SỰ PHÁT TRIỂN HỌ NGUYỄN HỮU.
Làng Hội Kê hay Cối Kê thành lập chưa được bao lâu thì những biến cố đau thương dồn dập xảy đến. Cuối đời Minh Mạng (1838-1842) và đầu đời Tự Đức (1848), lệnh cấm đạo được triệt để thi hành. Cũng vào thời kỳ đó, ông Trịnh Quang Khanh tức Cụ Thượng Khanh, Tổng đốc Nam Định, nguyên quán tại phủ Tiên Hưng, được cử làm Khâm sai thi hành lệnh cấm đạo, đã hạ lệnh bắt cụ Vinh và mười người nữa ở Thượng Hộ.
Sau khi bị bắt và dẫn giải về làng Thái Đường ở Hưng Yên, các cụ bị bắt buộc phải “quá khóa” tức là bước qua Thập Tự Giá (Thánh Giá), ai không tuân đều bị cực hình và xử trảm, tức là chém đầu. Cụ Nguyễn Hữu Vinh và mười cụ ở Thượng Hộ đều bị xử Tử Đạo. Như vậy, cụ Vinh bị bắt vào cuối đời Minh Mạng hoặc đầu đời Tự Đức.
Lúc cụ Vinh bị bắt, con cụ là Nguyễn Hữu Đoài và bốn người em gái của cụ Đoài lúc đó còn ít tuổi. Ba cô em sau này là các bà Nguyễn văn Kiên (bà đội Kiên, Gia Lạc), bà Nguyễn đình Huyến (bà lý Huyến, Hội Kê) và bà Lê khắc Đôn (bà trùm Đôn, Gia Lạc). Cô em gái thứ tư là bà Quy chưa xuất giá. Riêng cụ Đoài mới vào khoảng 16 tuổi nên chỉ nhớ được thân phụ mình bị bắt vào ngày Đông Chí (không nhớ năm) và bị xử Tử Đạo. Con cháu sau này chỉ còn biết lấy ngày Đông Chí làm ngày Giỗ Tổ.
Thuở hàn vi, cụ Nguyễn Hữu Đoài còn ít tuổi nên bị một số người làng có thế lực lúc đó chèn ép, bắt nạt đến nỗi cụ phải bỏ làng Hội Kê sang bên kia sông tá túc tại làng PHÚ CỐC, ở nhà ông Bá Giản. Sau đó một thời gian, nhờ sự giúp đỡ của vị quan Dinh điền, cụ Đoài được trở về làng Hội Kê. Lúc đến ngụ tại làng Phú Cốc, cụ Đoài mới chỉ là một thanh niên nông thôn thuần túy, chưa được học hành gì mấy, nhưng khi trở về làng cũ, Cụ đã là một người thành đạt, có học vấn đàng hoàng, được nhiều người khen ngợi và kính nể. Dân làng đã suy cử Cụ làm lý trưởng và sau đó được thưởng hàm Cửu Phẩm Bá Hộ, và cũng từ đó Cụ có danh xưng là Cụ Bá Đoài. Cụ Đoài vốn tính tình hào phóng, cư xử lịch thiệp. Khi phải tha hương để đi tìm cuộc sống mới, Cụ đã dựng quyết tâm là phải làm một việc gì để ngày trở về làng cũ phải là ngày “y cẩm hồi hương”. Có lẽ Cụ đã có cái tâm trạng của THỪA CUNG[1] hay CHÂU TRÍ[2] ngày trước mà đạt được ý nguyện ngày nay ? …
Chuyện kể lại rằng, một lần cụ cùng với ông em vợ là cụ THƠ CỪU – người Gia Lạc, thân phụ của các ông Hinh, ông Hịch và ông Cử bây giờ - đi buôn tre ở Hưng Nhân. Hưng Nhân lúc đó vẫn còn thuộc tỉnh Hưng Yên, chưa thuộc về Thái Bình. Hai cụ biết được hôm đó hai viên quan đầu tỉnh là Công sứ Hưng Yên người Pháp và Tuần phủ Hưng Yên sẽ đi thanh tra việc giữ đê, trông coi đê của địa phương. Hai cụ trông thấy trên đê có mấy chỗ rò rỉ, còn gọi là lỗ “công cống”. Thế là hai cụ lội xuống sông, lấy rơm có sẵn ở trên đê, lặn xuống nhét bịt mấy lỗ công cống đó. Thế là quãng đê này không bị rò rỉ nữa, tránh được việc vỡ đê. Hai viên quan này tình cờ thấy cụ Đoài rất vất vả và nhiệt tình làm việc này, nên cho gọi cụ Đoài lên hỏi. Cụ Đoài cứ thực tường khai là cụ có sức khỏe và quen lao động nên chỉ mình cụ làm được việc này, còn cụ kia là em vợ, nhưng vì là thư sinh nên không làm được. Hai viên quan này hứa với cụ Đoài là sẽ trọng thưởng. Rồi một tháng sau, tự nhiên cụ Đoài và làng Hội Kê nhận được một sắc phong của triều đình từ Huế gửi về, phong đích danh cụ Đoài là Cửu Phẩm Bá Hộ làng Hội Kê. Từ đó, cụ càng phấn khởi, nỗ lực làm việc để phục hưng gia đình và cải tạo cuộc sống.
