Showing posts with label không còn trang gốc. Show all posts
Showing posts with label không còn trang gốc. Show all posts

Friday 4 April 2014

Một nhát chém vào mặt nhân dân (Nguyễn Minh Hòa - Dân Trí)


Một nhát chém vào mặt nhân dân

Sau năm ngày, dư luận đã dấy lên một làn sóng căm phẫn trước một hiện tượng xã hội đang diễn ra ở một TP Tuy Hòa (Phú Yên) vốn xưa nay yên ả.

Chưa bao giờ trên truyền thông đại chúng, trên các trang mạng lại tràn ngập những chính kiến bất bình của các nhà làm luật, các luật sư, thẩm phán, các nhà hoạt động xã hội và của tất cả người có lương tri như thế. Hàng triệu chính kiến bày tỏ sự không tán đồng với mức án mà VKSND TP Tuy Hòa đã đề xuất. Người ta đau đáu trông đợi một bản án công bằng hơn, phải đạo lý hơn, “tâm phục , khẩu phục hơn”.
Nhưng rồi niềm tin đã tan vỡ khi mà tòa án đã phán quyết một bản án mất lòng người, cho dù đã có thay đổi một chút. Nó không phản ánh được đúng bản chất của sự việc mà người ta phải gọi đúng tên của nó là “giết người”, giết đồng loại bởi một tập thể những người sống bằng tiền thuế của người dân.
Họ được nhân dân trao quyền lực và niềm tin để giữ gìn trật tự xã hội. Nhưng họ đã không làm được như nhân dân mong đợi mà lại kết thành một nhóm “đánh hội đồng”, sử dụng vũ khí, sức mạnh của những người trai trẻ và cái quyền của công an nhân dân để giết một người không còn khả năng tự vệ, một người chỉ còn biết van xin trong đau đớn, đói khát và tuyệt vọng.
Phải gọi đúng tên đó là hành động vô nhân tính, hành động không xứng với một con người theo nghĩa giản dị nhất của từ này.
Tôi là một người lính, từng đối mặt với những người lính ở bên kia chiến tuyến. Trước đó, trên chiến tuyến, chúng tôi đã nã đạn vào nhau, đâm lê vào bụng nhau. Nhưng khi ai đó bị sa cơ là tù binh thì chúng tôi (cả hai phía) đối xử với nhau vẫn như những con người (ít nhất là trong trường hợp của tôi và những người lính dưới quyền tôi). Còn ở đây, trong vụ án này, anh Ngô Thanh Kiều là công dân Việt Nam, là đồng bào của năm công an nhân dân. Ấy vậy mà họ lại hành động dã man, vô nhân tính đến rợn người.
Bản án mà tòa vừa tuyên chiều hôm qua (3-4) thật sự là một nhát chém ngang mặt nhân dân, hằn sâu vào tâm thức nhân dân. Họ đang thách thức dư luận.
Tôi có một niềm tin chắc chắn rằng Đảng, Chính phủ không hề muốn như thế; những vị lãnh đạo cao nhất của nước ta khi biết đến vụ án này cũng không muốn như thế. Tôi cũng có một niềm tin cộng sản là họ không đồng ý với bản án mất lòng dân như thế.
Giết người mà chịu một bản án nhẹ hều như thế chẳng khác nào một tiền lệ khuyến khích những người công an khác tin rằng cứ vô tư hành xử côn đồ với dân, cứ mạnh dạn xuống tay với dân đi, bất quá chỉ bị năm năm tù, thậm chí chỉ chịu án treo thôi.
Cách nay dăm năm, tôi đã cảnh báo rằng tội phạm đã lờn, họ nghĩ phạm tội sao cũng được, miễn là không bị tử hình, sau đó sẽ sớm ra tù. Chính vì thế, tội phạm ngày càng gia tăng, năm sau cao hơn năm trước.
Một hệ quả khác nghiêm trọng mà xã hội phải gánh chịu từ kiểu xử án như thế này là người dân mất niềm tin vào công lý, không còn tin là xã hội này có “Bao Công” thật.
Bạn có biết ở các nước phương Tây, hình ảnh của vị thần công lý trên tòa án là ai không? Đó là một người phụ nữ bịt mắt, một tay cầm cái cân, một tay cầm kiếm. Bất luận trong trường hợp nào, người cầm cán cân công lý phải là người “nhắm mắt” lại, không chịu sự chỉ đạo, chi phối, xúi quẩy của người khác, bất luận trong trường hợp nào cũng phải giữ cho được cán cân công lý thăng bằng, không bị quyền uy, tiền bạc, lợi ích chi phối. Tay luôn nắm chắc thanh kiếm để trừng trị bất kỳ kẻ nào đi ngược lại với những điều cam kết với nhân dân.
TS NGUYỄN MINH HÒA (*)
Theo PLTPHCM
(*) TS Nguyễn Minh Hòa hiện là trưởng khoa Đô thị học - Trường ĐH  KHXH&NV TP.HCM.

Thursday 20 February 2014

Dân mạng thương tiếc sự ra đi của Thượng tướng Phạm Quý Ngọ (Chương Tương - Đời Sống & Pháp Luật)


Dân mạng thương tiếc sự ra đi của Thượng tướng Phạm Quý Ngọ


(ĐSPL) – Sự ra đi của Thượng tướng Phạm Quý Ngọ đã để lại trong lòng cư dân mạng sự thương tiếc vô hạn, nhiều người không khỏi rơi nước mắt khi biết được tâm nguyện cuối đời của ông.
Ngay khi thông tin Thượng tướng Phạm Quý Ngọ qua đời được đăng tải, nhiều cư dân mạng không khỏi bàng hoàng và thương tiếc. Ai cũng ngỡ rằng, mới hôm qua thôi họ còn nhìn thấy ông, nhưng hôm nay Thượng tướng đã về nơi vĩnh hằng. Dẫu biết rằng sinh tử là quy luật của tự nhiên nhưng sao vẫn đau lòng đến vậy.
Một bạn trẻ nick name Vân Hà chia sẻ trên FB của mình: "Mới hôm qua thôi cháu vẫn còn nhìn thấy Thượng tướng nói tên ti vi, thế mà giờ đây người đã về nơi vĩnh hằng, về với quê cha đất tổ. Cháu thật không tin vào mắt mình nữa. Cháu chúc Thượng tướng có giấc ngủ an lành trong lòng đất Mẹ yêu thương".

Thượng tướng Phạm Quý Ngọ được nhiều người biết đến
Nhiều status với những lời chia buồn cùng gia quyến Thượng tướng được đăng tải. Kèm theo đó là lời tiếc thương trước sự ra đi của ông, ai cũng cho rằng đây là "nỗi mất mát quá lớn".

