Sunday 23 June 2013

Cà phê Saigon ngày xưa (Tâm Triều)


Tâm Triều
cafesuacafeden0

Hồi xửa hồi xưa . . . có một Sàigòn người ta gọi cà phê là “cà phe”, đi uống cà phê là đi uống “cà phe” với giọng điệu rất là ngộ nghĩnh. .Tiếng Tây gọi cà phê là Café, tiếng Anh là Coffee nhưng mấy xì thẩu Chợ Lớn thì gọi là “cá phé”. Vậy thì café, coffee, cà phê, cà phe hay là cá phé muốn gọi sao thì gọi nhưng ai cũng hiểu đó là món thức uống màu đen có hương vị thơm ngon, uống vào có thể tỉnh người nếu uống quá đậm có thể thức ba ngày không nhắm mắt. . . .
TRỞ VỀ THẬP KỶ 50: CÀ PHÊ VỚ
Năm một ngàn chín trăm . . hồi đó người Sàigòn chưa ai biết kinh doanh với nghề bán cà phê cả. “Xếp sòng” của ngành kinh doanh. . .có khói này là do các xếnh xáng A Hoành. A Coón. chú Xường, chú Cảo. . .chủ các tiệm hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại. Vô bất cứ tiệm hủ tíu nào vào buổi sáng cũng có bán món cá phé, cà phê, cà phe đi kèm để khách có thể ngồi đó hàng giờ nhăm nhi bàn chuyện trên trời dưới đất.
Hồi đó chẳng ai biết món cà phê phin là gì đâu? Các chú Xường, chú Cảo, A Xứng, A Hía chỉ pha độc một loại cà phê vớ. Một chiếc túi vải hình phểu được may cặp với một cọng kẻm làm vành túi và cán. Cà phê bột đổ vào túi vải (gọi là bít tất, hay vớ đều được). Vì chiếc dợt cà phê nầy hơi giống như chiếc vớ dùng để mang giày nên “dân chơi” gọi đại là cà phê vớ cho vui. Chiếc vớ chứa cà phê này sau đó được nhúng vào siêu nước đang sôi, lấy đũa khuấy khuấy vài dạo xong đậy nắp siêu lại rồi . . .”kho” độ năm mười phút mới có thể rót ra ly mang ra cho khách. Chính cái “quy trình” pha chế thủ công đầy phong cách Tàu này mà dân ghiền cà phê còn gọi nó là cà phê kho bởi chỉ ngon lúc mới vừa “kho nước đầu”. Nếu ai đến chậm bị kho một hồi cà phê sẽ đắng như thuốc Bắc.
Có mấy khu vực có những con đường qui tụ rất nhiều tiệm cà phê hù tíu. Ở Chợ Cũ có đường MacMahon (đọc là đường Mạc Má Hồng, nay là đường Nguyễn Công Trứ) có rất nhiều tiệm cà phê kho từ sáng đến khuya. Khu Verdun – Chợ Ðuổi (nay là Cách Mạng Tháng 8) cũng đáng nể bởi cà phê cà pháo huyên náo suốt ngày.
Ở bùng binh Ngã Bảy (góc Ðiện Biên Phủ và Lê Hồng Phong bây giờ) có một tiệm cà phê hủ tíu đỏ lửa từ 4 giờ sáng cho đến tận 12 giờ đêm.. Còn nếu ai đi lạc vào khu Chợ lớn còn “đã” hơn nhiều bởi giữa khuya vẫn còn có thể ngồi nhăm nhi cà phê, bánh bao, bánh tiêu, dò-chả-quải đến tận sáng hôm sau. .
TRANG TRÍ CHUNG CỦA CÁC TIỆM CÀ PHÊ HỦ TÍU TÀU
Sách phong thủy Tàu thường khuyên không nên cất nhà ở ngã ba, ngã tư đường vì dễ bị nạn xui xẻo nhưng các chú Xường, chú Hía. A Hoành. A Koón . . . thì đều chọn các nơi này làm chỗ kinh doanh. Tuy Sàigòn, Chợ lớn, Gia Ðịnh. Phú Nhuận, Ða Kao hàng trăm tiệm cà phê hủ tíu Tàu nhưng nhìn chung chúng đều có một “mô-típ -made in China” khá giống nhau tức là quán nào ở phía trước cửa cũng có một xe nấu hủ tíu được làm bằng gỗ thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên của xe được trang trí bằng những tấm kính tráng thủy vẽ những nhân vật Quan Công, Lưu Bị, Triệu Tử Long, Trương Phi trong truyện Tam Quốc Chí khá vui mắt. Bên trong quán hoặc xếp bàn tròn hoặc vuông. Khách vừa vào trong gọi “cá phé”, song mấy tay phổ ky vẫn bưng ra một mâm nào bánh bao, xíu mại, há cảo, dà chá quải đặt trên bàn. Khách dùng hay không cũng chẳng sao “pà – con – mà!”
UỐNG CÀ PHÊ PHẢI BIẾT CÁCH
Như đã nói ớ trên, hồi đó không có cà phê ta mà chỉ có cà phê Tàu . Vì thế uống cà phê Tàu phải có một phong cách riêng.
Cà phê được mang ra dân “sành điệu”, hồi đó ngồi chân dưới chân trên, sau khi khuấy nhẹ cho tan đường bèn đổ ly cà phê ra cái đĩa đặt phía dưới. Chưa uống vội, khách chậm rãi mồi điếu thuốc rít vài hơi để chờ cà phê nguội.
Ông Sáu “trường đua” nay đã 80 kể rằng hồi ông còn là một chú nhóc nài ngựa ở trường đua Phú Thọ ông cũng uống cà phê theo phong cách này, tức uống bằng đĩa chớ không uống bằng ly. Bàn tay phải nhón lấy cái đĩa đưa lên miệng và húp sì sụp: “Uống vậy mới khoái, mới đúng kiểu của dân từng trải “, ông Sáu “trường đua” nói với vẻ tự hào. Ông còn kể cho tôi nghe chuyện ông từng ăn mảnh ở mấy tiệm hủ tíu bánh bao hồi năm sáu chục năm về trước với giọng khoái trá: “Hồi đó tao làm nài ngựa. Hôm nào ngựa thắng độ thì nài được chủ ngựa thưởng cho bộn tiền. Hôm nào ngựa thua thì coi như đói. Không sao, 73 gần trường đua có một tiệm hủ tíu cà phê. Vào búng tay chóc chóc gọi cà phê. Cứ cho mấy thằng phổ-ky mang bánh bao xíu mại ra bày trên bàn. Ðợi đến khi nó mang cà phê ra rồi bỏ chạy sang bàn khác thì nhanh tay gở miếng giấy phía dưới cái bánh bao ra và khoắng ngay cái nhân phía trong tọng vào miệng rồi đậy bánh lại như cũ. Thế là chỉ tốn ly cà phê vài xu mà đã có cái nhân bánh bao to đùng ngon lành trong bụng rồi”.
Theo ông Sáu “trường đua” thì các chủ tiệm cà phê hủ tíu hồi đó rất chìu khách. Sì sụp húp cà phê bằng đĩa xong muốn ngồi bao lâu cứ ngồi, hết trà con hô lên “xà lẵm” là có người mang ra bình trà mới, uống chừng nào chán thì đi. Khi được hỏi tại sao dân “sành điệu lại không uống bằng ly mà đi húp cà phê bằng đĩa, ông Sáu “trường đua” lắc đầu nói không biết chỉ biết dân “sành điệư” chơi vậy mình cũng bắt chước chơi vậy thôi vậy mới là. . . sành điệu!
CÀ PHÊ PHIN HAY CÀ PHÊ “NỒI TRÊN CỐC”
Dòng cà phê . . . với cà phê kho lững lờ trôi như thế hằng thế kỷ của thiên kỷ trước là như thế, cứ vào tiệm hủ tíu mà uống cà phê đổ ra đĩa rồi sì sụp húp thì được xem như đó là phong cách của dân chơi sành điệu.
