Các đồng chí,
Hội nghị Trung ương lần này họp sau khi tác phẩm mới của đồng chí Xtalin Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô xuất bản; sau khi Đại hội thứ XIX của Đảng Cộng sản Liên Xô đã quyết định những phương châm và nhiệm vụ mới để đẩy mạnh công cuộc hoà bình kiến thiết, đưa Liên Xô dần dần tiến từ chủ nghĩa xã hội lên chủ nghĩa cộng sản.
Hội nghị Trung ương lần này họp sau khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã hoàn thành cải cách ruộng đất thắng lợi, đã bắt đầu kế hoạch 5 nǎm kiến thiết đại quy mô, và chuẩn bị tổng tuyển cử bầu Quốc hội và quy định Hiến pháp.
Chúng ta có những ánh sáng mới soi đường và những nguồn hy vọng mới làm cho chúng ta tin tưởng thêm ở sự nghiệp lãnh đạo kháng chiến kiến quốc đến toàn thắng của Đảng ta.
Trong diễn vǎn khai mạc, Hồ Chủ tịch đã vạch nhiệm vụ trước mắt của Đảng, và nêu tóm tắt các vấn đề mà Hội nghị Trung ương lần này phải thảo luận và quyết định.
Trong các vấn đề đó, có hai vấn đề lớn nhất, quan hệ đến tiền đồ kháng chiến và cách mạng của ta:
- Phóng tay phát động quần chúng, triệt để thi hành chính sách ruộng đất hiện tại và chuẩn bị cải cách ruộng đất.
- Phương hướng chiến lược mới và vấn đề tǎng cường chỉ đạo chiến tranh.
Trong báo cáo này, tôi phát triển những chỉ thị mới của Hồ Chủ tịch và trình Hội nghị kế hoạch công tác nǎm nay.
I. Con đường của chúng ta được soi sáng thêm
Đại hội thứ XIX của Đảng Cộng sản Liên Xô là một việc quan trọng nhất trong lịch sử từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đến nay.
Xuất bản trước Đại hội, tác phẩm mới của đồng chí Xtalin Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, đã hướng dẫn công tác của Đại hội và thấm nhuần vào mỗi vǎn kiện của Đại hội. Tác phẩm đó cùng với vǎn kiện của Đại hội là những ngọn đèn pha rất sáng chiếu rọi con đường cách mạng của chúng ta.
Tác phẩm của đồng chí Xtalin đã phát triển thêm chủ nghĩa Mác - Lênin, nó bao gồm nhiều vấn đề rất quan trọng về mặt lý luận và thực hành. Trong báo cáo này, tôi chỉ nêu một vài điểm chính và liên hệ với cuộc kháng chiến và cách mạng của ta ngày nay.
Lần đầu tiên trong vǎn học mácxít, đồng chí Xtalin phát minh quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại và của chủ nghĩa xã hội, định rõ những điều kiện cốt yếu để tiến dần từ chủ nghĩa xã hội đến chủ nghĩa cộng sản.
Những nét chính của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại là:
"Kiếm lợi nhuận tư bản nhiều nhất bằng cách bóc lột, làm suy sụp và cùng khốn phần lớn nhân dân một nước, bằng cách nô dịch và bóc lột tàn nhẫn nhân dân các nước khác, đặc biệt là nhân dân các nước chậm tiến, sau hết bằng cách gây ra chiến tranh và quân sự hoá kinh tế quốc dân để kiếm cho thật nhiều lợi".
Trái lại, những nét chính của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội là:
"Thoả mãn đến tột bực những nhu cầu về vật chất và tinh thần ngày càng tǎng của toàn thể xã hội, bằng cách luôn luôn tǎng gia và cải tiến sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kỹ thuật tiên tiến".
Đồng chí Xtalin đã chỉ rõ chỗ khác nhau một trời một vực giữa chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa. Một bên chủ nghĩa tư bản thì lấy lợi nhuận ích kỷ của một nhóm tư bản làm mục đích, coi giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc, nhất là dân tộc chậm tiến, như nô lệ chỉ cốt cho tư bản bóc lột; quân sự hoá kinh tế, chạy thi về binh bị, gây ra chiến tranh, xô đẩy nhân dân các nước chém giết lẫn nhau để cho tư bản có thêm cơ hội vơ vét cho đầy túi tham.
Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ xâm lược nước ta cốt nhằm mục đích bóc lột dân ta, kiếm thặng dư lợi tức thuộc địa. Chúng đánh ta cốt để bóc lột tài nguyên nước ta, bắt dân ta mua hàng hoá của chúng, nai lưng ra làm cho chúng để chúng kiếm thêm lợi; cốt tiêu thụ quân nhu, vũ khí của bọn tư bản độc quyền sản xuất cho chiến tranh, làm cho chúng có dịp vơ vét những số lợi nhuận kếch xù.
Bọn bù nhìn Việt gian giúp Pháp - Mỹ bắn giết đồng bào, không ngoài mục đích dựa vào bọn đế quốc để duy trì những quyền lợi bất chính của chúng.
Đế quốc Pháp - Mỹ và bù nhìn Bảo Đại, Nguyễn Vǎn Tâm nói độc lập thống nhất, dân chủ, tự do, chẳng qua là dùng những danh từ hay ho tốt đẹp để che lấp những hành động phản nước, hại dân của chúng.
Ta kháng chiến là cốt đánh bại bọn ǎn cướp Pháp - Mỹ và bè lũ Việt gian chó sǎn của Pháp - Mỹ, giành độc lập thống nhất thật sự cho dân tộc, tự do dân chủ thật sự cho nhân dân và góp phần bảo vệ hoà bình thế giới. Đồng thời, ta xây dựng một nước dân chủ nhân dân, do con đường dân chủ nhân dân tiến tới chủ nghĩa xã hội, thực hiện một chế độ xã hội theo đúng quy luật kinh tế "thoả mãn đến tột bực những nhu cầu vật chất và tinh thần ngày một tǎng" của nhân dân ta.
Đúng như tinh thần chỉ thị của đồng chí Xtalin trong bài Diễn vǎn bế mạc Đại hội thứ XIX của Đảng Cộng sản Liên Xô, chỉ có những người cộng sản chúng ta mới nêu cao được ngọn cờ dân tộc và dân chủ, mới tập hợp được số đông nhân dân, lãnh đạo nhân dân đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành tự do và độc lập.
Tác phẩm của đồng chí Xtalin và báo cáo của đồng chí Malencốp còn soi sáng cho ta về tình hình thế giới hiện nay, vạch cho ta thấy rõ sự suy tàn của chế độ tư bản, sự củng cố và phát triển không ngừng của chủ nghĩa xã hội, và mục đích, nhiệm vụ của phong trào bảo vệ hoà bình thế giới.
Đồng chí Xtalin chỉ cho ta thấy sự tan rã của thị trường thế giới duy nhất và tính chất không thể tránh được của chiến tranh giữa các nước tư bản.
Ngày nay, thế giới chia làm hai phe: phe hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa đối lập với phe đế quốc phản dân chủ và gây chiến. Kết quả về mặt kinh tế của sự thành lập hai phe ấy là thị trường thế giới duy nhất đã tan rã. Ngày nay có hai thị trường khác nhau, song song với nhau, đối lập nhau: thị trường các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân, và thị trường các nước đế quốc, phụ thuộc và thuộc địa.
Chính đế quốc Mỹ, Anh, Pháp thi hành chính sách phong toả Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, đã vô tình xúc tiến việc thành lập và củng cố thị trường các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân: Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân hợp tác với nhau một cách chặt chẽ, bình đẳng và thành thật giúp đỡ nhau cùng tiến.
Sự phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân nhanh đến nỗi không bao lâu nữa các nước ấy chẳng những không cần mua hàng của thị trường các nước tư bản mà còn cần bán hàng cho thị trường đó. Kết quả sẽ làm cho thị trường tư bản đã co hẹp, lại co hẹp thêm, kinh tế các nước tư bản đã khủng hoảng lại khủng hoảng trầm trọng thêm.
Tình trạng ấy làm cho chủ nghĩa tư bản đã suy yếu càng thêm suy yếu, khủng hoảng nội bộ của các nước đế quốc mỗi ngày một tǎng, các nước đế quốc càng phải cố sống cố chết bám lấy thuộc địa, mâu thuẫn giữa các đế quốc ngày một sâu sắc và chiến tranh giữa các nước đế quốc sẽ không tránh khỏi.
Thật thế, đế quốc Mỹ lấn dần quyền lợi các nước trong phe chúng, đầu tư vào thị trường thuộc địa của các nước Anh, Pháp, v.v., làm cho Anh - Mỹ, Pháp - Mỹ, v.v. càng thêm xung đột quyền lợi.
Đồng chí Xtalin đoán trước rằng: các nước Anh, Pháp cũng như các nước ý, Tây Đức, Nhật sớm muộn sẽ cựa dậy để vứt bỏ xiềng xích của đế quốc Mỹ, thoát ra ngoài vòng nô lệ của Mỹ và đi vào con đường độc lập.
Nếu chiến tranh thế giới nổ ra thì không nhất định nổ ra giữa đế quốc và Liên Xô mà có thể nổ ra giữa các đế quốc với nhau. Vì kinh nghiệm chiến tranh thứ hai đã chỉ rõ, đánh Liên Xô là một việc vô cùng nguy hiểm cho một nước tư bản. Đánh nhau với Liên Xô thì vấn đề sống chết của chế độ tư bản nhất định sẽ đặt ra, có thể chiến tranh giữa các nước tư bản với nhau thì chỉ đặt ra vấn đề nước tư bản này hay nước tư bản kia làm bá chủ mà thôi. Hơn nữa, các nước đế quốc, trước hết là Mỹ, thừa biết Liên Xô không bao giờ tự mình gây chiến với bất cứ nước nào hết. Chúng nói nhiều về "mưu mô gây chiến" của Liên Xô cốt để lừa bịp dư luận, bắt nhân dân nước chúng nộp thuế để cung cấp cho ngân sách chiến tranh của chúng; để gây ra phong trào chạy thi binh bị, khiến cho bọn tư bản buôn súng kiếm được nhiều lời; sau nữa để lừa bịp lẫn nhau, như Mỹ lừa các nước thuộc khối Bắc Đại Tây Dương, đặng lũng đoạn kinh tế các nước đó và biến các nước đó thành thị trường và cǎn cứ quân sự của Mỹ.
Song bất cứ chiến tranh giữa các đế quốc với nhau hay giữa các đế quốc với các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân cũng đều làm cho nhân dân thế giới đau khổ. Chiến tranh giữa các nước đế quốc cũng dễ chuyển thành chiến tranh giữa các nước đế quốc với các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân. Cho nên ta phải phản đối chiến tranh đế quốc, chiến tranh cướp giật, chiến tranh xâm lược, kiên quyết bảo vệ hoà bình thế giới.
Đồng chí Xtalin nói:
"Chắc chắn hơn hết là phong trào bảo vệ hoà bình hiện nay, một phong trào có tính chất gìn giữ hoà bình, nếu thắng sẽ ngǎn ngừa được một cuộc chiến tranh nhất định, tạm thời trì hoãn cuộc chiến tranh đó, tạm thời gìn giữ hoà bình nhất định nào đó, làm cho một chính phủ hiếu chiến phải từ chức, một chính phủ tán thành tạm thời bảo vệ hoà bình lên thay. Cố nhiên, đó là một việc tốt. Rất tốt nữa là khác. Nhưng chưa đủ để trừ bỏ những cuộc chiến tranh, nói chung không thể tránh được giữa các nước tư bản. Việc đó chưa đủ, vì mặc dầu tất cả những thắng lợi ấy của phong trào hoà bình, chủ nghĩa đế quốc vẫn còn đó, vẫn sống. Bởi vậy, tính chất không thể tránh được của chiến tranh vẫn y nguyên".
"Muốn xoá bỏ tính chất không thể tránh được của chiến tranh, phải xoá bỏ chủ nghĩa đế quốc".
Thật là rõ ràng, sâu sắc. Mục đích, yêu cầu, tính chất, nhiệm vụ của phong trào hoà bình thế giới hiện nay đã được quy định rành mạch.
Đồng chí Xtalin đã sửa chữa những tư tưởng cô độc, hẹp hòi muốn biến phong trào hoà bình hiện nay thành phong trào có tính chất đảng phái; chỉnh đốn những tư tưởng lẫn lộn phong trào hoà bình với phong trào xã hội chủ nghĩa; cho là lực lượng hoà bình dân chủ thế giới đã đủ mạnh rồi, chiến tranh nhất định không thể xảy ra được nữa, rồi mất cảnh giác và đi đến thủ tiêu cách mạng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc.
Có người nói: chiến tranh giữa các nước tư bản đã không thể tránh được thì cứ để mặc cho nó nổ ra, đấu tranh bảo vệ hoà bình làm gì vô ích; chiến tranh nổ ra đế quốc sẽ mất thì cứ để cho nó nổ ra có hơn không, tư tưởng thủ tiêu đấu tranh bảo vệ hoà bình và tư tưởng mong chiến tranh, ỷ lại vào may rủi của chiến tranh thế giới để tiêu diệt đế quốc là những tư tưởng sai lầm, nguy hiểm.