Tướng Ngọ được nhiều người yêu mến và biết đến
Theo báo chí đưa tin, Thượng tướng đã chống chọi với căn bệnh ung thư gan suốt một thời gian dài và cũng đã trải qua nhiều đợt điều trị, nhưng không thành công. Thời gian gần đây sức khỏe của tướng Ngọ giảm sút đi rất nhiều khi căn bệnh ung thư gan tiếp tục hành hạ. Và ông đã qua đời tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Sự ra đi của ông để lại trong lòng người thân, bạn bè và những người đồng nghiệp nỗi đau, để lại trong lòng cư dân mạng sự thương tiếc vô hạn.
Bạn trẻ nick nam Hoài Anh chia sẻ: “Cháu biết rằng, sinh tử là quy luật, nhưng mọi việc quá nhanh, cháu vẫn chưa hết ngỡ ngàng. Xin chia buồn cùng gia đình bác. Cầu mong bác siêu thoát về nơi vĩnh hằng của tổ tiên”.
Bạn trẻ nick name Bình Minh tâm sự: “Cháu rất buồn khi nghe tin bác mất. Kính chúc bác yên nghỉ bên tổ tiên. Cầu mong cho mọi chuyện bình yên suôn sẻ”.
Được biết trước khi qua đời, tướng Ngọ có hai điều mong muốn đó là được đưa về quê an táng và cơ quan chức năng mình oan cho mình. “Anh ấy chẳng nói được gì nhiều. Nhưng anh ấy có hai điều mong muốn: Được đưa về an tang ở quê và cơ quan chức năng minh oan cho anh ấy”. Thương tá Ngữ nghẹn ngào nói trong nước mắt. Khi đọc đến đây, nhiều cư dân mạng không kìm được nước mắt.

Dân mạng "đồng cảm" với tâm nguyện của Tướng Ngọ
Bạn trẻ nick name Minh Minh chia sẻ: “Cái chết luôn là nỗi đau. Nhưng khi ta chết đi ta hướng về quê cha đất tổ mọi nỗi đau sẽ được hóa giải, chúng ta được đất mẹ ôm ấp chở che. Đó là tâm nguyện rất đáng mến, đáng quý”.
Một bạn trẻ còn cho rằng: “Tâm nguyện của Thượng tướng quả là cao đẹp. Chúng ta sinh ra ở đâu, đến lúc nhắm mắt xuôi tay chúng ta để về nơi đó, nơi đã sinh ra chúng ta, đã nuôi chúng ta lớn lên thành người. Chúc bác yên nghỉ”.
Nhiều cư dân mạng cho rằng, dẫu biết còn nhiều điều dang dở, còn nhiều vướng mắc nhưng chúng ta hãy hướng về Thượng tướng với tấm lòng thành kính và yêu thương nhất. Mong cho người siêu thoát và có giấc ngủ ngàn thu bên tổ tiên.
Chương Tương


Friday 14 February 2014

Biên Giới Tháng Hai (2009-1979) (Huy Đức)


February 16, 2011 at 12:51pm
Huy Đức  


Tháng Hai, những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên phòng Lũng Cú, Hà Giang, vẫn chưa có đủ hơi ấm để đâm hoa; những khúc quanh trên đèo Tài Hồ Sìn, Cao Bằng, vẫn mịt mù trong sương núi. Sáng 7-2 nắng lạnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi, nhà ở khối Trần Quang Khải 1, thị xã Lạng Sơn, ngồi co ro kể lại cái chết 30 năm trước của con trai mình, anh Nguyễn Văn Đài. Năm ấy, Đài 22 tuổi. Ông Quế nói: “Để ghi nhớ ngày ấy, chúng tôi lấy Dương lịch, 17-2, làm đám giỗ cho con”. Năm 1979, vào lúc 5giờ 25 phút sáng ngày 17-2, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái.


“Những đôi mắt”

Hôm ấy, ông Quế không có nhà, vợ ông, bà Dự, bị dựng dậy khi bên ngoài trời hãy còn rất tối. Bà nghe tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn. Bà Dự đánh thức các con dậy, rồi 4 mẹ con dắt díu nhau chạy về xuôi. Tới ki-lô-mét số 10, đã quá trưa, bà rụng rời khi hay tin, anh Đài đã bị quân Trung Quốc giết chết. Anh Đài là công nhân đường sắt, thời điểm ấy, các anh đương nhiên trở thành tự vệ bảo vệ đoạn đường sắt ở Hữu Nghị Quan. Anh em công nhân trong đội của Đài bị giết gần hết ngay từ sáng sớm. Đài thuộc trong số 3 người kịp chạy về phía sau, nhưng tới địa bàn xã Thanh Hòa thì lại gặp Trung Quốc, thêm 2 người bị giết. Người sống sót duy nhất đã báo tin cho bà Dự, mẹ Đài.

Cùng thời gian ấy, ở bên núi Trà Lĩnh, Cao Bằng, chị Vương Thị Mai Hoa, một giáo viên cấp II, người Tày, mới ra trường, cũng bị giật dậy lúc nửa đêm rồi theo bà con chạy vào hang Phịa Khóa. Hàng trăm dân làng trú trong hang khi pháo Trung Quốc gầm rú ở bên ngoài, rồi lại gồng gánh theo nhau vào phía Lũng Pùa, chạy giặc. Chị Hoa không bao giờ có thể quên “từng đôi mắt” của dòng người gồng gánh ấy. Giờ đây, ngồi trong một cửa hàng bán băng đĩa trên phố Kim Đồng, thị xã Cao Bằng, chị Hoa nhớ lại: “Năm ấy, tôi 20 tuổi. Tôi nghĩ, tại sao mình lại chạy!”. Chị quay lại, sau khi thay quần áo giáo viên bằng bộ đồ chàm vì được những người chạy sau cho biết, rất nhiều người dân ăn mặc như cán bộ đã bị quân Trung Quốc giết chết. Từ trên đồi, chị Hoa thấy quân Trung Quốc gọi nhau ý ới và tiến vào từng đoàn.

“Cuộc Chiến 16 Ngày”

Ngày 15-2-1979, Đại tá Hà Tám, năm ấy là trung đoàn trưởng trung đoàn 12, thuộc lực lượng Biên phòng, trấn ở Lạng Sơn, được triệu tập. Cấp trên của ông nhận định: “Ngày 22 tháng 2, địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn”. Ngay trong ngày 15, ông ra lệnh cấm trại, “Cấp chiến thuật phải sẵn sàng từ bây giờ”, ông nói với cấp dưới. Tuy nhiên, ông vẫn chưa nghĩ là địch sẽ tấn công ngay. Đêm 16-2, chấp hành ý kiến của Tỉnh, ông sang trại an dưỡng bên cạnh nằm dưỡng sức một đêm bởi vì ông bị mất ngủ vì căng thẳng sau nhiều tháng trời chuẩn bị. Đêm ấy, Trung Quốc đánh.

Ở Cao Bằng, sáng 16 tháng 2, tất cả các đồn trưởng Biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh, sáng hôm sau họ tìm về đơn vị triển khai chiến đấu khi Trung Quốc đã tấn công rồi. Sáng 17-2, Tỉnh Cao Bằng ra lệnh “sơ tán triệt để khỏi thị xã”; đại đội 22 của thị xã Cao Bằng được trang bị thêm 17 khẩu súng chống tăng B41. Ngày 18-2, một chiếc tăng Trung Quốc có “Việt gian” dẫn đường lọt tới Cao Bằng và bị tiêu diệt. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất”, người dân mới nhận ra đấy là tăng Trung Quốc. Đại tá Hà Tám công nhận: “Về chiến lược ta đánh giá đúng nhưng về chiến thuật có bất ngờ”. Tuy nhiên, Đại tá Hoàng Cao Ngôn, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng thời kỳ 17-2, nói rằng, cho dù không có bất ngờ thì tương quan lực lượng là một vấn đề rất lớn. Phần lớn quân chủ lực của Việt Nam đang ở chiến trường Campuchia. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng cầm chân Trung Quốc ở tuyến một, hướng Cao Bằng, chủ yếu là địa phương quân, chỉ có khoảng hơn 2 trung đoàn.