Một người tên ông Chín “cù lủ” một tay bạc bịp nay đã hoàn lương cho rằng dân cờ bạc, dân giang hồ hồi đó chẳng đời nào bưng ly mà uống như ngày nay. Kẻ ngồi nghiêm túc, nâng ly lên uống như uống rượu bị các đàn anh “húp” đĩa xem khinh bằng nửa con mắt, coi như hạng. . . “bột” lục hục thường tình không đáng kết giao.
Nhưng rồi cái quan điểm húp cà phê trên đĩa mới . . . “sang” cũng đến lúc phải lụi tàn, vì bị chê là kiểu uống bẩn, uống thô vụng khi trào lưu cái phin “filtre” bắt đầu xuất hiện và đã làm biến dạng cái kiểu uống cà phê trong tiệm hủ tíu.
Vào thập niên 60 Nhà hàng Kim Sơn (nằm trên góc Lê Lợi-Nguyễn Trung Trực) mở cú đột phá ngoạn mục bằng cách bày bàn ghế ra hàng hiên dành cho các văn nghệ sĩ trẻ chiều chiều ra đó bàn chuyện.văn chương và. . . rửa con mắt. Hồi đó cà phê Kim Sơn chỉ có một đồng một cốc bằng giá vé xe buýt dành cho học sinh. Mặc dù chủ quán Kim Sơn lúc đó vẫn là người Hoa nhưng đã tiếp thu phong cách cà phê hè phố của dân Paris (Pháp).
Theo lý thuyết, những giờ uống cà phê là những giờ thư giản hoàn toàn vừa nhăm nhi từng ngụm nhỏ cà phê đặc sánh vừa ngắm quang cảnh sôi động đông vui của đường phố. Thuở ấy con đường Lê Lợi vẫn còn những hàng me. Vào những ngày me thay lá, dưới ánh nắng chiều phớt nhẹ, lá me vàng khô rơi tản mạn như hoa “com-phét-ti” lấp lánh làm cho đường phố trở nên. . . “mộng mị” và thơ. . .
Kim Sơn biết tận dụng ưu thế chiếm lĩnh một góc ngã tư, tầm nhìn rộng bao quát để khai thác dịch vụ cà phê hè phố. Cái phin đã trở nên quen thuộc, cao cấp hơn cái vợt cái vớ của cà phê kho trên cái siêu đất “phản cảm” xưa.
Thời điểm này những nhà văn, nhà báo. các nhà doanh nghiệp tên tuổi cũng có những quán cà phê sang trọng xứng tầm với địa vị của họ. Những La Pagode, Brodard, Givral, Continental là nơi gặp gỡ giao lưu cửa giới thượng lưu Sàigòn.
CÀ PHÊ TÂY
Cà phê La Pagode khách không ngồi ghế sắt ghê gỗ mà ngồi trên những salon bọc da để phóng tầm mắt nhìn ra con đường Catinat (nay là Ðồng khởi) con đường đẹp và sang nhất của Sàigòn. Cách La Pagode độ trăm mét Nhà hàng Continental cùng mở một không gian cà phê sang trọng . đúng phong cách “Phăng-se”. Ðối diện Continental là tiệm cà phê Givral nơi nổi tiếng với những món bánh ngọt tuyệt hảo. Tiệm tràn ngập ánh sáng bởi những khung cửa kính nhìn ra Nhà Hát Lớn (nay là Nhà Hát TP) với một bầu trời khoáng đãng. Những nhà báo, văn nghệ sĩ thường ghé đây uống cà phê trước khi tỏa đi khắp nơi cho công việc riêng của họ.
Còn một quán cà phê với một phong cách phương Tây như bàn ghế trang trí nội thất sang trọng cũng nằm trên con đường này là quán cà phê Brodard. Với một phong cách cũng gần giống với La Pagode, không gian Brodard yên tĩnh, ánh sáng thật nhạt để khách có thế thả hồn êm ả bên tách cà phê nóng hổi quyện hương thơm.
Có thể nói từ giai đoạn này người Việt Nam ở Sàigòn “thức tĩnh” trước thị trường buôn bán cà phê mà từ lâu họ đã bỏ bê và đã để cho các chú Hoành, chú Koón, chú Xường. . . tự do khai thác.
Khi qua tay người Việt quán cà phê không còn luộm thuộm những cái “đuôi” mì, hủ tíu, hoành thánh, xíu mại, há cảo, bánh bao . . . nữa mà nó thuần túy chi có cà phê nhưng được chăm chút một cách tỉ mỉ hơn, biết tạo ra một không gian tao nhã hơn, thu hút hơn . . .
CAFÉTÉRIA CA NHẠC
Ðể gần gũi hơn, thu hút khách hơn và cũng mang tính giải trí hơn, một số nơi đã ổ chức hình thức phòng trà ca nhạc theo dạng Cafétéria.
Cafétéria rộng thoáng hơn những “Tháp ngà” La Pagode, Brodard, Givral, Continental. . . nơi đây không phải chỗ để trầm tư, bàn luận chuyện đời mà hoàn toàn là chỗ vui chơi giải trí.
Trên đường Bùi Viện đầu những năm 60 mọc ra một cái quán với tên là Phòng trà Anh Vũ. Tuy là phòng trà nhưng có thiết kế một sân khấu nhỏ vừa cho một ban nhạc bỏ túi đệm đàn cho những ca sĩ tiếng tăm được mời đến trình diễn như Bạch Yến, Mai Hương, Duy Trác, Cao Thái . . Lúc đó phòng trà Anh Vũ là điểm hẹn của nhiều người dân Sàigòn cũng như những văn nghệ sĩ sinh sống tại đây. Con đường chật hẹp Bùi Viện bỗng đêm đêm sáng lên rực rỡ ánh đèn Anh Vũ, người xe tấp nập đông vui.
Một Cafétéria khác theo cách của Anh Vũ cũng đã mọc lên bên cạnh rạp Ciné Việt Long (trên đường Cao Thắng) với tên Phòng trà Ðức Quỳnh. Ca sĩ kiêm nhạc sĩ tóc dài Ðức Quỳnh là chủ nhân của cái Cafétéria này. Ðức Quỳnh với cây Piano và giọng ca trầm ấm của ông và những ca sĩ Minh Hiếu – Thanh Thúy, Phương Dung đã thu hút một số đông người yêu nhạc đêm đêm đến đây vừa giải khát vừa giải trí một cách tao nhã.
Rồi tiếp theo là Cafétéria Jo Marcel, trên đường Hai Bà Trưng, Ðêm Màu Hồng trên đường Tự Do (nay là đường Ðồng Khởi) thi nhau mọc lên đầy “Nền văn hóa ẩm thực” cà phê lên một tầm cao hơn, tức vừa uống cà phê vừa được thưởng thức những ca khúc do các ca sĩ, nhạc sĩ có tiếng trình bày.
Một Phòng trà ca nhạc khác cũng khó quên chính là phòng trà Bồng Lai nằm trên sân thượng của Nhà hàng Kim Sơn mở cửa hàng đêm từ 9 giờ tối. Ở đây khách thường xuyên được nghe giọng ca vàng đương thời, ấy là ca sĩ Anh Tuyết với bài hát “Ánh đèn màu”.
Cũng như ca sĩ Cao Thái nổi tiếng với bài “Mexico” , ca sĩ Ánh Tuyết mỗi lần trình diễn “Ánh đèn màu” là bà hát với những dòng nước mắt. Nội dung ca khúc là nói về tâm trạng của người nghệ sĩ là ca hát để người.mua vui để rồi khi ánh đèn màu tắt người nghệ sĩ lại một mình giữa cô đơn. . . Có lẽ do cái nội dung u buồn ấy đụng chạm vào nỗi lòng của bà nên bà rất ít khi chịu hát nhạc phẩm ấy. Nhưng hầu như đêm nào cũng có người yêu cầu, trừ những người thân quen bắt buộc phải đáp ứng còn thì Ánh Tuyết xin lỗi từ chối khéo.
LẠI QUAY VỀ CÀ PHÊ VỚ ÐÔNG VUI
