lớn

Trong chùa còn giữ lệnh viết tay của đại úy hải quân (capitaine) D'Ariès nghiêm cấm binh sĩ liên quân Pháp - Tây Ban Nha phá chùa. Lúc này D'Ariès đang trấn giữ Saigon-Chợ Lớn sau khi chuẩn đề đốc Francois Page rời Saigon tham gia chiến dịch ở Trung Quốc với đề đốc Charner vào tháng 4 1860. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha, với số quân ít ỏi dưới quyền D'Ariès đang phải đối diện với quân tiếp viện của triều đình do Nguyễn Tri Phương chỉ huy ở phía đồn Chí Hòa.


Hình 2 - Lệnh viết tay của đại úy thuyền trưởng D'Ariès
ngày 4 tháng 8 1860 nghiêm cấm binh sĩ
Pháp và Tây Ban Nha phá chùa bà Thiên Hậu.

Gần chùa Thiên hậu là đền Tam Sơn, trên đường Triệu Quang Phục, của người Phúc Kiến (Phúc Châu), nơi đây thờ bà chúa Thai Sanh, Ngọc Hoàng, Quan âm, Quan công.., không có chữ quốc ngữ chỉ có chữ Hán trong và ngoài đền. Tam Sơn (ba núi) là tên của một địa danh ở Phúc Châu (tỉnh Phúc Kiến). Chùa được thành lập năm 1839, chùa còn có tên nôm là “Chùa bà Chúa” (9). Chủ yếu thờ bà chúa bảo hộ cho tất cả phụ nữ mong được con, thai nhi, trẻ em. Theo ông Lê Văn Lưu, phụ tá thị trưởng thành phố Chợ Lớn vào đầu thế kỷ 20, thì chùa được quản lý bởi một hội đồng gồm các phụ nữ người Việt có chồng người Hoa (9). Ngày lễ lớn của chùa là ngày lễ bà chúa Thai Sanh vào ngày 18 tháng ba âm lịch. Lễ kéo dài đến 3 ngày.
Kế bên đền Tam Sơn, ở góc đường Triệu Quang Phục và Nguyễn Trãi, xưa kia có Thất phủ cổ miếu, nhưng đã bị phá đi, hiện nay là xí nghiệp in, chỉ còn để lại lại một bức tường. Đây là một mất mát văn hóa to lớn vì miếu này là miếu cổ nhất của người Hoa ở Chợ Lớn. Thất phủ cổ miếu hay Thất phủ Võ đế miễu, còn được gọi nôm na là chùa Bảy Phủ Ông, được xây năm 1820 thờ Quan Võ (Quan Công) do 7 bang người Hoa góp công xây dựng. Ngoài ra còn có sự đóng góp của một số người Việt, trong đó có phu nhân của tổng trấn Lê Văn Duyệt (9). Hình dáng chùa bên ngoài giống như chùa Thiên Hậu và chùa Tam Sơn với cổng, sân trước và mái có 2 rồng bên trên.