Trong khi, theo tài liệu từ Trung Quốc, chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc sử dụng tới 6 sư đoàn; ở Lạng Sơn 3 sư và Lào Cai 3 sư. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng 1 sư đoàn và 40 tăng; Lạng Sơn, một sư và 40 tăng; Lào Cai, 2 trung đoàn và 40 tăng. Lực lượng Trung Quốc áp sát Biên giới vào ngày 17-2 lên tới 9 quân đoàn chủ lực. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã.

Thế nhưng, bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị Biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Theo cuốn “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt”, xuất bản lần đầu năm 1993 của NXB Đại học Tứ Xuyên, quân Trung Quốc đã gọi con đường tiến vào thị xã Cao Bằng của họ là những “khe núi đẫm máu”. Đặc biệt, tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân của ta cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi. Từ Campuchia, sau khi đuổi Pol Pốt khỏi Phnompênh, hai quân đoàn tinh nhuệ của Việt Nam được điều ra phía Bắc. Ngay sau khi Quân đoàn II đặt những bước chân đầu tiên lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì; Chủ tịch Nước ra lệnh “Tổng Động viên”… ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước.

Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.

Lặng Lẽ Hoa Đào

Ngồi đợi ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, chúng tôi nhìn ra xa. Tháng Hai ở đây mới là mùa hoa đào nở. Nghĩa trang có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh từ ngày 17-2. Ở Vị Xuyên, tiếng súng chỉ thật sự yên vào đầu năm 1990. Năm 1984, khi Trung Quốc nổ súng trở lại hòng đánh chiếm hơn 20 cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên, bộ đội đã phải đổ máu ở đây để giành giật lấy từng tấc đất. Rất nhiều chiến sỹ đã hy sinh, đặc biệt là hy sinh khi tái chiếm đỉnh cao 1509. Ông Loan nhớ lại, cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về, từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau. Trong số 1600 liệt sỹ ấy, chủ yếu chết trong giai đoạn 1984, 1985, có người chết 1988, còn có 200 ngôi mộ chưa xác định được là của ai. Sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc, cái pháo đài trên đỉnh 1509 mà Trung Quốc dành được và xây dựng trong những năm 80, vẫn còn. Họ nói là để làm du lịch. Từ 1509, có thể nhìn thấu xuống thị xã Hà Giang. Năm 1984, từ 1509 pháo Trung Quốc đã bắn vào thị xã.

Trên đường lên Mèo Vạc, sương đặc quánh ngoài cửa xe. Từng tốp, từng tốp trai gái H’mông thong thả cất bước du xuân. Có những chàng trai đã tìm được cho mình cô gái để cầm tay. Một biên giới hữu nghị và hòa bình là vô cùng quý giá. Năm 1986, vẫn có nhiều người chết vì đạn pháo Trung Quốc nơi đoạn đường mà chúng tôi vừa đi, nơi các cô gái, hôm nay, để cho các chàng trai cầm tay kéo đi với gương mặt tràn trề hạnh phúc.

Quá khứ, rất cần khép lại để cho những hình ảnh như vậy đâm chồi. Nhưng cũng phải trân trọng những năm tháng đã thuộc về quá khứ. Tháng Hai, đứng ở bên này cửa khẩu Chi Ma, Lạng Sơn, nhìn sang bên kia, thấy lừng lững một tượng đài đỏ rực mà theo các sỹ quan Biên phòng, Trung Quốc gọi là “ đài chiến thắng”. Trở lại Lạng Sơn, những chiếc xe tăng Trung Quốc bị quân và dân ta bắn cháy hôm 17-2 vốn vẫn nằm bên bờ sông Kỳ Cùng, giờ đã được bán sắt vụn cho các khu gang thép. Ở Cao Bằng, chúng tôi đã cố nhờ mấy người dân địa phương chở ra kilomet số 3, theo hướng đèo Tài Hồ Sìn, tìm tấm bia ghi lại trận đánh diệt 18 xe Trung Quốc của tiểu đoàn đặc công 45, nhưng không thấy. Trở lại Tổng Chúp, phải nhờ đến ông Lương Đức Tấn, Bí thư Chi bộ, nguyên huyện đội phó Hòa An, đưa ra cái giếng mà hôm 9-3-1979, quân Trung Quốc giết 43 thường dân Việt Nam. Ông Tấn cũng chính là một trong những người đầu tiên trở về làng, trực tiếp đỡ từng xác phụ nữ, trẻ em, bị chặt bằng búa, bằng dao rồi quăng xuống giếng. Cái giếng ấy bây giờ nằm sâu trong vườn riêng của một gia đình, không có đường đi vào. Hôm ấy, anh Tấn phải kêu mấy thanh niên đi theo chặt bớt cành tre cho chúng tôi chụp hình bia ghi lại sự kiện mà giờ đây đã chìm trong gai tre và lau lách.

Huy Đức


Bài đăng trên Sài Gòn Tiếp Thị ngày 9-2-2009, bản đưa lên báo online bị  rút xuống ngay trong buổi sang.

Wednesday 12 February 2014

Hoa đào biên viễn (Đào Tuấn - Một Thế Giới)