Những quán cốc che tạm tấm bạt bên lề đường với những chiếc ghế gỗ lùn làm chỗ tụ họp của các thanh niên vui đón những ngày hạnh phúc mới.
Vòng quanh Hồ con Rùa, xuống đến Phạm Ngọc Thạch, quẹo qua Nguyễn Ðình Chiểu có hàng mấy chục “túp lều” cà phê như thế mọc lên san sát bên nhau.
Chỉ có ai ở tuổi thanh niên vào thời điểm lịch sử có một không hai đó mới thấy được cái thú ngồi quán cà phê bụi lụp xụp mà hầu như đường nào cũng có. Có người còn có thuốc Ruby, Con Mèo để phì phà bên ly cà phê vớ nhưng để phiêu bồng hơn một số lớn thanh niên chơi . . . “bốc – lăn – se” tức thuốc vấn. Anh nào cũng thu sẵn một bọc trong túi xách để sẵn sàng bày ra cho bạn bè tha hồ vừa bốc vừa lăn vừa se vừa liếm vừa dán rồi phì phèo nhả khói.
Cà phê quán cóc (nhảy nay chỗ nay mai chỗ khác như cóc nhảy ấy mà) thời ấy được coi như thời huy hoàng lãng mạn nhất của nền . . . văn hóa ẩm thực cà phê cóc Sàigòn. Ban ngày đã rộn ràng như thế đến đêm bên những ngọn đèn dầu lù mù loanh quanh những con đường trong thành phố cũng có những quán cóc để dân mê cà phê, mê hòa bình được tận hưởng những giờ phút, sảng khoái, thanh bình, yên ả nhất của đời mình.
VÀ CÀ PHÊ ÐƯƠNG ÐẠI
Bây giờ là thời kinh tế thị trường, nghề kinh doanh cà phê không còn ở giai đoạn cà phê Tàu ngồi chân trên chân dưới mà húp cà phê vớ trong chiếc đĩa sứ cũ kỷ hay kiểu cà phê lề đường tuy vui nhưng vi phạm luật giao thông lấn chiếm lòng lề đường.
Kinh doanh cà phê bây giờ phải có vốn hàng tỷ bạc. Vì nó không còn ở dạng Cafétéria nữa mà nó là Bar café, bề thế hơn, sang trọng hơn. Cơ ngơi kinh doanh mỗi nơi mỗi thể hiện một phong cách riêng để lưu giữ một số khách hàng riêng. .
Chỉ cần đến Bar café Gió Bắc, Ciao café, Window’s café, Sửa café ở vòng quanh hồ Con Rùa thôi đủ thấy người kinh doanh phải bỏ ra một số tiền lớn cỡ nào để kinh doanh dịch vụ buôn bán món hàng đơn giản từ những hạt cà phê đen tuyền thơm ngát đó. Ngoài việc uống cà phê khách còn có thể nhăm nhi một ly Cocktail thấm mát đầu lưỡi hay một cốc rượu nhỏ Martell, Hennessy nồng nàn vào những buổi chiều. Cà phê Sàigòn cua “Thành Hồ” bây giờ sang hơn, thời thượng hơn dành cho một thành phần của cư dân có thu nhập cao hơn .
Và bạn có bao giờ thử một buổi chiều đi vào một Bar café chưa? Ðó sẽ là một không gian mát rượi chờ đón bạn. Gọi cà phê hay một cốc rượu nhỏ ngồi đó nghe tiếng nhạc nho nhỏ và bạn cũng chẳng cần nhìn ra khung cảnh bên ngoài làm chi. Ở đây có biết bao “cánh hoa” đẹp: các cô phục vụ bàn, các em PR và những người đẹp từ bốn phương trời “đáp nhẹ” về đây.
Cà phê và rượu sẽ còn phê hơn khi bạn sẽ mãn nhãn với những đôi chân dài chập chờn trong thứ ánh đèn mờ ảo như ru bạn vào những giấc mơ đến dại khờ. . . Giá cà phê ở những nơi này tất nhiên là hơi đắc không biết vì tại chỗ ngồi sang, vì cà phê sản xuất từ trên Sao Hỏa hay tại các chiếc áo lửng hai dây và những cái chân dài . . .
SÀIGÒN DĨ VÃNG VÀ SÀIGÒN BOLSA
Sàigòn một thuở là Hòn ngọc Viễn Ðông, một Paris lấp lánh khắp cõi Châu Á, tới hôm nay, lại mang một cái tên khác lạ, chẳng đẹp đẽ chi, nếu không muốn nói là vô nghĩa. Bởi thế nên người ta vẫn gọi tên cũ chính danh là Sàigòn. Một thành phố mãi mãi vẫn mang tên là Sàigòn. Sàigòn của muôn đời. Sàigòn trong trái tim người đang sống ở thành phố đó hay lưu lạc khắp năm châu thế giới..
Người Sàigòn không nhất thiết phải sinh ra tại đó, có bao nhiêu đời Ông Bà Cha Mẹ từng lập nghiệp lâu năm bền vững. Một người, bất cứ ai, cũng có thể nhận chính mình là dân Sàigòn, dù chỉ ở đây một ngày, một tuần hay một tháng, một năm. Chỉ sống một ngày ở Sàigòn, nhưng yêu Sàigòn mãi mãi, và mang Sàigòn ở trong tim, như một phần của thân xác, linh hồn mình. Chỉ như vậy thôi, người ta có thể ngẩng cao đầu, tự hào vỗ ngực tuyên xưng, tôi chính là dân Sà gòn.
Tóm lại, Sàigòn là của tất cả mọi người suốt giải giang sơn, từ Bắc qua Trung tới Nam. Sàigòn như một hiền mẫu, dang vòng tay ôm thương yêu quảng đại tới con người tứ xứ, không phân biệt Bắc, Trung, Nam và ngay cả người ngoại quốc nữa.
Một người Pháp sinh ra ở Paris, bỗng dưng một hôm tuyên bố, từ nay tôi không còn là một Parisien, cư dân ở Paris nữa. Tôi là người Sàigòn và sẽ ở lại đây cho tới cuối đời. Thế là dân Sàigòn bèn gọi chàng Tây là anh Hai, hoặc anh Tư gì đó. Tinh thần người Sàigòn là như vậy đó, thiệt là cởi mở và phóng khoáng.
Một nhạc sỹ sáng tác nhạc gửi: “Sàigòn ơi! Ta hứa rằng ta sẽ trở về” . Rồi chàng cũng đã trở về thật, sau hơn chục năm xa cách. Nhưng chàng khám phá ra mình thực sự mất Sàigòn trong thực tại. Thế nên, nếu có sự trở lại, thì chỉ còn một hành hương về Sàigòn trong quá khứ với ngọc ngà dĩ vãng..
Hãy cùng trở về Sàigòn từ một ký ức xa tắp mù khơi. Sàigòn của những thập niên 1950 từ hơn nửa thế kỷ trước. Sàigòn với các hộp đêm, sòng bài Ðại Thế Giới, Chợ Lớn, một Las Vegas thu nhỏ. Tại đây có đủ loại sòng bài và cách chơi khác nhau, lại có chỗ giải trí như xe nhỏ chạy bằng điện húc nhau đùa rỡn, hiện nay Las Vegas vẫn còn trò chơi này. Khu văn nghệ khác như phòng trà vũ trường. Con đường Trần Hưng Ðạo Galliéni, Ðồng Khánh chạy dài từ Sàigòn tới Chợ Lớn dài vun vút dẫn khách tới sòng bài, lưu thông hàng ngàn chiếc xe hơi nối đuôi nhau, đèn pha sáng chói, chẳng khác gì đại lộ Champs Elyseé tại Paris.
