Monday, 30 July 2018

Đại lộ Charner cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 – Phần 1 – (Nguyễn Đức Hiệp - Lê Quý Đôn Khung Trời Kỷ Niệm)

Đại lộ Charner cuối thế kỷ 19đầu thế kỷ 20– Phần 1 –



Nguyễn Đức Hiệp




Mỗi thành phố đều thường có một đại lộ xuyên trục dẫn đến trung tâm hay nằm trong trung tâm thành phố, nơi có nhiều cơ sở, công trình văn hoá, kinh tế, chính trị quan trọng làm tâm điểm tượng trưng đặc thù cho thành phố. Nếu Paris có Champ-Élysée thì Saigon có Đại lộ Nguyễn Huệ. Đại lộ Nguyễn Huệ được thành lập từ hơn 125 năm nay từ ngày con kinh chạy từ bến Bạch Đằng chảy lên gần cửa thành Saigon (gọi là thành Qui hay thành Bát quái xưa kia thời vua Gia Long), đã được lấp đi để trở thành một đại lộ hoành tráng.
Năm 1887, kinh chợ Vải, từ sông Saigon chạy lên khu vực đường Lê Lợi hiện nay, được lấp trở thành một đại lộ lớn mà người Pháp gọi là Boulevard Charner, gồm con kinh lấp và hai con đường dọc hai bờ kinh, đuờng Charner bên trái kinh và đường Rigault de Grenouilly bên phải kinh. Đại lộ Charner (Nguyễn Huệ ngày nay) trở thành đường rộng nhất Saigon, nơi diễn ra các lễ hội lớn, các cửa hàng và trụ sở các công ty, và các di tích văn hoá lịch sử không kém đường Catinat (Đồng Khởi ngày nay).
Chỉ trong vài chục năm sau khi lấp kinh, đại lộ Charner trở thành nơi buôn bán phồn thịnh không thua kém con đường bên cạnh có lịch sử lâu đời hơn, đường Catinat nằm song song kế bên. Phạm Quỳnh khi đi thăm Nam Kỳ vào năm 1918 đã có nói về con đường Charner và Catinat phồn hoa phát đạt như sau:
Đông đúc phồn thịnh đến nỗi đã phải mở một con đường chạy dọc theo, to lớn rộng rãi hơn nhiều, gọi là đường Charner – tức là tên quan thuỷ quân phó nguyên súy coi chiếc tàu Catinat vào đánh Sài Gòn – để rút bớt cái sức bành trướng đi ít nhiều, mà vẫn hằng ngày hằng phát đạt, không giảm đi chút nào. Các cửa hàng lớn, hàng tây, hàng ta (phần nhiều người Bắc Kỳ), hàng Chà (phần nhiều người Bombay bên Ấn Độ), hàng khách, chen nhau xin xít. Lại thêm có mấy nhà khách sạn lớn, nhà chớp bóng, nhà hát tây, nên chiều chiều cứ tự năm giờ trở đi kẻ đi người lại như nước chẩy. Người sang trọng, kẻ thượng lưu, tất mỗi buổi phải dạo qua đường Catinat một lượt mới là nền.
Những trai thanh gái lịch đất Sài Gòn lấy đấy làm chốn cực phẩm phong lưu. Trên đường thì xe hơi không biết mấy trăm mấy chục mà kể, tiến lên êm như ru, như vô số những làn sóng tự ngoài xa đưa lại, rạt cả bên bờ nhà “Đại lục khách sạn” (Hôtel Continental). Nhất là ngày chúa nhật, sau khi tan lễ nhà Thờ Chánh, không cảnh tượng gì đẹp bằng đường Catinat chừng hồi chín mười giờ. Đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, người Tây, người Nam, ăn bận rất lịch sự, ở nhà thờ ra đi dạo qua các cửa hàng, lũ lượt như ngày hội. Thật là nghiễm nhiên ra cái cảnh tượng một nơi đại đô hội, đương buổi quốc dân phong phú, thiên hạ thái bình. Coi đó không ngờ rằng trong thế giới hiện còn mấy nghìn vạn con người đương lầm than trong vòng máu lửa!"
(Phạm Quỳnh, Một tháng ở Nam Kỳ, 1918)
Bài biên khảo này ghi lại những nơi, các địa chỉ có dấu vết của các tiệm, cơ sở, cảnh quan và con người đã để lại ký ức trong người Saigon qua các năm từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20. Cảnh quan và kiến trúc con đường Charner thay đổi nhiều và biến dạng rất nhanh chóng so với các con đường nổi tiếng khác ở trung tâm Saigon như đường Catinat và đường Bonnard (Lê Lợi).
Ta có thể phân loại lịch sử con đường Charner qua các giai đoạn thay đổi như sau
    • Từ 1861 đến 1887: từ lúc có phố chợ, buôn bán sầm uất qua cảng Saigon được mở cửa tự do, thông thương qua kinh rạch cho đến lúc kinh Chợ Vải được lấp
    • Từ 1887 đến 1920: thời kỳ hoàng kim của đường xe lửa, tramway và khu chợ Cũ chấm dứt và được dời đến chợ Bến Thành
    • Từ 1920 đến 1960: thời kỳ của xe hơi, các cửa hàng xe hơi và cửa hàng bách hoá như Garage CharnerEtablissement BainierGrand Magasin Charner (GMC, thương xá Tax)
    • Từ 1960 đến 1990: thời kỳ cận đại với kiến trúc Pháp lần được thay thế
    • Từ 1990 đến nay: Thời phát triển các cao ốc cao tầng với kiến trúc toàn cầu hoá và cảnh quan đặc thù, ký ức lịch sử dần biến mất
Trên đường này có bao nhiêu các công ty và cửa hàng đã xuất hiện và biến mất qua thăng trầm của thời gian và lịch sử. Ngoài ra cũng còn có nhiều nhân vật lịch sử đã có để lại tại đây dấu vết mà ít ai biết hay chú ý đến. Từ Vương Thái, Émile Gsel, Pun Lun (Tân Luân) đến Phan Chu Trinh, Nguyễn An Khương, Cường Để, Roland Garros đã từng sống hay trú ngụ trong một thời gian trên con đường này.
Bài này chủ yếu chú trọng vào 3 thời kỳ đầu từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20. Thời kỳ chuyển biến từ xã hội cổ truyền, gọi là cựu thời hay cựu trào đến thời kỳ tư tưởng văn hoá Tây phương (qua người Pháp) hay tân trào. Lịch sử và sự thay đổi trên con đường Charner ở Saigon phản ảnh lịch sử những gì mà xã hội, kinh tế, chính trị Việt Nam đã trãi qua. Tìm hiểu lịch sử của một con đường cũng là tìm hiểu một góc cạnh lịch sử ở cấp con người, cấp địa phương với các chi tiết có giá trị nhân văn độc đáo hơn lịch sử cấp lớn hơn như lịch sử quốc gia.


Đường Charner từ 1861 đến 1887.