Tích cực bảo vệ hoà bình, dù là bảo vệ tạm thời, để cho lực lượng của Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, lực lượng cách mạng của nhân dân các nước đế quốc và thuộc địa ngày thêm phát triển trong khi lực lượng đế quốc ngày một suy yếu, nội bộ đế quốc ngày một lủng củng. Đó là một điều rất có lợi cho cách mạng. Ta nên nhớ rằng: bản thân chiến tranh đế quốc không làm cho đế quốc tự tiêu diệt. ở nước đế quốc thắng trận cũng như ở nước đế quốc bại trận, chỉ có nhân dân" nổi dậy làm cách mạng đánh đổ bọn đế quốc thống trị trong nước, hoặc quân đội nước xã hội chủ nghĩa vì đánh bọn đế quốc xâm lược mà đuổi chúng đến tận tổ để tiêu diệt chúng và giúp nhân dân nước chúng nổi dậy giành chính quyền, thì chủ nghĩa đế quốc một nước mới bị tiêu diệt mà thôi.
Không phải có chiến tranh đế quốc nhân dân một nước mới làm được cách mạng. Trong lịch sử có nhiều cuộc cách mạng đã nổ ra trong lúc không có chiến tranh.
Bổn phận nhân dân các nước trên thế giới hiện nay là ra sức gìn giữ hoà bình. Nhưng phải cảnh giác và tích cực chuẩn bị. Nếu bọn đế quốc liều lĩnh gây ra chiến tranh thế giới thứ ba thì nhân dân các nước đế quốc, phụ thuộc và thuộc địa phải nổi dậy làm cách mạng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, tiêu diệt nguồn gốc của chiến tranh.
Hội nghị hoà bình châu á và Thái Bình Dương cũng như nhân dịp Đại hội hoà bình thế giới lần thứ ba họp ở Viên vừa rồi đã kiên quyết đòi bọn đế quốc phải đình chỉ chiến tranh xâm lược Triều Tiên, Việt - Lào - Miên và Mã Lai. Nhân dân Việt Nam ta phải kháng chiến mạnh hơn để góp phần cốt yếu vào việc thực hiện nghị quyết hoà bình của các dân tộc.
Đế quốc càng suy yếu càng cố bám lấy nước ta, kháng chiến của ta nhất định phải trường kỳ, gian khổ.
Ta kháng chiến nhằm tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược, thủ tiêu thế lực phong kiến phản động trong nước, giải phóng dân tộc, tạo điều kiện phát triển dân chủ nhân dân và mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Phong trào giải phóng dân tộc, phong trào dân chủ nhân dân và phong trào bảo vệ hoà bình thế giới kết hợp trong cuộc kháng chiến của ta một cách mật thiết.
Cũng như nhân dân các nước, nhân dân nước ta, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch, đang tiến trên con đường hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà đồng chí Xtalin soi sáng.
Mặc dầu gian khổ, tiền đồ tốt đẹp nằm chắc trong tay chúng ta.
II. Tình hình đế quốc Pháp - Mỹ ở Việt Nam và mưu mô của chúng đối với ta
Đồng chí Malencốp đã vạch rõ đế quốc Mỹ là tên lính sen đầm đàn áp các dân tộc đang chiến đấu giành độc lập, tự do, là thủ phạm của chiến tranh, phá hoại hoà bình thế giới. Đế quốc Pháp càng nhờ Mỹ giúp về tiếp tục chiến tranh xâm lược Việt - Miên - Lào, càng bị Mỹ lấn dần quyền lợi ở Pháp, ở thuộc địa châu Phi cũng như ở Việt - Lào - Miên.
Mỹ có cả một kế hoạch lấn dần Pháp ở Việt - Lào - Miên để tiến tới thay thế Pháp về cả ba mặt chính trị, kinh tế và quân sự.
Chiến tranh xâm lược Việt - Lào - Miên nằm trong kế hoạch của Mỹ chuẩn bị chiến tranh thứ ba, xâm lược Trung Quốc và khống chế Đông Nam á.
Đế quốc Mỹ thèm muốn Việt - Lào - Miên vì hai lẽ:
1. Việt - Lào - Miên giữ một vị trí chiến lược quan trọng ở Đông Nam á. Việt và Lào sát Hoa Nam, có 700 cây số biên giới chung với Trung Quốc. Việt - Lào - Miên là bao lơn của Đông Nam á quay ra Thái Bình Dương, có 4.000 cây số bờ biển và có những cǎn cứ hải quân tốt như Cam Ranh, Đà Nẵng, Sài Gòn, Hải Phòng.
Việt - Lào - Miên là cái cầu nối liền Trung Quốc với các nước Đông Nam á, và Thượng Lào thật là cái bàn xoay, liền biên giới với bốn nước Trung Quốc, Xiêm, Diến Điện và Việt Nam.
2. Việt - Lào - Miên rất giàu nguyên liệu cần thiết cho Mỹ, như: thiếc, than đá, cao su, phốt phát, v.v.. Ngay từ 1951, Mỹ đã sử dụng đến 89% cao su và 52% thiếc của khối Việt - Lào - Miên.
Mỹ đã nhận chi một phần cho ngân sách chiến tranh của Pháp ở Việt - Lào - Miên. Nhưng Mỹ bắt Pháp phải nhận cho các chính phủ bù nhìn Việt - Lào - Miên được ký kết "những hiệp ước thương mại" với các nước khác (nghĩa là với Mỹ) và thừa nhận cho Mỹ có quyền trực tiếp kiểm soát quân đội bù nhìn Việt - Lào - Miên.
Như thế là Mỹ đã nhúng thẳng tay vào chiến tranh xâm lược Việt - Lào - Miên rồi.
Mỹ giục Pháp đề cao bù nhìn Việt - Lào - Miên và xây dựng nguỵ quân để Mỹ dần dần nắm thẳng bù nhìn và nguỵ quân.
Thủ đoạn quỷ quyệt của Mỹ là giúp vũ khí và tiền cho Pháp và bù nhìn để dùng xương máu của người làm chiến tranh thay cho mình. Mưu mô thâm độc của Mỹ là giúp Pháp có kế hoạch có chừng mực, khiến Pháp ngày càng phụ thuộc vào Mỹ, bảo gì nghe nấy.
Mỹ giúp Pháp nhưng vẫn đá ngầm Pháp: cho bọn Đại Việt tổ chức chính đảng chống cộng sản và chống Pháp, giúp vũ khí cho phái Cao đài thân Mỹ lập "chiến khu"; xúi một vài nhóm thân Mỹ ở Cao Miên tổ chức chống Pháp và chống Việt Minh; giành giật, mua chuộc bọn thân Pháp, biến dần tay sai của Pháp thành tay sai của Mỹ.
Pháp nhờ Mỹ giúp, nên phải phục tùng Mỹ, song vẫn mâu thuẫn với Mỹ, như hục hặc về quyền lợi với Mỹ, đàn áp bọn thân Mỹ, v.v.. Nhưng mỗi khi Pháp tỏ vẻ ương ngạnh với Mỹ ở Việt - Lào - Miên, thì Mỹ giật cái dây thòng lọng "viện trợ" ở cổ thực dân Pháp, khiến cho thực dân Pháp lại phải im miệng.
Từ trước đến nay, Đảng Cộng sản Pháp, người chân chính đại biểu quyền lợi của nhân dân Pháp, nhận rõ thanh niên Pháp sang đánh Việt - Lào - Miên là hy sinh cho quyền lợi ích kỷ của đế quốc Mỹ và của bọn phản động Pháp thân Mỹ, nên kiên quyết chủ trương giảng hoà với Chính phủ ta và đòi rút quân đội viễn chinh về Pháp. Phong trào phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam càng ngày càng ǎn sâu lan rộng ở Pháp và ở thuộc địa Bắc Phi của Pháp.
Nhận rõ dã tâm của Mỹ, một số người Pháp trước kia chủ trương tiếp tục chiến tranh ở Việt Nam đến cùng, nay cũng đã bắt đầu đòi đình chỉ chiến tranh Việt Nam. Vì họ nhận rõ:
- Chiến tranh xâm lược Việt Nam càng ngày càng có tính chất đánh thuê cho Mỹ;
- Thắng thì Mỹ hưởng phần lớn nhất nếu không hưởng tất cả; bại thì kẻ thiệt nhất vẫn là Pháp;
- Càng đánh càng phải nhượng quyền lợi ở Pháp và ở thuộc địa Pháp cho Mỹ;
- Đánh thì không xây dựng được quân đội ở nước Pháp theo kế hoạch đã định, thế uy hiếp của Tây Đức đối với Pháp càng tǎng.
Chủ trương của Đảng Cộng sản Pháp hiện nay là lôi kéo bất cứ người Pháp nào muốn bảo vệ độc lập của nước Pháp và hoà bình thế giới, chống võ trang lại Tây Đức và đình chỉ chiến tranh ở Việt Nam, lập thành mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ và bọn phản động Pháp thân Mỹ.
Tóm lại, chiến tranh xâm lược Việt Nam là chiến tranh của đế quốc Pháp - Mỹ. Kẻ thù của nhân dân Việt Nam hiện nay là thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và Việt gian bù nhìn, đại biểu cho đại địa chủ phong kiến phản động và tư sản mại bản.
Phải chống lại tư tưởng coi thường vai trò của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, cho Mỹ là phụ thuộc, không nhận rõ kế hoạch của đế quốc Mỹ từ can thiệp tiến dần đến xâm lược Việt Nam. Song cũng phải chống tư tưởng cho Mỹ là kẻ thù chính trước mắt, còn thực dân Pháp là phụ thuộc, quên rằng hiện nay Pháp đang đem quân trực tiếp đánh ta, ta phải đánh Pháp, và đánh Pháp tức là đồng thời đánh can thiệp Mỹ.
Cũng phải chống tư tưởng đánh giá quá cao lực lượng của Mỹ, sợ Mỹ, cho là ta đánh Pháp còn chưa xong, đánh sao được Mỹ, không nhận thấy nhân dân Việt Nam có cả Mặt trận hoà bình, dân chủ thế giới ủng hộ; còn Mỹ thì tuy bề ngoài mạnh, nhưng có rất nhiều nhược điểm và đang sa lầy ở Triều Tiên.
Đồng thời, phải chống tư tưởng chờ đợi một cuộc điều đình với Pháp. Ta không quên rằng: chỉ có tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch, làm cho địch không thể nào tiếp tục chiến tranh được nữa, lúc đó chúng mới chịu giảng hoà. Chúng ta hoan nghênh tất cả những cuộc vận động của Đảng Cộng sản Pháp và các nhân sĩ tiến bộ Pháp, của nhân dân Pháp và thuộc địa Pháp đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Nhưng vấn đề chủ yếu là ở nơi ta. Ta đánh cho Pháp bại thì mới có hoà bình chân chính trên đất ta. Cuộc vận động hoà bình của nhân dân Pháp cũng như của nhân dân thế giới ủng hộ cuộc kháng chiến của ta nhiều nhưng vẫn là phụ. Sức mạnh của ta vẫn là chính.
ở Việt Nam, Pháp - Mỹ gặp nhiều khó khǎn, phải kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược, nên hiện nay chúng đang xúc tiến việc thi hành chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, và chiến lược của chúng chủ yếu là củng cố hậu phương, giữ gìn vị trí đã giành được.
Để thi hành chính sách và chiến lược ấy, chủ trương của địch là:
a) Đối với vùng sau lưng địch, thì dùng chính sách "bình định và chiêu an": một mặt ra sức càn quét, khủng bố dã man và cướp bóc, vơ vét nhân lực, vật lực, tài lực của dân ta; một mặt phỉnh phờ, lừa bịp đồng bào ta bằng những "cải cách" giả dối và những luận điệu tuyên truyền xảo trá.
b) Đối với vùng tự do, thì chúng tích cực phá hoại bằng mọi cách: ném bom phá kè đập, đê điều, đường giao thông vận tải, bắt đầu thả sâu bọ phá mùa màng ở nhiều nơi (có thể tiến tới thả vi trùng, giết người, phong toả kinh tế; cấu kết với bọn thổ phỉ, lôi kéo dân tộc thiểu số, lợi dụng tôn giáo; tǎng cường chiến tranh gián điệp, thỉnh thoảng đánh thọc ra vùng tự do để phá phách, v.v..
Để tích cực thi hành chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh và chiến lược củng cố hậu phương, giữ gìn vị trí đã giành được, tháng 6-1952 thực dân Pháp đưa tên Nguyễn Vǎn Tâm, một tên tay sai đại gian đại ác lên thay Trần Vǎn Hữu; đồng thời cải tổ chính phủ bù nhìn, cho những tên Việt gian đắc lực hơn vào bộ máy nguỵ quyền để xúc tiến việc thực hiện chính sách khủng bố và lừa bịp mà chúng gọi là chính sách "bình định và chiêu an".
