Sunday 2 June 2013

NHÂN DÂN VIỆT NAM NHẤT ĐỊNH THẮNG LỢI, GIẶC TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC NHẤT ĐỊNH THẤT BẠI (Võ Nguyên Giáp - Tạp Chí Cộng Sản)

Tạp Chí Cộng Sản
số 3/1979 

 
NHÂN DÂN VIỆT NAM NHẤT ĐỊNH THẮNG LỢI,
GIẶC TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC NHẤT ĐỊNH THẤT BẠI
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp

Cuộc kháng chiến cứu nước thần thánh chống giặc Trung Quốc xâm lược, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang diễn ra quyết liệt ở các tỉnh biên giới phía bắc của nước ta.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, bọn cầm quyền phản động Bắc Kinh đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn chống nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ những ngày đầu, quân và dân ta ở các tỉnh biên giới, từ Lai Châu, Hoàng Liên Sơn, đến Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh đã nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, chiến đấu cực kỳ anh dũng bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc, gây cho quân giặc những tổn thất nặng nề.
Hưởng ứng Lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta từ Bắc chí Nam, ức triệu người như một, nhất tề đứng lên, chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Cả nước ta đang hướng về tiền tuyến phía bắc, sôi sục căm thù, tăng cường sẵn sàng chiến đấu, ra sức lao động quên mình, quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Trung Quốc xâm lược.
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã công bố lệnh tổng động viên trong cả nước, để bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa: chủ trương quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân đang được khẩn trương thực hiện để đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của bọn bành trướng và bá quyền Trung Quốc.
I
Cuộc chiến tranh xâm lược do bọn cầm quyền phản động Trung Quốc gây ra đã ngang nhiên xâm phạm độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt-nam, chà đạp lên mọi tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế và những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước độc lập có chủ quyền.
Tập đoàn phản động Băc Kinh đã phát hành một cuộc chiến tranh xâm lược không tuyên bố, mở những cuộc tiến công quy mô lớn vào các tỉnh biên giới ở phía Bắc nước ta. Trong lúc đó, chúng rêu rao là đang tiến hành cái gọi là “một cuộc phản công tự vệ”
Chúng đã tuôn ra trên chiến trường một lực lượng quân sự trên nửa triệu quân gồm nhiều quân đoàn và sư đoàn với nhiều đơn vị xe tăng, pháo binh và không quân, ồ ạt đánh sang nước ta trên toàn tuyến biên giới. Chúng đã bị tiêu diệt hàng vạn sinh lực, hàng trăm xe tăng và nhiều phương tiện chiến tranh khác; mặc dù đã bị tổn thất nặng nề, chúng vẫn hung hăng tiếp tục chiến tranh. Trong lúc đó, chúng lại rêu rao là đang tiến hành cái gọi là “những hành động quân sự có tính chất hạn chế về không gian và thời gian” với những lực lượng được gọi là bộ đội biên phòng.
Chúng đốt phá làng bản, cướp bóc của cải, giết người già, trẻ em, hãm hiếp phụ nữ, gây ra những tội ác trời không dung, đất không tha. Chúng đến đâu cũng bị đồng bào, chiến sĩ ta đánh trả mãnh liệt. Thế mà, chúng lại rêu rao về cái gọi là thái độ “hữu nghị” với nhân dân địa phương.
Tại sao bọn giặc Trung Quốc xâm lược lại phải bưng bít giấu giếm, hành động xâm lược bỉ ổi của chúng như vậy ?
Đó là về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam do chúng gây ra là một trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa, tàn bạo nhất trong lịch sử. Cuộc chiến tranh ấy là cuộc chiến tranh bẩn thỉu và hèn hạ chống lại nhân dân một nước xã hội chủ nghĩa, một nước từ lâu đã từng là người bạn chiến đấu của nhân dân cách mạng Trung Quốc. Cuộc chiến tranh ấy đã xâm phạm độc lập và chủ quyền của một nước đã được thế giới coi là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một nước đã từng hy sinh tất cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc mình, vì sự nghiệp cách mạng và hòa bình của nhân dân các dân tộc trên thế giới, trong đó có nhân dân Trung Quốc.
Đó là vì, cuộc chiến tranh xâm lược nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là biểu hiện tập trung bản chất phản bội, độc ác và nham hiểm của bọn cầm quyền phản động Trung Quốc. Cuộc chiến tranh ấy chính là sản phẩm của sự câu kết giữa tập đoàn phản bội Trung Quốc với các giới chống cộng khét tiếng ở Mỹ và các giới quân phiệt phản động ở Nhật.
Trong lịch sử phong trào cộng sản Quốc tế, cũng đã từng có bọn phản động đội lốt xã hội chủ nghĩa Mác để chống lại chủ nghĩa Mác, làm tay sai cho chủ nghĩa đế quốc để phá hoại phong trào cách mạng. Đặc điểm nổi bật của các thế lực phản bội Bắc Kinh là chúng đang lũng đoạn quyền bính trong một nước đất rộng người đông, có sẵn trong tay một tiềm lực kinh tế và quân sự đáng kể. Chúng luôn luôn nói đến chủ nghĩa Mác – Lênin để chống chủ nghĩa Mác – Lênin, đội lốt cách mạng để chống phá cách mạng. Chẳng thế mà chúng không ngới hò hét chiến tranh, tự hào là NATO của phương đông, là “người bạn nghèo” của chủ nghĩa đế quốc Mỹ và chủ nghĩa tư bản phương Tây. Chúng điên cuồng chống liên xô và các nước xã hội chủ ngĩa khác, chống phong trào giải phóng dân tộc, phá hoại hòa bình thế giới với hành động phiêu lưu quân sự xâm lược Việt Nam, chúng đã nghiễm nhiên trở thành một thứ sen đầm quốc tế mới, một tên lính xung kích của chủ nghĩa đế quốc quốc tế.
Chính vì vậy, mà bọn cầm quyền phản động Trung Quốc là bọn phản bội lớn nhất của thời đại. Chúng là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của nhân dân ta, đồng thời là kẻ thù nguy hiểm của cả toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa, của phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình ở châu Á và trên thế giới.
Đối với nước Việt Nam ta, thì chính sách xâm lược tàn bạo của chúng chính là sự kế tục ở một thời kỳ mới của chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc đã từng ngự trị trong lịch sử lâu đời của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Chính sách ấy là sự biểu hiện tập trung của tất cả những gì là phản động nhất, độc ác và nham hiểm nhất trong quốc sách thôn tính nước ta mà bọn hoàng đế Trung Quốc đã từng theo đuổi qua mấy ngàn năm. Trước chí khí quật cường của dân tộc ta, quốc sách ấy đã bị đập nát tan tành.
Cũng cần nói rằng, chúng ta đã sớm phát hiện dã tâm của các thế lực bành trướng ngày nay, từ lúc chúng chưa có điều kiện xuất đầu lộ diện một cách trắng trợn, ngay trong những năm tháng nhân dân ta còn đang kề vai sát cánh với nhân dân cách mạng Trung Quốc, cùng nhau chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc quốc tế. Dã tâm của bọn chúng là luôn luôn tìm mọi cách làm cho nước ta suy yếu, buộc nhân dân ta phải thần phục chúng. Đi vào quỹ đạo của chúng.
Ngay lúc đế quốc Mỹ mới phát động chiến tranh phá hoại bằng không quân đánh phá miền Bắc nước ta, nhân dân Trung Quốc đang ủng hộ và giúp đỡ nhân dân ta chiến đấu, thì giới cầm quyền Trung Quốc đã từng nói cho Mỹ biết: hễ Mỹ không đụng đến Trung Quốc, Trung Quốc không đụng đến Mỹ. Nói một cách khác, Mỹ có thể yên tâm đánh phá Việt Nam.
Đến lúc nhân dân ta giành được thắng lợi vang dội, quân đội viễn chinh Mỹ đang lâm vào thế bị suy sụp thì giới cầm quyền Bắc Kinh đã vội vã đón tiếp Ních-xơn, lợi dụng thắng lợi của ta để gây dựng nên cái gọi là “kỷ nguyên mới” trong quan hệ Trung Mỹ, một điều mà họ đã từng ước mơ từ lâu.
Tiếp đó, với sự thỏa thuận ngầm của Mỹ, họ đã thừa lúc ta còn phải dồn sức vào kháng chiến, ngang nhiên đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của nước ta.
Mùa xuân năm 1975, nhân dân ta phát động cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thì trong giới cầm quyền Băc Kinh lại có những kẻ trách cứ chúng ta không làm theo lời khuyên của họ: nên để công việc thống nhất nước nhà lại cho thế hệ con cháu mai sau.
Họ đã coi thắng lợi vĩ đại của cả nhân dân ta là thất bại thảm hại của đế quốc Mỹ, đồng thời là thất bại nghiêm trọng của chính bản thân họ.
Với thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời; ước mơ lâu đời của nhân dân ta đã biến thành hiện thực. Anh em bè bạn khắp năm châu đều đón mừng sự kiện vĩ đại ấy, coi đó là biểu tượng sức mạnh vô địch của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thế nhưng, đối với bọn bành trướng Trung Quốc thì lại khác. Chúng cho rằng, một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng giàu mạnh, có đường lối cách mạng Mác – Lênin chân chính, độc lập và tự chủ là một trở ngại to lớn đối với cuồng vọng của chúng, là một nguy cơ không cho phép chúng dễ dàng bành trướng xuống các nước Đông Nam Châu Á.
Chính vì vậy, mà ngay từ những ngày đầu nhân dân ta giành được toàn thắng, các thế lực bành trướng Bắc Kinh ngày càng công khai theo đuổi một chính sách thù địch có hệ thống đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chúng không ghê tay sử dụng một bọn đồ tể man rợ là bọn Pôn Pốt – Iêng-xa-ry để tàn sát cho hết những người dân yêu nước Cam-pu-chia. Biến nước này thành nước chư hầu và căn cứ quân sự của chúng, gây ra cuộc chiến tranh biên giới ngày càng đẫm máu ở Tây nam nước ta. Trong lúc đó, chúng xúc tiến mọi mưu đồ nham hiểm, dựng nên cái gọi là “Nạn kiều” mượn cớ cắt hết viện trợ gầy ra tình hình căng thẳng ở biên giới phía bắc, chuẩn bị thế trận thôn tính nước ta từ hai hướng, buộc nước ta phải khuất phục chúng.
Nhân dân ta hết sức bình tĩnh, vững vàng, quyết không rời bỏ con đường cách mạng chân chính của mình. Tiếp tục theo sự vùng lên đấu tranh thắng lợi của nhân dân Cam-pu-chia anh em, trận đồ bát quái của chúng đã bị phá vỡ. Tập đoàn phản bội Trung Quốc bèn điên cuồng phát động chiến tranh xâm lược nước ta hòng thực hiện mưu đồ đen tối của chúng.
Cuộc xâm lược quy mô lớn vào nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã làm cho tập đoàn phản động Trung Quốc lộ rõ nguyên hình. Chúng là bọn phản bội lớn nhất của thời đại, phản cách mạng, phản chủ nghĩa Mác – Lê nin. Chúng là một “bầy quạ đội lốt công”, đã vứt bỏ cái mặt nạ giả danh cách mạng. Cuộc chiến tranh xâm lược nước ta thực chất là một bộ phận của chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của chúng, của chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, đồng thời là một bộ phận của chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc quốc tế.
Chúng là những tên tội phạm chiến tranh độc ác hơn cả Hít-le, gây ra những tội ác tày trời trên đất nước ta, coi thường xương máu của bản thân nhân dân nước chúng. Chúng đantg ra sức kế tục và hoàn thiện hơn nữa cái thứ đạo đức kinh tởm mà một nhà văn vô sản vĩ đại Trung Quốc dã từng mệnh danh là “đạo đức ăn thịt người” của các triều đại phong kiến (1). Chúng đã làm ô nhục truyền thống và thanh danh của nhân dân cách mạng Trung Quốc và của những người cộng sản Trung Quốc chân chính. Chúng muốn biến nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, thành quả cách mạng của nhân dân Trung Quốc thành dinh lũy của một tập đoàn phát xít hiếu chiến, biến quân giải phóng nhân dân Trung Quốc thành một công cụ bành trướng xâm lược.
Các thế lực phong kiến phương Bắc cũng như các nước đế quốc đã mang quân xâm lược nước ta đều đã phạm sai lầm chiến lược, do đó mặc dù hung hăng, tàn bạo đến đâu, cuối cùng đều đi đến thất bại nhục nhã.
Tập đoàn phản động Bắc Kinh hãy coi chừng. Chúng hẵn chưa lường hết những thất bại thảm hại trước mắt và cả lâu dài đang chờ đợi chúng.
Tổ quốc Việt Nam anh hùng từng là mồ chôn của tất cả mọi kẻ thù xâm lược. Bọn bành trướng ngày nay nhất định không thể nào thoát khỏi quy luật của lịch sử. Chúng sẽ cùng chung một số phận, chuốc lấy thất bại hoàn toàn.