Tờ Le Monde Illustré năm 1864 (8) có tả chợ Saigon như sau và kèm theo bản khắc vẽ độc đáo về hình ảnh khu chợ bên cạnh sông Saigon và kinh Chợ Vải như sau
Một chợ ở Saigon
Tường trình tại chỗ
Các tin tức mới nhất, mà chúng tôi nhận được từ Nam Kỳ cho thấy rất là thuận lợi, các binh lính của chúng ta, sau khi đặt được sự cai trị của Pháp trong xứ này, giờ đang làm việc rất cực nhọc cũng như trước đó để mang nền văn minh của chúng ta đến vùng đất giàu có và màu mỡ này.
Thành phố Sài Gòn, nơi cư trú của chính quyền quân sự và dân sự cao cấp, được hưởng lợi nhiều nhất qua sự tiếp xúc hàng ngày giữa người châu Âu và tập hợp pha trộn của các dân bản địa và ngoại lai làm cho một thành phố càng đặc sắc hơn.
Thành phố Sài Gòn, mà chúng ta đã nói thường xuyên có dân số vào khoảng 180.000 người, trong đó có 10.000 người Hoa. Chợ Saigon lớn đáng kể và các thương gia ở chợ thường xuyên cung cấp thực phẩm đầy đủ các loại nhất. Chợ này nằm trên một khu rộng lớn, gần bờ sông Donnai (Đồng Nai) (*), sông này được kết nối với khu vực sông Mei Kông (Cửu Long) bởi một con kinh, và do đó được đặt làm thủ đô của vùng đất chúng ta làm chủ ở An Nam để thông thương với Vương quốc Cam Bốt mà chúng tôi đã có nói đến trong số báo vừa rồi. Các mặt hàng chính mà người ta tìm thấy ở chợ Saigon bao gồm ngũ cốc, rau quả đủ các loại, gạo, đường, dứa, trà, hạt tiêu, dừa, và đủ tất cả các loại trái cây của vùng nhiệt đới."
LEO BERNARD-JULIEN.
(*) Chú thích dịch giả: thật sự là sông Saigon ngày nay





Hình 1: Một góc chợ Saigon, 1864.


Khu vực Saigon-Chợ Lớn xưa kia có rất nhiều người Hoa làm ăn sinh sống mà đa số là từ Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến. Ngay trung tâm Saigon gần sông Saigon, trên các con đường dọc các kinh rạch như Kinh Chợ Vải, kinh Cầu Sấu, v.v. là những gia đình thương gia người Hoa sinh sống. Dọc kinh cầu Sấu có đường “rue de Canton” (đường Quảng Đông, ngày nay là đường Hàm Nghi) để chỉ là nơi này có rất nhiều người Quảng sinh sống làm ăn.
Vì thế ta không lạ gì khi trong giai đoạn thuở ban đầu ở trung tâm thương mại Saigon quanh Chợ Cũ có nhiều hoạt động văn hoá của người Hoa. Ông Charles Lemire có tả cảnh Hội thuyền rồng, phong tục của người Quảng Đông, nhân dịp tết Đoan Ngọ (5 tháng 5 âm lịch) như sau :
“Ở Saigon mỗi năm đến ngày 15 tháng tám (*) có cuộc đua xuồng rất lý thú. Trên sông Sài Gòn, rộng từ 300 đến 400 mét chảy qua thành phố, hai mươi chiếc thuyền dài xếp thẳng hàng, nhọn và được trang trí với lá cờ; phía trước thuyền là một đầu rồng bằng carton vẽ sừng hoặc dây râu antenne dài bằng sắt; đằng sau (desinit in piscem, như một người đàn bà đẹp có đuôi cá) là đuôi của con quái vật. Những chiếc xuồng rất hẹp mà hai người đàn ông khó có thể ngồi vừa trên cùng một hàng ghế trước. Các thuyền này được làm nguyên mảnh từ một thân cây, và các cạnh thuyền chỉ vừa cao hơn mặt nước.
Ba mươi người đàn ông được dồn chặt chẽ trong những chiếc thuyền mỏng manh và chờ đợi các tín hiệu. Một tiếng đại bác nổ từ tàu đô đốc, các trống và cồng chiêng lập tức đáp ứng và các ghe đã miệt mài thi nhau vượt sóng, tranh vận tốc. Bạn sẽ tin rằng minh đã nhìn thấy các con rắn, các con rết kỳ thần trượt nhanh trên mặt nước. Các tay đua chèo thuyền ở trần đến thắt lưng, da của họ tái xám, cơ bắp căng phồng; họ được trang bị với các mái chèo ngắn và khi chèo làm nước sông sủi bọt. Những âm thanh từ các nhạc cụ kỳ lạ, những tiếng kêu hoang dã làm ta mơ tuởng như cuộc tấn công của hải tặc, thường rất phổ biến ở các vùng biển này.
Nhưng đây này, một chiếc xuồng không may đụng phải một cột buồm của tàu Duperré, lật úp, và tất cả các thuỷ thủ đoàn lõm bõm trong nước. Người ta nói rằng các quái vật ở biển gặp phải con rắn biển lớn; người ta nghĩ đến họ là những người chìm tàu chiến đấu chống lại một con cá voi.
Chỉ trong vòng một giây thuyền được lật ngửa lại, trên gợn sóng, mọi người leo nhanh lên thuyền và các người chèo thuyền tiếp tục tranh đua, một trong số họ dùng xô nước lá cọ múc nước đổ ra khỏi thuyền. Các thuyền bắt đầu quay lại, các tiếng đập trống tăng gấp đôi. Một chiếc đến cột cờ, được dùng làm điểm đích kết của cuộc đua và là nơi mọi người tập hợp: chiến thắng, chiến thắng vòng đua ! các thị trưởng người An Nam, đứng trên nóc ghe của họ hay ở trên bến hổ trợ cuộc đua và cổ động người của họ.
Các người Hoa châm lửa đốt các bánh pháo treo trên cột cây tre. Trống, cồng chiêng, pháo nổ, các tiếng kêu gọi lạ kỳ, đây là sự biểu hiện niềm vui cũng như đau khổ của các dân tộc này”. 
(*) Chú thích của dịch giả: Thật ra là mỗi năm
vào ngày 5 tháng 5 âm lịch tức là Tết Đoan Ngọ)