Ðường Richaud Phan Ðình Phùng quả thật văn nghệ với quán cà phê Gió Nam nỗi tiếng vì cô hàng café tuyệt sắc giai nhân. Nàng có nước da trắng xanh liêu trai với mái tóc thề ngây thơ nữ sinh. Nhân vật đã đi vào truyện Duyên Anh, qua bao chàng trai say đắm, tranh đua nàng, từ trí thức đến du đãng yên hùng. Cũng tại đường Phan Ðình Phùng với quán phở Con Gà sống thiến cùng hai kiều nữ con chủ quán, nổi danh tài sắc. Yến Vỹ cùng chị, cả hai để mái tóc bồng rối như minh tinh Brigitte Bardot. Bao thực khách đến chẳng phải phở ngon, nhưng vì Yến Vỹ đẹp lại hát hay. Thì ra ngoài quán café, nhà hàng phở giai nhân cũng khiến một chàng Cử Văn Khoa phải vào nhà thương điên vì tình si. Phan Ðình Phùng còn thêm café quán Luật Khoa và cơm gà Xing Xing, với những giai nhân lai Pháp, càng làm thêm Sàigòn có một chút Paris.
Sàigòn by night đã là những phòng trà ca nhạc và vũ trường khiến màn đêm Thành Ðô trở nên lung linh ảo huyền, như một ngàn lẻ đêm huyền thoại. Nổi bật nhất từ cuối thập niên 50 là phòng trà ca nhạc Anh Vũ. Nơi đây khởi đi cho nhiều danh ca sau này. Thanh Thúy ở tuổi mượt mà thanh xuân đôi tám đã hát từ Anh Vũ, làm mê say bao tao nhân mặc khách. Người ta mê Thanh Thúy vì có lối trình diễn độc đáo bên giọng ca trầm buồn. Thanh Thúy vừa hát vừa đưa tay vuốt làn tóc buông rơi, sau đó gây chú ý là tự vuốt đôi chân ngọc tuổi dậy thì, có lúc nàng lại vưốt cây micro nữa, khiến các chàng trai sởn da gà vì sốt nóng lạnh. Ban CBC thuở Anh Vũ đã là ban nhạc kích động nhỏ nhất thế giới, với tuổi khoảng sáu, bảy mà thôi. Thảm kịch cũng xảy ra cho phòng trà Kim Ðiệp Sàigòn, khi một chàng Tây lai bị giết. vì dám cặp kè với người đẹp Tuyết Không Quân. Tuyết là một giai nhân nổi tiếng sát phu qua hai đời chồng bị tử nạn trong chiến tranh. Phòng trà Kim Ðiệp sau vụ ấu đả vì ghen tuông. bị đóng cửa để trở thành Nhà sách.
Quán café trà thất đẹp nhất Sàigòn phải kể là Quán Gió, sau thành “Hầm Gió”, thiết trí sâu dưới đất, như một hầm rượu bên Âu châu. Người đẹp ngồi cash, bên một thùng rượu làm thành cái bàn khá ngoạn mục. Ca sỹ Thanh Lan thường có buổi trình diễn tại đây
Chính những phòng trà đêm Sàigòn đã đưa nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn lên đỉnh cao. Nhiều ca khúc phản chiến cấm hát ở Ðài phát thanh nhưng tại phòng trà thì vẫn được trình diễn tự do.
Vũ trường, phòng trà Sàigòn còn ghi lại một thiên tình sử đẫm lệ, khi nữ ca sỹ Diệu Anh kiều diễm hát hay, đã tự tử vì . . . bị một nam ca sỹ bỏ rơi. Chàng trai bạc tình sau đó vì buồn và hối hận đã bỏ hát vài năm. Ðêm Sàigòn trà thất vũ trường còn ghi đậm cây si thường xuyên Mai Thảo và Hồng Dương, để viết thêm những tình sử lâm ly với hai nữ danh ca khác.
Ðêm Sàigòn bạc vàng, bạc triệu với Lệ Thu và Khánh Ly, những tiếng hát vàng ròng cả nghĩa trắng lẫn nghĩa đen, vì lương tháng hai nữ danh ca này lên tới một triệu. Trong khi đó, lương một Ðốc sự, Phó Quận trưởng tới năm 1975 chỉ có 33 ngàn đồng một tháng
Vũ trường thơ mộng nhất Sàigòn là Mỹ Phụng ngay tại bến Bạch Ðằng. Thuở đó cuối thập niên 50 đầu 60, người ta thích đi Mỹ Phụng vì ban đêm có gió sông Sàigòn mát dịu lại thêm nữ danh ca Lệ Thanh. Nàng chuyên hát những tinh khúc ướt át, trong điệu slow tắt đèn, mờ ảo như “Dang dở ” “Nỗi Lòng”. Tiếng hát mê đắm Lệ Thanh đã thu hồn một Bác Sỹ trở thành phu quân của nàng.
Ðêm Sàigòn ngọc ngà dĩ vãng khiến người ta khó quên được vì những dạ vũ Bal Famille có khi kéo dài từ đêm suốt sáng. Ai có ngờ cô bé Mai đen 16 tuổi, thường đi với bé Phú, sau này lại trở thành ca sỹ Khánh Ly nổi danh cho tới nay. Phú mệnh danh là Phú chuột, trắng trẻo, mũm mĩm xinh như thỏ con, thường nhảy cùng Mai với đám bạn trai. Mai nhảy có khi bỏ cả giày cao gót giữa đêm vui đã gần rạng sáng.
Thuở ấy, người đi dạ vũ phải trầm trồ khen ngợi tài nhảy của Tony Khánh, thường nhảy cặp với vợ. Mỗi lần Khánh cùng phu nhân ra sàn nhảy, mọi người đều ngừng khiêu vũ để thưởng thức tài nghệ bậc sư biểu diễn. Sau đó là pháo tay nổ ròn như ngày Tết.
Hòn ngọc Viễn Ðông Sàigòn từ thập niên 50 nay đã trên nửa thế kỷ, Sàigòn đổi tên và Sàigòn ngọc nát châu chìm. Những cột đèn tuy không biết đi, nhưng đã chắp cánh bay xa, thành bao nhiêu Little Sàigòn rải rác khắp hải ngoại . Và dân Sàigòn năm xưa, những chàng trai hào hoa phong nhã, bao giai nhân ca sỹ lừng danh, nay đã thất thập cổ lai hy, hay gần mấp mé tuổi hạc. Thế nhưng trái tim chằng bao giờ già. Bởi vậy nói như Thi sỹ Thanh Tâm Tuyền ta gọi tên ta, Sàigòn cho đỡ nhớ. Hỡi những Ðêm Mầu Hồng, Queen Bee, Arc En Ciel, Mỹ Phụng, Tự Do . . . Những đêm vui thắp sáng kỷ niệm, những ngày xuân mãi mãi xanh tươi, để làm thành một Thủ Ðô Sàigòn bất tử, ta yêu lắm và yêu mãi mãi. Sàigòn trong lời nhạc của Ngô Thụy Miên, thì dù Em của ta có đi khắp thế giới Paris, Vienne, cũng chẳng thể tìm đâu đẹp hơn Sàigòn của ta ngày hôm qua dĩ vãng cũng như Sàigòn mai sau, khi hết Cộng sản.
Bây giờ tuy chưa có Sàigòn mai sau, nhưng ta tạm có Little Sài gon Bolsa tại Nam Cali, Thủ đô ty nạn của người Việt hải ngoại – chỉ tại Little Sàigòn mới giống Sàigòn năm xưa được .
Sàigòn Bolsa mùa xuân pháo nổ tưng bừng qua phố phường Westminster, Bolsa, Brookhurst, Euclid. . . trong khi ấy nay Sàigòn ở Việt Nam làm sao có pháo ? Thế nên người có tiền ở Sàigòn bây giờ, Tết đến lại thích đi du lịch sang Mỹ để đón xuân thực sự như Sàigòn thuở xưa, và tìm lại Sàigòn đích thực.
Sàigòn đã ra đi và Sàigòn tung cánh chim viễn xứ, quy tụ quây quần tại Mỹ, Canada, Úc, Pháp. Ðức v v . Ba triệu người Việt lưu vong là ba triệu trái tim nồng nàn vẫn yêu thương Việt Nam và thắp sáng mãi Sàigòn Hòn Ngọc Viễn Ðông nay thắp sáng ở xứ người. Sàigòn đã ra đi và tương lai sẽ có lúc, Sàigòn trở lại, như một Châu Về Hiệp phố. Sàigòn khi ấy sẽ rực sáng tin yêu của Tự Do, Dân Chủ và Phú Cường.
Tâm Triều