Cụ Bá Nguyễn Hữu Đoài lập gia đình rất muộn, mãi tới khi ngoài 40 tuổi cụ mới kết duyên với bà Nguyễn thị Đơn, nguyên quán tại Gia Lạc, trưởng nữ của cụ Trùm Thường (thân phụ của ông ĐỘI KIÊN). Gia Lạc trước kia cũng là một xóm của làng Thượng Hộ. Sau này, cụ Quản Hạnh – con cụ Lang Lễ - tổ phụ họ Bùi xin tách ra và lập thành làng, sau đó thành xứ Gia Lạc theo Gia Tô giáo. Xứ Gia Lạc trước đó chỉ là một họ lẻ, thuộc giáo xứ Duyên Lãng, tức là Xứ Riền, nhà thờ Riền mà sau này dân Gia Lạc và Hội Kê đã tản cư về đây hồi chiến tranh chống Pháp xâm lăng. Thời trước chiến tranh Việt-Pháp ít lâu chưa có địa phận Thái Bình. Mãi sau này, khi giáo dân Thái Bình có đủ số để thành lập một địa phận riêng, thì Thái Bình vẫn còn là vùng thuộc giáo phận Bùi Chu, vì Bùi Chu là trung tâm Công giáo từ ngày đạo Công giáo du nhập Việt Nam. Sau khi Thái Bình được tách ra thành địa phận riêng, tức địa phận Thái Bình, thì giáo xứ cũng thêm ra nhiều. Đã có lúc cụ Quản Hạnh xứ Gia Lạc phải trông coi, quản lý cả mấy giáo xứ một lúc nên mới gọi là cụ Quản là vì thế. Chữ Quản ở đây có nghĩa là quản phủ mà bây giờ gọi là Đốc Phủ xứ như ông Đốc Phủ xứ NGUYỄN HỮU BIỀN của xứ Gia Lạc, không dính dáng gì đến Quản hay Cai, Đội của nhà binh. Có một điều ta cần phân biệt là về phương diện hành chính quốc gia, thì Thượng Hộ là làng lớn nhất và xưa nhất của vùng này, được đứng đầu trong tổng, nên mới có danh từ tổng Thượng Hộ. Nhưng về phương diện tôn giáo thì Thượng Hộ lại chỉ là một họ lẻ của Xứ đạo Gia Lạc mà thôi, cũng như họ Hội Kê, họ Phú Hậu.
[1] THỪA CUNG là tên của một nhân vật trong «Quốc văn giáokhoa thư của Trần Trọng Kim và Nguyễn văn Ngọc” do Nha Học chính Đông Pháp xuất bản, được dùng trong các trường Tiểu học cà nước thời VN còn thuộc Pháp. Đó là truyện NGƯƠI THỪA CUNG ĐI CHĂN LỢN. Thừa Cung là một thanh niên nghèo khổ, phải đi chăn lợn cho một phú ông trong làng, nhưng nhờ có quyết tâm, cho nên đã lợi dụng thời gian nhàn rỗi HỌC KÉ những học trò khác mà cũng trở thành người có học.
[2] CHÂU TRÍ : Cũng trong QUỐC VĂN GIÁO KHOA THƯ nói trên. Lúc nhỏ, CHÂU TRÍ NHÀ NGHÈO NHƯNG RẤT HAM HỌC. Ông không có nhà, phải ở nhờ chái hè của chùa Long Tuyền. Tối tối, ông thường phải đi quét lá đa hay nhặt lá bàng đem về đốt lửa cho sáng để học, Về sau, ông thành người học giỏi và đậu cao, nên đã có thơ khen ngợi như sau :
Một anh trò kiết chùa Long Tuyền
Ai ngờ nay lại đỗ Giải Nguyên
Ở đời chẳng có việc gì khó
Người ta lập chí phải nên kiên.