Trong vùng sau lưng địch, để thi hành chính sách "bình định và chiêu an", bọn bù nhìn đã lập ra những "đoàn quân thứ hành chính lưu động" đi theo quân đội càn quét của địch, để phỉnh phờ, dụ dỗ nhân dân, lọc tỉa cán bộ, bộ đội, du kích ra khỏi nhân dân; cài gián điệp, chỉ điểm; lập nguỵ quyền và tuyên truyền "viện trợ Mỹ".
Bù nhìn Tâm dùng mọi thủ đoạn vơ vét, bóc lột nhân dân trong vùng tạm bị chiếm (tǎng thuế cũ, đặt thuế mới, mở xổ số, phát hành giấy bạc Bảo Đại, v.v.) để lập ngân sách nuôi nguỵ quân.
Để che giấu nguỵ trang những thủ đoạn áp bức, bóc lột nặng nề của giặc và tranh thủ nhân dân với ta, bọn Tâm đưa ra một vài cải cách lừa bịp.
Chúng tuyên bố sẽ thi hành "chương trình cải cách ruộng đất", bán ruộng của địa chủ cho nông dân, cho dân nghèo vay vốn mua ruộng, định địa tô nhiều nhất là 1/3 hoa lợi, v.v.. Song đó chỉ là những chiêu bài giả hiệu. Sự thật, chúng vẫn ra sức cướp phá, vơ vét thóc lúa của nông dân vùng tạm bị chiếm, và tịch thu ruộng đất của những người kháng chiến chia cho bọn Việt gian phản nước mà chúng cho là "có công với quốc gia".
Chúng phỉnh phờ công nhân bằng một bộ luật lao động lừa bịp, ra những điều gian dối, như cấm cưỡng bách lao động, định lương tối thiểu ..., để che đậy những điều phản động, thí dụ cấm công nhân bãi công, biểu tình, cấm hoạt động chính trị, v.v..
Chúng đề ra một chương trình cải tổ hành chính nhằm thay đổi một số tay sai bất lực, thải hồi một số viên chức để lùa họ vào nguỵ quân và thi hành chính sách gọi là "trừng thanh lại trị", đưa ra xử án một vài tên tay sai đã bóc lột, áp bức nhân dân quá tàn nhẫn và bị nhân dân kịch liệt phản đối, để phỉnh dân. Đội lốt "dân chủ" để lừa bịp dư luận, chúng sắp tổ chức "tuyển cử", lập ra những hội đồng bù nhìn các cấp và quốc hội bù nhìn, tập hợp những phần tử địa chủ phong kiến phản động, tư sản mại bản, trí thức cơ hội và cường hào mật thám.
Chúng còn lập ra các tổ chức như "Thanh niên quốc gia", "Phụ nữ quốc gia", "Hội phụ lão", "Hội thiếu nhi", các tổ chức tôn giáo, v.v. nhằm thu hút quần chúng để tuyên truyền chủ nghĩa quốc gia giả hiệu, tuyên truyền chống kháng chiến, tổ chức gián điệp, phá hoại cơ sở của ta.
Đối với vùng tự do, địch phá hoại như thế nào?
Chúng cấu kết với thổ phỉ ở biên giới Việt - Hoa, tiếp tế vũ khí, lương thực cho bọn này để quấy rối hậu phương ta và cản trở liên lạc của ta với Trung Quốc. Chúng dụ dỗ, lôi kéo một số thổ ty, lang đạo, và mua chuộc bọn cầm đầu phản động trong dân tộc thiểu số ở Liên khu 4, Liên khu 5 để thực hiện âm mưu chia rẽ dân tộc.
Chúng ráo riết thực hiện âm mưu lợi dụng tôn giáo, dùng bọn phản động đội lốt thầy tu, tuyên truyền chia rẽ giáo dân với Chính phủ, vận động giáo dân không đóng thuế nông nghiệp, không đi dân công, v.v.. Việc bọn phản động công giáo phổ biến thư Đulây trong giáo dân đã gây ảnh hưởng rất xấu. ở một vài vùng công giáo thuộc Liên khu 4, mấy tháng trước đây, bọn chúng hoạt động táo bạo, khiêu khích ra mặt; xúi giáo dân cướp thóc thuế, rào làng canh gác, tổ chức biểu tình phản đối chính quyền, đánh cán bộ (công giáo ở Hưng Yên, Xã Đoài thuộc Nghệ An, tháng 3, tháng 4 và Phật giáo ở Hoằng Lộc, Hoằng Thịnh, Hoằng Đức thuộc Thanh Hóa, tháng 8, 9 nǎm ngoái).
Gần đây, đế quốc Pháp - Mỹ ra sức tǎng cường hoạt động chiến tranh gián điệp. Chúng lợi dụng đường dây mậu dịch, lợi dụng những gia đình công chức, cán bộ, bộ đội trong vùng tạm bị chiếm, lợi dụng những cán bộ, bộ đội đào ngũ hoặc bị bắt mà đầu hàng chúng, huấn luyện do thám rồi thả ra, cho chúng thâm nhập bộ máy kháng chiến của ta.
Những vụ ném bom, bắn phá kho tàng, công xưởng của ta và những vụ chính trị do học sinh bộc lộ ở trường lục quân chỉnh huấn vừa rồi, chứng tỏ hoạt động của gián điệp địch đã lọt vào một số đơn vị và cơ quan của ta.
Cùng với những hoạt động phá hoại về chính trị, địch tǎng cường việc phá hoại ta về mặt kinh tế, hòng làm cạn nguồn nhân lực, vật lực của ta, làm giảm sức chiến đấu của dân ta.
Mấy tháng nay, địch tập trung máy bay, ném bom có trọng điểm để phá hoại đường giao thông quan trọng, những đê đập, công trình thuỷ lợi của ta.
Trong vùng du kích, chúng phá đê (Bắc Ninh), làm cho mùa màng ngập lụt, đóng cống (Thái Bình); bắt nhân dân nhổ ngô, lúa, ở dọc đường giao thông và các bãi sông; cho xe quần nát lúa, bắn giết trâu bò, nông dân. Mặt khác, chúng tung tiền ra đong thóc gạo tích trữ để nuôi nguỵ quân và xuất khẩu, làm cho giá gạo trong các thành phố tạm bị chiếm cao vọt, đời sống của nhân dân, nhất là nhân dân lao động ở đó đã khổ lại khổ thêm.
Gần đây, cǎn cứ vào báo cáo của các khu, địch đã dùng đến thủ đoạn vô cùng thâm độc là thả sâu phá hoại mùa màng của ta ở nhiều nơi: Phú Thọ, Bắc Giang, Thái Nguyên, Kiến An, Nam Định, Thanh Hoá, Liên khu 5 và Nam Bộ.
Ngoài ra, chúng còn phong toả kinh tế ta, bao vây các cửa khẩu, không cho ta bán lâm sản, thổ sản vào vùng sau lưng địch. Song chúng giữ độc quyền cho bọn gián điệp và phòng nhì mang hàng xa xỉ bán ra vùng tự do, nhằm lấn thị trường của ta, đồng thời tổ chức lấy tin và gây mối gián điệp ở hậu phương ta.
Tóm lại, chính sách của địch cực kỳ thâm độc. Ta phải hiểu rõ mưu địch để phá những mưu đó một cách có hiệu quả.
Có đồng chí cho bọn bù nhìn chỉ là một nhúm cá nhân không có tính chất giai cấp, không đại biểu cho tầng lớp nào hết. Các đồng chí ấy không nhận thấy bọn Bảo Đại, Nguyễn Vǎn Tâm, Nguyễn Đệ, v.v. là đại biểu của đại địa chủ phong kiến phản động và tư sản mại bản, hiện làm chó sǎn cho đế quốc Pháp - Mỹ.
Một số đồng chí khác coi thường chính sách lừa phỉnh, mua chuộc của địch và nguỵ, cho là đồng bào ta ai mà không biết dã tâm của chúng, rồi lơ là hoặc thủ tiêu việc tuyên truyền chống lại những chính sách đó, không kịp thời vạch mặt nạ của chúng, không kiên nhẫn tranh thủ nhân dân, vận động nhân dân vùng sau lưng địch đấu tranh chống lại chúng.
Muốn phá chính sách của địch dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh thì không thể không đánh đổ bọn bù nhìn.
Đối với Lào - Miên, gần đây Pháp và Mỹ cũng ra sức củng cố chính quyền bù nhìn và xây dựng nguỵ quân. Chúng dùng nguỵ quân Lào - Miên hòng phá kháng chiến của nhân dân Lào - Miên. Chúng luôn luôn chia rẽ các dân tộc Lào - Miên và chia rẽ nhân dân Lào - Miên với nhân dân Việt Nam.
Đế quốc Mỹ lại lập nhiều trường bay lớn trên đất Lào, Miên, Xiêm và tích cực giúp phản động Xiêm, xây dựng quân đội, giúp tàn quân Tưởng ở phía bắc Diến Điện.
Chính sách của Tổng thống mới của Mỹ là tiến tới lập một khối liên minh phản động ở Đông Nam á và Thái Bình Dương, hòng động viên các lực lượng phản động đàn áp phong trào giải phóng của các dân tộc ở đó.
Mỹ đang dự định dùng quân Xiêm và tàn quân Tưởng ở Diến Điện xâm phạm Lào - Miên và Việt Nam.
III. Triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và tiến tới cải cách ruộng đất
Ta đánh xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ. Ta là nước nông nghiệp đánh với kẻ thù đế quốc có kỹ nghệ nặng, phương tiện kỹ thuật dồi dào.
Bắt đầu kháng chiến, ta yếu hơn địch, đến nay ta đã mạnh lên, địch đang yếu đi, nhưng ta vẫn chưa giành được ưu thế quân sự.
Pháp yếu đi, Mỹ tiếp sức cho Pháp. Giai đoạn cầm cự kéo dài. Kháng chiến kéo dài.
Ta phảitrường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh.
Trường kỳ kháng chiến thì dân mỏi mệt, vì phải chịu đựng nhiều.
Tự lực cánh sinh là dựa vào sức nhân dân mà đánh giặc, và giành thắng lợi, không nên ỷ lại vào các nước bạn.
Đa số nhân dân là nông dân. Nông dân đóng góp nhiều nhất về người và của cho kháng chiến. Muốn duy trì kháng chiến, phải động viên nhân dân, bồi dưỡng cho nhân dân, chủ yếu là động viên nông dân, bồi dưỡng lực lượng cho nông dân.
Cần có chính sách ruộng đất rõ rệt, đúng đắn. Nếu không sẽ không kéo được nông dân hǎng hái tham gia kháng chiến, sẽ không dựa được vào lực lượng to lớn của nông dân.
Có chính sách đúng chưa đủ. Còn phải thi hành chính sách đó cho đầy đủ, kịp thời. Nếu không, nông dân sẽ do dự trước những hy sinh, không quyết tâm dốc sức người, sức của cho kháng chiến, không quyết tâm chiến đấu, quyết giành thắng lợi cuối cùng.
Nông dân không quyết tâm thì rất nguy hiểm. Không nên tưởng rằng bất cứ tình thế nào nông dân cũng đều đi với ta.
Bởi vậy, ta phải quan tâm đến đời sống của nông dân, thoả mãn yêu cầu chính đáng của nông dân.
Chính sách tóm tắt của ta đối với nông dân trong cuộc cách mạng này là: trước giảm tô giảm tức, sau thực hiện người cày có ruộng.
Đại hội đã đề ra chính sách ruộng đất cụ thể của Đảng trong thời kỳ kháng chiến:
- Giảm tô giảm tức,
- Tạm cấp ruộng đất của Pháp và Việt gian,
- Chia lại công điền cho công bằng,
- Sử dụng ruộng vắng chủ cho hợp lý, v.v..
Nhưng mấy nǎm nay ta thi hành không triệt để, vì:
Cán bộ ta coi thường chính sách ruộng đất, không quan tâm đến đời sống của nông dân, quá nhân nhượng với địa chủ, không đi sát với quyền lợi quần chúng.
Lúc thi hành, ta quá thiên về thuyết phục địa chủ, và làm thay, ban ơn cho nông dân. Ta không dám phóng tay phát động quần chúng nông dân, lãnh đạo nông dân đấu tranh, bắt địa chủ phải triệt để thi hành chính sách của Đảng và Chính phủ. Thành ra có nhiều nơi địa chủ ngoài mặt thì giảm mà trong không giảm, giảm tay này lấy lại tay kia, có nơi còn truy tô hoặc không giảm gì hết, nhất là đại địa chủ và địa chủ nhà chung.
Ruộng đất của Pháp và Việt gian tuy có đem chia cho nông dân, nhưng ngay ở vùng tự do vẫn còn nhiều nơi chưa chia hết hoặc chia không công bằng. Ta lại chủ trương "tạm cấp", làm cho nông dân không yên tâm tǎng gia sản xuất, kém tin tưởng vào chính sách của Đảng và Chính phủ.