Saturday 22 June 2013

ĐÔI NÉT VỀ TỪ CỔ TRONG TƯ LIỆU VĂN BIA CHỮ NÔM - Nguyễn Thị Hường

Nguyễn Thị Hường 42. Đôi nét về từ cổ trong tư liệu văn bia chữ Nôm (TBHNH 2009)
Cập nhật lúc 20h00, ngày 04/11/2011
NGUYỄN THỊ HƯỜNG
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Văn bia chữ Nôm hiện còn có niên đại từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX. Nó phản ánh sự phát triển của tiếng Việt ở một giai đoạn lịch sử khá dài. Khi tìm hiểu về văn bia chữ Nôm, chúng tôi thấy xuất hiện khá nhiều từ cổ trong đó. Việc khảo sát từ cổ sẽ cho chúng ta một cách hình dung cụ thể về kho từ vựng được sử dụng trên văn bia chữ Nôm từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX, đồng thời cung cấp thêm cho các nhà nghiên cứu ngôn ngữ những cứ liệu về từ cổ trên loại hình văn bản văn bia. Bài viết dưới đây xin trình bày một số kết quả khảo sát ban đầu về từ cổ trong văn bia chữ Nôm.
Trước tiên, chúng tôi muốn bàn đến khái niệm từ cổ. Theo GS. Hoàng Xuân Hãn: “Từ ngữ cổ là những từ ngày nay không dùng nữa hoặc còn dùng trong một địa phương, hoặc còn sót lại trong một thành ngữ nào đó, hoặc còn dùng với nghĩa khác nhưng có liên can...” [40, tr.1091]. GS. Vương Lộc thì định nghĩa: “Từ ngữ cổ là những từ ngữ: 1. Chỉ còn gặp trong các tác phẩm cổ chứ không tồn tại trong tiếng Việt hiện đại, như bợ là “vay”, khứng là “chịu”, mắng là “nghe”, v.v.; 2. Gặp trong tiếng Việt hiện đại nhưng đã thay đổi ít nhiều về mặt ngữ âm, như khách thứa thành khách khứa, bàn nàn thành phàn nàn, đam thành đem, v.v.; 3. Còn gặp trong tiếng Việt hiện đại nhưng ý nghĩa đã bị lu mờ do chúng không còn được dùng độc lập nữa, như han trong hỏi han, tác trong tuổi tác, le trong song le, v.v. hoặc đã thay đổi hoàn toàn về ý nghĩa như đăm chiêu không phải là “bên phải, bên trái, các phía”, lịch sự không phải là “từng trải”, vốn là nghĩa cổ của từ này; 4. Còn gặp trong tiếng Việt hiện đại nhưng khả năng kết hợp có khác so với ngày trước như ban trong các tổ hợp ban già, ban muộn, ban nghèo, ban tà, v.v.; cái trong cái rắn, cái ve, cái vẹt,v.v.; con trong con gậy, con lều, con sách, v.v.” [42, Lời nói đầu].
Với những tiêu chí như vậy thì văn bia chữ Nôm mà chúng tôi sưu tầm được còn lưu giữ rất nhiều từ cổ. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy trong văn bản văn bia chữ Nôm, ngoài những từ cổ theo các tiêu chí mà GS. Hoàng Xuân Hãn và GS. Vương Lộc (Từ Việt cổ) nêu ra, còn có những từ gốc Hán được sử dụng như một yếu tố trong ngôn ngữ thuần Việt như: chất trong "Làng Nhân họp mặt chất hưng công" [7], y quốc trong "Lảng vui há lảng niềm y quốc" [12], vong trong "Cho biết cơ màu vẫn chẳng vong" [1]. Hiện tượng này xảy ra do ảnh hưởng của từ ngôn ngữ Hán trong tiếng Việt, đồng thời cũng do sự phát triển chưa đầy đủ của ngôn ngữ văn Nôm tại thời điểm đó. Theo chúng tôi, có thể coi những từ như trên là những từ cổ, vì nó được sử dụng nhuần nhuyễn trong văn thơ Nôm như một yếu tố của tiếng Việt; cách dùng của nó đặc trưng cho ngôn ngữ văn Nôm tại thời điểm ra đời văn bản và hiện nay không được dùng nữa. Do đặc điểm riêng của văn bản như vậy, ở đây chúng tôi chia từ cổ thành 2 loại theo nguồn gốc ngôn ngữ: 1. Các từ Việt cổ; 2. Các từ Hán được sử dụng trong văn bản như một yếu tố của tiếng Việt. Trong đó, loại 1 (loại có nguồn gốc thuần Việt) vẫn là loại phổ biến, loại 2 (loại có nguồn gốc liên quan đến Hán văn) xuất hiện ít, tính phổ biến không cao. Những từ cổ này tập trung chủ yếu ở những bia có niên đại từ thế kỷ XVIII trở về trước.
1. Những từ Việt cổ
Trong văn bản văn bia chữ Nôm, từ Việt cổ bao gồm những từ:
1/Mất cả âm lẫn nghĩa trong tiếng Việt hiện đại: cóc, chỉn, giột, liễn liễn, mảng, phỉ, rẽ rẽ, toa rập, tua (xin xem bảng 1 dưới đây).
2/Còn nghĩa nhưng âm đọc trong tiếng Việt hiện đại đã biến đổi: bờ ngợ, chính chện, đà, đành rành, kíp, lạt lẽo, mấy, nhẽ, rành rãnh, rỡ ràng, rờ rỡ (xin xem bảng 1 dưới đây).
3/Còn âm, nghĩa cũ đã mờ, hiện nay ít dùng: duềnh, cúng dàng, dắng dỏi, dặc dặc, dắng, đàn việt, há, hồ dễ, hay, khá, làu làu, luống, nọ, những, nhặt, phương chi, rày, sá (xin xem bảng 1 dưới đây).
4/Còn âm trong tiếng Việt hiện đại, nghĩa cũ đã mờ, khả năng kết hợp khác với hiện nay: âu, bề, giãi, cơn, đôi, khuây, lắng, lảng, leo lẻo, lịch thiệp, ngọn, quyến, rẽ, suốt, tay, vả, xôn (xin xem bảng 1 dưới đây). Trong số này có 5 từ là loại từ, có cách kết hợp khác với hiện nay là: cơn, đôi, ngọn, sự, tay. Các từ còn lại là những từ đứng độc lập trong văn bản, hiện nay chỉ còn nét nghĩa mờ trong các song tiết như: bề trong bộn bề, lắng trong lắng nghe, quyến trong quyến luyến, xôn trong xôn xao, giãi trong giãi bày, vả trong vả lại. Các từ âu, chịu, khuây, lảng, leo lẻo, lịch thiệp, rẽ, suốt trong tiếng Việt hiện đại có thể được dùng độc lập nhưng cách dùng đã khác cách dùng trong văn bản.