II
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc độc lập, có hơn bốn nghìn năm văn hiến, một quốc gia có chủ quyền từ thuở xa xưa. Với một sức sống và chiến đấu mãnh liệt, nhân dân ta đã sớm cùng nhau chung lưng đấu cật, đem hết sức lực và trí tuệ để dựng nước và giữ nước, rèn luyện nên một khí phách kiên cường, một truyền thống bất khuất chống mọi kẻ thù xâm lược.
Qua các thế hệ, chúng ta đã biết bao phen đứng lên chiến đấu và chiến thắng bọn phong kiến xâm lược phương Bắc, giữ gìn độc lập, chủ quyền của Tổ quốc. Hết diệt Tần, chống Hán, phạt Đường, lại đánh Tống, thắng Nguyên, bình Ngô, phá Thanh. Dân tộc ta có thể tự hào rằng, vào thế kỉ XIII, nước đại Việt đã đánh thắng giặc Nguyên là kẻ xâm lăng hung bạo nhất bấy giờ, không những bảo vệ được nền độc lập của mình mà còn góp phần quan trọng ngăn chận giặc Nguyên tràn xuống Đông – Nam châu Á.
Bước vào thời kì lịch sử hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc chiến tranh chống ngoại xâm oanh liệt nhất trong lịch sử của dân tộc. Nhân dân ta có thể tự hào rằng, trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước dân tộc ta đã lần lượt đánh đổ chủ nghĩa phát xít Nhật, dánh thắng chủ nghĩa đế quốc Pháp, đánh thắng chủ nghĩa đế quốc Mỹ là tên đế quốc đầu sỏ có tiềm lực kinh tế và quân sự hết sức to lớn.
Ngày nay, đi theo vết xe cũ của bọn phong kiến Trung Quốc và bọn đế quốc thực dân, tập đoàn phản động Bắc Kinh lại ngang nhiên phát động chiến tranh quy mô lớn nhằm thôn tính nước ta, nô dịch nhân dân ta. Chúng ta đang đứng trước một sứ mệnh lịch sử mới, một nhiệm vụ trọng đại không những có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của dân tộc ta, mà còn có ý nghĩa thời dại sâu sắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn dân ta cả nước một lòng đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh cứu nước nhằm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước ta. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta còn mang tính chất một cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm đánh bại kẻ thù nguy hiểm của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc đụng đầu lịch sử mới giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa văn minh với bạo tàn, giữa cách mạng với phản cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam ta nhất định thắng lợi, giặc Trung Quốc xâm lược nhất định sẽ thất bại.
Chúng ta nhất định thắng, bởi vì chúng ta chiến đấu cho hòa bình, cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chúng ta có đường lối Mác – Lê nin đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta. Chúng ta có sức mạnh của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, của nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta nhất định thắng, bởi vì chúng ta có sức mạnh tổng hợp vô địch của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc và của nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, có lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng, có khoa học giữ nước ưu việt và nghệ thuật quân sự sáng tạo.
Chúng ta nhất định thắng, bởi vì chúng ta có sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu lực của Liên xô, của các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, của nhân dân các nước yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, kể cả nhân dân cách mạng Trung Quốc. Chúng ta có sức mạnh to lớn của dân tộc kết hợp với sức mạnh của ba dòng thác sức mạnh của thời đại.
Không kể tập đoàn phản động Bắc Kinh gây ra chiến tranh xâm lược với quy mô nào, sử dụng lực lượng và phương tiện vũ khí như thế nào, không kể mưu mô và thủ đoạn của chúng tàn bạo và nham hiểm như thế nào, nhân dân ta quyết dứng lên giết giặc cứu nước, quyết đưa cuộc kháng chiến thần thánh chống giặc Trung Quốc xâm lược đến thắng lợi hoàn toàn, làm tròn nghĩa vụ dân tộc vẻ vang và nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình trong giai đoạn mới của cách mạng.
Phải chăng giặc Trung Quốc xâm lược cho rằng, nước chúng lớn, dân chúng đông, quân chúng nhiều thi nhân dân Việt Nam phải sợ chúng, phải khuất phục chúng ?
Tập đoàn phản động Bắc Kinh phải biết rằng: Dân tộc Việt Nam không hề biết sợ. Ngay từ thuở xa xưa, khi số dân nước ta mới trên dưới một triệu người, dân tộc ta đã từng đứng lên chiến đấu thắng lợi, lật đổ ách thống trị của bọn phong kiến phương Bắc. Với số quân ít hơn địch, chúng ta đã từng chiến thắng oanh liệt những đội quân đông hơn mình gấp nhiều lần, từ những đội quân xâm lược của các triều đại phong kiến Trung Quốc cho đến những đội quân xâm lược của các nước đế quốc.
Bọn xâm lược Trung Quốc phải biết rằng: đất nước chúng rộng, người chúng nhiều, nhưng sức chúng nào có mạnh; quân chúng đông mà lại yếu. Đó là vì sức mạnh kháng chiến của cả một dân tộc, cả nước đứng lên chiến đấu, dũng cảm và thông minh, quyết đánh và biết đánh, bao giờ cũng là một sức mạnh vô địch. Đó là vì cuộc chiến chúng gây ra là phi nghĩa, lòng dân ly tán, nội bộ lục đục, làm sao có đủ sức để cướp nước ta. Đó là vì nước Việt Nam ta có chủ; non sông Việt Nam là của người Việt Nam; bất cứ kẻ thù nào đến xâm phạm, nhất định nhân dân Việt Nam ta dánh bại.
Phải chăng tập đoàn phản động Bắc Kinh cho rằng, với đường biên giới chung dài trên một nghìn ki lô mét - một đường biên giới mà nhân dân hai nước bao giờ cũng mong muốn xây dựng thành đừơng biên giới hữu nghị – chúng có thể lợi dụng địa thế nước ta ở gần nước chúng mà mang quân ồ ạt đánh chiếm nước ta, buộc chúng ta phải khuất phục chúng chăng ?
Bọn chúng hẵn còn nhớ: 600 năm trước đây, giặc Nguyên đã từng cho rằng, nước Nam ở gần như trong lòng bàn tay, còn Gia-va thì xa hơn như ở đầu ngón tay, vì vậy cần phải xâm lược nước Nam trước để mở đường tràn xuống các nước khác sau. Và chúng đã ba lần phát động chiến tranh xâm lược nước Nam, đã ba lần bị đánh bại hoàn toàn. Xưa nay, nước ta vẫn ở gần Trung Quốc, những điều kiện địa lý ấy nào có cứu vãn được cho các đạo quân xâm lược đông đảo từ đời Tần, đời Tống, cho đến đời Nguyên, Minh, Thanh tránh khỏi số phận bị nhân dân ta đánh bại. Chúng ta càng thấy rõ, nhân tố quyết định thắng bại trong chiến tranh đâu phải là đường đất xa gần; bọn xâm lược bao giờ cũng là kẻ thù địch, xa lạ đối với nhân dân ta, đất nước ta. Vì vậy, chúng làm thế nào lường được hết sức mạnh to lớn của dân tộc ta trong thời đại mới khi vùng lên chiến đấu vì đại nghĩa. Chúng làm thế nào hiểu được núi sông, cây cỏ, bầu trời và vùng biển của Việt Nam, làm thế nào hiểu được cái thế thiên hiểm của địa hình Việt Nam, “bất cứ nơi nào trên đất nước ta cũng là những Chi Lăng, Đống Đa, sông biển ta đều là những Bạch Đằng, Hàm Tử”.
Phải chăng tập đoàn phản động Bắc Kinh đang muốn diễn lại thế trận xâm lược Việt Nam của các thế lực bành trướng phương Bắc dưới thời phong kiến ?
Chúng ta đều biết rằng mỗi khi muốn đánh nước ta thì bọn phong kiến phương Bắc thường đánh chiếm Lâm ấp, Chiêm Thành để tạo nên thế trận bao vây từ hai hướng. Ngày nay, để chuẩn bị xâm lược Việt Nam, tập đoàn phản động Bắc Kinh lại ra sức biến Cam-pu-chia thành căn cứ quân sự vững chắc của chúng, và để phối hợp với quân của chúng từ phía Bắc đánh xuống, vừa để chuẩn bị cho cuộc chinh phục Đông Nam châu Á sau này. Thế nhưng, nhân dân Cam-pu-chia đã vùng lên làm chủ vận mệnh của mình, khôi phục tình hữu nghị lâu đời với nhân dân Việt Nam anh em, giáng cho bọn bành trướng một đòn chí mạng, thế trận nham hiểm của chúng đã bị phá vỡ.