Hình 2: Đám rước rồng – Saigon 1865 theo tập san Le Monde Illustré ngày 29/7/1865
Chợ trên bến (Bạch Đằng) dọc sông Saigon.
Theo tập san “Le Monde Illustré” của tác giả ký tên là Julien, có nói về một đám rước hội lễ rồng vào năm 1865 ở Saigon như sau
Mỗi năm ở tất cả các nước nơi có người Trung Quốc sinh sống, đều có diễn hành lễ rước Rồng. Lễ hội này được tổ chức tại Sài Gòn bởi mỗi bang hội của người Hoa, các bang hội này được thành lập ở ngay tại xứ Saigon này, lễ rước rồng của bang Quảng Đông không nghi ngờ gì nữa là lễ rước rồng đẹp nhất, và vì thế là đại diện tiêu biểu cho những gì ghi trong bài viết này.
Những đám rước này rất đáng chú ý bởi sự phô trương của những bộ trang phục, dụng cụ và trang trí đủ các loại; người Hoa chủ yếu muốn người châu Âu thấy được sự phong phú của các ngày lễ của họ và họ không ngần ngại chi tiêu hết sức để cho người khác thấy được sự rực rỡ hào quang của ngày lễ của họ: ngày hôm đó họ mặc đồ phù hợp cho nhân vật mà họ đại diện, và những bộ trang phục, lụa vải cài hoa và vàng, rất đắt tiền, và chỉ một đám rước này thôi chi phí của họ đã lên đến 8000 piastres, tương đương với 48000 tiền franc của chúng ta.
Các bà chúa thần nữ tôn thờ được đóng bởi các cô gái trẻ, họ mặc những gì mang đặc tính của vai trò mà họ đại diện và gắn kết, có người thì ngồi ở trên kiệu, hoặc có người đứng trên cây, ở những vị trí rất độc đáo. Hình vẽ (trong bài này) sẽ cho bạn thấy hai trong số các vị trí của các cô này: cô đầu tiên, một cô gái trẻ được đặt ở cuối một nhánh cây mà không thấy có phương tiện hỗ trợ nào rõ ràng và người thứ hai, một cô gái trẻ cầm ở tay một thanh gậy dọc ngang trước mặt mà ở cuối thanh gậy cân bằng một đứa trẻ; tất cả điều này là hoàn toàn sắp xếp và làm thích thú các khán giả người Á châu.
Điều mà bạn cho là những tiếng ồn chói tai của pháo nổ, tiếng trống, chiêng, tù và, và nhiều thiết bị khác, là điều không thể có. Nhưng người Hoa thực sự sinh ra tiếng ồn và khi mà họ muốn bày tỏ niềm vui của mình hay cảm xúc nào, thì họ cầm một cặp chũm chọe khoảng 50 cm đường kính, một cây đàn guitar và sáo hay một trống nhỏ và sử dụng với tất cả sức mạnh của mình để tạo ra âm nhạc du dương này, mạnh nhất và quan trọng hơn hết là đánh càng lâu càng tốt.
Ở đầu đám rước rồng có rất nhiều người Hoa mang cờ hiệu hình tam giác và các lọng che hình trụ. Các lọng dù che này là thiêng liêng và chỉ các quan hạng cao nhất mới có quyền được dùng; đi sau những người hầu mang lọng che này là một đám đông chơi âm nhạc cuồng nhiệt mà tôi đã nói ở trên và các kiệu mang đầy đồ ăn, như nguyên cả con heo rô ti để ăn trong chùa, trái cây đủ các loại hoặc bánh mứt.
Đằng sau những lương thực là những người mang vũ khí, đủ các loại vũ khí cũ và mới được dùng ở Trung Quốc như giáo, mâu, cung, tên, dao lớn, chuỳ, cây đinh ba, vv, vv
Tất cả đám đi rước này được xen kẽ với các cá nhân luôn tay đốt pháo nổ, những đứa bé người An Nam muốn nhìn thấy đám rước cho thật gần và vì thế nhận các pháo nổ vào người nhưng tất cả đều không làm chúng sợ; tinh thần Pháp chắc đã thâm nhập vào chúng trước khi vào gia đình của chúng nên chúng làm mặt nhăn nhó và làm cử chỉ chọc các người Hoa mà có thể được trẻ em của chúng ta ở Paris đồng chấp thuận.
Tôi sẽ không kể cho bạn một dãy các ông thần và bà thần sau đám rước, tôi sợ là sẽ kể quá dài và vì thế tôi đi ngay đến phần cuối cùng của đám rước, đó là con rồng vĩ đại, con rồng dài khoảng 30 đến 35 mét chiều dài, nếu không nói là dài hơn, và con rồng được khoảng hai mươi người Hoa khiêng mang; ở phía trước, người ta nhử con rồng với một quả cầu bằng thép bóng láng, mà con quái vật này cố làm hết sức mình để nuốt quả cầu này bằng cách lắc qua lại lúc phía bên phải lúc phía bên trái, nhưng người khiêng quả cầu biết tránh được cái chụp của con rồng và liệng quả cầu qua phía khác cùng lúc le lưỡi mình chọc con rồng. Những người khác khiêng rồng chỉ bắt chước sự uốn lượn của con rồng theo phong cách để làm sao mà từ xa khán giả tin rằng con rồng đi theo đám rước như đi dạo bộ.
Hai người Hoa mang quả cầu và đầu rồng được thay thế cứ mỗi 15 phút; Tôi có thể đảm bảo với bạn là hai người này rất cần và có nhu cầu lớn để được thay thế."
JULIEN.
Kinh lớn hay kinh Chợ Vải được lấp vào năm 1887. Dự định lấp kinh đã được bàn cãi từ những năm đầu thập niên 1860s sau khi Pháp đã chiếm Saigon. Lý do chính kinh được lấp là do vấn đề vệ sinh và y tế. Do sự chống đối từ các nhà buôn bán kinh doanh dọc hai bờ kinh, sống nhờ hàng hoá di chuyển bằng ghe thuyền, nên mãi đến năm 1887 kinh mới thật sự được lấp. Đa số các nhà kinh doanh buôn bán dọc hai bờ sông và ở chợ Saigon (Chợ cũ) là người Hoa và người Ấn.
Sau khi kinh được lấp thành Boulevard Charner (đại lộ Nguyễn Huệ ngày nay), các cửa hàng thương mại vẫn phát triển nhưng dần dần sau này người Pháp và người Việt bắt đầu hiện diện cạnh tranh với người Hoa, Ấn. Cả hai con đường, “rue Catinat” (Đồng Khởi) và “Boulevard Charner” đều là con đường kinh doanh thương mại quan trọng ở Saigon nhưng Đại lộ Charner vì to lớn hơn nên đường Charner cũng là nơi có tổ chức nhiều lễ hội lớn ở Saigon như ngày lễ quốc khánh 14/7 của Pháp và ngày lễ hội rước rồng của người Hoa.
Ngày nay ta còn có thể thấy lại một vài cảnh quan của kinh Chợ Vải, hai con đường dọc kinh (đường Charner và Rigault de Genouilly) và nhà cửa, hàng quán trước năm 1887 (khoảng 150 trước đây) là nhờ những hình ảnh cực kỳ quí hiếm của nhà nhiếp ảnh tiên phong ở Nam Kỳ, ông Émile Gsell, đã chụp và may mắn còn tồn tại.



Hình 3: Saigon 1870s (Ảnh Emile Gsell) – Kinh lớn hay kinh Chợ Vải. Cây cầu bắc ngang kinh nối đường “rue de l’Eglise” (“rue d’Ormay” sau này, Mạc Thi Bưởi ngày nay) và Rigault de Genouilly (bờ phải kinh) bên phải hình với nhà thờ (sau này là toà nhà hoà giải, Justice de Paix) ở đường Charner (bờ trái kinh).