12-02-2014


Hoa đào biên viễn

Bài 1: Biên giới, hồi ức 35 năm
Đào Tuấn
Theo Một thế giới 
 Tháng 2 năm nay, những cây đào Tổng Chúp, Hưng Đạo, Cao Bằng bỗng dưng đỏ loét trong cái nắng trái mùa. Trên đồn biên phòng Pha Long, Lào Cai, thật lạ, chỉ duy nhất một gốc đào đơm hoa. Còn ở pháo đài Đồng Đăng, Lạng Sơn, những cây đào khoe sắc vô duyên bên nền đá xám xịt và lau lách tùm lum của một pháo đài hoang phế đã đi vào quên lãng.
Một số phận
Trong ngôi nhà nhỏ ở dốc cầu Nà Rụa, phường Tân An, Cao Bằng, bà Nguyễn Thị Quỳ cũng có một cành đào nhỏ trước ban thờ chồng, người 35 năm trước bất đắc dĩ trở thành “tù binh chiến tranh”.
Câu chuyện liên tục ngắt quãng khi đôi vai của người phụ nữ nhỏ nhắn run lên bần bật trước những hồi ức từ 35 năm trước. Chiến tranh đã lấy đi của bà một đứa con. Và sau 35 năm, vết thương ấy chưa bao giờ lành khi hàng đêm, hình ảnh đứa nhỏ tím tái chết trong mưa lạnh vẫn ùa về như một nỗi kinh hoàng không bao giờ phai nhạt.
“Cô sinh cháu và gói trong một chiếc áo. Và rồi đó cũng là chiếc áo liệm”- người cựu binh chống Mỹ khốn khổ đưa tay lên dụi mắt.
Sáng 17.2.1979, trời rất mù và lạnh. Từ thị trấn Nước Hai, bà Quỳ chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ chạy loạn khi tiếng pháo của lính Trung Quốc “như bom Mỹ rải thảm” khắp nơi. Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, người sản phụ khốn khổ đang mang thai đến tháng thứ 9 chỉ còn biết vác bụng lặc lè để  chạy.
“Cô chạy vào núi đá Mỏ Hách. Rồi từ Mỏ Hách chạy sang Đại Tiến. Chạy ngược với tiếng pháo”. Đám người chạy loạn bị lính Trung Quốc phát hiện, truy đuổi, và lại tứ tán khắp nơi. “Chúng nó đông lắm cháu ơi! Đâu đâu cũng thấy lính Trung Quốc”.
Trong gần một tuần lễ trốn trên động đá, bà Quỳ đau đẻ trong cái đói, trong cái rét, trong trời mưa lạnh, trong tối tăm mò mẫm. Không một hạt gạo mang theo. Không một tấm chăn. Cả đám người đói khát, rét mướt và lo sợ đến hoảng loạn. Chỉ ngay phía dưới, lính Trung Quốc đông lúc nhúc, vây hãm khắp nơi.
Những con người khốn khổ lấy nước bằng cách hứng từ giọt gianh trong một tấm nilon rộng chừng 2 bàn tay. Ăn tất cả những gì mà ban đêm mấy người đàn ông mò mẫm được từ bờ cây, gốc sắn… ngay sát nơi lính Trung Quốc dựng trại.
Đến hôm đau đẻ, bà được đồng bào gom cho thìa đường cuối cùng, hòa với vốc nước “để có sức mà đẻ”. Đứa con đầu lòng được sinh ra trong hang đá nhưng 3 hôm sau thì qua đời.
Bia thảm sát tại Tổng Chúp, Hưng Đạo, Hòa An, Cao Bằng. Bà Hậu, một người dân Tổng Chúc xưa từng cắp con chạy loạn bảo rằng: Bà không thể quên những ngày tháng 2 năm ấy 
“Cô sinh cháu và gói trong một chiếc áo. Và rồi đó cũng là chiếc áo liệm”- người cựu binh chống Mỹ khốn khổ đưa tay lên dụi mắt. Những giọt nước mắt mờ đục lăn dài trên khuôn mặt “một ngàn nếp nhăn” tưởng chừng đã không còn có thể đau khổ được nữa: “Lúc đó cô yếu quá, bỏ mấy đồng nhờ một ông già mang cháu đi. Chắc vứt nó ở một đâu đó”.
Nhưng bi kịch chưa dừng lại ở đó. Đêm ngày 25.2, người chồng nửa đêm đi kiếm ước uống bị sa vào tay lính Trung Quốc. Ông bị giam giữ cho đến ngày 3.6 và từ sau đó, những đồng nghiệp của ông ở Ty Thể thao Cao Bằng cho biết ông bỗng dưng có thói quen ăn cơm với nước lã.
Còn bà Quỳ, quãng thời gian trong động đá và cái chết bi thảm của đứa con đầu lòng khiến bà trở nên trầm uất suốt 3 tháng. Tuyến sữa viêm tắc khiến sau đó người phụ nữ khốn khổ phải cắt đi một bên ngực.
35 năm, bằng đấy thời gian chưa đủ để bà Quỳ quên đi hình ảnh đứa con đầu lòng chết tím tái. “Đau xót lắm cháu ơi. Cô đi cúng, Thầy bảo nó không có nhà, lang thang ở một gốc cây nào đó”…
Không chỉ Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, cả thị xã Cao Bằng lỗ chỗ tổ ong như vừa trải qua “một trận B52 mặt đất”, không còn thứ gì cao quá 1m. Bách hóa tổng hợp, một biểu tượng của Cao Bằng bị hủy hoại đến không còn một viên gạch lành.
Chị Hoài Phương, phóng viên của Đài truyền hình Cao Bằng, năm đó 9 tuổi, đến giờ vẫn không thể quên hình những xác người bị súng phun lửa đốt cháy trên mặt đất. Khắp nơi.
Ông Nguyễn Duy, Phó Chủ tịch Hội cựu chiến binh Hòa An nhớ lại: Đến ngày 20.3, cả thị xã vẫn như một đụn khói lớn. Chiều 29.3. Không một chiếc xe, không một người dân đi trên đường. Kho lương thực còn cháy nghi ngút. Thị xã tan hoang khi lính Trung Quốc trước khi rút đã ốp mìn giật đổ từng cây cầu, từng cột điện. Cái gì lấy được thì lấy hết. Cái gì không lấy được thì phá hết.
Khi giặc đến nhà
Ngày 17.2.1979, Trung Quốc đã dùng một lực lượng quân sự chính quy lên tới 60 vạn quân tấn công Việt Nam trên khắp chiều dài 1.200 km biên giới 6 tỉnh phía Bắc. Cao Bằng chính là một trong những trọng điểm đánh phá của quân đoàn 41A với sự tham gia của xe tăng và pháo binh.
Theo nhận định của Xiaoming Zhang trong một nghiên cứu đăng trên tạp chí China Quarterly tháng 12.2005, cuộc tấn công của Trung Quốc phụ thuộc phần lớn vào việc nhanh chóng chiếm được Cao Bằng.
Nhưng hai mũi tấn công không đến được mục tiêu trong vòng 24 tiếng. Khu vực đồi núi cùng kháng cự của dân quân Việt Nam tạo ra khó khăn lớn. Việc đi chậm khiến Xu Shiyou, lãnh đạo cánh quân Quảng Tây, phải hoãn cuộc tấn công vào Cao Bằng, mặc dù phó tướng Wu Zhong đã đến sát thành phố này ở mạn phía đông và nam.
Trong một bài phát biểu được nhà nghiên cứu Dương Danh Hy dịch ra tiếng Việt ít năm trước, nhà lãnh đạo Trung Quốc khi đó là Đặng Tiểu Bình đã xác nhận đó là cuộc chiến "giết gà đã phải dùng dao mổ trâu". Cụ thể “vũ khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là năm đánh một, sáu đánh một, chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng đều gấp mấy lần, thậm chí sáu đánh một, bảy đánh một”.
Vì sao ở Cao Bằng, chiến tranh lại đồng nghĩa với tàn phá như vậy?
Trang mạng quân sự milchina.com của Trung Quốc 3 năm trước đã cho đăng thư của một cựu chiến binh Trung Quốc từng tham gia chiến tranh biên giới 1979 phần nào giải thích lý do: "Mục đích của cuộc chiến tranh này là tàn phá, hủy hoại quốc lực của Việt Nam chứ không phải là chiếm lĩnh lãnh thổ, nên sau hai ngày đánh nhau, lính tham chiến bắt đầu chấp hành mệnh lệnh bán chính thức là “không bắt tù binh”, “không để lại cho Việt Nam một lá cây ngọn cỏ”.


Cho đến cuối cuộc chiến tranh, ở Cao Bằng “không ai theo địch, không ai đầu hàng, không ai phản bội”- giọng người cựu bí thư tỉnh ủy rưng rưng nước mắt. Bao đời nay vẫn vậy, mỗi khi giặc đến nhà thì mỗi một người dân chính là một người lính.