Phải chăng tập đoàn phản động Bắc Kinh cho rằng, chúng là tập đoàn cầm quyền ở một nước lớn đang đội lốt Mác – Lê nin, lại câu kết chặt chẽ với chủ nghĩa đế quốc quốc tế và mọi loại phản động nhất trên thế giới, thì chúng đã có vây cánh hơn trước, cho nên đã đủ sức để phát động chiến tranh xâm lược quy mô lớn thôn tính nước ta, buộc nhân dân ta phải khuất phục ?
Ngang nhiên xâm lược nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng đã lộ rõ bộ mặt phản cách mạng trước dư luận tiến bộ toàn thế giới. Không những nhân dân ta đang quyết tâm chống lại chúng, đánh bại chúng, mà nhân dân Liên-xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, nhân dân tiến bộ cả thế giới đều đứng lên chống lại chúng; những người cộng sản chân chính và phong trào cộng sản và công nhân khắp trái đất đang kiên quyết chống lại chúng. Ngay nhân dân cách mạng Trung Quốc và những người cộng sản Trung Quốc chân chính cũng đang đứng lên và sẽ đứng lên ngày càng đông đảo chống lại chúng. Chúng không nghe thấy tiếng thét phẩn nộ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới nguyền rủa chúng, lên án chúng đó sao ?
Hơn thế nữa, những kẻ đồng minh của chúng là chủ nghĩa đế quốc quốc tế và mọi loại phản động hiện đang trên con đường suy yếu, nội bộ đầy mâu thuẫn, làm sao có thể hà hơi tiếp sức để cứu vớt chúng khỏi cảnh cô lập. Còn ba dòng thác cách mạng của thời đại thì đang ở trên thế tiến công mạnh mẽ. Hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày nay mạnh hơn bao giờ hết, không ngừng phát huy tác dụng là nhân tố chủ yếu quyết định sự phát triển của xã hội loài người trong thời đại mới, bất chấp sự phản bội của các thế lực bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn câu kết với chủ nghĩa đế quốc, bất chấp sự giãy giụa điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc liên minh với các thế lực bành trướng và bá quyền nước lớn.
Chúng phải biết rằng, chỉ có chủ nghĩa Mác- Lê-nin chân chính, chỉ có lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội, chỉ có nhân dân cách mạng và những người cộng sản chân chính mới có sức mạnh vô địch, sức mạnh đó nhất định sẽ đánh bại tất cả mọi thế lực phản động, kể cả bọn phản động Trung Quốc xâm lược.
III
Tổ quốc ta một lần nữa dang đứng trước nguy cơ còn mất.
Toàn quân và toàn dân ta hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, với niềm tin vô hạn, với tinh thần quyết chiến quyết thắng cao nhất, đang anh dũng lên đường ra trận, giáng cho quân xâm lược Trung Quốc những đòn chí mạng.
Tiếp theo cuộc chiến tranh giải phóng chống đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ, cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống giặc Trung Quốc xâm lược là một cuộc chiến tranh toàn dân phát triển đến những đỉnh cao mới. Trong lịch sử chống ngoại xâm, chúng ta đã từng lấy nhân nghĩa thắng bạo tàn, lấy chính nghĩa thắng phi nghĩa, lấy những giá trị cao quý nhất của con người mà thắng sức mạnh của sắt thép.
Ngày nay, vì độc lập, chủ quyền của đất nước, vì sự sống còn của dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì sự trong sáng của chủ nghĩ Mác – Lê-nin, chúng ta nhất định đánh thắng hoàn toàn chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn, đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của bọn cầm quyền phản động Trung Quốc.
Bí quyết bách chiến bách thắng của dân tộc ta là cả nước chung sức lại, toàn dân đoàn kết chiến đấu, phát động và tổ chức chiến tranh toàn dân, phát huy đến trình độ cao sức mạnh của cả nước đánh giặc, thề không đội trời chung với kẻ thù xâm lược. Từ miền biên cương đến các hải đảo, từ thành thị đến nông thôn, toàn thể đồng bào các dân tộc trong cả nước, các tôn giáo, các đảng phái, bất kể già, trẻ, gái, trai, hễ là người dân Việt Nam thì đều kiên quyết đứng lên giết giặc, cứu nước; năm mươi triệu đồng bào từ Bắc chí Nam kết thành đội ngũ chiến đấu là 50 triệu dũng sĩ giết giặc Trung Quốc xâm lược.
Hơn lúc nào hết, sự nghiệp giữ nước vĩ đại đòi hỏi ở mỗi người chúng ta những hy sinh lớn lao. Trên con đường đi đến thắng lợi, khó khăn gian khổ còn nhiều. Tuy nhiên, sức mạnh giữ nước của dân tộc ta ngày nay lớn mạnh hơn bao giờ hết, chúng ta có những điều kiện cơ bản hơn bao giờ hết.
Đã qua rồi những ngày mà nhân dân ta chưa có một tấc đất tự do, chưa có một tấc sắt trong tay, trong khi nhiệm vụ đề ra là phải chớp lấy thời cơ đưa Tổng khởi nghĩa tháng Tám đến thắng lợi. Cũng đã qua rồi những năm tháng của hai cuộc kháng chiến thần thánh, lúc đầu còn phải chiến đấu với gậy tầm vông và súng kíp, về sau cũng chỉ mới có nửa nước được giải phóng làm hậu phương.
Bước vào kỷ nguyên mới, đất nước ta đã thay đổi và khác xưa. Cả nước Việt Nam đã hoàn toàn độc lập và thống nhất, đang vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở chế độ xã hội mới, với sự nhất trí chính trị và tinh thần, với lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa và tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa ngày càng cao, chúng ta đã xây dựng được nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, một lực lượng vũ trang hùng mạnh hơn bao giờ hết.
Cả nước một lòng, phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, nhân dân ta quyết nâng cao hơn nữa những kinh nghiệm đánh giặc, cứu nước, phát triển hơn nữa khoa học và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, chiến tranh nhân dân ở các địa phương trên mọi miền đất nước đã có một bước phát triển mới, một sức mạnh chiến đấu mới hết sức to lớn. Mỗi một người dân là một chiến sĩ. Mỗi bản làng, xí nghệp, nông trường, hợp tác xã, thị xã, quận huyện, là một pháo đài kiên cường chống giặc. Mỗi tỉnh, thành là một đơn vị chiến lược có đủ sức mạnh tiêu diệt hàng vạn quân địch. Cả nước ta là một chiến trường rộng lớn. Thực tế đó đã được chứng minh ngay từ những ngày đầu kháng chiến khi giặc Trung Quốc xâm lược đặt chân lên mảnh đất biên cương của Tổ quốc ta. Trong cuộc đọ sức với dân quân tự vệ và bộ đội địa phương của ta, quân đội chính quy của chúng đã bị giáng trả những đòn trừng phạt nặng nề. Mỗi một ngọn đồi ở biên cương là một Chi Lăng chồng chất xác thù. Mỗi một con suối, dòng sông là một Bạch Đằng nhuộm đỏ máu giặc. Ý nghĩa quan trọng của những thắng lợi đầu tiên của quân và dân ta là ở chỗ đó.
