Friday 20 March 2020

Cần chờ bao lâu để ổn định một thuật ngữ dịch tễ học?



Thuật ngữ social distancing hiện được dịch bằng nhiều cách:
-cách biệt cộng đồng
https://www.msn.com/vi-vn/lifestyle/lifestylenews/thực-hiện-social-distancing-thời-covid-19-thế-nào-cho-đúng/ar-BB11rRoB?li=BBr8zL3&sa=U&ved=0ahUKEwis

)
-cách ly xã hội (
)
-giãn cách khi tiếp xúc

-giãn cách xã hội
)

-giữ khoảng cách cộng đồng

-giữ khoảng cách giao tiếp xã hội
)
-giữ khoảng cách khi xã giao
)
-giữ khoảng cách ở nơi công cộng
-giữ khoảng cách xã giao
)
-giữ khoảng cách xã hội

-hạn chế các giao tiếp xã hội và sinh hoạt cộng đồng
)
-hạn chế giao tiếp xã hội
)
-hạn chế tiếp xúc với đám đông

-hạn chế tương tác với đám đông

-phân cách người trong xã hội
)
-tạo khoảng cách xã hội
)
-tránh tiếp xúc xã hội
)
-tự cách ly và cô lập giao tế xã hội
)

Saturday 7 March 2020

Bệnh nhân họ Nguyễn là ai?

Chẳng là ai cả. Là ai cũng được.
 

Người Việt gọi nhau là chị Trúc, chị Hạnh, chị Thúy, chị Xuân chứ không gọi chị Trịnh, chị Trương, chị Huỳnh... Họ Nguyễn càng khó phân biệt hơn. Ông Lê Trung Hoa ước tính cứ mười người Việt thì có bốn người họ Nguyễn. (http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/ngon-ngu-hoc/5953-tai-sao-o-viet-nam,-so-nguoi-mang-ho-nguyen-nhieu-nhat.html). 

Chỉ dùng họ để chỉ người ta trong các tổ hợp Hán Việt có tính trang trọng: Hồ chủ tịch, Ngô tổng thống, Phan tiên , Trần huynh...


Viết một bệnh nhân là đủ rồi. Không việc gì phải lôi tên tuổi người ta lên báo trong trường hợp này. Khi  cần thì viết cả tên lẫn tuổi chứ đừng viết tuổi với họ. Tiếng Việt không phải là tiếng Anh, tiếng Pháp.
 

Sunday 1 March 2020

Ô có phải là cái vũng?

Trung Hoa (“Từ địa phương chỉ địa hình trong địa danh Nam Bộ”, Tạp Chí Ngôn Ngữ số 4, 2012, tr. 32-38) ở trang 34 giảng ôvũng, bàu rồi cho ví dụ là Ô Môn, Ô Cấp và Ô Ma. Ô Môn thì không biết, nhưng Ô Cấp và Ô Ma  đều là từ mượn âm tiếng Pháp. 



Ô Cáp [au] Cap St-Jacques. đi ~ aller au Cap St-Jacques.[i]

Ô Cắp [au] Cap St-Jacques. đi ~ aller au Cap St-Jacques.[ii]

Ô Cấp [au] Cap St-Jacques. đi ~ aller au Cap St-Jacques.[iii]

Ô Ma aux Mares. nông trại ~  ferme des Mares ; thành lính tập ~ (Sài Gòn xưa) Camp des Mares (*caserne des tirailleurs annamites).[iv]



Ngoài Ô Cấp và Ô Ma còn có Ô Quắn:
Ô Quắn Au Vent. bãi ~ Vũng Tàu {Plage/Pointe} Au Vent.[v]