Ông Vương Dường Tường, nguyên bí thư tỉnh ủy Cao Bằng giai đoạn 1979-1992 nhớ lại: Bấy giờ, tình trạng tranh chấp, lấn chiếm và vấn đề người Hoa đã khá căng thẳng, nhưng không ai nghĩ là chiến tranh xảy ra. Chủ trương của ta là đưa thanh niên ra biên giới tổ chức các lâm nông trường. “TƯ xác định cũng phải đề phòng, nhưng là phòng xích mích biên giới thôi”- ông Tường nói.
Tỉnh ủy Cao Bằng bấy giờ chủ trương đưa một số bộ đội về một số xã để củng cố đội ngũ cán bộ. Quân đội không có ở Cao Bằng. Lực lượng công an vũ trang chỉ có ở cấp tỉnh chứ cấp huyện là không có người. Cả thị xã bấy giờ chỉ có 1 một trung đoàn bộ đội địa phương (E567), nhưng cũng chủ yếu là  làm kinh tế. Đến đội ngũ dân quân tự vệ, “có thì có đấy, căng thì căng như thế nhưng đã được phát súng đâu”. Thậm chí khi chiến tranh đã nổ ra, có thêm một sư đoàn được thành lập, nhưng lúc đó cũng chưa có quân”.
Ông Vương Dường Tường, nguyên bí thư tỉnh ủy Cao Bằng 
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cao Bằng Trần Hùng, thời điểm 1979 đeo quân hàm trung sĩ, tiểu đoàn 40 Bộ đội địa phương còn nhớ như in là khi xe tăng Trung Quốc vượt cầu Sông Hiến vào đến tận dốc Nà Toòng, đại đội 3 phòng không của trung đoàn 567 phải thay đạn, chúc nòng pháo 37 ly xuống để bắn xe tăng bằng đạn xuyên.
Chính ông Hùng là một trong những người đầu tiên chạy bộ đạp lá sa mộc đến bên xác xe tăng còn nghi ngút khói.
“Chúng tôi chỉ có 3 khẩu súng AK để bảo vệ trận địa”, ông Hùng nói, “về sau, khi lính Trung Quốc lên quá đông, đơn vị đã phải tháo súng (pháo) để rút”.
Theo Xiaoming Zhang, đến ngày 23.2, Trung Quốc mới chiếm được Cao Bằng sau khi nhận ra nơi này chỉ có một số lượng nhỏ quân Việt Nam cố thủ. Nhưng sự chậm chân khi chiếm Cao Bằng đã ngáng trở kế hoạch ban đầu của Trung Quốc, vốn nhấn mạnh việc tác chiến nhanh và quyết liệt.
Cao Bằng có gì để chống lại 6 sư đoàn chính quy với xe tăng và pháo binh yểm trợ?
“Dân Cao Bằng sẵn biết Trung Quốc rồi. Ở đâu cũng đánh, gặp đâu cũng đánh, ai cũng đánh. Một, hai người cũng đánh. Chặn khắp nơi”- ông Vương Dương Tường nói.
Ở Hòa An, dù lúc đó mất hoàn toàn liên lạc, một nhóm cựu binh vẫn tự tập hợp nhau lại lập chốt đánh địch. Nhặt được cái gì thì đánh được bằng cái đó. Ở Trà Lĩnh, Quảng Hòa, Hà Quảng đều có những chốt đánh địch như vậy.
Người Cao Bằng sau phút bất ngờ đã chủ động trở lại. Cho đến cuối cuộc chiến tranh, ở Cao Bằng “không ai theo địch, không ai đầu hàng, không ai phản bội”- giọng người cựu bí thư già rưng rưng. Bao đời nay vẫn vậy, mỗi khi giặc đến nhà thì mỗi một người dân chính là một người lính.
Tháng 2 năm nay, trên nền bách hóa tổng hợp bị đánh sập năm xưa, một siêu thị mới đã được dựng lên, cho dù người Cao Bằng vẫn gọi đó là Tổng Hợp Đổ.
Còn người nữ cựu binh Nguyễn Thị Quỳ, đến giữa câu chuyện, bỗng bất ngờ hỏi lại chúng tôi: “Sao các cháu không hỏi vì sao tháng 2 năm ấy cô không đi tìm một cây súng? Và rồi, bà quả quyết tự trả lời: “Năm xưa, cô phải chạy giặc vì lúc đó đang mang bầu, không muốn ảnh hưởng đến anh em đồng chí. Còn nếu bây giờ giặc đến nhà, cô sẽ tìm một khẩu súng. Nếu cô già yếu không đánh được, những đứa con của cô sẽ cầm súng".
Con gái bà, một cô gái niềng răng sinh năm 1988 sau đó nói sẽ đưa chúng tôi vào Tổng Chúp, dù ở Cao Bằng, không còn nhiều người biết đến những gì xảy ra tại Tổng Chúp 35 năm trước, dù theo lời cô bé: "nơi đó giờ đã hoang vắng lắm rồi anh ạ”.
Bài 2:  "Đồng chí với nhau, ai nghĩ sẽ đánh nhau"
Đào Tuấn
Ai cũng chỉ nói chỉ tranh chấp biên giới. Ai cũng chỉ xác định là giữ đất thôi. Tin là đồng chí với nhau, chỉ gây sự, chỉ ghen ghét thế thôi. Chứ anh em đồng chí, ai nghĩ là sẽ đánh nhau”- 35 năm sau, nguyên Bí thư tỉnh Cao Bằng vẫn còn khắc khoải câu chuyện xảy ra năm 1979.