Ngày nay, quân đội ta đã có những binh đoàn chủ lực hùng mạnh, có sức đột kích lớn, khả năng cơ động cao, sức chiến đấu mạnh, đã từng tiêu diệt hàng chục vạn quân địch trong một trận tiến công, dù kẻ địch đông như thế nào, hung hãn và được trang bị như thế nào. Trước họa xâm lăng, phối hợp chặt chẽ với cuộc chiến đấu tại chỗ của nhân dân, cả ba thứ quân đều đánh giỏi. Lục quân, hải quân, không quân đều đánh giỏi. Bộ đội thường trực phải thật tinh. Lực lượng hậu bị phải thật mạnh. Vừa chiến đấu vừa rèn luyện, nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, nâng cao kỷ luật trong toàn quân, làm chủ mọi thứ binh khí kỹ thuật hiện đại, nâng cao trình độ hiệp đồng tác chiến, tạo nên chất lượng chiến đấu thật cao, sức mạnh và hiệu lực chiến đấu thật lớn. Các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam quyết làm tròn xuất sắc mọi nhiệm vụ, phát huy tác dụng to lớn trên chiến trường, tiêu diệt quân giặc Trung Quốc xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến thần thánh bảo vệ Tổ quốc hiện nay, với ý chí chiến đấu cao, với những kinh nghiệm sẵn có, với những tổ chức đã được hình thành, với những thế trận đã được bố trí, quân và nhân dân ta nhất định phát huy lên một trình độ mới khả năng chủ động và sáng tạo của mình, đánh bại hoàn toàn quân xâm lược. Nhanh chóng phát hiện và nắm vững quy luật của chiến tranh, bám sát và nắm chắc quân địch, nhanh chóng phát hiện chỗ yếu cơ bản và chỗ mạnh tạm thời của quân địch. Lấy đó làm cơ sở để thực hiện chiến lược làm chủ đất nước để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để giữ vững quyền làm chủ đất nước. Làm chủ chiến trường trong từng trận chiến đấu, trong từng hướng chiến dịch cũng như trong toàn bộ cuộc chiến tranh. Luôn luôn chủ động, luôn luôn quán triệt tư tưởng tiến công, Kiên quyết và linh hoạt, giỏi đánh địch bằng mọi hình thức, tiến công dũng mãnh, phản công kiên quyết, phòng ngự ngoan cường. Bất luận trong tình hình so sánh lực lượng như thế nào, điều kiện và phương tiên vũ khí như thế nào đều phải tạo nên sức mạnh tổng hợp áp đảo, đánh địch trên thế mạnh, giành chủ động về ta, dồn địch vào thế bị động. Đó chính là biểu hiện cao nhất của tư tưởng cách mạng tiến công, là biểu hiện tập trung của tinh thần làm chủ tập thể ở trên chiến trường.
Cuồng vọng của bọn bành trướng Trung Quốc và vô hạn độ. Mưu đồ độc ác và nham hiểm của chúng là trường kỳ tiêu hao lợc lượng của ta, trường kỳ phá hoại công cuộc hòa bình xây dựng đất nước ta. Mục đích sâu xa mà chúng theo đuổi là dùng trăm phương nghìn kế làm sao cho nước Việt Nam ta không thể trở nên một nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh để chúng dễ dàng khuất phục, dễ dàng thôn tính.
Chính vì vây, mà trong lúc tập trung sức lực ra chiến trường để tiêu diệt chúng, quét sạch chúng ra khỏi bờ cõi, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, thì nhân dân ta phải ra sức phấn đấu, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nhỡng nhiệm vụ cấp bách mà Trung ương Đảng để ra, thực hiện kỳ được phương sách giữ nước và dựng nước về lâu dài.
Trên mặt trận, đồng bào và chiến sĩ ta phải chiến đấu kiên cường cũng cảm, đánh bại quân xâm lược. Ở hậu phương, khắp cả nước, đồng bào và chiến sĩ ta phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, chi viện cho tiền tuyến và ra sức xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, ổn định đời sống của nhân dân. Lao động quên mình với năng suất cao, luyện tập quân sự để sẵn dàng ra trận. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cả nước phải có sự cố gắng vượt bậc về mọi mặt, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, thực hiện càng đánh càng thắng, càng đánh càng mạnh.
Để bảo vệ độ lập, chủ quyền của tổ quốc, chỉ có một con đường là tiêu diệt hoàn toàn giặc Trung Quốc xâm lược. Để làm cho nước ta ngày càng giàu mạnh lên, chỉ có một con đường là vừa giành thắng lợi trên mặt trận, vừa giành thắng lợi trong lao động sản xuất, chăm lo đời sống cho chiến sĩ và đồng bào ta trong cả nước. Đó là nhiệm vụ cao nhất mà Đảng và Tổ quốc đề ra cho các chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân, cho giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghía, cho mỗi một người công dân yêu nước trong lúc này. Hơn lúc nào hết, với tính sáng tạo phi thường, toàn dân và toàn quân ta nhất định sẽ lập nên những chiến công vang dội trên tiền tuyến, đồng thhời lập nên những chiến công to lớn trong công cuộc xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước.
Trước tình hình mới, chúng ta cần ra sức biến tiềm lực mọi mặt của đất nước thành sức mạnh quân sự trên chiến trường, chuyển sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân thành sức mạnh lớn nhất của chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc, muốn vậy cần căn cứ vào kế hoạch đã được chuẩn bị và tình hình diễn biến thực tế của chiến tranh mà nhanh chóng động viên sức người, sức của phục vụ tốt nhất cho chiến tranh và quốc phòng, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm đời sống của nhân dân.
Đây là một công tác tổ chức thực tiễn cực kỳ quan trọng, có liên quan đến mọi mặt đời sống của xã hội. Chúng ta phải làm thật tốt công tác tổ chức thực tiễn ấy, vừa tập trung lực lượng để đánh thắng quân xâm lược, vừa tăng cường quản lý kinh tế – xã hội, nâng cao kỷ luật lao động và hiệu quả kinh tế trong tất cả các ngành, các địa phương. Có làm được như vậy, chúng ta mới phát huy được tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, động viên được mạnh mẽ và kịp thời sức người, sức của cho tiền tuyến, thực hiện “Tất cả để đánh thắng giặc Trung Quốc xâm lược”, đồng thời bảo vệ tính mệnh, tài sản của nhân dân, xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh.
Trong những thế kỷ trước đây, trước họa xâm lăng, chúng ta chứ hề có những bạn đồng minh lớn mạnh như bây giờ. Tuy vậy, dân tộc ta đã nêu cao tinh thần chiến đâu bất khuất, tự lực tự cường và tài thao lược kiệt xuất, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực bành trướng thống trị ở Trung Quốc lúc bấy giờ.
Ngày nay, trong thời đại mới, sự nghiệp chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam ta có một ý nghĩ quốc tế to lớn. Đứng lên chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dân tộc Việt Nam đã được coi như lương tri và trái tim của cả loài người. Dựa vào sức mình là chính, chúng ta có cả loài người tiến bộ cổ vũ và ủng hộ mạnh mẽ. Chúng ta só sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn và có hiệu lực của Liên-xô -nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên trái đất- và của các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác. Chúng ta có tình đoàn kết chiến đấu keo sơn của nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-chia anh em” “Hết lòng ủng hộ Việt Nam”, “không được đụng đến Việt Nam”, đó là ý chí và hành động của mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Trung Quốc xâm lược. Trong lịch sử của dân tộc, chưa bao giờ bằng lúc này, kể cả trong những năm kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Việt Nam ta lại được sự đồng tình, ủng hộ quốc tế mạnh mẽ, rộng rãi, kịp thời và kiên quyết như ngày nay.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
Cả nước lên đường ra trận.
Giương cao ngọn cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh đứng đầu là đồng chí Lê Duẫn kính mến, với quyết tâm cao, với niềm tin lớn, quân và dân ta kiên quyết tiến lên, đánh thắng cuộc chiến tranh phi nghĩa của giặc Trung Quốc xâm lược, đưa sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam đến toàn thắng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Bọn phản động Trung Quốc xâm lược nhất định sẽ thất bại !
Nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi !
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa muôn năm !