(a)

(b)
Hình 4: Saigon 1870s (Ảnh Émile Gsell) - Ảnh chụp từ nhà trên đường Rigault de Genouilly chụp ra hướng cảng Saigon. Toà nhà lớn đầu đường Charner cạnh sông Saigon là nhà của ông Wangtai (Vương Thái). Trong toà nhà bên cạnh, ở số 7 đường Charner là cửa hàng nhiếp ảnh của ông Pun Lun (Tân Luân). Đây là ảnh của nhà nhiếp ảnh Émile Gsell, người chụp các bức ảnh rất xưa ở Saigon và ở đền Angkor trong đoàn thám hiểm sông Mekong lên Vân Nam của Pháp.
Lúc này trên hai con đường dọc bờ kinh đã có nhiều nhà kinh doanh và một vài trụ sở của các công ty thương mại. Công ty Compagnie française des tramways de l’Indo-Chine (CFTI) có văn Phòng (Bureaux, et caisse), số 12, rue Rigault-de-Genouilly (sau khi kinh được lấp, đường Rigault-de-Genouilly và Charner nhập lại thành Boulevard Charner, Nguyễn Huệ ngày nay).
Người Hoa nổi tiếng ở Sài Gòn - Chợ Lớn cuối thế kỷ 19 là ông Cheung Ah Lum (Trương Á Lâm, hay Zhang Peilin, Trương Bội Lâm). Cũng như ông Ban-hap (Vạn Hoà, tên thật là Gan Wee Tin hay Nhan Vĩ Thiên), người Pháp gọi ông là Wang-Tai (王太, Vương Thái). Wang-Tai là tên công ty ông lập ở Sài Gòn sau khi ông đến từ Hồng Kông vào năm 1862 để giao các tàu buồm (junks) mà một sĩ quan người Pháp, đại diện cho chính quyền Pháp mới thành lập ở Sài Gòn, đã đến Macao trước đó vào năm 1860 để đặt hàng đóng các tàu từ công ty của ông ở Macao. Sau khi giao tàu xong, ông quyết định ở lại định cư hẳn tại vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Có kinh nghiệm ở Hồng Kông khi người Anh đến ở đó để lập thuộc địa, công ty Wang-Tai đi ngay vào kỹ nghệ xây cất, thiết lập các xưởng gạch và xây các nhà kiểu Âu châu khi người Pháp còn chân ướt chân ráo. Các nhà này được cho mướn cho chính quyền Pháp và Phòng Thương mại mà ông là một hội viên từ lúc ban đầu. Ông trở thành phát đạt và giàu có còn hơn lúc ở Hồng Kông. Bưu điện thành phố, nhà thờ đức bà và toà ngân khố (gần nhà thờ) là những công trình ông trúng thầu xây dựng.
Vương Thái sinh vào tháng 12 năm 1827 tại Trung Quốc. Ông là một thương gia rất giàu có và thế lực, từng giữ chức bang trưởng bang Quảng Đông tại Sài Gòn thời bấy giờ. Theo tư liệu ngân sách do chính phủ Pháp ở Sài Gòn in năm 1876, ông có ba căn nhà cho chính quyền Pháp mướn: một căn nhà ba tầng ngay cảng thương mại Sài Gòn, một căn nhà ở phố Triệu Quang Phục, Chợ Lớn làm văn phòng điện tín và một ở Bình Tây, Chợ Lớn làm bốt cảnh sát.
Các xưởng gạch của ông sản xuất gạch tốt, phục vụ cho nhu cầu của người dân ở Sài Gòn và ở nhiều nơi trong khu vực Nam Kỳ. Trong cuộc triển lãm công nghiệp và nông nghiệp năm 1880, sản phẩm gạch của ông đã giành được huy chương bạc. Ông cũng tham dự triển lãm quốc tế năm 1878 ở Paris với các sản phẩm đồ gốm được sản xuất ở Chợ Lớn.
Ngoài cơ sở sản xuất gạch, đồ gốm, Vương Thái còn có những thửa ruộng lớn được khai hoang ở Phước Lộc để trồng lúa. Bên cạnh đó,Vương Thái còn là một trong những chức sắc người Hoa được kính trọng nhất ở Sài Gòn vì ông không những đã có những cống hiến lớn lao cho cộng đồng mà cho cả chính quyền Pháp.
Công ty Wang-Tai đi vào các lãnh vực khác của kinh tế như mua bán, sản xuất gạo. Ông Zhang Peilin (Trương Bội Lâm) sau được chọn bầu vào công ty China Merchants’ Steam Navigation Company (Công ty hàng hải tàu hơi nước của thương nhân Trung Hoa) để xuất khẩu gạo sang Trung quốc. Đến các năm của thập niên 1880, ông là chủ của nhiều đất đai nhà cửa ở Sài Gòn, trong đó có khu Wang-Tai (la cité Wang-tai), một khu nghèo và dơ mà các người di dân Trung quốc đến Sài Gòn - Chợ Lớn lúc ban đầu cư ngụ chung với gà, vịt, trái cây và các đồ nhập khẩu (4). Năm 1879, ông gởi con ông và một người Hoa Quảng Đông khác là Lưu Chap (Pháp gọi là A Chap hay “Taokhe” Tào Kê Chap) sang Cam Bốt mở tiệm cầm đồ ở Nam Vang. Sau này Lưu Chap là một người giàu có khét tiếng có thế lực ở Nam Vang.
Ông Trương Bội Lâm (Wang-Tai, hay Vương Thái) mất năm 1900, thọ 73 tuổi. Các con trai và cháu nội ông ở Chợ Lớn mang quan tài ông về quê hương, làng Ya-kang, huyện Hoàng Sơn ở Quảng Đông để chôn cất. Rất nhiều người Hoa, Pháp, Việt và quan chức, chức sắc trong chính quyền ra bến tàu để tiễn ông. Sau đó có một con đường ở Chợ Lớn (cité Wangtai) được mang tên ông.
Cạnh toà biệt thự của ông là dinh cơ của một người Hoa giàu có ở Sài Gòn trước thời Pháp thuộc. Người này có các tiệm vải, may đồ, hàng thủ công, sửa giày, sửa đồng hồ và hàng nhập ngoại mà ngay cả người Pháp cũng thường đến mua. Còn vào lúc ban đêm, các ngôi nhà đằng sau biệt thự ông Vương Thái lại trở thành các sòng bạc. Cửa hàng của người Hoa ở đường Catinat, đường Rigault de Genouilly dọc kinh chợ Vải, đường nối đến đường rue d’Adran (đường Hồ Tùng Mậu) thời xưa đều mở đến 9 giờ tối. Đường rue d'Adrian vốn là khu buôn bán tấp nập với nhiều cửa hàng của người Hoa, người Ấn, nằm kế Chợ Sài Gòn cũ. Khu chợ này nằm dọc kinh chợ Vải, nay gọi là chợ Cũ.
Ông Anatole Petiton khi đến thăm Sài Gòn, đã viết về đời sống, sinh hoạt của thành phố trong sách “La Cochinchine française: la vie à Saïgon, notes de voyage” xuất bản năm 1883 như sau :
Khi đi tàu đến cảng Sài Gòn, du khách có thể thấy hai nhà nổi bật là nhà Rồng (messageries maritime) và nhà của ông Vương Thái, xây hầu như ở giữa góc điểm của rạch Bến Nghé và sông Sài Gòn.
Tất cả Sài Gòn đều biết ông Vương Thái. Nhà của ông rất lớn với cột cửa vòng cong và mái hiên (portique), có thể nói nhà ông được coi như là trung tâm Sài Gòn.
Nhà có ba tầng với sân mái hiên. Đây cũng là toà đô chánh thành phố Sài Gòn và là nơi ở của ông thị trưởng. Ông thị trưởng quả là người công chức được chu cấp chỗ ở tốt nhất.”
Cũng theo mô tả của ông Petiton thì kinh Chợ Vải dài khoảng vài trăm thước (gọi là kinh Rigault de Genouilly, sau đổi thành kinh Charner), bắt đầu từ sông đi vào thì ở phía bên phải là các ngôi nhà của người Âu và một vài nhà người Hoa và Ấn (ở Saigon người Pháp dùng từ malabar để gọi người Ấn), bên trái là các ngôi nhà, chợ và những cửa hàng khác của người Hoa.
Kinh chấm dứt ở khoảng nhà thờ. Ở phía trên phần kéo dài của kinh, hai bên có chỗ chơi trò chơi Bowling (một thứ trò chơi của người Anh) rất hợp với việc giải trí lúc chiều tối. Nhà thờ lúc bấy giờ do đô đốc Bonard cho dựng dọc kinh chợ Vải năm 1863 sau khi vừa chiếm xong hoàn toàn Sài Gòn - Gia Định, được làm bằng gỗ và hoàn thành năm 1865. Nhà thờ này chỉ là một nhà thờ tạm thời cho đến khi nhà thờ chính (nhà thờ Đức Bà) được xây.