Hình 3 - Chùa Bảy Phủ - Hiện nay không còn

Không xa chùa Bà Thiên Hậu của Huệ Thành hội quán, Quảng Đông, cũng trên đường Nguyễn Trãi là chùa Ông của Nghĩa An hội quán. Nghĩa An hội quán là do người Triều Châu thành lập. Chùa Ông, thờ Quan Công (vì thế gọi là chùa Ông), được xây dựng đã hơn 200 năm qua các lần trùng tu vào các năm 1866, 1901, 1966, 1984. Trong sân từ cổng vào đến cửa miếu có các cặp kỳ lân bằng đá đặt đối xứng nhau, trong đó có cặp "lân hàm châu" (lân ngậm ngọc) chầu hai bên cửa.
Có 5 chùa ở Chợ Lớn thờ quan công, trong đó có 3 chùa người Việt và Minh hương: Nghĩa Nhuận hội quán (đường Gò Công), Phước An hội quán (đình của người Minh hương, gần bưu điện Chợ Lớn, đường Frederic Drouhet tức Hùng Vương ngày nay) và Bửu Sơn hội quán (đường Xóm Voi) (9). Ngày lễ Quan Công là ngày 13 tháng 1 âm lịch.
Đến Đình Minh Hương Gia Thạnh ở trên đường Trần Hưng Đạo (trước 1975 là đường Đồng Khánh). Đình là tòa nhà cổ nhất Saigon, xây năm 1789, được công nhận là một di tích lịch sử. Năm 1698, ở vùng này đã hình thành nên làng Minh Hương ở Gia Thạnh, làng Minh hương còn để lại câu ca dao
Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng
Đố ai lịch sự cho bằng làng Minh Hương.
Lần trùng tu cuối cùng của đình là vào năm 1921. Trong đình, bên phải thờ Trần Thượng Xuyên (có 2 di ảnh tướng Trần Thượng Xuyên) và Nguyễn Hữu Cảnh, bên trái thờ Trịnh Hoài Đức và Ngô Gia Tịnh. Cạnh đó là 1 chuông đồng do vua Minh Mạng tặng, với sắc phong và chuyển tên từ làng thành đình. Chuông được gióng một năm một lần vào ngày 16/1. Sau chánh điện là sân rất rộng gọi là Thiên Quang Tỉnh (giếng trời). Đình Minh hương Gia Thạnh cũng là nơi tề tựu, gặp gỡ của nhóm Bình Dương thi xã, sáng lập bởi Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định, với nhiều nhân sĩ đến đây để ngâm thơ, xướng họa vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19.
Nghĩa Nhuận hội quán, chùa người Việt thờ thành hoàng bốn cảnh, trong đình còn thờ quan công, và thiên hậu thánh mẫu. Đình này là đình xưa của một làng quê, đất rộng người thưa ở vùng Chợ Lớn thờ thần sắc phong thời vua Tự Đức (1852) tục gọi là Thành hoàng bốn cảnh. Đình xây cất lại với tường gạch, lợp ngói sau khi Pháp chiếm Saigon vào năm 1872. Vị trí trên “Quai de la distillerie” (bến nhà máy rượu), nay là đường Phan Văn Khỏe gần góc với đường Gò Công. Chùa được xây và quản lý với sự trợ giúp tài chánh từ nhiều người Việt, trong đó có Tổng đốc Đỗ Hữu Phương, ông Đỗ Hữu Trí. Sau này trong thập niên 1930, ông Trương Văn Bền, nhà doanh nghiệp là chủ tịch hội đồng quản trị chùa. Đình xây theo kiến trúc Hoa và trải qua nhiều đợt trùng tu những năm 1940, 1952, 1962 và 1990.


Hình 4 - Phòng tiếp khách của hội quán Nghĩa Nhuận,
trên tường là các bản khắc chữ Hán tên ân nhân
của hội quán từ nhiều đời trong các năm đã qua.

Tác giả bài viết này được ông Nguyễn Thành Long và Trần Tấn Phát trong ban quản trị Nghĩa Nhuận hội quán cho biết trong hội quán vẫn còn có các sổ sách hình ảnh những ân nhân chùa từ những thế kỷ trước, trong đó có ông Trương Văn Bền, Đỗ Hữu Phương và được vào phòng chính của ban quản trí thăm viếng trong đó có 6 bia khắc chữ Hán tên các vị ân nhân từ hơn 100 năm qua.
Phước An hội quán lúc đầu chỉ là một miếu của người thờ Quan công, nhưng sau này thiếu bảo quản nên đổ nát. Năm 1900 được giao cho người Minh hương xây và trùng tu lại thành một hội quán lớn hơn. Trong năm 1930, ông Nguyễn Chiêu Thông, một nhà doanh nghiệp là chủ tịch hội đồng quản trị.
Bửu sơn hội quán, thờ quan công, xây đầu thế kỷ 20 (khoảng năm 1900) ở đường Xóm Voi.
Giác Viên tự, hay còn gọi là chùa Hố đất, nằm trong một khu cây xanh yên tĩnh, cạnh một rạch nhỏ. Chùa được hòa thượng Hải Tịnh ở chùa Giác Lâm, Phú Thọ cách Giác Viên tự 1km, thành lập vào năm 1803. Mục đích của thượng tọa Hải Tịnh là xây lại chùa Phú Lâm nên lúc đầu thượng tọa Hải Tịnh xây chùa để làm chỗ chứa đựng tạm thời những tượng thờ của chùa Phú Lâm, vật liệu, gỗ quí như gõ... để xây chùa. Chùa Giác Viên sau đó có những vị sư tu khổ hạnh trụ trì được sự kính trọng của quần chúng, trong đó hòa thượng Hoằng Ngã trụ trì từ năm 1882 trong hơn 35 năm đào tạo nhiều vị sư có đức hạnh. Từ đó chùa là nơi nhiều người biết và kính trọng các bậc chân tu. Hòa thượng Hải Tịnh còn giúp xây lại chùa Giác Lâm đẹp hơn vào năm 1903. Trong khuôn viên chùa Giác Viên có mộ của Ngô Nhân Tịnh, nhà thơ vào thế kỷ 18 ở đất Gia Định xưa. Ông là người Minh Hương gốc Quảng Đông, cùng với các bạn học đương thời của thầy Võ Trường Toản là Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định lập ra Bình Dương thi xã, được gọi là Gia Định tam gia. Ông cũng là đồng môn của Ngô Tùng Châu và thiền sư Viên Quang (sư tổ chùa Giác lâm).