Chú thích
(1)- Lỗ Tấn: “Mở lịch sử ra tra cứu … Chỉ thấy trên mỗi tờ giấy viết xiêu xiêu những chữ nhân, nghĩa, đạo đức … mà nhìn thấu đến giữa những dòng chữ thì ra cả cuốn đều chép rặt có ba chữ: “Ăn thịt người” … “.



Đăng lại trên
“Đại Tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp”
Vị Tướng Của Hòa Bình

PGS-TSKH Bùi Loan Thùy chủ biên
NXB Văn Hóa Sài Gòn 5/2009
trang 1266-1277

DIỄN VĂN KHAI MẠC KỲ HỌP THỨ 5, QUỐC HỘI KHÓA VI CỦA CHỦ TỊCH ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI TRƯỜNG CHINH, NGÀY 28-5-1979



DIỄN VĂN KHAI MẠC KỲ HỌP THỨ 5,
QUỐC HỘI KHÓA VI CỦA CHỦ TỊCH ỦY BAN THƯỜNG VỤ
QUỐC HỘI TRƯỜNG CHINH, NGÀY 28-5-1979

Thưa Chủ tịch Tôn Đức Thắng kính mến,
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội thân mến,
Thay mặt ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí đại biểu Quốc hội về dự đông đủ kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa VI, nhiệt liệt chào mừng các đồng chí và các bạn trong Đoàn ngoại giao đã đến dự buổi họp của Quốc hội Việt Nam hôm nay.
Quốc hội họp kỳ này để nghe Chính phủ báo cáo về hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thắng lợi của quân và dân ta chống tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xary ở biên giới Tây Nam và chống bọn phản động ... xâm lược ở biên giới phía Bắc và nhiệm vụ trước mắt của toàn quân, toàn dân ta trong tình hình mới.
Chỉ trong thời gian năm tháng, kể từ kỳ họp thứ 4 của Quốc hội khóa VI đến nay, nhiều sự kiện trọng đại đã diễn ra ở ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia, làm biến đổi sâu sắc cục diện chính trị ở Đông Nam châu á và làm cho lực lượng đối sánh trong khu vực thay đổi có lợi cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Chúng ta vô cùng phấn khởi chào mừng thắng lợi huy hoàng của nhân dân Campuchia anh em, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, với sự giúp đỡ và ủng hộ của nhân dân Việt Nam, đã giải phóng Campuchia khỏi chế độ diệt chủng của bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xary, công cụ của chính sách ... bá quyền nước lớn ... Thắng lợi của nhân dân Campuchia đã góp phần xóa bỏ một bước những nguy cơ đối với độc lập, tự do, hòa bình và ổn định của các nước trong khu vực này. Thắng lợi của nhân dân Campuchia đã khôi phục tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân Việt Nam, nhân dân Campuchia và nhân dân Lào anh em, một nhân tố quyết định thắng lợi của nhân dân ba nước Đông Dương.
Chúng ta vô cùng phấn khởi chào mừng thắng lợi to lớn của nhân dân Lào anh em, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, đã làm thất bại một bước quan trọng âm mưu bạo loạn và lật đổ do tập đoàn phản động … xúi giục chống nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Chúng ta hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh kiên cường của nhân dân Lào, không chịu khuất phục trước những đe dọa xâm lược ...
Chúng ta nhiệt liệt biểu dương những chiến công oanh liệt của nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã chiến đấu anh dũng và chiến thắng vẻ vang, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược ... tiến hành bằng lực lượng của Pôn Pốt - Iêng Xary ở biên giới Tây Nam và đập tan cuộc chiến tranh xâm lược trực tiếp đầy tội ác ... chống lại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở biên giới phía Bắc.
Tôi trân trọng đề nghị Quốc hội dành một phút im lặng để tưởng nhớ những chiến sĩ và đồng bào đã anh dũng hy sinh trong các cuộc chiến đấu vừa qua.
Những thắng lợi to lớn đạt được trong thời gian qua đã làm cho thế của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia mạnh hơn bao giờ hết và tình đoàn kết giữa ba dân tộc vững chắc hơn bao giờ hết.
Nhân dịp này chúng ta chân thành cảm ơn Liên Xô đã và đang làm nghĩa vụ của mình theo Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt - Xô; chân thành cảm ơn các nước xã hội chủ nghĩa anh em và bầu bạn trên khắp thế giới đã và đang nhiệt liệt ủng hộ cuộc đấu tranh sáng ngời chính nghĩa của nhân dân ta.
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Sau hơn 30 năm liên tiếp bị chiến tranh xâm lược của đế quốc tàn phá, sau thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân ta muốn được sống yên ổn trong hòa bình để xây dựng lại nước nhà.
Nhưng bọn phản động … không bao giờ muốn thấy nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, độc lập, thống nhất và giàu mạnh. Suốt 30 năm qua, chúng luôn luôn chủ trương duy trì nước Việt Nam trong tình trạng chia cắt, suy yếu và phụ thuộc …, vì có như vậy chúng mới thực hiện được mưu đồ dùng Việt Nam làm công cụ cho chủ nghĩa ... bá quyền nước lớn của chúng ở Đông Dương và Đông Nam châu á. Chính vì lẽ đó, sau khi các âm mưu và thủ đoạn phỉnh phờ, gây sức ép nhằm lôi kéo nước ta đi theo quỹ đạo của chúng bị thất bại, tập đoàn phản động ... ngày càng công khai thi hành một chính sách thù địch có hệ thống chống nước ta. Một mặt, chúng dùng bọn Pôn Pốt - Iêng Xary gây chiến tranh ở biên giới Tây Nam nước ta; mặt khác, chúng liên tục khiêu khích và tập trung quân ở biên giới phía Bắc nước ta nhằm phối hợp việc gây sức ép quân sự từ bên ngoài với việc gây rối trong nước ta. Và từ ngày 17 tháng 2 năm 1979, chúng đưa ... quân ồ ạt xâm lược nước ta. Đó là sự phát triển cao độ của âm mưu lâu dài của bọn phản động ... hòng làm suy yếu và thôn tính nước Việt Nam mà chúng coi là một trở lực lớn đối với chính sách ... bá quyền ... và một vị trí chiến lược quan trọng ở Đông Nam châu á.
Bằng cách áp đặt lên nhân dân ta một cuộc chiến tranh tàn khốc mới sau khi dân tộc ta kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ chưa được bao lâu, trong hoàn cảnh nước ta chưa hàn gắn xong những vết thương của hơn 30 năm chiến tranh và đang khắc phục hậu quả của nhiều năm bị thiên tai liên tiếp, tập đoàn phản động ... đã phạm một tội ác vô cùng man rợ!
Đi theo con đường của bọn vua chúa ... ngày xưa và của các thế lực đế quốc ngày nay, bọn phản động ... tưởng rằng với sức mạnh “lấy thịt đè người” của chúng và sự câu kết với đế quốc Mỹ, chúng có thể đè bẹp ý chí sắt đá của nhân dân ta quyết bảo vệ độc lập, tự do.
Cũng như bọn xâm lược trước đây, bọn xâm lược mới đã tính toán sai và thất bại thảm hại.
Kế tục truyền thống vẻ vang của cha ông, một lần nữa dân tộc Việt Nam, với khí thế hào hùng đã đứng lên triệu người như một đánh đuổi quân xâm lược, quyết bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ lao động hòa bình của nhân dân ta.
Một lần nữa nhân dân thế giới lại đứng về phía Việt Nam trong cuộc đọ sức lịch sử này. Chỉ trong một thời gian ngắn đã dấy lên một phong trào rộng rãi của nhân dân thế giới, bao gồm Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhân dân các nước dân tộc chủ nghĩa, nhân dân các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, các tổ chức quốc tế và cả loài người tiến bộ, ủng hộ mạnh mẽ nhân dân Việt Nam và nghiêm khắc lên án bọn xâm lược ... Trên thế giới lại vang lên tiếng thét: Không được đụng đến Việt Nam!
Cuộc đọ sức quyết liệt vừa qua đã ghi thêm một chiến công mới vào lịch sử chống xâm lược của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Thắng lợi của nhân dân ta đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược ... chứng tỏ sức mạnh “đánh giặc giữ nước” của dân tộc ta là vô địch.
Thắng lợi của nhân dân ta cũng chứng tỏ trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời đại của ba dòng thác cách mạng, không một lực lượng đế quốc và phản động nào, dù hung hãn nhất và hiếu chiến nhất, có thể đảo ngược được xu thế tiến lên của lịch sử.
Thắng lợi của nhân dân ta là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia, thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết giữa Việt Nam, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, thắng lợi của các lực lượng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ở Đông Nam châu á và trên toàn thế giới.
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Nhân dân ta vốn có quan hệ hữu nghị thân thiết lâu đời với nhân dân Trung Quốc. Hai nước Việt Nam và Trung Hoa có núi sông liền một dải. Trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng lâu dài, nhân dân hai nước đã từng kề vai sát cánh, nương tựa lẫn nhau. Máu của nhiều người con của nhân dân Trung Quốc đã đổ trên đất Việt Nam. Nhiều nhà cách mạng Việt Nam đã hy sinh ở Trung Quốc. Ngày nay, khi chủ nghĩa đế quốc đã bị đánh bại, hai nước đã giành được độc lập, tự do, nhân dân hai nước phải được cùng sống bên nhau trong hòa bình, hữu nghị, trong tình đoàn kết lâu dài. Chính vì vậy, cuộc xâm lược do bọn cầm quyền phản động ... tiến hành chống nhân dân Việt Nam đã làm cho nhân dân Trung Quốc xúc động mạnh ...
Về phần chúng ta, mặc dù bọn xâm lược ... đã gây ra muôn vàn tội ác man rợ trên đất nước ta, nhân dân ta vẫn bình tĩnh phân biệt ai là bạn, ai là thù. Chúng ta luôn luôn giữ vững và bảo vệ tình hữu nghị với nhân dân Trung Quốc. Đồng thời, chúng ta luôn luôn muốn giữ quan hệ láng giềng tốt với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Chính xuất phát từ thiện chí đó, Đoàn đại biểu Chính phủ ta tại cuộc đàm phán Việt - Trung đã đưa ra đề nghị ba điểm. Đó là những đề nghị công bằng, thỏa đáng, hợp lý, hợp tình, nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách để bảo đảm hòa bình và ổn định ở vùng biên giới Việt - Trung, tạo cơ sở cho việc giải quyết những vấn đề cơ bản trong quan hệ hai nước, sớm khôi phục tình hữu nghị lâu đời giữa nhân dân hai nước. Mọi người có thiện chí đều ủng hộ đề nghị đó của phía Việt Nam.
Nhưng cho đến nay, qua vòng đầu đàm phán, rõ ràng phía ... đã bộc lộ dã tâm của họ. Khi tiến hành xâm lược Việt Nam họ lấy cớ là vì Việt Nam “khiêu khích” ở biên giới nhưng khi ngồi vào đàm phán, họ lại đưa ra tám điểm yêu sách ngang ngược, thực chất là đòi ta phải từ bỏ đường lối độc lập, tự chủ của mình và họ từ chối bàn những biện pháp cấp bách và thiết thực nhằm loại trừ nguy cơ chiến tranh, khôi phục hòa bình và ổn định ở biên giới ... Họ chỉ muốn tiếp tục đe dọa chiến tranh hòng áp đặt nền hòa bình kiểu ... Họ học đòi cách làm của đế quốc Mỹ trước đây dùng việc ném bom miền Bắc để áp dụng nền hòa bình kiểu Mỹ. Nhưng đế quốc Mỹ đã thất bại, nhất định họ cũng sẽ thất bại.
Với một nghìn năm thống trị Việt Nam và với hàng chục lần xâm lược Việt Nam, bọn phong kiến ... ngày xưa đã không đồng hóa được nhân dân ta. Với gần một trăm năm thống trị và chín năm xâm lược, bọn thực dân Pháp cũng không khuất phục được nhân dân ta. Với tất cả sức mạnh quân sự và uy thế không lực Hoa Kỳ, đế quốc Mỹ, sau mười năm trực tiếp xâm lược, cũng không áp đặt được chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ lên nhân dân ta và cuối cùng đã phải rút khỏi Việt Nam. Đó là những bài học mà bọn ... cần ghi nhớ.
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và thi hành lệnh tổng động viên của Nhà nước, nhân dân ta trong khí thế chiến thắng mùa xuân vừa qua, vừa phát triển sản xuất, hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, tăng cường, củng cố quốc phòng và an ninh; ra sức thi đua thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1979 và làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình. Khó khăn của nhân dân ta còn nhiều, nhưng thuận lợi là căn bản. Chúng ta đã thắng và nhất định sẽ giành được thắng lợi vẻ vang trong việc hoàn thành những nhiệm vụ trước mắt.
Trong không khí phấn khởi và tin tưởng của đồng bào cả nước, tôi xin long trọng tuyên bố khai mạc kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa VI và chúc kỳ họp thành công tốt đẹp.
Toàn văn Văn kiệnLưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.