Hình 5: Saigon 1870s (Ảnh Émile Gsell) – Kinh lớn và dãy phố trên đường Charner gồm các tiệm bán hàng ở tầng trệt và nơi ở ở tầng trên. Cầu băng qua kinh nối hai bờ (trái là đường Rigault de Genouilly và phải là đường Charner). Đường rue Vannier (Ngô Đức Kế ngày nay) chạy ngang hông dãy nhà đi thẳng đến cầu qua hai bên bờ kinh. Cuối toà nhà dãy phố này ở góc phải phía trên hình là toà nhà hoà giải (Justice de Paix) mà trước kia là nhà thờ St Marie immaculée.




(a)




(b)
Hình 6: (a) Ảnh (Émile Gsell ?) – Dãy nhà bên trái kinh gần chợ và toà nhà hoà giải (phía phải ảnh) (b) Tranh khắc vẽ năm 1863 - Lễ khánh thành nhà thờ đầu tiên ở Saigon. Nhà thờ này xây bằng gỗ ở vị trí sau này là toà hoà giải Justice de Paix và ngày nay là toà nhà Sun Wah, góc Nguyễn Huệ và Tôn Thất Thiệp.



Hình 7: Saigon 1870s, Chợ Saigon cạnh kinh Chợ Vải, Bên phải, ngang hông chợ là đường rue Vannier (Ngô Đức Kế ngày nay) và đường hông bên trái là rue Amiral Roze (Hải Triều ngày nay). Địa điểm này ngày nay là toà nhà ngân khố.



Hình 8: Bản đồ Saigon 1873 (nguồn manhhai
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/9099981132/)



Hình 9: Saigon - Khách sạn Cosmopolitan,
nhà ông Wangtai (Vương Thái) 1872 -
nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 (10).

Nguyễn Đức Hiệp




Tham Khảo



  1. Saigon Republicain, 10/11/1888, A1, N53.
  2. Les Tablettes coloniales. Organe des possessions françaises d'outre-mer, No. 45, 19/12/1888
  3. Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De Batavia à Saigon: notes de voyage d’un marchand chinois (1890), Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191.
  4. Nola Cooke, King Norodom’s Revenue Farming System in Later-Nineteenth-Century Cambodia and his Chinese Revenue Farmers (1860-1891), Chinese Southern Diaspora Studies, Volume One, 2007. (http://csds.anu.edu.au/volume_1_2007/Cooke.pdf).
  5. Nguyễn Đức Hiệp, Singapore – Saigon – Hong Kong: Quan hệ thương mại người Hoa từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20,http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-the-gioi/van-hoa-dong-nam-a/1957-singapore--saigon--hong-kong-quan-he-thuong-mai.html
  6. Charles Lemire, Cochinchine française et royaume de Cambodge, avec l'itinéraire de Paris à Saïgon et à la capitale cambodgienne, Challamel aîné (Paris), 1869
  7. Le Monde Illustré 29/7/1865, A9, T17,N433
  8. Le Monde Illustré 24/12/1864, A8, T15,N402
  9. Nguyễn Đức Hiệp, Saigon đầu thế kỷ 20 đến 1945 : Việt Nam thức tỉnh, http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/saigon-111au-the-ky-20-111en-1945-viet-nam-thuc-tinh
  10. Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon), 1876.
  11. Cochinchine françaises, Procès-verbaux du Conseil colonial, Session ordinarie 1884-1885, Imprimerie du gouvernement, Saigon 1885.
  12. Oscar Chapuis, The last emperors of Vietnam: From Tu Duc tớ Bảo Đại, Greenwood Press, Connecticut, 2000.
  13. Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières... : Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934, éditeurs L. Lacroix-Sommé, R. J. Dickson et A. J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933.
  14. L'Information d'Indochine. économique et financière, Saigon, 1935, 1936, 1940.
  15. Tim Doling, Icons Of Old Saigon: Établissements Bainier Auto Hall, http://saigoneer.com/saigon-buildings/3697-icons-of-old-saigon-etablissements-bainier-auto-hall
  16. Écho Annamite, 22/1/1927, A8, No. 787
  17. Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saigon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. để l'Union (Saigon), 1917
  18. Annuaire général de l'Indo-Chine française, 1901, Part 2, 1905, 1906, 1908.
  19. Excursions et reconnaissances, 1882, N14, pp. 372, Imprimerie du Gouvernement, 1882, Paris, Challamel, 5 rue Jacob.
  20. Procès-verbaux du Conseil Colonial, Imprimerie du Gouvernement, Saigon 1883.
  21. Procès-verbaux du Conseil Colonial, Session ordinaire 1885-1886, Imprimerie du Gouvernement, Saigon 1886.
  22. Annuaire de l'Indo-Chine, 1890, T1, pp. 198-199, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1890.
  23. Annuaire de l'Indo-Chine, 1897, T1, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1897.
  24. Bulletin official de l’Indochine française, N1, P1, 1898.
  25. Recueil du Conseil d’État, 1913, T82, S2.
  26. Nguyễn Thị Minh, “Nguyễn An Ninh: Tôi chỉ làm cơn gió thổi”, Nxb Trẻ, 2005.
  27. Phillipe Peycam, The Birth of Vietnamese Political Journalism: Saigon, 1916-1930, 2012, Columbia University Press.
  28. Le Nouvelliste d'Indochine, 6/3/1937, 1/5/1937, 11/7/1937, 7/5/1939.
  29. Annuaire de la Cochinchine française pour l’année 1870, Imprimerie du Governemnt, Saigon 1869.
  30. Người Lao Động, Đường Nguyễn Huệ hiện đại nhất nước, 30/3/2015,
        http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/duong-nguyen-hue-hien-dai-nhat-nuoc-20150330232220484.htm
    (http://thaolqd.blogspot.com/2015/09/ai-lo-charner-cuoi-ky-19-au-ky-20-phan_12.html)

Friday, 27 July 2018

LỄ CÁC ĐẲNG (Stêphanô Huỳnh Trụ - Công Giáo)


LỄ CÁC ĐẲNG

9/5/2011 4:44:24 PM 
(http://conggiao.info/le-cac-dang-d-1814) 

Lễ ngày 2 tháng 11 có nhiều cách gọi. Cuốn “Những ngày lễ Công Giáo” chính thức của giáo phận ghi là: “Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời”, người ta thường gọi là “Lễ các đẳng linh hồn”, hay vắn tắt hơn thì gọi là “Lễ các đẳng”.