Trận tập kích bất ngờ
Ở Bát Xát, Lào Cai, khi pháo Trung Quốc bắt đầu bắn sang từ phía bên kia biên giới, ông Nguyễn Văn Tuyến, đại đội trưởng tự vệ Đoàn địa chất 305 (Đoàn 5) đang ở Bản Vược, ngay trong tầm súng trường lính Trung Quốc.
“Chúng tôi vẫn pha trà uống. Chiến sự vẫn liên miên từ trước đó, đêm nào cũng có tiếng súng, cho nên không ai ngờ Trung Quốc đánh lớn”- ông nói.
Chỉ trước khi cuộc tấn công diễn ra 48 tiếng, cả dân lẫn lính Trung Quốc vẫn “sang bên này xem chiếu bóng bình thường".
Ông Tuyến từng là lính trong chiến tranh với Mỹ, sau chiến tranh làm Phó Chủ tịch HĐND huyện Bát Xát, nhớ lại: "Khi pháo Trung Quốc chuyển làn, ông mới giật mình hô anh em vì cảm giác rằng bộ binh Trung Quốc sẽ sang. Mấy người hoảng hốt chạy ra đến đến ngã ba Bản Vược thì khắp nơi đã tràn ngập màu áo lính đang vận động từ phía trong ra điểm chốt của công an vũ trang. Chúng tôi tưởng bộ đội mình đã lên ngay thành thử súng cầm trong tay mà không bắn”. 
Từ trong hậu phương, lính Trung Quốc tiến đánh từ phía sau đồn công an vũ trang và chốt tự vệ địa phương. Hỏa lực từ bên kia biên giới bắn sang như mưa rào. Đơn vị ông Tuyến cơ động ra đến chốt Cây 2 thì bị một khẩu đại liên chặn lại. Bấy giờ, anh em vẫn có người giơ súng, giơ cờ vẫy ra hiệu vì vẫn tưởng bộ đội mình bắn nhầm.
Chỉ một lát sau đó, từ khu vực bản Xèo, lính công binh Trung Quốc lao cầu phao và sau đó xe tăng Trung Quốc tiến sang. “Họ đã chuẩn bị sẵn hết rồi. Cây cầu phao thả ra trôi theo dòng nước là áp khít sang bờ bên này”, lời ông Tuyến.
Tự vệ bản Xèo hy sinh vô số kể. “Chúng tôi chỉ được trang bị trung liên và súng K63. Không có vũ khí chống tăng”- ông Tuyến nói.
Ông Nguyễn Mạnh Tường, Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Bát Xát thời điểm tháng 2.1979 đang là lính sư đoàn 316, một trong hai sư đoàn chủ lực duy nhất hiện diện ở biên giới phía Bắc.
Sáng đó, đang ở Than Uyên, đơn vị ông có lệnh báo động. Ai cũng tưởng chỉ báo động hành quân dã ngoại, thành thử “có người chỉ mang theo một quả đạn, có người trút lại tượng gạo, và có người, chỉ mang độc một bộ quần áo trên người”.
Đơn vị ông Trường hành quân lên đến Sapa thì những người lính mới biết chiến tranh đã xảy ra, và sau đó chạm địch ngay tại đèo Ô Quy Hồ. 218 đồng đội của ông đã hy sinh trong trận đánh đó.
Bát Xát là “nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt” với những địa danh anh hùng và đau thương: A Mú Sung, Y tý.
Những người lính biên phòng A Mú Sung trong ngày 17 tháng 2 năm ấy, đã đánh đến viên đạn cuối cùng và hy sinh oanh liệt.


Một góc pháo đài Đồng Đăng
Cú đánh trộm của "người anh em"
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cao Bằng Trần Hùng nhớ lại, trưa ngày 17, khi một người dân chạy đến đơn vị báo tin xe tăng Trung Quốc đã vào đến Nước Hai, Hòa An, thủ trưởng của ông còn lệnh cho lính "trói nó lại” vì cho rằng người này phao tin đồn nhảm.
Vì sao quân dân ta lại bị bất ngờ trước một cuộc tấn công toàn tuyến với quy mô 32 sư đoàn?
Nguyên Bí thư Cao Bằng, Vương Dương Tường, nhớ lại ở Cao Bằng hôm ấy, quân khu còn đưa các chỉ huy quân sự tỉnh về họp. Không ai biết Trung Quốc đánh mình. Ngay cả khi tiếng súng đã nổ vang từ hướng Hà Quảng, Thông Nông, trưởng ty Thủy lợi băn khoăn nói tiếng súng nhiều lắm, không biết súng ta hay súng địch. Một lãnh đạo Cao Bằng khi đó nói anh em cứ yên trí. Đó là súng mình.


Ông Tường thừa nhận: "Cơ bản nhất là bấy giờ không ai tin anh em đồng chí lại đánh nhau", ông Tường nói.
Cao Bằng bấy giờ vừa tách tỉnh. Đến 1 giờ đêm, pháo Trung Quốc bắn phá dồn dập. Sáng ngày 17.2, lính Trung Quốc đã đến chân đèo Minh Tâm. 2 tiếng sau, xe tăng chúng đã vào đến Cao Bình, rồi vào đến Nà Tàu. Pháo binh Trung Quốc dồn dập nã xuống Nà Tản.
Ngày 18.2, lính Trung Quốc đã vào đến Hòa An, Cao Bình. Đến ngày 19, khắp nơi đã bị đốt phá giết chóc.
“Ai cũng nghĩ là chỉ tranh chấp biên giới. Ai cũng chỉ xác định là giữ đất thôi. Tin là đồng chí với nhau, chỉ gây sự, chỉ ghen ghét thế thôi, ai nghĩ là sẽ đánh nhau” - ông Tường nói, và theo ông, 35 năm sau vẫn chưa hiểu nguyên nhân câu chuyện đã xảy ra.
Cho đến năm 1992, khi các cơ quan của Bát Xát, Lào Cai từ Mường Vi trở lại Bản Xèo thì “vẫn chỉ có cỏ may và đất đỏ”.
Chúng tôi trở lại Đồng Đăng, Lạng Sơn vào đúng ngày lễ Đền Mẫu, lễ lớn nhất Lạng Sơn, nằm ngay dưới chân pháo đài Đồng Đăng.
Từ 35 năm nay, mỗi dịp tháng hai, đại tá Triệu Quang Điện, Trưởng phòng cảnh sát truy nã Công an tỉnh Lạng Sơn vẫn đến đây thắp hương tưởng nhớ những người đồng đội của mình.
Ông Điện được phong Anh hùng lực lượng vũ trang sau cuộc chiến tranh biên giới 1979, và sau 35 năm, ông vẫn nhớ như in những cái tên Trần Văn Thái, Vi Văn Cao, những người đồng đội trong tổ tam tam và bữa cháo cơm nếp cuối cùng đêm 16.12.
Bài 3: Bia trấn ải - nơi tổ quốc được tô màu đỏ
Đào Tuấn
Từ 35 năm nay, vào dịp tháng 2 mỗi năm, Đại tá Triệu Quang Điện, trưởng Phòng Cảnh sát truy nã Công an tỉnh Lạng Sơn đều đến đền Mẫu để thắp hương cho đồng đội của mình.

35 năm, thời gian chưa đủ để ông quên đi bữa cháo nếp cuối cùng. 35 năm, ông vẫn nhớ như in hình ảnh của những người đồng đội trong tổ tam tam: Những Trần Văn Thái. Những Vi Văn Cao.

Pháo đài Đồng Đăng và pháo hoa Trung Quốc

Năm đó, binh nhì Triệu Quang Điện vừa cưới vợ được 4 tháng, cũng vừa qua khóa huấn luyện 4 tháng ở Đông Khê, trở lại Lạng Sơn vào đúng buổi chiều ngày 16, khi phía Trung Quốc cho người đuổi trâu dò phá những bãi mìn biên giới.

5h sáng, khi pháo bắn cấp tập vào Đồng Đăng, ông cùng hai người đồng đội trong tổ thậm chí còn chưa kịp ăn nồi cháo gạo nếp đã đặt trên bếp để vội vã xách súng lên chốt ngay tại khu vực Đền Mẫu, pháo đài Đồng Đăng.

Tới 7h, sương còn chưa tan thì lính Trung Quốc đã kéo sang khắp nơi. Ba người kê súng bắn. Ông Điện, giữ súng trung liên bắn suốt 1 giờ đồng hồ.

“Hồi huấn luyện, tôi bắn bia được 3 điểm 9 - ông Điện nhớ lại - nhưng hôm đó, lính Trung Quốc lên quá đông, có lẽ là không cần bắn giỏi cũng có thể trúng”. Riêng tại chốt Đền Mẫu, binh nhì  Điện đã tiêu diệt tới 30 lính Trung Quốc.

Lính Trung Quốc cứ theo tiếng kèn lớp lớp xông lên. Bị hắt ngược trở lại, rồi lại xông lên.