Ruộng công nói chung vẫn quân cấp theo chế độ cũ. Địa chủ, phú nông có thừa ruộng, song vẫn được cấp. Nhiều nơi họ lại lợi dụng địa vị trong chính quyền và Đảng ở địa phương mà giành lấy phần tốt, còn nông dân không đất hoặc thiếu đất thì không được là bao.
Nhiều địa chủ chạy vào vùng tạm bị chiếm mà ruộng của họ trong một thời gian khá lâu vẫn để nguyên cho họ hàng hay quản lý của họ phát canh thu tô, hoặc do chính quyền quản thủ thu tô. Mới đây mới chủ trương giao cho nông dân.
Tóm lại, chính sách ruộng đất không được thi hành ráo riết. Thế lực phong kiến vẫn đè lên đầu nông dân lao động. Trong khi đó nông dân phải đóng góp nhiều nhất cho kháng chiến, phải đi lính, đi dân công, đóng thuế nông nghiệp, v.v..
Cho nên vài nǎm nay, mặc dầu Đảng và Chính phủ khuyến khích, nông dân một số tỏ ra uể oải, không hǎng hái tǎng gia sản xuất, không hǎng hái tòng quân.
Còn địa chủ thì đại địa chủ nói chung đã phản quốc ra mặt, hoặc số rất ít trung lập, lờ phờ; trung, tiểu địa chủ phần nhiều trung lập, số rất ít ủng hộ kháng chiến; địa chủ nhà chung hầu hết phản động, lừng chừng.
Kháng chiến kéo dài, càng ngày số địa chủ "dinh tê" càng đông. Kẻ nào không dinh tê thì cũng phản đối chính sách ruộng đất và chính sách thuế nông nghiệp bằng cách này hay cách khác. Địa chủ kháng chiến thường có hai mặt: mặt tán thành kháng chiến và mặt chống chính sách giảm tô giảm tức, thuế nông nghiệp, v.v..
Thân sĩ địa chủ thật yêu nước và tiến bộ thì rất ít.
Chính sách của Bảo Đại, Nguyễn Vǎn Tâm chủ yếu là dựa vào địa chủ, bênh vực địa chủ, thu hút địa chủ, bóc lột, lừa phỉnh, áp bức nông dân.
Quan hệ bóc lột phong kiến và xiềng xích của đế quốc làm cho kinh tế nước ta không phát triển được. Còn quan hệ bóc lột phong kiến thì sức sản xuất ở nông thôn chưa được giải phóng, nông dân không những không hǎng hái sản xuất mà cũng không đủ phương tiện sản xuất, không đủ điều kiện cải tiến kỹ thuật để tǎng nǎng suất một cách mạnh mẽ. Sức mua hàng của nông dân, nghĩa là đa số người tiêu thụ trong nước, không được dồi dào. Công nghiệp và thương nghiệp không đủ điều kiện phát triển.
Trong lời kêu gọi nhân ngày kỷ niệm toàn quốc kháng chiến nǎm vừa qua, Hồ Chủ tịch nói:
"Gần 90 phần trǎm đồng bào là nông dân. Trong hàng ngũ Vệ quốc quân, bộ đội địa phương và dân quân du kích ta trên 90 phần trǎm là nông dân. Đóng thuế, đi dân công, phần lớn cũng là nông dân. Đồng bào nông dân đóng góp nhiều nhất cho kháng chiến, hy sinh nhiều nhất cho Tổ quốc. Thế mà đồng bào nông dân lại là những người nghèo khổ nhất, vì họ thiếu đất ruộng. Giảm tô, giảm tức là một quyền lợi chính đáng của nông dân cũng chưa thực hiện được đến nơi đến chốn. Đó là một tình trạng rất không công bằng".
Bởi vậy, nǎm nay cần phóng tay phát động quần chúng, triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức; chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng ở vùng tự do. Phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, là một bước cần thiết trong việc chuẩn bị cải cách ruộng đất.
Làm như thế chẳng những động viên nông dân hǎng hái hy sinh cho kháng chiến, đẩy mạnh tǎng gia sản xuất, củng cố được chính quyền nông thôn, mà còn lôi kéo được nguỵ binh, vì ngụy binh đa số là nông dân. Họ sẽ dễ ngả theo kháng chiến, quay lại đánh Pháp - Mỹ và lũ bù nhìn để chóng được ruộng đất. Công tác sau lưng địch, công tác nguỵ vận sẽ có kết quả tốt. Làm cho chính sách của địch "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" bị một đòn nặng và sẽ thất bại đau đớn.
Trong mấy nǎm đầu kháng chiến ta chưa đủ điều kiện cải cách ruộng đất, thì đề ra chính sách giảm tô giảm tức và chỉ tịch thu ruộng đất của Pháp và Việt gian chia cho nông dân là đúng. Nhưng sau khi Trung Quốc đã được giải phóng và đã sắp hoàn thành cải cách ruộng đất, ta không bị bao vây nữa, thế của ta vững hơn và lực lượng ta đã mạnh lên, vùng tự do của ta tương đối ổn định, thì ta phải tiến lên một bước trong chính sách ruộng đất. Việc giảm tô giảm tức dù có làm triệt để đi nữa cũng không thể bồi dưỡng nông dân đúng mức, không thoả mãn được yêu cầu của nông dân, làm cho nông dân quyết tâm hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp kháng chiến. Vậy đã đến lúc vấn đề cải cách ruộng đất phải được đề ra và giải quyết kịp thời, đặng đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi. Không thể bỏ bễ trong khuôn khổ chính sách giảm tô, giảm tức.
Khuynh hướng thoả mãn với chính sách ruộng đất hiện tại, không dám đề ra vấn đề cải cách ruộng đất, biểu lộ tư tưởng:
- Đánh giá quá cao đối tượng hợp tác là những địa chủ kháng chiến;
- Coi thường vai trò của nông dân trong cách mạng và trong kháng chiến;
- Không nắm vững phương châm trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh.
Và như thế là lập trường, quan điểm của ta có chỗ thiếu sót.
Ta không nên áp dụng một cách máy móc chính sách ruộng đất của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kỳ kháng Nhật. Lúc đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc thi hành chính sách chỉ giảm tô, giảm tức, không tịch thu ruộng đất của địa chủ là vì phải hợp tác với Tưởng Giới Thạch để chống Nhật. Tưởng Giới Thạch là đại biểu cho địa chủ phong kiến và tư sản mại bản. Hắn không tán thành chính sách cải cách ruộng đất và hắn lại có chính phủ, có quân đội. Còn ta ngày nay, không có đối tượng hợp tác mạnh như Tưởng Giới Thạch. Cho nên ta có thể tiến lên một bước.
Vả lại, lúc đó Trung Quốc bị lực lượng đế quốc, phong kiến bao vây. Còn nước ta ngày nay đã liền một khối với phe dân chủ và xã hội chủ nghĩa, đã thông với một nước dân chủ nhân dân rộng lớn là Trung Quốc.
Không dám đề ra vấn đề cải cách ruộng đất trong kháng chiến còn tỏ ra không hiểu sách lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Chưa hiểu rõ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai đối tượng cần phải đánh đổ là: đế quốc và phong kiến.
Có hai nhiệm vụ là: đánh đổ đế quốc và phong kiến.
Có hai tính chất là: phản đế và phản phong kiến.
Nhiệm vụ trung tâm của cách mạng lúc này là giải phóng dân tộc. Song giải phóng dân tộc tức là vừa phản đế và phản phong kiến, vì phong kiến là chỗ dựa của đế quốc xâm lược.
Chính sách kháng chiến cũng là phản đế và phản phong kiến. Nhưng vì trong kháng chiến, cần phân hoá giai cấp địa chủ, nên phản phong kiến từng bước một. Không thể chỉ phản đế mà không phản phong kiến, hoặc phản đế trước phản phong kiến sau.
Hai nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến dính với nhau một cách mật thiết, không tách rời ra được.
Mấu chốt của cách mạng dân tộc của ta là cải cách ruộng đất. Nội dung của cách mạng dân tộc của ta cũng là cải cách ruộng đất, vì đa số dân tộc là nông dân. Nông dân là động lực lớn nhất của cách mạng nước ta.
Cách mạng dân tộc dân chủ là cách mạng nông dân. Chiến tranh giải phóng dân tộc về thực chất cũng là chiến tranh nông dân.
Trong giai đoạn đầu của cách mạng ta cũng như của cách mạng các thuộc địa và nửa thuộc địa khác, mũi nhọn của cách mạng chủ yếu chĩa vào đế quốc, như đồng chí Xtalin đã nói trong bài Bàn về Trung Quốc. Chủ yếu chĩa vào đế quốc chứ không phảichỉ chĩa vào đế quốc, phải chĩa vào phong kiến nữa.
Lãnh đạo nông dân đấu tranh chống phong kiến và đế quốc là đấu tranh giai cấp mà cũng là đấu tranh dân tộc. Đấu tranh giai cấp trong đấu tranh dân tộc và dưới hình thức đấu tranh dân tộc.
Trong Chính cương của Đảng, phần chính sách cụ thể có nói:
"Tuỳ theo điều kiện mỗi nơi mỗi lúc mà thi hành chính sách ruộng đất từng bước một và nhích dần lên... Chuẩn bị tiến tới thực hiện dần dần người cày có ruộng".
Nay đã đến lúc phải chuẩn bị thực hiện người cày có ruộng ở vùng tự do.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng phải tiến, không thể dừng ở một điểm. Dừng lại tức là lui bước. Sách lược của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là tiến từng bước một, nhằm đạt mục đích cách mạng.
Muốn kháng chiến thắng lợi, phải có Mặt trận dân tộc thống nhất. Nhưng mặt trận đó phải là mặt trận chống cả đế quốc và phong kiến, dựa trên cơ sở công nông liên minh.
Mặt trận đó phải thật rộng rãi, bao gồm tất cả những giai cấp cách mạng, những đảng phái dân chủ, những dân tộc đa số, thiểu số và kiều bào ở nước ngoài chống đế quốc xâm lược và bọn phản quốc, nhưng đồng thời cũng phải chống luôn các thế lực phong kiến nữa, vì cǎn bản phong kiến là phản động.
Trước đây mặt trận đó lôi kéo cả địa chủ, phân hoá giai cấp địa chủ. Nhưng thực hiện cải cách ruộng đất thì chẳng những gạt địa chủ ra ngoài mặt trận, mà còn đánh đổ giai cấp địa chủ, cải tạo địa chủ bằng cách buộc họ phải tham gia công tác lao động, tự làm lấy mà sống.
Phân hoá địa chủ là đúng, nhưng phải phân hoá trên cơ sở thoả mãn quyền lợi của nông dân, chứ không thể nhân nhượng với địa chủ một cách vô nguyên tắc làm cho nông dân bất mãn.
Không nghi ngờ gì hết, Đảng ta đã lập được rất nhiều thành tích đáng kể, đường lối của Đảng nói chung là đúng; nhưng về vấn đề ruộng đất, ta phải nhận rằng có chỗ thiếu sót, sai lầm như:
- Tạm cấp ruộng đất của Pháp và Việt gian, không cấp hẳn;
- Chậm ra sắc lệnh thủ tiêu chế độ công điền cũ và sử dụng công điền cho hợp lý );
- Không dám phóng tay phát động quần chúng nông dân để thực hiện triệt để chính sách ruộng đất;
- Chậm đề ra vấn đề cải cách ruộng đất theo mục tiêu của kháng chiến và của cách mạng.
* * *
Nǎm nay phát động quần chúng triệt để thi hành giảm tô, thực hiện giảm tức, chuẩn bị sang nǎm cải cách ruộng đất ở vùng tự do, nên Hội nghị Trung ương lần này thảo luận:
- Công tác phát động quần chúng nǎm nay,
- Dự thảo cương lĩnh cải cách ruộng đất sang nǎm.
Bản dự thảo cương lĩnh này sẽ đem thảo luận trong toàn Đảng. Các cấp đảng, các địa phương tham gia ý kiến, gửi về Trung ương. Trung ương sẽ triệu tập hội nghị đại biểu toàn quốc quyết định vấn đề cải cách ruộng đất, thông qua cương lĩnh đó, bổ sung chính sách cụ thể trong chính cương của Đảng và thảo luận vấn đề phát động quần chúng sang nǎm đặng thực hiện cải cách ruộng đất ở vùng tự do.
Chính sách cải cách ruộng đất của ta có thể tóm tắt như sau:
- Triệt để tịch thu không bồi thường ruộng đất của đế quốc và Việt gian;
- Trưng thu ruộng đất công;
- Trưng mua ruộng đất của địa chủ chưa từng hợp tác với địch, để lại cho họ một phần đủ tự làm mà sống. Không đụng đến công thương nghiệp của họ.
Khi phát động quần chúng nông dân, đối với địa chủ nào nông dân yêu cầu tịch thu không bồi thường thì Chính phủ xét và phê chuẩn.
Địa chủ nào phản đối sẽ bị đánh đổ.
Không đụng chạm đến phú nông.