Một lần nọ, trước ngày lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời, cha sở thông báo: “Ngày mai là lễ các đẳng, chúng ta nhớ cầu nguyện cho các đẳng”. Thế rồi, công an xã mời cha đến xã làm việc một tuần lễ, với lý do là “Chúng ta chỉ có một đảng, sao linh mục kêu gọi cầu nguyện cho các đảng?” [1]!
Lễ ngày 2 tháng 11 có nhiều cách gọi. Cuốn “Những ngày lễ Công Giáo” chính thức của giáo phận ghi là: “Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời”, người ta thường gọi là “Lễ các đẳng linh hồn”, hay vắn tắt hơn thì gọi là “Lễ các đẳng”.
Nguồn gốc.

Việc cầu nguyện cho những người đã qua đời có nguồn gốc từ Cựu Ước: “Ông Giuđa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức. Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2Mcb 12,43-46).
Giáo hội từ những thế kỷ đầu cũng đã có cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời. Thánh Augustinô, thế kỷ IV, đã nói: “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.” Các dòng tu đặc biệt quan tâm đến việc này. Thánh Ôđilô, Tu viện trưởng Dòng Cluny, vào giữa thế kỷ XI (1048) đã có sáng kiến cho dòng của ngài cầu nguyện cho những người đã qua đời vào ngày 2/11, ngay sau lễ Các Thánh. Sáng kiến này được Giáo Hội đưa vào lịch Phụng vụ Rôma. Công Đồng Triđentinô (1545-1563) nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết. Công Đồng Vaticanô II cũng dạy: "Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh..." (GH 50), về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Ðồng dạy: "Khi được về quê trời và hiện diện trước nhan Chúa... các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha..." (GH 49). Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu phải đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện. Ngày cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời liên quan đến niềm tin về luyện ngục và các thánh thông công.
Thuật từ tiếng Latin.

Lễ này tiếng Latin là “Commemoratio omnium Fidelium Defunctorum”, tiếng Anh gọi là “Commemoration of all the Faithful Departed”, có khi cũng gọi là All Souls’ Day (Lễ các linh hồn) hay Defuncts’ Day (Lễ các người đã qua đời). Uỷ Ban Phụng Tự dịch là “Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời” là đúng, nhưng bình dân vẫn gọi là “Lễ các đẳng”. Vậy chúng ta tìm hiểu từ vựng này.
Nghĩa của các, đẳng.

Các
: Có chín chữ Hán, ở đây là chữ各, nghĩa là (đại từ). (1) Mỗi một: Các bất tương đồng (không ai giống ai). (tt). (2) Khác: Các biệt. (3) Tất cả, hết thảy: Các vị (quý vị).
Đẳng
: có hai chữ Hán, ở đây là chữ等, nghĩa là (dt.) (1) Thứ bậc: Thượng đẳng (bực trên nhất); Trung đẳng (bực giữa); Hạ đẳng (bực dưới nhất, hạng bét). (2) Phức số: Ngã đẳng (Nhóm chúng tôi). (3) Bậc thang: Thổ giai tam đẳng (Cầu thang đất có ba bậc). (đt.) (4) Ðợi chờ: Đẳng đãi (Chờ đợi). (5) Bằng nhau, đều: Đại tiểu bất đẳng (Lớn nhỏ không đều). (6) Cân lường. (tt.) (7) Hạng: Nhĩ thị hà đẳng nhân (Anh là hạng người nào). (pht.) (8) Vân vân: Đẳng đẳng.
Nghĩa của từ “các đẳng”.