Bảng 1. Từ Việt cổ
TT
Từ cổ
Văn cảnh
Nghĩa
Số lần xuất hiện
(bia)
1. 
Âu
Ngoạn thưởng âu đây thích tính tình. [5]
có lẽ, hẳn là, xem ra
5
2. 
Bờ ngợ
Bờ ngợ hồ thiên cảnh tú thanh. [6]
từ cổ của bỡ ngỡ không biết, xa lạ
2
3. 
Bề
Miếu đường chầu chực bề nanh vuốt. [35]
nhiều
1
4. 
Cơn
Cơn đó ai hay bạn thuở nào. [34]
khi, lúc
1
5. 
Cóc
Cóc được dương cơ giột tướng khanh. [10]
biết
1
6. 
Chỉn
Cầu mở quy mô chỉn lạ lùng. [7]
quả thực
1
7. 
Chỉn(1)
Chỉn e nhất đán vô thường. [28]
chỉ
1
8. 
Chĩnh chện
Ba tòa chĩnh chện tiên hay Phật. [19]
ngay ngắn
1
9. 
Chịu
Chịu hậu hoặc chịu ký kị. [25]
được
1
10. 
Cúng dàng
Có khi cúng dàng tốn năm bảy chục. [26]
đem đồ lễ vào chùa cúng
2
11. 
Dặc dặc
Lửa hương dặc dặc rõ ba thân. [9]
dài, lâu lắm
1
12. 
Dắng
Đăng lâm trong thuở lần ca dắng. [16]
vang lên tiếng
1
13. 
Dắng dỏi
Dắng dỏi chào ai tiếng pháp chung. [1]
tiếng vang xa liên tục
1
14. 
Duềnh
Duềnh thua biếc hải duềnh quanh quất. [4]
dòng nước, dòng sông
2
15. 
Đà
Thành toại nay đà phỉ sở nguyền. [12]
đã
3
16. 
Đành rành
Trải xem sự cổ hãy đành rành. [8]
hết sức rõ ràng
1
17. 
Đôi
Sự đê đốt thời mặc đôi làng chúng tôi chẳng biết. [2]
hai
1
18. 
Giãi
Dưới tòa lòng giãi người trình hậu. [10]
bày tỏ
1
19. 
Giột
Cóc được dương cơ giột tướng khanh. [10]
chê bai
1
20. 
Lảng vui há lảng niềm y quốc. [12]
có đâu thế, có lẽ nào lại thế
5
21. 
Hồ dễ
Chủ trương hồ dễ mấy dăm người. [20]
đâu có dễ
2
22. 
Hay
Tuệ quang hay được khí chung tình. [6]
biết
1
23. 
Khá
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng. [31]
đáng, nên
1
24. 
Khuây
Nghìn dặm chẳng khuây niềm ái quốc. [13]
quên
1
25. 
Kíp
Kíp mấy trần gian mấy thế thường. [4]
gấp
2
26. 
Làu làu
Gác thắm làu làu ngọc giá đông. [1]
hoàn toàn, trọn vẹn
2
27. 
Lảng
Lảng vui há lảng niềm y quốc. [12]
chểnh mảng
3
28. 
Lắng
Động thẳm rồng oanh lắng ngọc kinh. [15]
chú ý để lắng nghe
1
29. 
Lạt lẽo
Trên chùa lạt lẽo khách ăn xôi. [19]
lơ là, hững hờ
1
30. 
Lẻo lẻo
Lẻo lẻo trần ai chẳng chút gieo. [14]
trong suốt
1
31. 
Liễn liễn
Liễn liễn hãy ghi câu ích tráng. [12]
luôn luôn
1
32. 
Lịch thiệp
Sư chùa Am là một tay thiền gia lịch thiệp. [21]
từng trải, hiểu biết
1
33. 
Luống 𨻫
Mấy cuộc tang thương luống não nùng. [20]
chỉ mức độ nhiều: luôn luôn, thường xuyên, những
3
34. 
Mảng
Mảng vui thiên phúc cảnh thiên thành. [5]
mải
1
35. 
Mấy
Hẳn hoi mấy mẹ cha. [22]
với
2
36. 
Mấy
Cảnh có thanh tao cảnh mấy vui. [24]
mới
1
37. 
Mẽ mẽ
Thanh quang mẽ mẽ chốn dao quang. [4]
tươi sáng, đẹp đẽ
1
38. 
Nọ
Hỏi đá trơ trơ nọ trả lời. [19]
chẳng
1
39. 
Ngay lành 𣦍
Nhà tôi phải ở ngay lành. [3]
lương thiện
1
40. 
Ngọn
Ngọn chùa nay đã cải quan. [21]
(loại từ) thường dùng chỉ những vật nhọn, hiện nay không dùng cho chùa
1
41. 
Những
Tôi những hội bàn hội đồng kỳ hào. [21]
phó từ đứng trước động từ, thường có nghĩa là ‘chỉ’
3
42. 
Nhặt
Trân cam càng nhặt ý đinh ninh. [8]
chặt chẽ, ken dày, nhiều
1
43. 
Nhẽ
Đặt hậu nhẽ là làm sao? [26]
từ biểu thị nghi vấn về lí do
4
44. 
Phỉ
Thành toại nay đà phỉ sở nguyền. [12]
thỏa mãn
1
45. 
Phương chi 方之
Phương chi tôi tủi phận liễu bồ. [26]
(hư từ) hơn nữa, nữa là
1
46. 
Quyến
Cầm thông gió quyến khi tuyên pháp. [6], Quyến được xe loan biết mấy phen. [17]
dụ dỗ, rủ rê, lôi kéo
2
47. 
Rành rãnh
Đành thay rành rãnh dấu đăng hương. [4]
rõ ràng
1
48. 
Rày
Đến rày toa rập im liền. [2]
lúc đó, bây giờ
7
49. 
Rẽ
Rẽ thú vui người anh hùng muốn sửa sang lại [33]
gạt sang một bên
1
50. 
Rỡ ràng
Sắc ánh từ dương sắc rỡ ràng. [4]
rực rỡ
1
51. 
Rỡ rỡ
𠒦𠒦
Rộng chứa văn chương hằng rỡ rỡ. [32]
rực rỡ
1
52. 
Rẽ rẽ
Trừng thanh rẽ rẽ trần hiêu cách. [1]
xa lánh
1
53. 
Am thông trước ấy bao xa sá. [14]
kể (dùng với nghĩa phủ định)
1
54. 
Suốt (2)
Suốt cả họ ai cũng...[27]
Tất, hết
2
55. 
Tay
Sư chùa Am là một tay thiền gia lịch thiệp. [21]
người thành thạo, giỏi giang (nay dùng với nghĩa khác)
1
56. 
Toa rập 唆習
Kẻ Tiên Lữ lại lên Sơn Lộ toa rập. [2]
hùa nhau
2
57. 
Tua
Ơn cả côn bằng tua chớ lảng. [13]
nên, phải
2
58. 
Vả
Vả mộ đá bà Ngọc Uyển. [25]
vả chăng, vả lại
1
59. 
Xôn
Dòng oanh nổi nhụy xôn chèo khách. [14]
tấp nập, ồn ào
1
2. Các từ gốc Hán được dùng như một yếu tố của tiếng Việt
Đây là những từ gốc Hán gia nhập vào trong văn Nôm và thường xuyên xuất hiện trong văn bản Nôm như một yếu tố nội tại của ngôn ngữ.
Bảng 2. Các từ gốc Hán được dùng như một yếu tố của tiếng Việt