Ruộng tôn giáo (nhà chung, chùa, v.v.) thì tuỳ trường hợp mà xử trí, hoặc trưng mua, trưng thu hay tịch thu.
Nhưng trong trường hợp nào cũng để lại cho nhà chung và chùa một phần để thờ cúng.
Vùng thiểu số cũng như vùng cǎn cứ du kích nào có đủ ba điều kiện dưới đây thì cũng có thể thi hành cải cách ruộng đất:
a) Tình hình quân sự và chính trị tương đối vững,
b) Đa số nhân dân yêu cầu,
c) Có đủ cán bộ thi hành.
Song không nên vội, làm sau cũng được.
Chia hẳn những ruộng đất đó cho nông dân không đất hoặc ít đất tuỳ theo nhân khẩu của mỗi gia đình.
Cần chia cho cả chiến sĩ, thương binh, bệnh binh và liệt sĩ nữa.
Mục đích cải cách ruộng đất là đánh đổ phong kiến địa chủ ở vùng tự do, thoả mãn yêu cầu chính đáng về ruộng đất của nông dân, giành ưu thế chính trị hoàn toàn cho nông dân, đoàn kết nông thôn, đoàn kết kháng chiến, phát triển sản xuất.
Phương châm là phóng tay phát động quần chúng đấu tranh với địa chủ, không làm thay và ban ơn cho nông dân. Song làm theo vết dầu loang, có kế hoạch, có lãnh đạo, không làm vội, không theo đuôi phong trào.
Thi hành cải cách ruộng đất thì sẽ mang lại ảnh hưởng tốt cho kháng chiến, đẩy kháng chiến tiến mạnh.
Trung ương và toàn Đảng phải đặc biệt chú trọng vấn đề này.
Chính sách ruộng đất của Đảng phải được quy định rõ ràng, chính xác. Cán bộ phải học tập chính sách, được đánh thông tư tưởng để hǎng hái thi hành.
IV. Phương hướng chiến lược mới và vấn đề chỉ đạo chiến tranh
Hình thế chiến tranh giữa ta và địch hiện nay đại khái như sau:
Ta và địch đang ở giai đoạn cầm cự. Song ta tích cực cầm cự với địch. Từ Chiến dịch Biên Giới 1950 đến nay, nói chung ta vẫn giữ quyền chủ động trên chiến trường chính là Bắc Bộ.
Đánh ra Hoà Bình, địch toan giành lại quyền đó, nhưng chúng đã thất bại đau đớn. Chiến dịch Tây Bắc vừa rồi càng tỏ ra địch bị động phòng ngự ở Bắc Bộ.
Trên các chiến trường Trung và Nam, cũng như ở đồng bằng Bắc Bộ, địch vẫn chủ động trong các chiến dịch càn quét và quấy rối ta, nhưng ta chủ động trong chiến thuật, vì ta đánh du kích.
Về mặt khác, nói chung, hai nǎm nay địch không những không mở rộng mà còn phải rút hẹp phạm vi chiếm đóng ở Bắc Bộ và phía bắc sông Gianh. ở vùng sau lưng địch tại Bắc Bộ và Nam Bộ, du kích ta phát triển. Nhiều cǎn cứ du kích của ta thành lập sau lưng địch.
Lực lượng của ta phát triển không đều. ở Bắc Bộ, chủ lực ta trưởng thành nhanh chóng, nhưng chủ lực địa phương và dân quân du kích Trung Bộ, Nam Bộ không phát triển được mấy, nên không làm tròn được nhiệm vụ kiềm chế, phân tán lực lượng địch. Vì vậy địch có thể tập trung ở Bắc Bộ đến 2/3 số quân đội ở Đông Dương để đối phó với ta. Trên các chiến trường Trung, Nam, Lào, Miên chúng sơ hở nhiều. Đồng bằng Bắc Bộ là chỗ cứng của địch. Các chiến trường khác là chỗ địch tương đối mềm.
Cǎn cứ vào tình hình trên đây, phương hướng chiến lược của ta là nhằm phía nam mà phát triển, tìm chỗ địch yếu mà đánh, bắt địch phải phân tán lực lượng để ứng phó với ta. Do đó ta tạo dần điều kiện tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ.
Hướng về phía nam mà phát triển không có nghĩa là không đánh ở đồng bằng Bắc Bộ. Trái lại, vẫn tǎng cường tác chiến ở Bắc Bộ, tiếp tục phát triển du kích sau lưng địch ở đồng bằng, tiếp tục mở rộng vùng du kích và cǎn cứ du kích sau lưng địch, tiến tới dần dần rút hẹp vùng tạm bị chiếm. Điều kiện thuận lợi thì có thể tập trung chủ lực giải phóng thị trấn nhỏ. Khi nào có đủ điều kiện sẽ giải phóng toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ.
* * *
Về vấn đề chỉ đạo chiến tranh, phương châm chung của cuộc chiến tranh giải phóng của ta làtrường kỳ kháng chiến tự lực cánh sinh. Ta không chủ quan, khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm. Đánh ǎn chắc, tiến ǎn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Nếu chủ quan, mạo hiểm mà một lần thua nặng, thì sẽ tai hại lớn.
Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ có thắng chứ không được bại, vì bại thì hết vốn. Ta lại phải mở rộng địa bàn hoạt động, mở rộng cǎn cứ địa, phát triển du kích và mở rộng cǎn cứ du kích sau lưng địch; không để cho địch bao vây, bóp nghẹt ta.
Bởi vậy, về chiến lược, chủ lực của ta phải lấy vận động chiến làm chính, nhưng vận động chiến cơ động, linh hoạt. Dùng vận động chiến cơ động, linh hoạt tiêu diệt từng miếng một của địch, không phải đánh ào ạt, tiêu diệt luôn một lượt. Dùng sức mạnh hơn địch tiêu diệt sinh lực địch một cách giòn giã trong từng trận, không đánh tiêu hao, không đánh tan. Song cũng phải có một bộ phận dùng công kiên chiến tiêu diệt địch, nhổ cứ điểm của địch. Nếu không có một bộ phận công kiên thì không giải phóng được đất đai, không mở rộng được cǎn cứ địa. Trong vận động chiến, tìm cơ hội công kiên. Công kiên chiến tạo điều kiện cho vận động chiến. Phòng tuyến địch có thể ví như một chuỗi dây xích. Tìm trong phòng tuyến đó, chỗ nào mắt xích mỏng, tập trung lực lượng đánh thủng mắt đó, làm cho cả phòng tuyến của địch có thể tan vỡ. Trận Đông Khê là một thí dụ cụ thể.
Quân ta được rèn luyện trong công kiên, dần dần trưởng thành trong công kiên, sau mới giải phóng được những thành thị lớn.
Sau lưng địch, ta phải tích cực mở rộng du kích, kiềm chế địch, tiêu hao địch, làm cho địch mỏi mệt, phân tán, không cho chúng tập trung đánh ta ở một nơi. Trong khi ấy, chủ lực ta tập trung đánh địch ở chỗ ta đã chọn để quyết thắng. Ta có thể và cần cho một phần chủ lực luồn vào sau lưng địch, cùng du kích địa phương hoạt động, dựng lại cơ sở, phá nguỵ quyền, phối hợp tác chiến với chủ lực ta ở các chiến trường khác.
Việc phối hợp chặt chẽ giữa chiến trường trước mặt địch và chiến trường sau lưng địch có tác dụng rất lớn. Chiến dịch Thu Đông nǎm 1951 và Chiến dịch Thu Đông vừa rồi đã chỉ rõ.
Du kích sau lưng địch là một hình thức đấu tranh tích cực để phá kế hoạch của địch "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh".
Cǎn cứ địa cũng như cǎn cứ du kích, phải được luôn luôn củng cố và mở rộng. Củng cố cơ sở quần chúng, củng cố chính quyền, mang lại lợi ích thực tế cho quần chúng. Phát triển và củng cố dân quân, tổ chức canh gác nghiêm mật, phong toả tin tức đối với địch, đề phòng đặc vụ và bảo vệ quyền lợi cho dân.
Dân quân được vũ trang, huấn luyện, nhưng không thoát ly sản xuất. Muốn tổ chức dân quân một cách rộng khắp, phải có điều kiện: nhân dân được hưởng quyền lợi thiết thực, về chính trị được tự do dân chủ, về kinh tế làm ǎn được dễ dàng.
Những cǎn cứ địa lớn của ta phần nhiều ở các vùng dân tộc thiểu số. Cho nên muốn củng cố những cǎn cứ địa đó, chính sách dân tộc của Đảng và Chính phủ càng phải đúng đắn, rõ ràng. Phải dựa vào sự giúp đỡ của quần chúng nhân dân thiểu số mà quét phỉ, trừ gian.
Về công tác chính trị trong quân đội, cần đề cao ý thức giai cấp và trình độ giác ngộ chính trị của quân đội. Quân đội phải có mục tiêu chiến đấu rõ rệt: Việt Nam độc lập, người cày có ruộng, tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Cho nên chẳng những phải giáo dục cho quân đội chính sách cụ thể của Đảng và Chính phủ, mà còn phải giáo dục đường lối cách mạng Việt Nam. Cán bộ chỉ huy phải được giáo dục thêm về chủ nghĩa Mác - Lênin.
Quân đội, trước hết là cán bộ chỉ huy, phải toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân lao động, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp của nhân dân lao động.
Đảng phải phái vào quân đội những cán bộ rất tốt của Đảng để chỉ huy quân đội.
Quân đội phải triệt để chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ, tích cực tham gia việc thi hành chính sách đó.
Nǎm nay, quân đội đóng ở vùng tự do phải tích cực tham gia phát động quần chúng, thi hành chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ, đứng về phe nông dân, ủng hộ nông dân đấu tranh giành quyền lợi chính đáng.
Quân đội của ta là quân đội cách mạng của nhân dân, nên phải được giác ngộ chính trị và phải có kỷ luật rất nghiêm, kỷ luật tự giác, giữ vững chính sách và kỷ luật là một điều rất quan trọng của quân đội cách mạng.
Đề cao giác ngộ chính trị, giữ vững chính sách và kỷ luật, đó là điều cốt yếu đảm bảo quân dân nhất trí, cán bộ và đội viên nhất trí, đảm bảo công tác làm tan rã quân nguỵ và quân địch.
Một điều cần đặc biệt chú ý là phải gia cường lãnh đạo của Đảng trong quân đội.
Sự lãnh đạo đó cần thực hiện trên cơ sở dân chủ chính trị, dân chủ kinh tế và dân chủ quân sự.
Cần định kỳ hạn họp đại hội đại biểu của quân đội để cho đại biểu các đơn vị có dịp trực tiếp phản ánh tình hình cụ thể bên dưới, để quần chúng giáo dục quần chúng. Công tác chính trị trong quân đội không phải chỉ có một số người làm mà chính là quần chúng đội viên cùng làm.
Về công tác quân sự, tôi đề ra hai vấn đề:
- Huấn luyện quân đội,
- Xây dựng quân đội.
Về việc huấn luyện quân đội, mục đích huấn luyện là nâng cao mức chính trị và kỹ thuật của cán bộ và của toàn quân:
Phương pháp huấn luyện là kết hợp lý luận với thực hành và luân lưu huấn luyện.
Phải lợi dụng thời gian giữa hai chiến dịch mà huấn luyện quân đội, nếu không thì thắng dễ sinh kiêu, bại dễ sinh nản. Sau mỗi chiến dịch, phải có kế hoạch công tác mới, kết hợp chỉnh huấn với dân vận.
Trong việc huấn luyện quân đội, phải đặc biệt chú trọng bồi dưỡng cán bộ thành phần công nông. Không nên thấy họ kém vǎn hoá mà thải họ ra ngoài quân đội. Họ kém vǎn hoá, nhưng lập trường, tư tưởng của họ nói chung là vững. Phải dìu dắt, sǎn sóc, giáo dục họ, cũng như phải cất nhắc họ.
Những đơn vị chủ lực vào sau lưng địch cũng phải thay phiên nhau ra vùng tự do chỉnh huấn. Cũng có thể cứ ở lại sau lưng địch, song tranh thủ thời gian giữa hai chiến dịch hay chiến đấu mà huấn luyện chính trị và kỹ thuật cho cán bộ và đội viên.
Đi đôi với việc thi hành chính sách ruộng đất, ta theo đúng phương hướng chiến lược và phương châm chỉ đạo chiến tranh trên đây thì thắng lợi quân sự sẽ nắm chắc.
Các cán bộ Đảng và quân đội phải quyết tâm khắc phục khó khǎn thực hiện phương hướng chiến lược mới, và thấm nhuần phương châm chỉ đạo chiến tranh nói trên.
Về xây dựng quân đội, việc mở rộng và bổ sung quân đội cần có kế hoạch đầy đủ, mọi mặt.
Bộ Tư lệnh (gồm Bộ Tổng tham mưu ở trong) và Tổng cục cung cấp phải được tǎng cường, để đảm bảo việc chấp hành đúng phương châm chỉ đạo chiến tranh và phương hướng chiến lược mới.