Trong một thời khắc, khi ông vừa nhảy xuống hào thay đạn thì chỉ nghe “bầm”. Ngoảnh lại, nơi 2 người đồng đội nằm chỉ còn lại một hố pháo đen xì. Không còn chút vết tích.

Tới 10h, xe tăng Trung Quốc đã tràn ngập khắp nơi. Pháo binh Trung Quốc nã đạn vào pháo đài trong suốt nửa ngày 18.

Bấy giờ trong hang Đền Mẫu, ngay phía dưới chốt của ông Điện có tới 300 - 400 dân tới tránh pháo.
Đến tối 18, đơn vị ông nhận được phương án đưa dân trong hang ra. Và chỉ trong một đêm, binh nhì Triệu Quang Điện trực tiếp đưa dân, ra ra vào vào 3 lần để cõng được ra 3 người đồng đội bị thương nặng.

Khẩu trung liên của ông giờ đang được trưng bày tại Viện Bảo tàng công an nhân dân.


Bia trấn ải ở Pha Long, Mường Khương, Lào Cai


Ít năm sau đó, khi gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong một buổi lễ, ông thậm chí không trả lời được vì sao chỉ trong 1 đêm, với quãng đường 17km, một người chỉ nặng chưa tới 49kg đã 3 lần bò vào cõng đồng đội bị thương ra nơi an toàn.

Chúng tôi theo lối mòn trèo lên pháo đài Đồng Đăng, nơi bị đánh phá ác liệt nhất trong cuộc chiến biên giới.

Vào ngày 17.2.1979, 2 sư đoàn bộ binh Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của 1 trung đoàn xe tăng và 6 trung đoàn pháo binh đã tấn công ác liệt nơi này.

Trong cuốn Lịch sử sư đoàn 3 Sao Vàng còn ghi rõ: Ngày cuối cùng tại Pháo Đài, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh và nhân dân tới đây trú ẩn.

Tháng 2 năm nay, pháo đài trở nên cô đơn, trơ trọi giữa sự náo nhiệt của lễ hội Đền Mẫu.

Hoặc như ở chính cái nơi mà lính Trung Quốc xả súng vào chiếc xe cứu thương 12A 04-35 của bệnh viện Lạng Sơn đi Đồng Đăng cứu nhân dân bị thương, giết chết cả người lái xe, cả BS Nguyễn Thu Thủy, y tá Trịnh Thị Sâm, giờ một con đường mới đã được mở ra dập dìu xe cộ, hàng hóa thông thương qua cửa khẩu Hữu Nghị.
Ở Tổng Chúp có tấm bia ghi bại vụ thảm sát này. Tấm bia giờ vẫn còn sau 35 năm, dù chiếc giếng cạn, nơi năm xưa chứa đầy xác phụ nữ, trẻ em bị hành quyết bằng rìu bổ củi giờ đã lấp đầy cây lá.
Quá khứ không dễ quên. Nhất là khi đó là những gì đau thương nhất. Cho dù theo thời gian, những nhân chứng chiến tranh giờ đã lần lượt ra đi. Ông Hoàng A Tỉn, nhân chứng thảm sát trong sân Bách hóa tổng hợp Bát Xát đã mất 2 năm trước.

Đến Tổng Chúp, lại nghe tin ông Nông Văn Ất, nguyên trưởng trại giống Đức Chính, người đã mất vợ và 4 đứa con trong vụ thảm sát Tổng Chúp giờ cũng không còn.
Lời vĩnh biệt nhói trời Pha Long

Nhưng cũng có những tấm bia trấn ải mới được dựng lên. Ngay bên tay phải đồn biên phòng tiền tiêu Pha Long, Mường Khương, Lào Cai, có những dòng chữ mới, được in trên bia đá:
Nguyên Thần Bổn Mệnh giữ núi non
Nam Sơn bốn cõi tựa sách trời định.
Thiên thiên nhật nguyệt linh linh ứng
Tuyệt tuyệt long phụng báo quốc an
Bình nhất hà Việt Nam Quốc thổ.

Thạc sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh dịch: Nguyên Thần được giao sứ mệnh giữ núi non. Núi nam bốn cõi đã quy định trong sách trời. Nghìn nghìn mặt trời, mặt trăng linh thiêng và ứng nghiệm (điều đó). (Có) rồng phượng tuyệt vời bảo vệ an nguy tổ quốc. Đất Việt Nam yên bình nhất là ở đây.

Thiếu tá Phan Đức Mạnh, chính trị viên đồn Pha Long cho biết tấm bia trấn ải vừa được dựng hồi tháng 5, đúng vào điểm đối diện đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Bên này từng hàng, từng hàng tên tuổi của 37 liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc được khắc chìm trong đá xám.
Năm ấy, những chiến sĩ công an vũ trang còn trẻ măng đã đánh đến viên đạn cuối cùng, đã đâm gẫy đến chiếc lưỡi lê cuối cùng để bảo vệ tổ quốc.

Ngày 17.2.1979, sau khi bắn viên đạn cuối cùng, một người lính Pha Long đã gửi bức điện cuối cùng về hậu phương. Và cũng chỉ vài chữ, đại ý: Chúng tôi hết đạn. Xin Vĩnh biệt. 

Chợt nhớ đến những câu thơ Vương Trọng:

Mắt rưng rưng, dò đọc từng dòng
Gặp điệp khúc Tháng Hai năm Bảy chín
Lời vĩnh biệt nhói trời Pha Long.

Đến lúc này tôi mới hiểu ra
Vì sao đường Biên giới bản đồ
Của Tổ quốc được tô màu đỏ!..

Năm nay, chỉ duy nhất một, trong số gần bảy chục gốc đào ở Pha Long đơm hoa. 

Không xa Pha Long là điểm cao Tả Ngải Chồ, nơi một đồng nghiệp của chúng tôi, nhà báo, anh hùng liệt sĩ Bùi Nguyên Khiết đã tay bút tay súng hy sinh vào ngày 17.2.1979.

Có lẽ, chính những người lính biên phòng, chính những nhà báo liệt sĩ, chính nhân dân anh hùng, những người đã ngã xuống từ cả ngàn năm nay, những người đã hy sinh anh dũng trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược phương Bắc năm 1979 mới là những tấm “bia trấn ải” thiêng liêng nhất mà mỗi người làm báo chúng tôi cần phải nhắc lại để thế hệ con cháu còn có được cảm xúc thiêng liêng, tự hào khi nhắc đến hai chữ “Tổ Quốc”.
Đào Tuấn

Sunday 7 July 2013

Cái Mơn khởi nguyên của nông nghiệp kỹ thuật cao (Công Khanh & Như Thuần - Sài Gòn Tiếp Thị)