BÁO CÁO CÔNG TÁC CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI



Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Từ sau kỳ họp thứ 4 của Quốc hội khóa VI (tháng 12-1978) đến nay, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã họp 5 phiên, thông qua 128 nghị quyết về các vấn đề thuộc quyền hạn của ủy ban.
Sau đây, chúng tôi xin báo cáo về các mặt hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, của các ủy ban của Quốc hội và của các đại biểu Quốc hội.
I- Về Quyết Định tổng động viên
Trước tình hình bọn phản động ... điên cuồng mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta, theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, ngày 5 tháng 3 năm 1979, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã quyết định tổng động viên sức người, sức của trong cả nước nhằm đánh thắng quân xâm lược, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
II- Việc phê chuẩn hiệp ước ký với
nước ngoài
Ngày 23-3-1979, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã phê chuẩn Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Campuchia, ký tại Phnôm Pênh, ngày 18-2-1979.
Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận định rằng việc ký hiệp ước nói trên là một sự kiện trọng đại trong đời sống chính trị của nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia, chấm dứt sự thù địch giữa hai nước do bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xary, tay sai của những người cầm quyền phản động ... đã gây ra; khôi phục tình đoàn kết chiến đấu sẵn có giữa nhân dân hai nước; mở đầu một thời kỳ mới, hòa bình, hữu nghị, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt, phù hợp với lợi ích của hai dân tộc, góp phần giữ gìn hòa bình và ổn định ở Đông Nam châu á và trên thế giới.
III- Về tổ chức của Chính phủ
Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, ngày 24-5-1979, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã phê chuẩn việc thành lập Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ;
Cùng ngày trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã phê chuẩn việc thành lập Tổng cục Quản lý ruộng đất, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ.
IV- Về nhân sự của hội đồng chính phủ
Theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã quyết định về nhân sự của Hội đồng Chính phủ như sau:
1. Ngày 23-2-1979, quyết định:
- Đồng chí Võ Chí Công, Phó Thủ tướng Chính phủ, thôi kiêm chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp.
- Đồng chí Nguyễn Ngọc Trìu giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp.
- Đồng chí Huỳnh Tấn Phát, Phó Thủ tướng Chính phủ, kiêm chức Chủ nhiệm ủy ban Xây dựng cơ bản Nhà nước.
- Đồng chí Hoàng Văn Kiểu thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp để giữ chức  Chủ nhiệm ủy ban Dân tộc của Chính phủ.
- Đồng chí Nguyễn Tuấn Tài, tức Trần Kiên, giữ chức Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp.
2. Ngày 23-4-1979, quyết định bổ nhiệm đồng chí Hồ Viết Thắng giữ chức Bộ trưởng Bộ Lương thực và Thực phẩm thay đồng chí Ngô Minh Loan nhận nhiệm vụ khác.
- Ngày 24-5-1979, quyết định bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Cơ Thạch giữ chức vụ Quốc vụ khanh, hàm Bộ trưởng, giúp Thủ tướng Chính phủ trong công tác ngoại giao.
V- Về việc bổ nhiệm
đại sứ đặc mệnh toàn quyền
của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã quyết định bổ nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại các nước như sau:
- Ngày 24-1-1979, bổ nhiệm đồng chí Võ Đông Giang, tức Phan Bá, giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia.
- Ngày 23-2-1979, bổ nhiệm:
Đồng chí Nguyễn Sỹ Hoạt giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại nước Cộng hòa Dân chủ ápganixtan.
Đồng chí Hoàng Hoan Nghinh giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại nước Cộng hòa Hồi giáo Pakixtan.
Đồng chí Lê Quang Hiệp, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại nước Cộng hòa Nhân dân Bungari, nay kiêm chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ.
- Ngày 24-5-1979, bổ nhiệm:
Đồng chí Nguyễn Ngọc Vũ giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại nước Cộng hòa Nhân dân Môdămbích, thay đồng chí Lê Bình về nước nhận công tác khác .
Đồng chí Nguyễn Ngọc Dung giữ chức Đại sứ, Phó trưởng phái đoàn thường trực nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa  Việt Nam tại Liên hợp quốc.
Đồng chí Trần Kỷ Long, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại nước Cộng hòa Irắc, nay kiêm chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Vương quốc Côoét.
VI- Về nhân sự của tòa án nhân dân tối cao
Theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, ngày 23-2-1979, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã bổ nhiệm các đồng chí Phạm Hưng, Nguyễn Thị Ngọc Khanh và Lê Phương Hằng giữ chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
VII- Về nhân sự
của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
Theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, ngày 23-4-1979, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã bổ nhiệm đồng chí Trần Tề giữ chức Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
VIII- Về việc tặng thưởng huân chương
Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã quyết định tặng thưởng huân chương các loại cho những đơn vị, gia đình và cá nhân như sau:
- Huân chương Hồ Chí Minh cho 16 đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân vũ trang đã có thành tích xuất sắc trong chiến đấu, trong xây dựng lực lượng ngày càng lớn mạnh, và cho 11 cán bộ cao cấp thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam đã có thành tích xuất sắc lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang và chỉ huy chiến đấu trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
- Huân chương Quân công và huân chương Chiến công cho 938 đơn vị và 10.218 cán bộ, chiến sĩ thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam, dân quân du kích, Công an nhân dân và Công an nhân dân vũ trang, đã có nhiều thành tích xuất sắc về chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, và bảo vệ biên giới của Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
- Huân chương Kháng chiến cho 263 gia đình đã có nhiều người tham gia các lực lượng vũ trang nhân dân chống Mỹ cứu nước.
- Huân chương Chiến sĩ vẻ vang cho 91.011 cán bộ, chiến sĩ đã có nhiều thành tích phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân vũ trang.
- Huân chương Lao động cho 49 đơn vị và 17 cán bộ, thương binh và gia đình liệt sĩ đã có nhiều thành tích xuất sắc trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước và các nhiệm vụ công tác khác trong năm 1978.
- Huân chương Hữu nghị cho 3 đơn vị và 9 cá nhân của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đã có công giúp nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ biên giới của Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội;
Cho 3 đơn vị và 11 cá nhân của các nước khác đã ủng hộ nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và xây dựng đất nước.
IX- Về việc giải quyết
đơn khiếu nại, tố cáo và thư dân nguyện
Từ sau kỳ họp thứ 4 của Quốc hội khóa VI đến nay, Văn phòng Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nhận được 1.500 đơn khiếu tố và thư dân nguyện, và đã tiếp 270 lượt người đến khiếu tố và trình bày ý kiến.
Đối với các đơn của nhân dân gửi đến, Văn phòng Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nghiên cứu và kịp thời chuyển đến các cơ quan hữu quan giải quyết .
Đối với những vụ, việc quan trọng, cấp bách, Văn phòng đã có điện hoặc gửi công văn khẩn đến các đồng chí Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, đồng thời gửi đồng chí Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh đề nghị xem xét, giải quyết gấp, hoặc Văn phòng cử cán bộ đến địa phương trực tiếp cùng các cơ quan hữu quan tìm hiểu thêm tình hình và bàn bạc cách giải quyết.
Văn phòng Ủy ban thường vụ Quốc hội thường xuyên quan hệ với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trao đổi ý kiến về các đơn khiếu nại đối với một số vụ quan trọng, đã xét xử từ lâu, nhưng có nhiều đề nghị xem xét lại.