[i] * Vì nói Hưng-yên (hải cảng Phố-hiến đời hậu Lê) thuộc về thượng du thì cũng chả khác bảo Saigon làm trên núi, hay rủ nhau đi Cà-mâu ăn nem Thụ-đức, hay tắm biển Ô-cáp ở Tây-ninh. Phong Hóa Tuần Báo số 70 (1933:14, Nhát-Dao-Cạo)
* Nói đến đây, ta lại nhớ đến cuộc tập trận Ô CÁP (cap. St Jacques) cách đây mấy năm, khi đô-đốc Godefroy mang hạm-đội tuần-dương từ Pháp sang ghé bến SAIGON. Tri Tân Tạp Chí số 5 (1941:13, Nguyễn Huyền-Tĩnh)
[ii] Trong Nam-kỳ nói đi chơi «  Ô-Cắp » (Au Cap) cũng là một cách phong-lưu lịch-sự như ngoài Bắc nói đi tắm Đồ-sơn vậy. Nam Phong Tạp Chí số 58 (1922:257, Phạm Quỳnh)
[iii] * Khỏi Ô-cấp tàu đi vụt vụt,
Những mênh mông trời nước một màu. Trung Lập Báo số 12 (1924:3, Tứ-Linh)
* Tên gọi “Ô Cấp” để chỉ Vũng Tàu được Việt hóa từ cụm từ Aller au Cap (có nghĩa là đi ra đất mũi để nghỉ mát và tắm biển) được rút gọn lại thành “Au Cap”, có lẽ ra đời cùng với nhu cầu đi nghỉ cuối tuần của người dân Sài Gòn, và rộng hơn cho cả người miền Đông Nam Kỳ và đồng bằng sông Cửu Long. Thạch Phương & Nguyễn Văn Minh (2005:119)
* Rồi đến Ô Cấp vào Sài Gòn lên Tân Đáo ở xóm Chiếu. Tô Hoài (2007:100)
VHS (1999:60)
[iv] * M.... làm quan một, tại đội binh thứ nhứt, lính tập Annam ở tại ô ma (Mares) vào đơn cách vài bữa rày mà thưa một tay anh chị lớn mật dám cỡi xe máy cũa ổng để đâu đó, mà cúc mất. Trung Lập Báo số 61 (1924:4)
* Như hồi ngày hôm qua đây lối ba giờ rưởi chiều tên Trần-Cư là sốp-phơ xe hơi số 1042 của chệt  Trần-Châu bán đồ tạp hóa ở con đường Cách-ti-na đụng đứa nhỏ Nguyển-văn-Cu là enfant de troupe học tại trường Ô-ma, tại nơi góc đường Frère Louis và Nguyển-Tấn-Nghiệm. Trung Lập Báo số 161 (1924:4)
* Vụ lấy trộm 2 cây súng liên-thanh, 4 cây súng trường và đạn ở đồn Ô ma, tháng giêng năm 1930; Nam Phong Tạp Chí số 184 (1933:514)
* Ánh sáng xanh của những nụ đèn điện hai bên đường Frère Louis về vùng Ô-ma đã buồn hơn, và đã lạnh hơn, nhưng thấm xuống từng dưới mặt đường nhựa. Tri Tân Tạp Chí số 175-178 (1945:11, Đông-Hồ)
* Miễu-Hiển-Trung do đức Cao-Hoàng dựng lên để thờ các công-thần khai cơ dựng nghiệp, trong có bài-vị mấy trăm cái, gồm có một bài vị thờ người thủy-binh Pháp matelot Manuel, miễu Hiển-Trung vốn ở trong vòng thành Ô-Ma (camp des mares, nay là trụ sở trung ương Cảnh-sát) Vương Hồng Sển (1969:70)
* Sau năm đảo chính 1945, binh Pháp trở lại chiếm cứ thành Ô-Ma, và dỡ bỏ miễu Hiển-Trung, về sau này không còn nhìn được xưa ở chỗ nào. Vương Hồng Sển (1969:70)
* Chỗ bán bánh đập ở một khoảng đất trống, bàn ghế kê la liệt ngoài trời, ở cuối đường Frères Louis (nay là Võ Tánh), giáp đường Cây Me (nay là Nguyn Trãi) và gần đồn Ô-Ma của nhà binh Pháp (sau là khu Ủy hội Quốc tế). Nguyễn Vỹ (1970b:334)
* Còn tại thành lính tập Ô Ma (Camp des Mares) thì có miếu thờ các công thần nhà Nguyễn, lập năm 1804, chữ gọi “Hiển Trung Từ”. Vương Hồng Sển (1990:155)
* Miếu Hiển Trung do đức Cao Hoàng dựng lên để thờ các công thần khai cơ dựng nghiệp, trong có bài vị mấy trăm cái, gồm có một bài vị thờ người thủy binh Pháp Matelot Manuel, miễu Hiển Trung vốn ở trong vòng thành Ô Ma (Camp des mares, có lúc là trụ sở trung ương Cảnh sát). Vương Hồng Sển (2004:87)
* Sau năm đảo chánh 1945, binh Pháp trở lại chiếm cứ thành Ô Ma, và dỡ bỏ miếu Hiển Trung, về sau này không còn nhìn được xưa ở chỗ nào. Vương Hồng Sển (2004:87)
* Chỗ bán bánh đập ở một khoảng đất trống, bàn ghế kê la liệt ngoài trời, ở cuối đường Frères Louis (nay là Võ Tánh), giáp đường Cây Me (nay là Nguyễn Trãi) và gần đồn Ô Ma của nhà binh Pháp (sau là khu ủy Hội Quốc tế). Nguyễn Vỹ (2006:826)
LNT (1993:666)
[v] Lộ trình chuyến đi đã được tính trước, nguyên ngày thứ bảy tắm ở Long Hải và nghỉ ở nhà mát của ngành quan thuế gần Dinh Cô, sang hôm sau qua Vũng Tàu tắm ở bãi Ô Quắn, ăn cơm trưa xong rồi về. Nguyễn Đông Thức (2006:43)
LNT (1993:667)