Hình 5 - Chùa Giác Viên

Giác Hải tự được xây năm 1887 ở Phú Lâm trong khu người Việt, tọa lạc trong một vườn rộng của một chủ đất là bà Hồ Thị Lộc. Sau này Hòa thượng Từ Phong (Yết ma Nguyễn Văn Tường) trụ trì, xây lại năm 1912 đẹp đẽ hơn.
Đình Vĩnh Hội tọa lạc trên đường Đinh Hòa trong khu vực Xóm Củi, là một đình cổ của người Việt, xưa thuộc thôn Vĩnh Hội, huyện Tân Long, phủ Tân Bình của tỉnh Gia Định. Đình được xây từ năm 1818 đến 1836. Nghệ thuật kiến trúc và trang trí Việt Nam thờ thần thành Hoàng Bổn Cảnh (vị thần giúp nước, giúp dân trong thôn Vĩnh Hội).
Ở góc đường Hải Thượng Lãn Ông và Phùng Hưng là Nhị phủ miếu của người Phúc Kiến. Sở dĩ gọi là Nhị phủ miếu vì là do dân Phúc Kiến ở hai phủ: phủ Chương Châu và phủ Tuyền Châu góp sức xây miếu. Nhị phủ miếu thờ ông Bổn (tức Trịnh Hòa thời Minh). Nhị phủ miếu vì thế cũng còn được gọi là chùa ông Bổn. Nhị phủ miếu được xây dựng từ lâu đời vào thế kỷ 18 khi người Hoa Phúc Kiến đến lập nghiệp ở vùng Saigon - Bến Nghé thời chúa Nguyễn. Cũng như hội quán Huệ Thành ở chùa Bà, hội quán người Phúc Kiến cũng thành lập trường học ngay trong khuôn viên đất của Nhị phủ miếu. Trường học có tên là École de Foukien, sau này còn gọi là truờng Phúc Đức và sau 1975, là trường THCS Trần Bội Cơ. Ở Quận 1, đường Nguyễn Công Trứ, Saigon, cũng có một chùa của người Phúc Kiến, gọi là Phụng Sơn Tự hay chùa ông Bổn. Và dĩ nhiên người Minh Hương gốc Phúc Kiến nổi tiếng trong lịch sử Saigon và miền Nam là Trịnh Hoài Đức, tác giả của bộ sách vô giá về vùng đất Saigon – Gia Định (miền Nam) trong thế kỷ 17-19: Gia Định thành thông chí.


Hình 6 - Trường Trần Bội Cơ,
cạnh Nhị phủ miếu trên đường Hãi Thượng Lãn Ông.

Trên đường Trần Hưng Đạo, có chùa bà Hải Nam và trường học bên trong hội quán Quỳnh Phủ của người Hải Nam: trường Trần Hữu Trang. Các chùa khác thờ Thiên hậu thánh mẫu của người Hoa là Ôn Lăng hội quán và Hà Chương hội quán của người Phúc Kiến. Ôn Lăng hội quán ở đường Lão Tử do người Phúc Kiến ở phủ Tuyền Châu thành lập vào đầu thế kỷ 19 (Ôn Lăng là tên một địa danh ở phủ Tuyền Châu). Chùa thờ chính ở tiền điện là Thiên hậu thánh mẫu, hai bên tả hữu là Phước Đức chính thần (ông Bổn tức Trịnh Hòa), bà chúa Thai Sanh, ở hậu điện thờ Quan Âm bồ tát, Quan Công, Bao công, Thành hoàng…
Hà chương hội quán, ở cuối đường Nguyễn Trãi, của người phủ Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến thành lập năm 1809, còn gọi là chùa Ông Hược hay chùa bà Hà Chương. Cùng như Ôn Lăng hội quán, chùa bà Hà Chương trong chính điện thờ Thiên hậu thánh mẫu, ngoài ra chùa còn thờ Phước Đức chính thần (ông Bổn), bà chúa Thai sanh, Ngọc hoàng thượng đế, phật bà Quan âm và Quan công.