Văn phòng đã cử những đoàn cán bộ đi một số tỉnh như Hải Phòng, Thanh Hóa, Phú Khánh, Thuận Hải để nhắc nhở, thúc đẩy các cơ quan có trách nhiệm giải quyết những đơn do Văn phòng chuyển đến.
Ngoài ra, trong dịp đi thăm và xem xét tình hình ở các tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai, Kom Tum và Lâm Đồng, đoàn đại biểu Quốc hội do Ủy ban thường vụ Quốc hội cử đi, đã có những nhận xét và góp ý kiến với chính quyền địa phương về công tác xét và giải quyết đơn khiếu tố.
Nhìn chung, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Thanh tra từ Trung ương đến cơ sở, các ngành, các địa phương, các cấp đã có nhiều cố gắng giải quyết đơn khiếu tố của cán bộ và nhân dân, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại phải giải quyết có những vấn đề quá phức tạp phải nghiên cứu kỹ và phải mất nhiều thời gian.
Trước mắt, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị các ngành, các cấp cần phát huy ưu điểm vừa qua, khắc phục khó khăn, đẩy mạnh việc giải quyết đơn khiếu tố của nhân dân, cố gắng tránh tình trạng ứ đọng, để nhân dân khỏi phải đi lại kêu ca nhiều lần và nhiều nơi.
Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị các đoàn thể, các tổ chức thanh tra nhân dân tích cực tham gia việc giải quyết khiếu tố từ cơ sở, giảm bớt tình trạng khiếu nại nhiều lên các cấp trên, không để cho sự việc vốn dễ giải quyết lại thành ra phức tạp, kéo dài, mâu thuẫn trở nên sâu sắc.
Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị các Đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tích cựctham gia ý kiến, thúc đẩy các cơ quan Nhà nước trong việc giải quyết đơn khiếu tố của nhân dân, đồng thời đề nghị các cơ quan hữu quan cộng tác chặt chẽ với các đại biểu nhằm bảo đảm cho việc xét, giải quyết đơn khiếu tố được nhanh chóng và có kết quả tốt.
Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng đã nhận nhiều thư của nhân dân và cán bộ yêu cầu Đảng và Chính phủ tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các cơ sở, các ngành, các cấp để bảo đảm lợi ích của Nhà nước cũng như quyền lợi của công dân. Đặc biệt, có mấy chục thư của cán bộ, quân nhân đã nghỉ hưu trí, của các cụ già hoặc thanh niên gửi đến xin được trở lại công tác hoặc trở lại quân đội cầm súng bảo vệ Tổ quốc chống quân bành trướng, bá quyền ...
X- Về quan hệ với hội đồng chính phủ
Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận được đều đặn những nghị quyết, nghị định, chỉ thị, thông báo về các mặt hoạt động của Hội đồng Chính phủ và của Thường vụ Hội đồng Chính phủ.
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chuyển đến Hội đồng Chính phủ các câu hỏi, ý kiến, kiến nghị mà các đại biểu Quốc hội đã đề ra tại kỳ họp thứ tư của Quốc hội. Hội đồng Chính phủ đã giao cho các Bộ hữu quan nghiên cứu và trả lời các đại biểu (hiện nay còn 5 Bộ và cơ quan Trung ương chưa trả lời).
Đại diện Hội đồng Chính phủ thường xuyên tham dự các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, trình bày những đề nghị hoặc báo cáo với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội những vấn đề mà Chính phủ thấy cần báo cáo hoặc những vấn đề mà Ủy ban thường vụ Quốc hội yêu cầu.
- Ngày 24-01-1979, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nghe:
a) Thượng tướng Phó Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, được sự ủy nhiệm của Hội đồng Chính Phủ, báo cáo về thắng lợi của quân và dân ta chống tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary, theo lệnh nhà cầm quyền ..., gây chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây Nam nước ta.
b) Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phan Hiền báo cáo  về chuyến đi thăm hữu nghị chính thức của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh tại một số nước châu á.
- Ngày 23-2-1979, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nghe:
a) Thủ tướng Phạm Văn Đồng báo cáo về chuyến đi thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia và việc ký kết Hiệp ước Hòa bình, Hữu nghị và Hợp tác giữa nước ta và nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia.
b) Thiếu tướng Phó Tổng tham mưu trưởng Đặng Kinh, được sự ủy nhiệm của Hội đồng Chính phủ, báo cáo về cuộc chiến tranh xâm lược của những người cầm quyền ... đối với nước ta.
- Ngày 23-4-1979, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nghe:
a) Thiếu tướng Phó Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Khánh, được sự ủy nhiệm của Hội đồng Chính phủ, báo cáo về chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta chống quân ... xâm lược.
b) Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Vũ Tuân báo cáo về tình hình khắc phục hậu quả chiến tranh do bọn bành trướng, bá quyền ... gây ra tại các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta.
c) Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phan Hiền, được sự ủy nhiệm của Hội đồng Chính phủ, báo cáo về cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng Bộ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu từ ngày 18-4-1979 tại Hà Nội.
XI- Về quan hệ với tòa án nhân dân tối cao
và viện kiểm sát nhân dân tối cao
Các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội đều có đại diện của Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham dự.
Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã gửi đến Ủy ban thường vụ Quốc hội báo cáo thường kỳ về công tác của hai ngành.
Ủy ban thường vụ Quốc hội, trong nhiều phiên họp, đã quyết định những vấn đề về tổ chức và về công tác xét xử của ngành Tòa án.
XII- Về quan hệ với hội đồng nhân dân
Trong dịp bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp huyện, xã và tương đương (tháng 5-1979) Ủy ban thường vụ Quốc hội có thư đề nghị các đại biểu Quốc hội ra sức góp phần làm cho cuộc bầu cử đạt kết quả tốt.
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã tổ chức các đoàn đi xem xét công tác chuẩn bị và tiến hành cuộc bầu cử nói trên ở thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Sơn La, Hà Sơn Bình, Bình Trị Thiên, Quảng Nam - Đà Nẵng, Đồng Nai, Long An và Tiền Giang.
Nhiều đại biểu Quốc hội đã cùng với ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương tích cực tham gia công tác tổ chức bầu cử, động viên quần chúng hăng hái tham gia bầu cử, lựa chọn những người xứng đáng để bầu vào các Hội đồng nhân dân các cấp.
Đại diện Ủy ban thường vụ Quốc hội đã đi dự kỳ họp của Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tuyên (tháng 4-1979).
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã phê chuẩn đề nghị của Hội đồng Chính phủ về việc hoãn cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp huyện, xã và tương đương thuộc tỉnh Minh Hải đến quý 3 năm 1979 để việc tổ chức bầu cử phù hợp với tình hình địa phương đang xúc tiến hoàn thành việc phân vạch lại địa giới các huyện và xã.
XIII- Về các đoàn đại biểu quốc hội
đi thăm một số địa phương
1. Trong phiên họp ngày 23-02-1979, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cử một đoàn đại biểu Quốc hội đi thăm và tìm hiểu tình hình ở 3 tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai - Kon Tum, Lâm Đồng, về việc thực hiện các chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước, trên ba mặt chủ yếu: tổ chức đời sống, tôn trọng pháp luật, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội, phát huy quyền làm chủ tập thể của đồng bào các dân tộc.
Đoàn do các đồng chí Chu Văn Tấn, Phó Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm ủy ban Dân tộc của Quốc hội làm trưởng đoàn và đồng chí Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội làm phó trưởng đoàn.
Đoàn đã làm việc ở Đắc Lắc từ ngày 10 đến 24-3-1979, ở Gia Lai - Kon Tum từ 25-3 đến 08-4-1979 ở Lâm Đồng từ 10-4 đến 25-4-1979.