Wednesday 26 February 2020

Biết dùng từ nào để nói về sức mạnh quân sự?



Quần là quần. Áo là áo. Nhưng quần áo không chỉ là quần và áo.

Arm là vũ khí. Arms cũng là vũ khí. Nhưng arms không chỉ là vũ khí cho nên their valour không thể là sự dũng cảm của vũ khí mà phải là sự dũng cảm của quân binh. Brian Wu đáng khen ở chỗ đã nhận ra được their nói về người, nhưng tiếc một nỗi anh lại đi dịch arms thành những sự vũ trang mặc dù rõ ràng their tham chiếu tới arms

Không có bản tiếng Pháp nên không biết tại sao Nguyễn Nghị chỉ nói chuyện vũ khí mà không nói chuyện dũng khí. Nhóm Omega cũng dùng bản tiếng Pháp đó nhưng nói cả chuyện tài nghệ lẫn chuyện dũng khí. Nói chuyện tài nghệ thì không nói được cái ý liên quan đến vũ khí hay những sự vũ trang của Brian Wu. Dùng quân binh như Brian Wu thì phải hiểu ngầm là đã gộp cả tướng lĩnh vào đó. Đi tìm từ tiếng Việt tương đương với từng từ tiếng Anh (hay tiếng Pháp) trong nguyên bản quả là vất vả mà không sao lột được cái ý tác giả muốn nói là toàn bộ những gì liên quan tới cỗ máy chiến tranh của xứ Đàng Trong. Một lần nữa Brian Wu lại đáng khen khi anh nêu nhận xét:

Câu Anh ngữ "the arms of Cochinchina and their valour" với arms nghĩa là armaments, tức là "các quá trình trang bị cho các lực lượng quân sự chuẩn bị chiến tranh", chứ không là vũ khí hay tài nghệ như các dịch giả Việt Nam đã dịch.

Nhận xét trên không hoàn toàn chính xác vì nó gác valour ra ngoài và giảng armsarmament, không phải vũ khí hay tài nghệ. Brian Wu nói ra được cái ý lực lượng quân sự chuẩn bị chiến tranh, nhưng đáng tiếc là từ ngữ trong bản dịch của anh không thể hiện được cái ý đó. 

Ta có thể dễ dàng tìm được nhiều ví dụ cho thấy armsvalour trong tiếng Anh, armesvaleur trong tiếng Pháp... có mối quan hệ cơ hữu trong cấu tạo từ ngữ và khái niệm. Câu motto của bang Mississippi (Hoa Kỳ) là Virtute et armis, dịch ra tiếng Anh là By valour and arms. Câu ngạn ngữ La Tinh Virtuti nihil obstat et armis dịch ra tiếng Anh là Nothing withstands valour/virtue and arms. Armsvalour là hai thành tố cơ hữu của sức mạnh quân sự và có thể được xem như những yếu tố cơ bản của sức mạnh quân sự. Nên dịch cụm The arms of Cochinchina and their valour sức mạnh quân sự / quân lực / binh lực / quân đội của xứ Đàng Trong.