Hình 7 - Hà Chương hội quán của người Phúc Kiến, 802 đường Nguyễn Trãi


Hình 8 - Thiên tỉnh phía trước chính điện

Nhà thờ Chợ Lớn, còn gọi là nhà thờ thánh Francisco Xavier hay nhà thờ cha Tam, là nhà thờ có lịch sử rất xưa. Nhà thờ được thống đốc Nam Kỳ, de Lagrandière giúp đỡ xây dựng để phục vụ cộng đồng người Hoa theo đạo công giáo. Bắt đầu xây dựng từ cuối năm 1900 đến năm 1902 thì hoàn thành. Linh mục Pierre d’ Assou, sinh quán ở Macao, giỏi tiếng Triều Châu và Hẹ và có tên Hoa là Đàm Á Tố (Tam Assou, đọc sang âm Việt là Cha Tam), được giám mục địa phận Saigon là Jean Dépierre, cử ra mua một khu đất rộng thưa người ở xóm Lò Rèn, trên đường ngày nay gọi là Học Lạc. Mặt tiền nhà thờ đối diện đường rue des Marins (Đồng Khánh, nay là đường Trần Hưng Đạo nối dài), gần Lệ Châu hội quán (đền thờ tổ nghề kim hoàn của Sài Gòn xưa) để xây nhà thờ.


Hình 9 - Cổng vào chánh điện nhà thờ cha Tam,
bên trái là mộ cha Tam Assou

Hình 10 - Mộ cha Tam Assou ngay bên trái cổng chánh điện nhà thờ

Trong cuộc chiến hồi tết Mậu thân 1968, vùng chung quanh nhà thờ ở các đường Đồng Khánh (Trần Hưng Đạo nối dài), Nguyễn Trãi, Phùng Hưng đều bị thiệt hại nặng nề, nhưng nhà thờ cha Tam vẫn không hề hấn. Hiện nay nhà thờ còn nhiều người Hoa theo đạo, đến làm lễ, cho con cái học tập.
Phụng Sơn tự (chùa Gò) là chùa xây trên nền xưa của một đền Khmer cổ. Phụng Sơn tự không xa chùa Cây Mai (cũng xây trên một đền Khmer cổ trên gò cao, tượng trưng cho núi thiêng Meru, bao bọc chung quanh bởi các hồ, đầm trong vùng). Phụng sơn tự ngày nay nằm trên đường 3/2, thuộc quận 11. Theo tích xưa thì khi người Việt đến nhiều vào đầu thế kỷ 19 đời vua Gia Long, người Khmer bỏ chùa, tượng Phật và chuông chùa được chất lên bạch tượng (voi trắng) ra đi về hướng tây bắc, nhưng bị sụp chân làm đổ tượng và chuông rơi xuống bàu (ao) trong chùa. Tượng phật bằng đồng được người ta mang vào chùa thờ cho đến ngày hôm nay, còn chuông thì dưới bàu không tìm được. Tương truyền vào những giờ lành ngày kiết mỗi tháng,người dân quanh vùng thường nghe tiếng chuông từ bàu vang lên nhưng tìm không thấy. Từ đó bàu được gọi là Bàu Chuông. Khi người dân xây lấn chiếm đất, thải chất thải làm ô uế bàu Chuông, và người ta không còn nghe tiếng chuông nữa.


Hình 11 - Tích về tượng phật và chuông chùa chất trên
lưng bạch tượng trong khuôn viên chùa Gò.
Tượng phật đồng Khmer trên lưng voi là bản sao
của tượng Khmer vẫn còn trong chùa

Hai chùa cổ xưa ở Chợ Lớn không còn là chùa Cây mai và chùa Kiểng Phước. Như đã nói ở trên, chùa Cây Mai lúc đầu là chùa đền Khmer, sau này trở thành chùa Việt. Trong những năm đầu Pháp đến đánh Saigon vào năm 1859-1861, chùa Cây Mai và chùa Kiểng Phước (pagode des clochetons) bị liên quân Pháp – Tây Ban Nha chiếm đóng làm đồn quân sư cho “phòng tuyến chùa” (ligne des pagodes) trãi dài từ chùa Cây Mai, chùa Kiểng Phước đến đền Hiển Trung (pagode des mares) và chùa Berbet ở gần thành Saigon. Chùa Cây Mai bây giờ ở vị trí trại quân đội nhân dân gần đường Nguyễn Thị Nhỏ và Hồng Bàng, chỉ còn lại Cây Mai trong trại. Chùa Kiểng Phước là chùa người Hoa, mà liên quân Pháp - Tây Ban Nha do chuẩn đề đốc Page lãnh đạo năm 1860 đã chiếm đóng làm thành đồn clochetons. Vị trí của chùa Kiểng Phước là ở góc đường Marechal Foch (Lý Thường Kiệt) và Armand Rousseau (Nguyễn Chí Thanh). Leopold Pallu trong đoàn viễn chinh đánh Saigon năm 1861 đã nói về đồn clochetons như sau (17):
Chùa Clochetons hơi xa hơn các chùa kể trên, nhưng cũng nằm trên đường từ Saigon đi Mỹ Tho. Chùa xây cất giữa cánh đồng mồ mả. Các tượng thần (dieux) mạ vàng nằm đầy trong các phòng trong chùa, vẽ mặt như trong trạng thái gần như hoàn toàn thoát tục. Một đàn gà chạy bươi móc khắp nơi làm các lính thủy binh và bộ binh nhìn them muốn. Trên bàn của các sĩ quan có để vài chai rượu vermouth và absinthe; trước mặt đồn, các súng 30 ly nòng dài xoáy xếp thành hang trên các bệ bắn...”
Ngày nay chùa Kiểng Phước không còn vết tích nào để lại.