Tại mỗi tỉnh, Đoàn đã nghe ủy ban nhân dân tỉnh, một số ngành thuộc các khối nội chính, kinh tế, văn hóa, xã hội, ủy ban Mặt trận Tổ quốc và một số đoàn thể báo cáo tình hình các mặt của tỉnh. Sau đó, Đoàn đã đi thăm một số huyện, thị, xã, buôn, phường, hợp tác xã, vùng kinh tế mới, cơ sở y tế, trường học, xí nghiệp. Tại các nơi đến thăm, Đoàn đã nghe báo cáo tình hình, thăm hỏi cán bộ, bộ đội, thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, thăm hỏi tình hình làm ăn, sinh sống của đồng bào các dân tộc, đồng bào đi xây dựng các vùng kinh tế mới. Đoàn đã tiếp xúc với đại biểu Hội đồng nhân dân, Mặt trận, nhân sĩ, trí thức, đại biểu các dân tộc, tôn giáo, v.v..
Đoàn đã biểu dương những thành tích mà cán bộ và nhân dân các dân tộc ở mỗi tỉnh đã đạt được sau 4 năm giải phóng, động viên cán bộ và nhân dân tích cực hưởng ứng Lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Lệnh tổng động viên của Nhà nước. Đoàn đã góp một số ý kiến nhằm khắc phục những thiếu sót chủ yếu trên ba mặt mà Đoàn có nhiệm vụ tìm hiểu và đã thống nhất ý kiến với địa phương về một số vấn đề cần kiến nghị với Chính phủ và các Bộ, các ngành ở Trung ương.
2. Để xem xét tình hình khắc phục hậu quả chiến tranh do những tội ác cực kỳ man rợ của quân ... xâm lược gây ra đối với nhân dân ta ở các tỉnh biên giới trong thời gian qua, và để thăm hỏi, động viên nhân dân, một số đơn vị vũ trang ở các vùng có chiến sự, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cử hai đoàn đại biểu do đồng chí Đào Văn Tập, ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Phó chủ nhiệm ủy ban Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội làm trưởng đoàn, đi thăm và xem xét tình hình tại tỉnh Hà Tuyên (đầu tháng 4-1979) và tỉnh Hoàng Liên Sơn (đầu tháng 5-1979).
Tại Hà Tuyên, Đoàn đã dự hội nghị Hội đồng nhân dân tỉnh, làm việc với ủy ban nhân dân tỉnh. Sau đó, đi thăm một số cơ sở sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, làm việc với một số cơ quan hành chính, chuyên môn và quân sự trong tỉnh, thăm hỏi đồng bào thị xã Hà Giang, một xã thuộc huyện Quản Bạ và một xã thuộc huyện Vị Xuyên.
Tại Hoàng Liên Sơn, Đoàn đã làm việc với ủy ban nhân dân một số cơ quan quân sự và các ngành lâm nghiệp, lương thực thực phẩm, thương nghiệp, bưu điện, giao thông vận tải, y tế, thăm hỏi cán bộ và nhân dân huyện Bảo Thắng, thị xã Lào Cai, Ban giám đốc và công nhân mỏ apatít Lào Cai.
Tại hai tỉnh đến thăm, Đoàn đã thu thập nhiều ý kiến, nguyện vọng của các cơ quan, đơn vị và nhân dân địa phương để chuyển tới ủy ban nhân dân tỉnh, báo cáo và có những kiến nghị cần thiết với Ủy ban thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ.
XIV- về công tác đối ngoại
1. Nhận lời mời của Quốc hội nước Cộng hòa Cuba, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cử đồng chí Nguyễn Xiển, Phó Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội và đồng chí Nguyễn Ngọc Hà, ủy viên ủy ban Đối ngoại của Quốc hội tham gia đoàn đại biểu Đảng, Quốc hội và Chính phủ ta đi dự lễ Quốc khánh nước Cộng hòa Cuba, từ ngày 26-12-1978 đến ngày 5-01-1979.
Tại Cuba, Đoàn đã dự phiên họp đặc biệt của Quốc hội Cuba mừng lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày cách mạng Cuba thắng lợi. Tại phiên họp trọng thể này, đồng chí Phiđen Caxtơrô, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Cuba, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Cuba đã gửi lời chào mừng đặc biệt đến nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào anh hùng, đồng thời kịch liệt lên án giới cầm quyền ... đã phản bội cách mạng xã hội chủ nghĩa, đang có những hành động thù địch chống lại hai nước Việt Nam và Lào.
Đoàn đã tiếp xúc với các đồng chí lãnh đạo Quốc hội Cuba, tham quan nhiều nơi, gặp gỡ công nhân, nông dân, trí thức xã hội chủ nghĩa. ở mọi nơi, Đoàn đã được đón tiếp với mối cảm tình thân thiết, đầy tình nghĩa anh em, tình đoàn kết gắn bó, quý trọng và ủng hộ lẫn nhau giữa nhân dân và Quốc hội hai nước.
2. Ngày 10-2-1979, Đoàn Việt Nam gồm 264 đại biểu Quốc hội đã được thành lập để gia nhập Liên minh Quốc hội các nước.
3. Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cử các đồng chí Hoàng Minh Giám, Chủ nhiệm và Nguyễn Ngọc Hà, ủy viên ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đi dự Hội nghị tư vấn các Đoàn Quốc hội các nước xã hội chủ nghĩa, thành viên của Liên minh Quốc hội các nước, họp tại Bucarét, từ ngày 20 đến ngày 22-2-1979.
Các đồng chí Hoàng Minh Giám và Nguyễn Ngọc Hà đã thay mặt Đoàn Quốc hội ta đi dự khóa họp mùa Xuân của Liên minh Quốc hội các nước tại Praha (tháng 4-1979). Tại hội nghị này, Liên minh Quốc hội các nước đã hoàn toàn nhất trí chấp nhận Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam là thành viên của Liên minh Quốc hội.
XV-  hoạt động của các ủy ban của quốc hội
 Từ sau kỳ họp thứ 4 của Quốc hội khóa VI đến nay, các ủy ban của Quốc hội đã có những hoạt động sau:
1. ủy ban Dự án Pháp luật của Quốc hội đã thẩm tra hai dự án Pháp lệnh do Hội đồng Chính phủ gửi đến.
2. ủy ban Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội đã phối hợp với Đoàn đại biểu Ủy ban thường vụ Quốc hội đi thăm tỉnh Hoàng Liên Sơn để xem xét tình hình khắc phục hậu quả chiến tranh, thăm hỏi, động viên nhân dân, một số đơn vị lực lượng vũ trang tại một số vùng vừa qua có chiến sự.
3. ủy ban Dân tộc của Quốc hội đã phối hợp với Đoàn đại biểu Quốc hội đi thăm và xem xét tình hình ở ba tỉnh Tây Nguyên (xem phần đã báo cáo ở trên).
4. ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đã nghe báo cáo và thảo luận về phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống bọn phản động ... xâm lược và công tác tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với nhân dân ta trong tình hình mới.
XVI- Về việc soạn thảo hiến pháp mới
Ngày 30-12-1978, ủy ban Dự thảo Hiến pháp đã họp phiên toàn thể để nghe Chủ tịch Trường Chinh báo cáo về kết quả bước thảo luận, góp ý kiến vào bản dự thảo Hiến pháp của các cán bộ cao cấp, trung cấp trong cả nước, và bàn kế hoạch tiến hành chỉnh lý bản dự thảo để đưa ra toàn dân thảo luận.
Trong thời gian qua, bộ phận thường trực của ủy ban đã tích cực nghiên cứu các ý kiến đóng góp của cán bộ và thảo luận để hoàn thành việc chỉnh lý bản dự thảo. ủy ban dự thảo Hiến pháp sẽ họp phiên toàn thể vào trung tuần tháng 6-1979 để duyệt và thông qua bản dự thảo Hiến pháp mới.
XVII- hoạt động của các đại biểu quốc hội
và các đoàn đại biểu quốc hội
Sau khi bế mạc kỳ họp thứ 4 của Quốc hội khóa VI, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đã đi báo cáo với cử tri về kết quả kỳ họp, kết hợp với việc thăm hỏi đồng bào ở nhiều vùng nông nghiệp, nhiều xí nghiệp, đơn vị bộ đội, hợp tác xã thủ công, gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình bộ đội, thu thập nguyện vọng và kiến nghị của đồng bào để chuyển tới các ngành hữu quan nghiên cứu và xét giải quyết. Hoạt động của các đoàn và các đại biểu đã có tác dụng góp phần động viên cử tri và nhân dân tích cực khắc phục khó khăn, đẩy mạnh phong trào đồng khởi thi đua thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1979.
Sau khi những người cầm quyền phản động ... tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta, các đại biểu Quốc hội ở những nơi có chiến sự tùy tình hình và khả  năng, đã ra sức góp phần phục vụ kháng chiến; Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ninh đã lập thành đoàn đi thăm hỏi, úy lạo và động viên đồng bào các dân tộc và thương binh, bộ đội ở các huyện Bình Liêu, Móng Cái, Quảng Hà, Tiên Yên.
Trong thời gian qua, đã có thêm Đoàn Đồng Nai lập Phòng tiếp dân, và ở nhiều nơi công việc tiếp xúc với nhân dân đã có ảnh hưởng tốt.
Tuy nhiên, còn một số tỉnh chưa có Phòng tiếp dân, hoạt động của đại biểu chưa nhiều.
Sự liên hệ của các đoàn với Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng chưa chặt chẽ, trong số 39 đoàn, chỉ có 14 đoàn gửi báo cáo cho Ủy ban thường vụ Quốc hội.
*
*      *
Trên đây là tình hình các mặt hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội từ kỳ họp thứ 4 của Quốc hội khóa VI đến nay, xin báo cáo với các vị đại biểu Quốc hội. Báo cáo này được chuyển đến các đại biểu Quốc hội, không đọc trước Quốc hội (BT).




*   Báo cáo này được chuyển đến các đại biểu Quốc hội, không đọc trước Quốc hội (BT).


Toàn văn Văn kiệnLưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.