TT
Từ cổ
Ngữ cảnh

Nghĩa

Tần số xuất hiện (bia)
1. 
Sương bá sờn non cây điểm phấn. [14]
gieo
1
2. 
Bạch phát
Phơ phơ bạch phát mà chửa khuây. [8]
tóc bạc
1
3. 
Bồi thực
Ngài rất hay lưu tâm bồi thực những nơi danh thắng. [21]
vun trồng, chăm lo sửa sang
1
4. 
Cải
Huyện Hoàn Long được cải sáp về tỉnh Hà Đông [21]
chuyển đổi
1
5. 
Cấu
Khí linh càng cấu cấu càng linh. [10]
gây dựng
1
6. 
Chư tôn vị
Nguyện cho chư tôn vị đánh tôi cho tôi chết. [3]
các ngài
1
7. 
Chư vị
Miếu thờ chư vị. [21]
các bậc
1
8. 
Chất
Làng nhân họp mặt chất hưng công. [7]
bàn việc
2
9. 
Chu truân
Ngài chu truân về cảnh chùa chiền. [21]
chăm lo
1
10. 
Di
Thanh sa dấu cũ còn di để. [17]
để lại
1
11. 
Duyên
Duyên cha mẹ tôi sinh được một mình tôi". [36]
nguyên cớ
1
12. 
Đăng lâm
Đăng lâm trong thuở lần ca dắng. [16]
lên rừng
1
13. 
Đạo ngạn
Dồn dồn đạo ngạn bước thênh thênh. [5]
con đường theo đạo
1
14. 
Đệ cúng
Hễ sóc vọng nhật thì tự tăng oản quả đệ cúng từ đường. [18]
dâng lên cúng
1
15. 
Đoán
Bảo dân lễ mười lạng bạc cho ông sứ đoán cho đấy. [2]
xét xử
1
16. 
Đồi tệ
Chùa trong đồi tệ. [18]
hỏng nát
1
17. 
Giá
Giá chồng ông Đinh Xuân Huyến. [22]
lấy chồng
1
18. 
Già lam
Công nhóm già lam bện chữ nhân. [9]
chùa
1
19. 
Hằng
Rộng chứa văn chương hằng rỡ rỡ.[32]
thường
2
20. 
Hòa
Có phận thôi thì hòa hóa thương bi. [26]
và, cùng
1
21. 
Khiển quyển
Kỷ trượng đã nhiều bề khiển quyển. [8]
quyến luyến
1
22. 
Kỳ nhưng
Kỳ nhưng nhật phủ quan nha môn tham tài quá vậy. [2]
thế nhưng
1
23. 
Lị
Đương khi lị huyện Hoàn Long. [21]
trị nhậm
1
24. 
Lí tài
Khéo đường lí tài. [33]
sắp đặt công việc
1
25. 
Miên miên 綿綿
Lộc trời tước nước dõi miên miên. [12]
lâu dài mãi mãi
1
26. 
Mỗi
Đương lúc việc quan thư hạ, ra ngoạn cảnh chùa, mỗi than tiếc rằng...[21]
mỗi lần đều
1
27. 
Nhân cơ
Thản thản nhân cơ trông vời vợi. [5]
nền nhân
1
28. 
Nhược
Nhược ai có long riêng đổi. [23]
nếu
2
29. 
Phúc tâm
Phúc tâm chẳng khác sức can thành. [11]
tấm lòng
1
30. 
Sở nguyền
Thành toại nay đà phỉ sở nguyền. [12]
ước nguyện
1
31. 
Sự
Trải xem sự cổ hãy đành rành. [4] Nhược ngày sau ai không tuân thì phải chịu lấy sự tội rối. [29]
loại từ
1
32. 
Thản thản
Thản thản nhân cơ trông vời vợi. [5]
bằng phẳng
1
33. 
Thanh quang
Thanh quang mẽ mẽ chốn dao quang. [4]
sáng trong
1
34. 
Từ
Hội kỳ hào có từ thỉnh bà sư Am...[21]
lời
4
35. 
Trừng thanh
Trừng thanh rẽ rẽ trần hiêu cách. [1]
bỏ sạch được người gian, tục xấu
1
36. 
Truy mộ
Ai là không động lòng truy mộ. [30]
hâm mộ và đi theo
1
37. 
Tu tập
Thiện nam tín nữ cùng lòng tu tập. [18]
sửa sang
1
38. 
Y quốc
Lảng vui há lảng niềm y quốc. [12]
trị nước
1