Các đẳng là tất cả thứ bậc
. Thuật từ “Các đẳng linh hồn” để chỉ tất cả các linh hồn người quá cố trong luyện ngục [2] (thuộc thành phần Hội thánh đau khổ), phân biệt với “Các thánh nam nữ” là các phúc nhân trên thiên đàng (Hội Thánh vinh quang). [3] Có người cho rằng quan niệm về “linh hồn mồ côi” và “các đẳng linh hồn” v.v. chịu ảnh hưởng tư tưởng “cô hồn các đẳng” của ngoại giáo. Như Phật Giáo chia địa ngục ít nhất có 18 tầng và quỷ cũng có nhiều cấp bậc. Trong “Phật thuyết quỷ vấn Mục Liên kinh” [4] có rất nhiều thứ quỷ: quỷ đau đầu, quỷ mặc áo rách, quỷ ngủ bờ ngủ bụi, quỷ đói, quỷ nam căn [5] bị thối rửa… Hay trong xã hội loài người cũng chia làm nhiều giai cấp, tức là thứ bậc khác nhau trong xã hội: sĩ, nông, công, thương, binh... Trong tác phẩm “Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn” [6] đề cập đến 10 hạng “cô hồn”: Thiền tăng, nho sĩ, đạo sĩ, thiên văn địa lý, lương y, quan liêu, tướng quân, hoa nương, thương cổ đãng tử. Trong “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” [7] cũng nói đến 10 loại: Vua chúa, tể thần, đại tướng, kẻ ham giàu, kẻ ham danh, thương nhân, binh lính, quý nữ, kỹ nữ, bần nhân gặp nạn chết oan... Con số 10 chỉ là số phiếm chỉ cho tất cả các loại cô hồn tồn tại trong “lục đạo” [8] mà thôi. Phải chăng, chính những hoàn cảnh này đã ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của chúng ta?
Thực ra, trong xã hội trần gian bao giờ cũng có nhiều thứ bậc, đẳng cấp, giai tầng... Khi lìa trần, người ta không thể mang theo mình bất cứ của cải vật chất nào. Mọi thứ bậc, đẳng cấp, địa vị của con người ở trên đời không có ý nghĩa gì trước Tòa Phán Xét. Thiên Chúa xét xử con người theo “công trạng” [9] nó đã làm ra. Chúa không hỏi chúng ta là ai, thuộc giai cấp nào trên thế gian, nhưng Chúa sẽ hỏi chúng ta về “nén bạc” (ân sủng và tình yêu) mà Chúa giao phó đã được sinh lợi thế nào. Như Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: “Nên nhớ Người sẽ không khiển trách họ về hạnh kiểm, tội lỗi hay lời báng bổ; mà chỉ vì không ích lợi gì cho ai. Như kẻ đã chôn nén của bạc mình, đời sống y không có gì khiển trách, nhưng y không làm ích gì cho ai khác.” [10]
Vì vậy, khi nói “các đẳng linh hồn”, chúng ta nghĩ tới tất cả các linh hồn của mọi hạng người trên đời này đã quá cố và đang còn phải thanh luyện trong luyện ngục. Họ có thể là ông bà, tổ tiên, thân nhân, bạn hữu của chúng ta hay là những người xa lạ. Khi còn ở đời này, có thể họ là người giàu sang quyền quý hay nghèo khó mọn hèn. Họ có thể là những Kitô hữu hữu danh hoặc “Kitô hữu vô danh”. [11] Tất cả họ đều là chi thể của Chúa Kitô, giờ đây đang thuộc về Giáo Hội đau khổ và cần đến lời cầu nguyện của chúng ta.
“Các đẳng linh hồn” không có nghĩa là trong luyện ngục các linh hồn vẫn có sự phân chia đẳng cấp, điạ vị như khi còn ở thế gian hay trong Luyện Ngục có bao nhiêu đẳng cấp, thứ hạng linh hồn. Trong Luyện Ngục, tình trạng thanh luyện của họ có thể khác nhau, nhưng được “phân cấp” như thế nào thì chúng ta không biết.
Khi nói “linh hồn mồ côi”, chúng ta nghĩ tới linh hồn của hạng người phải đơn độc trong cuộc lữ hành đức tin khi còn ở trên đời. “Đơn độc”, “cô quả”, “mồ côi”.... hiểu theo nghĩa đời thường là không có người thân thích, bạn bè, không có ai đồng hành để được quan tâm, nâng đỡ đời sống đức tin. Họ có thể là những tín hữu cô nhi, quả phụ hay kẻ cơ bần sống đời đơn chiếc. Họ cũng có thể là những tín hữu giàu sang, con đàn cháu đống, bạn hữu tứ phương mà thực ra những người quen biết xung quanh họ không ai có niềm tin Công Giáo như họ để xin lễ hay cầu nguyện cho họ. Và nay, những linh hồn đó đang ở trong Luyện Ngục, đang cần đến lời cầu nguyện từ Giáo Hội chiến đấu [12].
“Linh hồn mồ côi” không phải là linh hồn không được Chúa đoái trông chăm sóc, ít được Chúa yêu thương hay bị Ngài lãng quên. Điều đó hoàn toàn sai lầm. Mọi linh hồn đều được Thiên Chúa tạo dựng. Mọi người đều được Chúa yêu thương bằng một tình yêu riêng biệt, không ai giống ai, Ngàivẫn không ngừng gọi chúng ta bằng chính tên riêng của từng người: “Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng Đức Chúa đặt cho” (Is 62,2) và tình yêu đó luôn luôn đầy tràn: “Ơn của Ta đủ cho ngươi” (2Cr 12,9).
Bản văn Công Giáo đầu tiên sử dụng từ “các đẳng” mà chúng tôi được biết là “Văn Tế Các Đẳng Linh Hồn” của cha Gioakim Đặng Đức Tuấn (1806-1874): “Nhớ các đẳng xưa: Tay Chúa dựng hình, tính thiêng gởi xác. Di luân tài mạng chịu thiên tư, lý dục thị phi đầy địa bộ...”. Cụm từ “các đẳng”, “các đẳng linh hồn” đã được sử dụng từ lâu trong Giáo hội tại Việt Nam để chỉ các tín hữu đã qua đời đang còn thanh luyện chờ ngày hưởng phúc thanh nhàn bất diệt. Lịch phụng vụ của Roma xưa nay ghi lễ ngày 02/11 là “Commemoratio omnium Fidelium Defunctorum”. Lịch phụng vụ ởViệt Nam thì dịch là: “Lễ Các Linh Hồn” [13], “Lễ Linh Hồn” [14], “Lễ Cầu Cho Mọi Tín Hữu Qua Đời” [15], sau này dịch là “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời”. Thiết nghĩ cách dịch “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời” thì sát nghĩa với nguyên bản, nhưng nên hiểu đó vẫn là nói tắt, vì đầy đủ phải là Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời Đang Còn Thanh Luyện (hay đang ở luyện ngục). Cách nói “Lễ các đẳng” cũng là cách nói tắt, mang âm hưởng văn hóa bản địa về “cả thảy vong linh” thuộc “thập loại chúng sinh” gồm cả “cô hồn các đẳng”! Phải chăng các tiền nhân của chúng ta đã hội nhập văn hóa trong khi tạo ra cụm từ này để phiên dịch?
Trường hợp những ngày lễ Feria V in Cena Domini, Feria VI in Passione Domini, chúng ta dịch là Lễ Tiệc Ly (Thứ Năm Tuần Thánh), Lễ Tưởng Niệm Cuộc Thương Khó của Chúa (Thứ Sáu Tuần Thánh), nhưng người bình dân vẫn quen gọi là “Lễ Rửa Chân”, “Lễ Hôn Chân”... vừa đơn giản, tượng hình lại dễ nhớ. Tất nhiên không đủ nghĩa, không nên sử dụng nữa.
Kết luận.

Giáo dân Việt Nam chúng ta có thói quen xin lễ cho các linh hồn tổ tiên nội hay ngoại, linh hồn thân nhân, linh hồn mồ côi, linh hồn ngoại đạo, thai nhi, linh hồn người chết vì tai nạn… và trong Thánh lễ hàng ngày, Hội Thánh luôn cầu nguyện cho mọi người đã qua đời. Đó là những thực hành rất tốt để tưởng nhớ người đã qua đời, thực thi bổn phận “hợp thông cùng các thánh”.
Ngày “Commemoratio omnium Fidelium Defunctorum”, chính xác là ngày “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời”. Còn “Lễ Các Đẳng” là cách nói vắn tắt, hiểu theo giáo lý Công Giáo như đã trình bày, thì không đúng cho lắm, những nếu đặt trong bối cảnh văn hoá Việt Nam thì việc tiếp tục sử dụng nó cũng không có gì ngăn trở.
_______________________________________________
Ghi chú:[1] Trong văn nói, một số người Nam bộ phát âm “các đẳng” thành “các đảng”, cũng như “cô hồn” thành “cu hồn”, nên “cúng cô hồn các đẳng” thì nói là: “cúng cu hồn các đảng”.
[2] Lưu ý là luyện ngục không phải là một hoả ngục ngắn hạn, luyện ngục hoàn toàn khác xa hoả ngục và sự thanh luyện được hiểu về trạng thái hơn là một ‘nơi chốn’, lại càng không thể nói ‘thời gian’ bao lâu (x. GLCG số 1030-1032).
[3] Thời xưa chưa có mục từ “tất cả”. Các danh từ chỉ tổng lượng thời xưa là: Cả, cả và, cả thảy, hết cả, hết thảy.
[4] Phật thuyết quỷ vấn Mục Liên kinh, gồm 17 chuyện, theo truyền thuyết thì do An Thế Cao dịch, nhưng được ghi nhận là thất dịch, thuộc đời lưỡng Tấn.
[5] Tức bộ phận sinh dục.
[6] Còn gọi là “Phật kinh thập giới”, không rõ tác giả, viết dưới thời vua Lê Thánh Tôn (1442-1497), là áng văn viết bằng chữ Nôm cổ theo thể biền ngẫu.
[7] Tác phẩm của Nguyễn Du (1765-1820), được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Theo Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn cầu siêu để giải thoát cho hàng triệu linh hồn.
[8] Theo giáo lý Phật Giáo, con người chúng ta do lực của nghiệp và phiền não của chính bản thân mà cứ mãi luân hồi chuyển sinh trong 6 chủng loại thế giới sinh tồn đầy những khổ đau, gọi là lục đạo đó là: thiên, a-tu-la, nhân, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục.
[9] Xem BGCN, Số 07/2010, tr. 106.
[10] Thánh Gioan Kim Khẩu, Bài giảng XX sách Công Vụ tông đồ (Jean Comby, Để đọc lịch sử Giáo Hội, q.I, tr.115).
[11] Có những người vì lý do nào đó mà không lãnh nhận bí tích Rửa Tội được, nên không trở thành Kitô hữu. Nhưng nếu họ sống theo những giá trị của Phúc Âm thì, nói theo từ ngữ của nhà thần học Karl Rahner, họ cũng là những “Kitô hữu vô danh” (Chrétien anonyme).
[12] Công đồng Florence (1431) đã định tín: Có luyện ngục để thanh luyện các linh hồn. Các linh hồn ra khỏi trần gian không còn có thể làm được việc gì lành để cứu mình nên chỉ trông cậy vào những người còn sống lập công cầu nguyện cho mình để rút ngắn thời gian thanh luyện. Vì thế mà Giáo hội kêu gọi tín hữu cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội.
[13] Niên Giám 1964, tr.11.
[14] Địa phận Hà Nội, Sách Lễ, Nxb Hiện Tại, 1967.
[15] Sách Lễ Giáo Dân, 1971, tr. xxix và tr. 1572. Cách dịch này rất dễ hiểu lầm là: Lễ cầu cho mọi tín hữu chết hết (!)
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ

Thursday, 26 July 2018

Chăm hay Chàm đúng? (Inrasara Phú Trạm - Báo Đà Nẵng)

Trao đổi: Chăm hay Chàm đúng?

Thứ Hai, 23/08/2010, 07:16 [GMT+7]
.(http://www.baodanang.vn/channel/5433/201008/trao-doi-cham-hay-cham-dung-1999374/)
 
Từ Chăm chính thức được Nhà nước quy định gọi tên dân tộc Cham từ năm 1979. Từ quần chúng đến nhà nghiên cứu, từ nghệ sĩ cho đến giới khoa bảng đều sử dụng tên gọi này trong sinh hoạt, bài viết, thơ văn hay công trình khoa học của mình. Nhưng thỉnh thoảng vẫn có người dùng từ “Chàm”. Bởi hiện tại từ “Chàm” vẫn còn hiện hữu ở rất nhiều địa danh, tên gọi, danh từ riêng. Vân vân… Không hiếm người dùng nó. Rồi cũng không ít người cho như thế là không phải phép, nặng hơn - miệt thị dân tộc này.
Sự thể là như thế nào? Vậy, Chăm hay Chàm, là đúng?
Xưa nay, dân tộc [Cham] này được người Kinh (Việt) gọi bằng Hời, Người đàng thổ (khác với Người đàng quê là người Việt), Chàm hay Chà, chứ tuyệt đối chưa có từ Chăm. Có lẽ vấn đề xuất phát từ bài viết và suy diễn “hợp lý” của một nhà nghiên cứu chưa hiểu thấu đáo vấn đề, nên mới ra nông nỗi!
[Biết thêm: Một vị giáo sư trong một bài viết trên tạp chí Dân tộc học (?) cũng đã rất sai khi cho rằng gọi Rađê là miệt thị người Êđê. Có thế đâu chứ! Người Chăm từ lâu lắm gọi dân tộc này đầy tôn trọng là Rađaiy (phát âm Ra-đe); người Pháp khi đến vùng này cũng đã dùng từ đó: Rhade. Có miệt thị ai đâu].
Có mấy điểm cần minh định lại:
- Cham (hay Cam) là một dân tộc trong cộng đồng dân tộc thuộc vương quốc Champa (hay Campa) cổ. Campa đọc là “cham-pa”. Có nhà viết sử phiên âm Campa là Chiêm Bà. Chúng ta đặc biệt chú ý âm “bà” này.
- CHÀM là do người Việt phiên âm chữ CHAM (hay CAM). CAM trong akhar thrah (chữ truyền thống Cham viết không có dấu âm pauh thơk, đọc là “cham”. Cả người Thái, người Lào hay Khmer cũng đọc là “cham”. Nhưng do đặc trưng giọng nói của người Cham vùng Panduranga (Ninh Thuận và Bình Thuận) phát âm nặng hơn nên CHAM biến thành CHĂM. Do chi tiết này nên từ ba hay bốn thập kỷ qua, một số người Cham viết thêm pauh thơk vào chữ truyền thống. Từ đó, có nhà nghiên cứu phiên âm thành “chămpa”. Việc phát âm trong mỗi phương ngôn xảy ra chuyện nặng nhẹ, dài ngắn không là vấn đề. Suy diễn sai lệch mới thành ra chuyện.
- Trước 1979, trong vốn từ Việt suốt miền Trung, không có CHĂM mà chỉ có CHÀM là vậy: Tháp Chàm, Cù lao Chàm, giếng Chàm (hay giếng Hời), vàng Chàm,… Ngay cả nơi người CHAM sống hiện nay cũng có mặt cả khối địa danh liên quan đến CHÀM: Phan Lí Chàm, Ma Lâm Chàm, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm
- Nhất là trước 1975 người CHAM bản xứ vẫn dùng thuật ngữ này trong mọi lĩnh vực: Trung tâm văn hóa Chàm, Nội san Panrang, tiếng nói của cộng đồng sắc tộc Chàm - Ninh Thuận (do học giả Cham là Thiên Sanh Cảnh chủ bút), Từ điển Chàm - Việt - Pháp, Dân tộc Chàm lược sử (của 2 tác giả Cham Dohamide - Dorohiêm). Nguyễn Khắc Ngữ viết công trình dân tộc học có tên Mẫu hệ Chàm. Học giả Thiên Sanh Cảnh có loạt bài nghiên cứu nổi tiếng: “Đám ma Chàm”. Còn tất cả công dân Cham đều được ghi trên thẻ căn cước là Người Việt gốc Chàm. Không ai bảo như thế là phân biệt đối xử gì gì cả!!!
Người viết bài này (Inrasara) năm 1994 vẫn có một tiểu luận đăng trên tạp chí Văn học: “Ca dao - dân ca, tiếng nói trữ tình của dân tộc Chàm” hay có bài thơ có tên là “Apsara, vũ nữ Chàm” (Tháp nắng, 1996). Tôi phân biệt đối xử với chính tôi à? Cạnh đó, một nhà thơ mang hai dòng máu Việt Cham đất Tây Ninh còn lấy cả bút danh: Khaly Chàm.
Từ Chiêm cũng thế: lúa Chiêm, “Chiêm nhân” là bút danh của một nhà thơ Cham, rồi “Hỡi em chiêm nữ em ơi, nhìn chi chân trời…” (lời ca khúc Đàng Năng Quạ). Vân vân.
Câu chuyện đủ cho ta thấy, một hiểu biết sai lệch, nhưng khi người phát ngôn là nhân vật có học hàm và chức vị thì nó thành ra có trọng lượng. Từ có trọng lượng chuyển sang ban hành quyết định cách nhau không xa. Từ đó “quần chúng” nghe theo chẳng có chi lạ.
Qua dẫn chứng trên, Chàm hay Chiêm có khi còn nguyên bản, còn truyền thống hơn, nên chính xác hơn Chăm nữa. Dù sao, quy định của Nhà nước vẫn phải được tuân thủ. Tuân thủ, nhưng nếu có ai dùng từ “Chàm” trong bài viết, nhất là khi có người viết đúng các tên gọi cũ như Trung tâm văn hóa Chàm, Ma Lâm Chàm chẳng hạn, ta phải chấp nhận mà không biên tập. Bởi sự thể không có gì sai hay miệt thị người Cham cả.
Sài Gòn, 26-7-2010

Inrasara