Tổng luận:


Vùng Chợ Lớn chủ yếu đa dạng về văn hóa, sắc tộc và tôn giáo và có lịch sử lâu đời, nơi đây là nơi tập trung nhiều đình, chùa, nhà cổ nhất vùng Saigon-Chợ Lớn. Các đình, chùa, hội quán, trường học đều được cộng đồng giữ gìn và quản lý tốt từ nhiều đời trong bao nhiêu năm. Tiềm năng về phát triển văn hóa và du lịch không kém gì các thành phố khác trong khu vực. Nhưng cảnh quan đô thị, môi trường sống và giá trị đặc trưng các khu phố của cộng đồng trong Chợ Lớn đã mau chóng biến dạng xuống cấp và không được đánh giá để ý đúng mức, qua sự lỏng lẻo trong quy hoạch và thiếu tầm nhìn xa xứng đáng cho một khu vực nhiều khả năng kinh tế và văn hóa như thành phố Chợ Lớn.


Tham khảo


(1) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, Nxb Đồng Nai, http://namkyluctinh.org/a-sachsuvn/giadinhthanh-thongchi%5Bp3%5D.pdf
(2) Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur : Impr. coloniale (Saïgon), 1885.
(3) Les colonies françaises: notices illustrées / publ. par ordre du sous-secrétaire d'état des colonies sous la dir. de M. Louis Henrique, Quantin (Paris), 1889-1890.
(4) Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, 1992, Nxb Trẻ
(5) Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De Batavia à Saigon: notes de voyage d’ un marchand chinois (1890), Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191.
(6) Hình ảnh, tư liệu, http://belleindochine.free.fr/Saigon1882.htm
(7) Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon), 1876.
(8) Eugène Bonhoure, Indo-Chine, Challamel (Paris), 1900.
(9) Lê Văn Lưu, Pagodes chinoises et annamites de Cholon (orné de 26 photogravures), Imprimerie Tonkinoise, Hanoi,1931.
(10) Séance du 2 mars 1893, Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1893, pp. 63, 1893, Société des études indochinoises (Saïgon).
(11) Pierre Passerat de la Chapelle, L’industrie du decorticage du riz, Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1901, 1901/1 (no. 41)-1901/6, pp. 53, Société des études indochinoises (Saïgon).
(12) Louis Finot, Les papiers de Landes, Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient,1903, Vol. 3, No. 3, pp. 657-660.
(13) Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l'Indochine française, publié après la mort de l'auteur par Antoine Cabaton, 1935, Contributeur: Cabaton, Antoine (1863-1942). Éditeur scientifique, 
http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5848754g.image.hl.r=Spooner+saigon.f420.langFR
(14) Nola Cooke, King Norodom’s Revenue Farming System in Later-Nineteenth-Century Cambodia and his Chinese Revenue Farmers (1860-1891), Chinese Southern Diaspora Studies, Volume One, 2007. (http://csds.anu.edu.au/volume_1_2007/Cooke.pdf).
(15) Choi Chi-Cheung, Cheung Ah-Lum A biographical note, Journal of the Hong Kong. Branch of the Royal Asiatic Society, v. 24 (1984), pp. 282-7. (sunzi.lib.hku.hk/hkjo/view/44/4401560.pdf).
(16) Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. de l'Union (157 rue Catinat, Saïgon), 1917, 
http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5843454w.r=%22notice+historique%22+ville+de+Saigon.langEN
(17) Léopold Pallu de la Barrière, Histoire de l’Expédition de Cochinchine en 1861, Berger-Levrault et Cie, Paris 5 Rue des Beaux-Arts, 1888, http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5783366m.r=cochinchine+Leopold+Pallu.langFR
                                                                                                            (Còn tiếp)
(http://thaolqd.blogspot.com/2015/09/cho-lon-lich-su-ia-ly-kinh-te-va-van_8.html)