Số lượng từ cổ trong văn bản là 97 từ/ 2372 đơn vị từ được thống kê, chiếm 4,1%. Từ Việt cổ có số lượng là 59 từ/ 2372 đơn vị từ được thống kê, chiếm 2,5%. Như vậy, so với các văn bản như Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh (14,2%), Quốc âm thi tập (8,75%), Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca (6,9%)(3), tỉ lệ từ cổ trong văn bia chữ Nôm thấp hơn rất nhiều. Điều này là do từ cổ tập trung chủ yếu ở văn bia thế kỷ XVIII trở về trước (88 từ cổ/ tổng số 130 lượt từ cổ được thống kê, chiếm 67,7% ), mà số lượng văn bia này lại rất hạn chế; đến văn bia thế kỷ XX thì số lượng từ cổ còn rất ít vì lúc này ngôn ngữ tiếng Việt đã bắt đầu quá trình đào thải những yếu tố cũ trong kho từ vựng để thay thế bằng những yếu tố mới.
Sự xuất hiện của từ cổ trong văn bản văn bia chữ Nôm có ý nghĩa bổ sung tư liệu cho nghiên cứu và chỉnh lý các từ điển từ cổ. Mặc dù số lượng từ cổ trong văn bản văn bia chữ Nôm không nhiều nhưng nó phản ánh sự tồn tại và mất đi của một số từ cổ trong các thời đại khác nhau một cách chân thực. Bài viết trên đây chỉ mới là những trình bày sơ lược từ kết quả nghiên cứu văn bia chữ Nôm của chúng tôi. Điều này, một phần cũng do số lượng tư liệu hiện còn chưa đủ để đưa ra những nhận xét hay kết luận mang tính khái quát. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý, và hy vọng có thể bổ sung vào một dịp khác.

Chú thích:
(1)Chữ này chúng tôi theo bản phiên âm của TS. Trương Đức Quả, hiện chưa tiếp cận được bản gốc nên chưa biết tự dạng thế nào.
(2)Như chú thích trên.
(3)Theo số liệu thống kê của ThS. Trần Trọng Dương, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Tài liệu tham khảo

I. Các tư liệu văn bia Nôm (số thứ tự văn bia Nôm theo danh mục xếp theo niên đại)

TT

Tên bia

Năm tạo
Địa điểm
Kí hiệu
1. 
Ngù ®Ò御題
1486
Dưỡng Mông, Kinh Môn, Hải Dương.
11765
2. 
T©n t¹o bi ký c¸c bøc ®¼ng tõ 新造碑記各幅等詞
1657
Tiên Lữ, Quốc Oai, Hà Tây
1938-39
3. 
B¶n x· t¹o lËp lÖ tÞch kho¸n ­íc c¸c ®iÒu bi v¨n
1693
Tam Đa, Yên Phong, Bắc Ninh
3961-62
4. 
V« ®Ò
1698
Gia Phúc, Thường Tín, Hà Tây
7881
5. 
Ngù ®Ò Nh¹c L©m tù thi
1717
Sơn Lộ, Quốc Oai, Hà Tây
1959
6. 
Ngù ®Ò Ph¸p Vò tù thi
1718
Gia Phúc, Thường Tín, Hà Tây
7880
7. 
TËp phóc h­ng c«ng cÊu t¹o kiÒu §«ng lËp bi ký
1718
Thụ ích, Yên Lạc, Vĩnh Phúc
5911-14
8. 
Ngù chÕ
1730
Thụy Hương, Chương Mỹ, Hà Tây
24388-89
9. 
HËu PhËt bi ký
1731
Lạc Đạo, Văn Lâm, Hưng Yên
5252-53
10. 
HËu PhËt bi
1732
Lạc Đạo, Văn Lâm, Hưng Yên
5249-51
11. 
HiÓn Linh tù trung bi ®×nh ®Ö nhÊt bi 顯靈寺中碑亭第一碑
1740
Lại Yên, Hoài Đức, Hà Tây
1460-61
12. 
Th­ bót ®Æc tø
1748
Thiện Mỹ, Hiệp Hòa, Bắc Giang
9213 -14
13. 
ChÝ mü bi ký
1767
Phú Đa, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc
14527
14. 
§¨ng TuyÕt S¬n h÷u høng
1770
Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Tây
34471
15. 
VÞnh TuyÕt S¬n c¶nh
1770
Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Tây
34478
16. 
V« ®Ò
1770
Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Tây
34482
17. 
V« ®Ò
1770
Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Tây

18. 
HËu thÇn bi ký
1780
Hữu Hòa, Thanh Trì, Hà Nội
2140
19. 
V« ®Ò
1914
Phụng Châu, Chương Mỹ, Hà Tây
31510
20. 
V« ®Ò
1914
Phụng Châu, Chương Mỹ, Hà Tây
31509
21. 
§ång Quang tù bi ký
1916
Quang Trung, Đống Đa, Hà Nội
21096
22. 
Kh¶i §Þnh b¸t niªn nhÞ nguyÖt thËp nhËt lËp bi ký
1923
Bồ Đình, Gia Viễn, Ninh Bình
19457
23. 
Danh ph­¬ng thiªn t¶i
1925
Vân Phương, Tiên Lữ, Hưng Yên
18485
24. 
V« ®Ò
1925
Phụng Châu, Chương Mỹ, Hà Tây
31517
25. 
Di chóc bi v¨n
1927
Phạm Lâm, Thanh Miện, Hải Dương
19736
26. 
Lª ThÞ Quyªn Th­ bi ký
1928
Kiến Hưng, Hà Đông, Hà Tây
24084
27. 
Ký kþ bi ký
1931
Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội

28. 
V« ®Ò
1933
Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội
Trương Đức Quả
29. 
§¹i Bi tù ®iÒu lÖ chÝ
1939
Cát Quế, Hoài Đức, Hà Tây
40323
30. 
Bia truyÒn ®¨ng chïa Linh ng
1944
Trung Hưng, Sơn Tây, Hà Tây
36067
31. 
V« ®Ò
Quý Mùi
Chân Lý, Nam Xương, Hà Nam
28455
32. 
V« ®Ò
ất Hợi
Văn miếu - Quốc tử giám, Đống Đa, Hà Nội
21405
33. 
C«ng ®øc bi ký

Phụng Châu, Chương Mỹ, Hà Tây
31502
34. 
V« ®Ò

Phụng Châu, Chương Mỹ, Hà Tây
31521
35. 
Xu©n thiªn bót th¶o

Đông Sơn, Thanh Hóa
16652
36. 
HËu kÞ bi kÝ

Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì, Hà Nội
Phật Giáo 22

II. Các sách và chuyên luận có liên quan

37.An Nam dịch ngữ, Vương Lộc (dịch và chú giải), Nxb, Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, 1997.
38.Nguyễn Thạch Giang: Từ ngữ văn Nôm, Nxb. KHXH, 1963.
39.Nguyễn Thạch Giang: Tiếng Việt trong thư tịch cổ Việt Nam, Nxb. KHXH, H.2003.
40.Hoàng Xuân Hãn: Văn Nôm và chữ Nôm thời Trần Lê, trong "La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn", Nxb. Giáo dục, 1998.
41.Nguyễn Thị Lâm: Nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt qua văn bản "Thiên Nam ngữ lục", Luận án Tiến sĩ ngữ văn, H. 2002.
42.Vương Lộc: Từ điển từ cổ, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, 2002.
43.Nguyễn Ngọc San: Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, Nxb. Đại học Sư phạm, H. 2003.
44.Nguyễn Ngọc San - Đinh Văn Thiện: Từ điển từ Việt cổ, Nxb. VH-TT, H. 2001.
45.Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Nxb. KHXH, H. 1988.
46.Trần Xuân Ngọc Lan: "Một số từ cổ trong cuốn Chỉ nam ngọc âm", Ngôn ngữ, số 3 - 1978./.
(Thông báo Hán Nôm học 2009, tr.507-522)