Với số quân ta hiện nay, mỗi nǎm phải bổ sung hàng vạn, lại phải xây dựng những đơn vị mới. Vậy mà vùng tự do của ta dân không đông mấy. Địch lại ra sức xây dựng nguỵ quân. Cho nên tǎng cường nguỵ vận, tranh thủ nguỵ quân, chọn lọc, cải tạo ngụy quân ta bắt được đặng bổ sung cho quân đội ta, đó làmột nhiệm vụ chiến lược.
Nguỵ quân phần nhiều là nông dân. Họ ở trong quần chúng cơ bản của ta mà ra. Ta phải ra sức vận động họ. Chẳng những tranh thủ binh sĩ nguỵ mà cả sĩ quan nguỵ nữa, nhất là hạ sĩ quan.
Bởi vậy phải tǎng cường cơ quan nguỵ vận, địch vận và có kế hoạch thu phục nguỵ quân.
Về việc lập những đơn vị mới, lấy dân quân du kích vào quân chính quy là đúng, nhưng lấy từng phần một, không nên rút hết du kích ở một nơi cho vào quân chính quy, vì như thế thì sẽ mất cơ sở tổ chức của du kích địa phương; không nên tổ chức những đơn vị hoàn toàn mới, mà nên tổ chức một phần mới, một phần cũ. Khi tác chiến, cần bố trí lực lượng cho đúng, đơn vị cũ đánh chỗ khó, đơn vị mới đánh chỗ dễ.
Cần phái cán bộ tốt của chủ lực vào chỉ huy những đơn vị mới.
V. Công tác nǎm nay
Những công tác chính Hồ Chủ tịch và Trung ương đề ra cho nǎm 1952, ta đã thi hành đến đâu và thi hành thế nào? Dưới đây là kiểm điểm tóm tắt việc thi hành những công tác đó:
1. Việc vận động nhân dân tǎng gia sản xuất và tiết kiệm đã có kết quả. Nhân dân hoan nghênh chính sách của Đảng, Chính phủ và Mặt trận. ở nhiều nơi, diện tích cày cấy tǎng thêm, nhân dân chú ý cải tiến cách trồng trọt để tǎng nǎng suất. Vùng du kích và cǎn cứ du kích cấy lại được nhiều ruộng mà mấy nǎm trước phải bỏ hoang.
2. Về chỉnh quân và tác chiến, nǎm vừa qua, ta cũng đạt được những thành tích quan trọng.
Chỉnh huấn chính trị đã nâng cao được trình độ giác ngộ chính trị của cán bộ và chiến sĩ, làm tǎng sức chiến đấu của quân đội ta.
Chỉnh huấn quân sự có tiến bộ, song cũng cho ta thấy rõ trình độ chiến thuật, kỹ thuật và sự hiểu biết về chiến lược của quân đội ta còn kém so với yêu cầu của nhiệm vụ.
Về tác chiến, trên chiến trường Bắc Bộ, ta đã đánh địch những đòn nặng, làm cho địch càng đi sâu vào thế bị động phòng ngự. Đầu nǎm ngoái, quân ta thắng lớn trong Chiến dịch Hoà Bình, thu đông này, quân ta lại thắng lớn trên chiến trường Tây Bắc. Sinh lực địch bị tiêu diệt nặng, vùng tự do của ta mở rộng, du kích ở đồng bằng Bắc Bộ phát triển, chống càn quét có kết quả. Đồng thời, ở biên giới Việt - Hoa, quân ta đã gần dẹp xong thổ phỉ.
3. Về công tác sau lưng địch, trong một nǎm qua, ta đã thu được ít nhiều thành tích. Mặt trận sau lưng địch của ta ngày càng trở nên quan trọng, và có nơi thường xuyên uy hiếp được địch.
4. Công tác chỉnh Đảng bắt đầu từ tháng 5-1952 đã đem lại nhiều kết quả tốt. Qua hai khóa chỉnh huấn cán bộ, Trung ương đã thấy rõ hơn những sai lầm về tư tưởng và chính trị của cán bộ, thấy rõ tình hình thi hành chính sách của Đảng và Chính phủ ở các địa phương.
Sau khi được chỉnh huấn, nói chung trình độ cán bộ ta được nâng cao về tư tưởng, lập trường và kỷ luật. Trung ương cũng sáng thêm nhiều vấn đề thuộc về lý luận và chính sách, hiểu thêm cán bộ, hiểu thêm phương pháp xây dựng và củng cố Đảng, thấy rõ hơn những thiếu sót trong sự lãnh đạo của Trung ương và các cấp.
Ngoài những công tác chính trên đây, tháng 5 nǎm vừa qua, ta đã mở Đại hội toàn quốc các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu để tổng kết kinh nghiệm thi đua bầu anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc.
Nǎm vừa qua, Trung ương và Chính phủ đã cử đồng chí Nguyễn Lương Bằng sang làm Đại sứ ở Liên Xôvà đổi Đoàn đại biểu Việt Nam ở Trung Quốc thành Đại sứ, đồng thời các cuộc hội nghị quốc tế quan trọng như Hội nghị kinh tế quốc tế ở Mạc Tư Khoa, Hội nghị hoà bình châu á và Thái Bình Dương ở Bắc Kinh, Đại hội hoà bình của các dân tộc ở Viên đều có đại biểu của nhân dân ta tham dự. Đó là những cố gắng và tiến bộ của ta về mặt củng cố ngoại giao với các nước bạn và tham gia phong trào bảo vệ hoà bình thế giới.
Song ngoài những ưu điểm trên, chúng ta còn có những khuyết điểm và nhược điểm dưới đây:
1. Cuộc kháng chiến của ta mấy nǎm nay tuy tiến bộ nhiều nhưng còn phải trường kỳ gian khổ. Trước việc xúc tiến kế hoạch chuẩn bị chiến tranh thứ ba của bọn đế quốc, chúng ta còn gặp thêm nhiều khó khǎn. Bởi vậy, ta phải làm cho cán bộ và quần chúng nhân dân hiểu rõ đầy đủ cuộc kháng chiến của ta còn trường kỳ và gian khổ mà ra sức khắc phục những nhược điểm và khuyết điểm của ta.
2. Cuộc kháng chiến của ta phát triển không đều. Từ Chiến dịch Biên Giới (1950), nói chung ta đã giành được chủ động trên chiến trường Bắc Bộ, nhưng địch vẫn giữ chủ động trên chiến trường Trung và Nam. Các chiến trường phụ chưa thấy rõ vị trí của mình với chiến trường chính, chưa thấy rõ đầy đủ vị trí mình trong chiến lược chung để có thể phối hợp đúng mức, làm yếu thêm giặc, giành thêm chủ động cho ta.
3. Một nǎm nay, ta đã nắm vững phương châm tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng, tích trữ lực lượng của ta và đã thu được nhiều kết quả. Nhưng với chính sách của địch dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, ta chưa phát động được đầy đủ quảng đại quần chúng nhân dân sâu sắc, thường xuyên chống lại. Du kích chiến tranh chưa mạnh mẽ; công tác nguỵ vận còn kém; nên chưa phá được chính sách của địch. Ta còn phải cố gắng nhiều hơn nữa.
Cuộc đấu tranh giữa ta và địch ngày càng gay go, tàn khốc và phức tạp, thì trong hàng ngũ địch sẽ và đã có biến hóa (thí dụ: tinh thần quân đội địch và ngụy mỏi mệt, bạc nhược, khuynh hướng giảng hoà phát sinh trong một số tư bản Pháp, v.v.); đó là điều kiện rất có lợi cho ta, nhưng ta chưa lợi dụng hết những điều kiện thuận lợi đó.
4. Kháng chiến kéo dài, quần chúng nhân dân phải đóng góp nhiều mà chưa được bồi dưỡng đúng mức. Ta chưa phát động quần chúng một cách rộng rãi, để thực hiện đúng việc giảm tô, giảm tức, chưa phát triển đúng phong trào sản xuất; do đó chưa phát huy được những khả nǎng và sáng kiến của quần chúng nhân dân, chưa giành được ưu thế chính trị cho quần chúng cơ bản ở nông thôn. Vì những lẽ đó, nên hiện nay trong quần chúng có một số uể oải, tinh thần tham gia kháng chiến, tǎng gia sản xuất không được tích cực như trước. Chính quyền ở nông thôn nhiều nơi chưa đúng là chính quyền dân chủ của nhân dân. Người dân không những bị thiệt về kinh tế mà cũng không có quyền về chính trị. Một vài nơi bọn phản động lợi dụng tình hình đó hoạt động chống lại kháng chiến, chống lại nhân dân (như mấy xã ở Nghệ An và Thanh Hoá - Liên khu 4).
5. Một mâu thuẫn chính của phong trào ta hiện nay là chủ trương đường lối của Đảng và Chính phủ nói chung là đúng, phương châm chính sách dần dần cụ thể hơn. Nhưng vì tư tưởng và thành phần cán bộ và đảng viên các cấp, nhất là cấp xã, không thuần khiết. Cán bộ công nông trong bộ máy chính quyền và bộ máy chuyên môn chưa chiếm được ưu thế, nên nhiều chủ trương, chính sách không được chấp hành một cách đầy đủ. Việc chỉnh huấn chính trị nǎm nay đã mang lại kết quả tốt, nhưng vì chưa làm đến tận cơ sở và mới chỉnh đốn tư tưởng, chưa chỉnh đốn tổ chức, nên kết quả chưa được nhiều. Thành phần của tổ chức phức tạp là một vấn đề nghiêm trọng: các cấp chỉ đạo, nhất là ở cấp xã, phần nhiều nằm trong tay địa chủ, cường hào hoặc con cái họ. Chính những thành phần đó đã làm cho nhiều chính sách không thể thông suốt từ trên đến dưới và nhiều nhiệm vụ không được hoàn thành, làm thiệt hại rất lớn đến quyền lợi nhân dân, đến công cuộc kháng chiến và ảnh hưởng không tốt đến việc củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng.
6. Trải qua cuộc chỉnh huấn chính trị trong quân đội, trình độ chính trị và tư tưởng của bộ đội và cán bộ được đề cao một bậc. Cuộc chỉnh huấn chính trị đó đã bộc lộ tình hình tư tưởng và lập trường của cán bộ là chưa quyết tâm phục vụ công nông, không đi sát công nông, không nhận định đúng vai trò lãnh đạo của Đảng trong bộ đội, có khuynh hướng hữu khuynh và tốc thắng, thành phần công, nông trong bộ đội chưa được đào tạo, đề bạt đúng mức, ý thức giai cấp trong bộ đội chưa được xây dựng củng cố đầy đủ. Đó là một trở ngại lớn trước mắt khiến cho quân đội ta không thể tiến mau được. Đồng thời, biên chế tổ chức, chế độ công tác còn nhiều chỗ không hợp với nguyên tắc chiến thuật và yêu cầu khách quan (như tỷ lệ nhân viên cơ quan hậu phương và bộ đội chiến đấu là 1 với 3; vũ khí nặng thì nhiều, lực lượng đột kích thì quá yếu, v.v.).
7. Thực hiện đại đoàn kết kháng chiến trường kỳ là một thành tích quan trọng của phong trào ta. Nhưng từ trước đến nay ta chưa nắm vững cơ sở mặt trận là công nông. Trong khi vận dụng chính sách mặt trận, ta không biết đấu tranh với bọn ngoan cố, để củng cố cơ sở mặt trận, chưa nhận rõ có đấu tranh với bọn ngoan cố, có củng cố được cơ sở công nông mới tranh thủ được lực lượng trung gian; ta thiên về đoàn kết địa chủ kháng chiến mà coi nhẹ việc làm yếu giai cấp địa chủ, coi nhẹ bồi dưỡng lực lượng của nông dân. Coi nhẹ việc củng cố công nông liên minh, tức là coi nhẹ việc củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng.
* * *
Cǎn cứ vào tình hình hiện tại, cǎn cứ vào nhiệm vụ chuẩn bị cải cách ruộng đất và chuyển theo phương hướng chiến lược mới, nǎm nay ta vẫn phải tiếp tục tiến hành bốn công tác chính của nǎm ngoái:
a) Tǎng gia sản xuất và tiết kiệm,
b) Tác chiến và chỉnh quân,
c) Tǎng cường công tác sau lưng địch,
d) Chỉnh Đảng.
Và làm thêm một công tác trọng tâm mới là: "phát động quần chúng, chỉnh đốn công tác quần chúng".
Trong bài diễn vǎn khai mạc, Hồ Chủ tịch đã nói:
Nǎm nay, chúng ta phải kiên quyết thực hiện giảm tô, giảm tức triệt để.
Muốn vậy phải ra sức phát động quần chúng nông dân, làm cho quần chúng tự giác, tự nguyện đứng ra đấu tranh cho kỳ được. Đảng và Chính phủ phải lãnh đạo, tổ chức, giúp đỡ, kiểm tra.
Bởi vậy, nǎm nay, từ Liên khu 4 trở ra phải phát động quần chúng triệt để thi hành chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ hiện nay.
Liên khu 5 và Nam Bộ, vì chỉnh Đảng chậm nên phát động quần chúng chậm hơn một chút.
A. Phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và chỉnh đốn công tác quần chúng
1. Công tác trọng tâm của ta nǎm nay là phát động quần chúng nông dân, nhằm mục đích:
Đánh đổ thế lực phản động, làm yếu thế lực phong kiến, thoả mãn thích đáng yêu cầu kinh tế cho nông dân lao động, thực hiện ưu thế chính trị của Đảng và của quần chúng cơ bản ở nông thôn; củng cố chi bộ, củng cố Hội Nông dân cứu quốc, củng cố chính quyền địa phương (bao gồm Uỷ ban kháng chiến hành chính, dân quân và công an xã), củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất ở nông thôn, chuẩn bị điều kiện cải cách ruộng đất, đẩy mạnh sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến.
2. Nội dung phát động quần chúng là lãnh đạo nông dân đấu tranh đánh đổ Việt gian, cường hào gian ác, triệt để giảm tô (bao gồm thoái tô), thực hiện giảm tức; chia ruộng đất của Pháp và Việt gian cho nông dân không có đất hoặc ít đất; chia công điền và sử dụng ruộng nửa công nửa tư một cách công bằng; sử dụng hợp lý ruộng vắng chủ; xoá bỏ quyền chiếm hữu vô lý về rừng núi, đất hoang, bãi sa bồi. Điều tra lại ruộng ẩn nặc, bình nghị sản lượng một cách công bằng, sửa chữa những hiện tượng đóng góp quá nặng hoặc quá nhẹ. Trong những chính sách trên đây, nǎm nay phải giữ vững: triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, không được làm quá, trừ trường hợp đặc biệt phải xin chỉ thị của Trung ương.
Trong quá trình phát động quần chúng, cần chỉnh đốn chi bộ, Hội Nông dân cứu quốc, chính quyền và Mặt trận Liên Việt địa phương.
Phát động quần chúng chủ yếu là ở vùng tự do. Còn vùng cǎn cứ du kích thì tuỳ điều kiện mà định, nhưng yêu cầu và hình thức thấp hơn.
3. Phương châm của ta là: phóng tay phát động quần chúng theo đúng đường lối quần chúng; dựa vào đông đảo quần chúng mà vận động quần chúng đấu tranh giành lấy quyền lợi.
Để thực hiện phương châm trên, phải nắm vững mấy nguyên tắc dưới đây:
a) Cǎn cứ vào nguyện vọng tha thiết trước mắt của số đông quần chúng ở địa phương mà đưa ra khẩu hiệu đấu tranh cho thích hợp;
b) Kiên nhẫn giáo dục quần chúng, làm cho quần chúng đông đảo tự giác, tự nguyện đấu tranh, tuyệt đối không mệnh lệnh, không làm thay, không ban ơn;
c) Phải tìm ra những phần tử trung kiên làm cốt cán giúp Đảng lãnh đạo phong trào;
d) Phát động quần chúng nông dân cả nam và nữ, chỉnh đốn Hội Nông dân cứu quốc mạnh mẽ để làm nòng cốt cho phong trào.
4. Sách lược chung của Đảng đối với các tầng lớp ở nông thôn trong cuộc phát động quần chúng này là: dựa vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, trung lập phú nông, đấu tranh với địa chủ, đánh đổ Việt gian, phản động.
5. Sách lược đấu tranh với địa chủ trong cuộc phát động quần chúng này là: vừa đánh, vừa kéo, trong kéo có đánh, trong đánh có kéo, trước đánh sau kéo.
6. Để cho cuộc phát động quần chúng nǎm nay có kết quả tốt, ngay từ giờ phải chuẩn bị ráo riết về mọi mặt. Công tác chuẩn bị bao gồm những việc dưới đây:
a) Điều tra: Điều tra tình hình thi hành chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ, thế lực địch, nguỵ; thế lực phong kiến, phản động, tình hình chi bộ, Hội Nông dân cứu quốc, chính quyền và Liên Việt xã, v.v. xét rõ thành phần các tổ chức đó, tình hình tư tưởng và tác phong của cán bộ xã, v.v..
b) Chuẩn bị chính sách: Chính phủ ra một sắc luật ruộng đất nhằm dùng khẩu hiệu chính nǎm nay là: triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức. Trung ương ra một chỉ thị phát động quần chúng và định rõ cương lĩnh đấu tranh của nông dân, định rõ kỷ luật cho cán bộ thi hành chính sách ruộng đất.
Những sắc luật, chỉ thị nói trên vừa làm kim chỉ nam, vừa làm chỗ dựa cho phong trào quần chúng.
c) Chuẩn bị tư tưởng: Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến rộng rãi chính sách ruộng đất, đánh thông tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; chống những tư tưởng ngǎn trở phát động quần chúng như sợ hại đến đoàn kết, sợ địa chủ chống lại, hoặc khinh thường giai cấp địa chủ Việt Nam, hoặc bi quan với tình hình cơ sở không dám phát động quần chúng, v.v..
d) Chuẩn bị tổ chức: Tập trung cán bộ huấn luyện chính sách và tổ chức thành những đoàn chỉ đạo riêng giúp địa phương phát động quần chúng và giúp Trung ương chỉ đạo phong trào quần chúng.
7. Khi phát động quần chúng, cần nắm vững phương pháp lãnh đạo gồm mấy điểm như sau:
a) Phát triển phong trào theo lối "vết dầu loang" và kết hợp chỉ đạo một điểm với lãnh đạo toàn diện:
Các đoàn chỉ đạo riêng của Trung ương phối hợp với các đoàn của khu và tỉnh về một số xã điển hình, thực nghiệm trước, rút kinh nghiệm rồi lan dần ra các xã khác theo lối "vết dầu loang". Nếu không thí nghiệm điển hình thì cán bộ không có kinh nghiệm, cấp trên không nắm vững được lãnh đạo, dễ mắc phải sai lầm. Trong khi phát triển "vết dầu loang", vẫn phải nắm một số xã làm trọng điểm để lấy kinh nghiệm chỉ đạo các nơi khác. Tránh lối làm ào một lượt, hoặc đợi cho thật đầy đủ kinh nghiệm mới chịu phát triển ra bề rộng.
b) Kết hợp các hình thức đấu tranh:
Đấu tranh phải có phân biệt, tuỳ theo đối tượng lớn, nhỏ và tính chất của từng loại mà liên kết các hình thức đấu tranh như: đấu lý (cǎn cứ vào thực tế mà bẻ gẫy những lý lẽ quanh co của địa chủ); đấu lực (dùng lực lượng quần chúng bắt địa chủ phải khuất phục); đấu pháp (dùng pháp luật của chính quyền mà xử trí bọn gian ác, ngoan cố).
Phương pháp tốt nhất để áp dụng các hình thức đấu tranh trên là mở các hội nghị tố khổ, để quần chúng vạch tội ác của địa chủ, đánh đổ uy thế của địa chủ, làm tǎng uy thế của nông dân, giáo dục và phát triển ý thức giai cấp cho nông dân lao động.
Trong lúc đấu tranh, tuyệt đối không được tra tấn, đánh ẩu, giết ẩu.
c) Tổ chức tập đoàn lãnh đạo của nông dân:
Uỷ ban nông dân và chủ tịch đoàn do hội nghị đại biểu nông dân bầu ra, là cơ quan tập trung mọi quyền lực ở xã trong thời kỳ phát động quần chúng để thi hành chính sách ruộng đất. ở mỗi xã, chọn những đảng viên, hội viên nông hội và quần chúng thuộc thành phần bần cố nông tích cực nhất để quần chúng chọn và bầu vào uỷ ban nông dân và chủ tịch đoàn ở thôn hoặc xã.
Chú ý:Những tá điền tích cực, hǎng hái thuộc thành phần trung nông lớp dưới cũng có thể được bầu vào chủ tịch đoàn.
d) Kết hợp công tác:
Công tác phát động quần chúng là công tác trọng tâm trong nǎm nay. Các ngành đảng, chính, dân từ trung ương đến chi bộ phải thống nhất thực hiện kế hoạch phát động quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi ngành đều có kế hoạch công tác cụ thể xoay quanh công tác trọng tâm là công tác phát động quần chúng, nắm vững lịch công tác chung để thực hiện công tác chính của ngành mình; lấy việc phát động quần chúng để đẩy tiến công tác và chỉnh đốn tổ chức của ngành mình; các cấp lãnh đạo của Đảng cǎn cứ vào trọng tâm và lịch công tác chung mà kiểm tra, đôn đốc các ngành. Không được khoán trắng cho nông hội hoặc phó mặc cho đoàn cán bộ do cấp trên phái về.
Trên đây là những điểm lớn trong công tác phát động quần chúng. Các cán bộ của Đảng từ trên xuống dưới phải hiểu rõ những điểm lớn đó và cố tranh thủ trong nǎm nay, cǎn bản phải làm xong triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức.
B. Vận động tǎng gia sản xuất, tiết kiệm và chấn chỉnh công tác kinh tế tài chính
Nhiệm vụ công tác kinh tế tài chính của ta trong nǎm nay là:
- Tiếp tục vận động nhân dân tǎng gia sản xuất và tiết kiệm, kết hợp với việc phát động quần chúng;
- Tiến tới thực hiện thǎng bằng thu chi để giải quyết những khó khǎn về ngân sách, bình ổn vật giá, tạo điều kiện phát triển sản xuất mạnh hơn.
Hướng sản xuất nông nghiệp vẫn là lúa, bông, lạc, đỗ; nhưng cũng phải chú trọng trồng nhiều ngô, khoai, sắn đề phòng thiên tai và địch phá hoại. Phải tỉnh táo đề phòng địch thả sâu phá hoại mùa màng. Phát triển chǎn nuôi gia súc và khai thác lâm sản, thổ sản.
Phải tích cực tổ chức, lãnh đạo và giúp đỡ quần chúng sản xuất, khắc phục khó khǎn vì thiên tai, và địch phá, vì thiếu nhân công, trâu bò, nông cụ; giúp đỡ và chỉ đạo quần chúng dần dần cải tiến kỹ thuật, nâng cao nǎng suất để sản xuất đủ ǎn, đủ dùng và thừa một ít để dự trữ.
Để thực hiện phương châm chung trên, cán bộ phải thấm nhuần chính sách phát triển sản xuất và thi hành tiết kiệm, nhằm mục đích cải thiện đời sống của quần chúng, bồi dưỡng lực lượng của nhân dân và của kháng chiến; mọi chính sách kinh tế tài chính khác phải phục vụ chính sách cǎn bản ấy. Phải thi hành đúng chính sách thuế nông nghiệp với ý thức đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển (công bố cố định sản lượng ở những nơi điều tra định sản tương đối đúng; ngoài thuế nông nghiệp, ở nông thôn không cho phép một thứ đóng góp nào khác). Phải thi hành đúng điều lệ dân công, tránh hiện tượng lấy và dùng dân công một cách không công bằng hợp lý gây nhiều lãng phí.
Hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân phát triển tiểu công nghệ, thủ công nghiệp và nghề phụ gia đình. Phải phát triển tiểu công nghệ trên yêu cầu và cơ sở của nông thôn, của nông dân.
Cơ quan, bộ đội, công xưởng, trường học phải cố gắng sản xuất để tự cải thiện sinh hoạt và tiến tới tự túc một phần đặng giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân.
Ở khắp nơi, nhất là vùng có nông giang bị địch phá hoại, cần tích cực vận động nhân dân mở mang tiểu thuỷ nông, đào giếng, đào ao, đắp đập, đắp đê, kịp thời chuyển hướng canh tác trồng nhiều mầu.
Vùng du kích, cǎn cứ du kích và vùng giáp địch phải tǎng cường đấu tranh chống địch để bảo vệ mùa màng, đồng thời phát triển sản xuất.
Vùng mới giải phóng ở Tây Bắc, cần tổ chức tiếp tế muối, nông cụ, vải cho nhân dân, cổ động nhân dân phục hồi sản xuất.
Đi đôi với việc thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm, nǎm nay ta phải cố gắng tiến tới thực hiện thǎng bằng thu chi.
Thuế nông nghiệp và thuế công thương nghiệp phải đảm bảo thu đủ mức dự định và đúng chính sách. Đồng thời kiên quyết tập trung những quỹ riêng của các cấp, các ngành vào ngân sách quốc gia. Lúc làm công tác tài chính, công tác thu thuế phải chống sai lệch chỉ lo tài chính, không lo sản xuất, chỉ đòi hỏi nhân dân đóng góp, không lo giúp đỡ nhân dân sản xuất.
Phải nghiêm khắc thi hành chế độ thống nhất quản lý thu chi, chấp hành kỷ luật tài chính.
Công tác bình ổn vật giá rất quan trọng, các cơ quan đảng, chính các cấp phải coi đó là trách nhiệm của mình, thường xuyên theo dõi, nghiên cứu và lãnh đạo. Phải chỉnh đốn và phát triển công tác mậu dịch đối nội và đối ngoại, với nước bạn. Phải chống quan điểm kiếm lãi đơn thuần, trái với chính sách mậu dịch phục vụ nhân dân, phục vụ sản xuất.
Về đấu tranh kinh tế với địch, ta phải kiên quyết chọc thủng vòng vây của địch để tranh thủ xuất nhiều hơn nhập, bài trừ nạn buôn lậu, chống việc dùng xa xỉ phẩm. Như thế để phát triển sản xuất lâm thổ sản và làm công nghệ ở vùng tự do.
Vấn đề giao thông vận tải cần được các đảng bộ và cơ quan chính quyền địa phương đặc biệt chú trọng; các cơ quan chuyên trách ở trung ương và các địa phương (Liên khu Việt Bắc, Liên khu 3 và Liên khu 4) phải cố gắng làm thêm đường mới và sửa chữa cầu, đường, phát triển vận tải đường bộ, đường thuỷ để phục vụ nhu cầu quân sự và phát triển kinh tế chung.
Ngoài những công tác trên đây, nǎm nay cần tiếp tục chấn chỉnh việc huy động dân công, để đỡ hại đến sức khoẻ và công việc sản xuất của nhân dân.
Để đảm bảo thực hiện những việc nói trên, cơ quan kinh tế tài chính các cấp cần được kiện toàn, nhất là đối với ngành mậu dịch. Cần chấn chỉnh tổ chức và lề lối làm việc: chống tác phong quan liêu, mệnh lệnh, thoát ly quần chúng, thoát ly thực tế, cấp dưới phải chấp hành đúng chế độ báo cáo và thỉnh thị, cấp trên phải kịp thời trả lời và giải quyết mọi khó khǎn do cấp dưới đề ra. Chỉnh đốn tư tưởng, giáo dục chính sách cho cán bộ, làm cho cán bộ hiểu rằng toàn bộ chính sách và công tác kinh tế tài chính nhằm mục đích phục vụ sản xuất, phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến. Cán bộ đảng và cán bộ chính quyền các cấp phải học tập chính sách kinh tế tài chính và lãnh đạo chặt chẽ việc thực hiện những chính sách ấy.
C. Tác chiến và chỉnh quân
Cǎn cứ vào phương hướng chiến lược mới, tác chiến của ta nǎm nay nhằm tiêu diệt sinh lực địch là chính, đồng thời tranh thủ giải phóng một phần đất đai ở những vùng có tính chất chiến lược quan trọng mà lực lượng địch tương đối yếu.
Đối với chủ lực ở Bắc Bộ, phương châm tác chiến vẫn vận động chiến là chính, công kiên chiến là phụ. Trên chiến trường sau lưng địch ở Bắc Bộ và ở Trung, Nam thì du kích chiến là chính.
Nhiệm vụ giữ vững và đẩy mạnh chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ do các trung đoàn địa phương, bộ đội địa phương tỉnh và các đội dân quân du kích xã đảm nhiệm.
Trên các chiến trường Trung, Nam thì tuỳ theo điều kiện cụ thể mà đặt kế hoạch phát triển chiến tranh du kích.
Để làm tròn nhiệm vụ chuyển theo phương hướng chiến lược nǎm nay, công tác chấn chỉnh quân đội cần tiến tới một bước về các mặt: chỉnh huấn chính trị, chỉnh huấn quân sự, chỉnh đốn tổ chức.
Chỉnh huấn chính trị cần tranh thủ thời gian làm trong mùa mưa. Trọng tâm vẫn là cán bộ.
Đi đôi với chỉnh huấn chính trị, cần chỉnh huấn quân sự: chủ lực học tập vận động chiến và công kiên chiến là chính; bộ đội địa phương học tập du kích chiến là chính.
Phải cảnh giác ngǎn ngừa ảnh hưởng của các đảng phái Việt gian và các tổ chức phản động đội lốt tôn giáo làm gián điệp cho địch.
Trong vùng tạm bị chiếm, phải thường xuyên tuyên truyền những tội ác của địch, bóc trần mưu mô lừa phỉnh của chúng trước nhân dân. Vạch rõ cho quần chúng thấy các đảng phái Việt gian, tổ chức phản động đội lốt tôn giáo là những tổ chức chỉ điểm, gián điệp của địch để quần chúng tẩy chay và tỉnh táo đề phòng những tổ chức ấy. Đồng thời tuyên truyền, phổ biến những tin tức chiến thắng của ta để tranh thủ quần chúng, thuyết phục và làm tan rã nguỵ binh. Cần luôn luôn tǎng cường công tác bí mật để bảo toàn cán bộ, củng cố và phát triển cơ sở.
Cần chú trọng lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ quyền lợi hàng ngày, chống địch áp bức bóc lột, bắt phu, bắt lính, dồn làng, v.v..
Ở vùng tạm bị chiếm, hình thức đấu tranh chủ yếu là hình thức hợp pháp và nửa hợp pháp, nhưng trong điều kiện không hại đến cơ sở thì có thể tổ chức những đội biệt kích phá các kho tàng, xe cộ, v.v. của địch, và tiêu diệt cán bộ lợi hại của chúng (như vụ biệt kích ở đường Đờ Gôn, Sài Gòn).
Phải có kế hoạch chuẩn bị điều kiện và tranh thủ cơ hội tốt để kịp thời lãnh đạo quần chúng chuyển từ những hình thức đấu tranh thường qua những hình thức đấu tranh vũ trang để thu hẹp phạm vi kiểm soát của địch, mở rộng vùng du kích của ta. Song trước khi thi hành, phải xin chỉ thị cấp trên.
Công tác ở các đô thị tạm bị chiếm cần được đặc biệt chú trọng. Các khu uỷ và tỉnh uỷ cần có những hội nghị tổng kết kinh nghiệm và bổ sung cán bộ có nǎng lực, có kinh nghiệm công tác bí mật vào các đô thị. Tuỳ theo sự quan trọng của từng thị xã, mà khu uỷ hay tỉnh uỷ phải trực tiếp phụ trách, không nên khoán trắng cho huyện uỷ như nhiều nơi trước đây.
Để thực hiện những nhiệm vụ công tác trên, các cấp bộ Đảng vùng sau lưng địch phải ra sức học tập các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương về phương châm công tác vùng sau lưng địch; học tập và phổ biến những kinh nghiệm đã tổng kết trong Hội nghị chiến tranh du kích tháng 7-1952. Phải quán triệt tư tưởng chiến tranh du kích và phương châm chống càn quét, thực hiện thống nhất lãnh đạo chặt chẽ. Kiên quyết chống lại những tư tưởng cầu an, thủ tiêu đấu tranh, chủ quan, máy móc hay phiêu lưu, mạo hiểm.
D. Chỉnh Đảng
Nǎm nay cần chỉnh huấn xong cán bộ.
Cǎn cứ vào tình hình tư tưởng của cán bộ trong hai khoá chỉnh Đảng của Trung ương và khoá đầu của các khu, tỉnh; đồng thời để chuẩn bị cho cuộc phát động quần chúng, cần quy định yêu cầu của chỉnh Đảng nǎm nay chủ yếu là nhằm khắc phục tư tưởng tiểu tư sản và tư tưởng địa chủ, đồng thời cũng khắc phục những tư tưởng sai lầm khác. Đặc biệt đối với cán bộ huyện và xã, thì yêu cầu chủ yếu là khắc phục tư tưởng địa chủ, phú nông.
Các tài liệu Dự thảo cương lĩnh ruộng đất vàchỉ thị phát động quần chúng sẽ là những tài liệu bắt buộc phải học trong các lớp chỉnh huấn.
Chỉnh huấn cán bộ xong, sẽ kết hợp với cuộc phát động quần chúng để bồi dưỡng và củng cố tư tưởng của cán bộ; bồi dưỡng, đề bạt những cán bộ tốt, điều động, trừng phạt, thanh trừ những cán bộ xấu. Trong việc đề bạt, bồi dưỡng cán bộ, sẽ đặc biệt chú trọng đề bạt, bồi dưỡng cán bộ công nông.
Việc chỉnh đốn chi bộ cũng sẽ tiến hành.
Mục đích, yêu cầu của việc chỉnh đốn chi bộ là:
- Nâng cao trình độ giác ngộ giai cấp và lập trường công nông của đảng viên;
- Làm cho tổ chức được trong sạch;
- Cải thiện và xiết chặt quan hệ giữa Đảng và quần chúng.
Việc chỉnh đốn chi bộ phải kết hợp chặt chẽ với phát động quần chúng, lấy công tác phát động quần chúng để củng cố chi bộ. Trước khi phát động quần chúng, phải nghiên cứu, tìm hiểu tình hình chi bộ. Phải tổ chức các đảng viên bần, cố nông và trung nông tích cực thành những tổ riêng, tách khỏi những phần tử xấu, phá hoại chính sách. Trong quá trình phát động quần chúng, phải đề bạt, bồi dưỡng các phần tử tích cực, đồng thời phải theo dõi, kiểm tra và xử trí kịp thời những phần tử chống lại chính sách. Sau khi phát động quần chúng, sẽ tiến hành tổng kết công tác, giáo dục tiêu chuẩn đảng viên, mở rộng phê bình, tổ chức ghi tên lại vào Đảng, xử trí các đảng viên không đủ điều kiện, tuyển cử chi uỷ. Sau đó chi bộ sẽ ra công khai và kết nạp đảng viên mới. Việc phát triển sẽ nhằm kết nạp những phần tử tốt trong thành phần bần, cố nông và trung nông, công tác tích cực, đấu tranh kiên quyết, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, tác phong đúng đắn; sau khi họ đã được giáo dục những điều tối thiểu mà người đảng viên cần biết, phải tổ chức theo đúng thủ tục điều lệ Đảng đã quy định.
Đối với vùng du kích, cǎn cứ du kích và miền núi thì tuỳ theo yêu cầu và hình thức phát động quần chúng mà có kế hoạch kết hợp chỉnh đốn chi bộ cho thích hợp.
Đối với các chi bộ cơ quan, chi bộ xí nghiệp và chi bộ trong quân đội, cũng cần phải có kế hoạch chỉnh đốn cho thích hợp với từng loại.
Cán bộ ngoài Đảng (trong các cơ quan chính quyền, mặt trận) cũng cần được học tập chính trị và giáo dục tư tưởng trước và trong quá trình phát động quần chúng nǎm nay.
Phát động quần chúng thi hành chính sách ruộng đất là một dịp thử thách, giáo dục về lập trường, quan điểm cho cán bộ, cho toàn thể đảng viên và cho cán bộ ngoài Đảng nữa, cho nên kế hoạch chỉnh Đảng và giáo dục cán bộ ngoài Đảng phải kết hợp chặt chẽ với kế hoạch phát động quần chúng.
Ngoài nǎm công tác chính nǎm nay như trên đây, còn những công tác khác mà Hồ Chủ tịch đã đề ra như: chuẩn bị thành lập những vùng dân tộc tự trị, gia cường đoàn kết Việt - Lào - Miên, củng cố tình giao hảo với các nước bạn, tích cực tham gia bảo vệ hoà bình thế giới. Những vấn đề đó, Bộ Chính trị sẽ nghiên cứu và quyết định sau.
*
* *
Các đồng chí,
Tôi đã trình bày những nhiệm vụ mới và những công tác chính nǎm nay của Đảng. Hai nhiệm vụ mới là phát động quần chúng, chuẩn bị cải cách ruộng đất và chuyển theo phương hướng chiến lược mới. Hai nhiệm vụ đó có đứng ngoài ba nhiệm vụ lớn mà Hồ Chủ tịch và Trung ương đã đề ra trong Hội nghị Trung ương lần thứ ba không? Không. Vì chuyển theo phương hướng chiến lược mới là cốt nhằm tiêu diệt sinh lực địch. Phát động quần chúng thi hành chính sách ruộng đất, chuẩn bị cải cách ruộng đất là một cách tích cực bồi dưỡng lực lượng nhân dân.
Những nhiệm vụ và công tác nǎm nay thật nặng nề. Đế quốc Pháp - Mỹ và bù nhìn mỗi ngày một gian ác. Chúng càng suy yếu và lúng túng, càng gian ác thêm. Cuộc kháng chiến của chúng ta sẽ càng ngày càng gay go, phức tạp. Nhưng chúng ta quyết không sợ gian nan, khổ cực.
Chúng ta nhất định thắng, vì chúng ta mật thiết liên hệ với quần chúng, dựa vào quần chúng; chịu khó học tập kinh nghiệm quý báu của Đảng Cộng sản Liên Xô và của Đảng Cộng sản Trung Quốc; thẳng thắn tự phê bình và phê bình.
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch, chúng ta kiên quyết đánh bại đế quốc xâm lược và bù nhìn bán nước.
- Việt Nam độc lập thống nhất muôn nǎm!
- Hoà bình thế giới muôn nǎm!
- Hồ Chủ tịch, người lãnh đạo và giáo dục chúng ta, muôn nǎm!
|