SGTT.VN - Ở nơi áp dụng khoa học nông nghiệp đầu tiên trong cả nước, nông dân ra nước ngoài học kỹ thuật nông nghiệp, giờ đại công xưởng cây giống này đã có lịch sử lâu đời hàng trăm năm gắn bó sâu sắc giữa người trí thức cả Tây cả Việt và những nông dân khao khát tự do.
cha Gernot Quí, người có công lớn với họ đạo Cái Mơn, coi xứ này suốt 48 năm (1864 – 1912).
Năm 1702, ba gia đình ông Nguyễn Văn Tấn, ông Phan Văn đại và Lê quang Lê bỏ quê nhà ở miền Trung (Phú Yên, Bình định) vượt biên xuôi Nam, vào vùng đất của vua Thuỷ chân Lạp, mang theo sự cần cù và một ước mơ: tự do tín ngưỡng. Đó là những người mở trang lịch sử của cái Mơn.
Vào những năm 40 của thế kỷ trước, xứ đạo Cái Mơn đã được cả nước biết tới bởi nghề chơi cây kiểng và trồng cây ăn trái. Nhưng thế hệ những người nổi tiếng và tiên phong trong lĩnh vực trồng cây kiểng cổ Cái Mơn giờ đây chỉ còn lại ít người như ông Tám Sông – Nguyễn Văn Sông, trên 80 tuổi ở ấp Đông Nam, xã Vĩnh Thành. Trong ký ức ông bây giờ chỉ còn lại mỗi sự oanh liệt: cặp mai kiểng có hoành gốc 2,5m của ông từng bán vào nửa cuối những năm bảy mươi trị giá 60 cây vàng.
Gặp chúng tôi vào một ngày cuối năm, ông Sông tâm sự: “Chỉ sợ nghề làm kiểng cổ rồi đây sẽ mai một vì giờ không còn mấy ai theo nữa”. Những thế hệ sau ông nhờ áp dụng các kỹ thuật chiết cành, ươm giống, đã cho ra hàng loạt cây giống theo phương thức bán công nghiệp, bán đi khắp nước và cả xuất khẩu đi nước ngoài như ông Năm Công, Ba Tài… thu lợi mỗi năm hàng trăm triệu. Ông Ba Tài còn nhớ vào thời kỳ thiếu đói cuối thập niên 70, rất nhiều nghệ nhân hoa kiểng Cái Mơn đã nản chí phá bỏ vườn cây, vườn kiểng để chuyển sang trồng lúa, khoai lang cứu đói. Có nơi chủ vườn đứt ruột đốn bỏ hàng loạt gốc cây ăn trái lâu năm. Mãi đến cuối thập niên 80, nghề vườn Cái Mơn mới bắt đầu trở mình hồi sinh nhờ cơ chế thị trường.
Cái Mơn giờ được biết đến là một trong những địa phương đầu tiên của đất Nam bộ đưa nông dân ra nước ngoài tham quan, học tập mô hình canh tác, sản xuất và nhân giống, rồi quay lại xuất khẩu sản phẩm cùng dịch vụ chăm sóc. Nhưng ít ai nghĩ mô hình kết hợp kỹ thuật ghép, sàng lọc những giống cây ăn trái của nước ngoài, lai tạo với những giống cây trồng có sẵn tại địa phương để tạo nên một giống cây mới cho quả ngọt trái lành đã có mặt tại đây hàng trăm năm trước.
Phải chăng sự gắn kết của cộng đồng giáo dân chiếm 85% dân số hình thành từ 300 năm qua trên dãy đất cù lao này đã tạo nên một sức mạnh tiềm tàng để Cái Mơn vực dậy một làng nghề?
Lịch sử một làng nghề
Nhà thờ Cái Mơn
Tàng thư ghi nhận từ đầu thế kỷ 18, những nhóm dân người Việt đã đặt chân đến vùng đất Bến Tre do cuộc bắt đạo Thiên Chúa dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Chu trên quy mô khắp nước từ ngày 13.3.1700 (1). Lúc đầu ba gia đình đầu tiên đến Ba Giồng, sau sang Cái Mơn định cư khởi nghiệp. Người đi trước trở thành nguồn thông tin đáng tin cậy để người đi sau từ miền Trung tìm vào. Sự cần cù của họ trên vùng đất mới phì nhiêu – như cá gặp nước: lúc bấy giờ “chợ Ba Vát ở thôn Phước Hạnh, lỵ sở của huyện Tân Minh, phố xá đông vui, thuyền bè tấp nập…” theo ghi nhận của Đại nam nhất thống chí.
Phải đến những năm 60 thế kỷ 19, linh mục người Pháp Gernot mới bắt đầu mở rộng hoạt động Công giáo tại Cái Mơn. Nhiều ghi chép trong họ đạo Cái Mơn còn lại cho biết, địa danh này do các cha thừa sai người Pháp đặt ra. Cái Mơn, đọc gần giống âm tiếng Pháp của Caïman – con sấu mõm dài, ám chỉ là xứ có nhiều cá sấu. Sử liệu ở giáo xứ này khẳng định chính các ông cha thừa sai là người đem các giống cây như càphê, cacao, măng cụt, v.v. và nhiều giống cây nhiệt đới về nhân giống phát triển tại đây, mở ra một truyền thống cho những trí thức ở xứ này tiếp nối.
Nhiều nguồn sử liệu đề quyết ông Trương Vĩnh Ký và ông Nguyễn Duy Lưu về sau nối tiếp nhau chọn lọc và du nhập các giống cây như bòn bon, sapôchê, măng cụt, chôm chôm, sầu riêng, v.v. từ Malaysia, Thái Lan về.
Những cựu học sinh ngôi trường mang tên Trương Vĩnh Ký còn ưu ái khẳng định chính ông là người đem nghề chiết cành gây giống, lai giống, ghép cây về phổ biến ở quê nhà. Nhưng sử liệu rõ ràng hơn lại ghi chính xác vào năm 1937, người Cái Mơn mới biết ghép cây, từ xưa phiên âm từ tiếng Pháp greffer thành “rép”. Lúc đó cha sở giáo xứ Phan Thiết đã đưa hai anh em ông Phạm Văn Trí và Phạm Văn Trị và hai anh em ông Mai Văn Tư và Mai Văn Khánh vào trường canh nông Nha Rây học ghép cây, cốt là để biết ghép cây cao su và theo nghề này. Học xong, không chịu nổi sự cay cực của nghề cao su đồn điền, các ông về lại quê nhà, thử ghép các loại cây khác. Sản phẩm nổi tiếng còn truyền tụng của các ông là ghép chôm chôm địa phương với chôm chôm Java.
Gốc sầu riêng cái mơn?
Những người được trao giống cây mới này đầu tiên ở Cái Mơn là hai anh em của ông Nguyễn Văn Hiếu (hội đồng Hiếu sinh năm 1883) và Nguyễn Văn Thuận (tức cai Thuận sinh 1887 – 1975). Truyền nhân của những người này đến nay còn sở hữu gốc cây giống sầu riêng cơm vàng hạt lép nổi tiếng như ông Ba Ký ở Vĩnh Thành. Có hai luồng ý kiến. Một luồng cho rằng chính Trương Vĩnh Ký là người du nhập các giống cây từ Malaysia và Indonesia như bòn bon, chôm chôm, măng cụt, sầu riêng, sakê, v.v. trong suốt thời gian sáu năm ông du học ở chủng viện Penang, Malaysia, và trở về nước vào lúc Pháp vừa chiếm Việt Nam năm 1858. Nhưng trong tự điển Pháp Việt của Trương Vĩnh Ký (1884) không có từ durian hay sầu riêng.
Một luồng ý kiến khác – từ con cháu – cho rằng chính ông Nguyễn Duy Lưu – khi ông Ký về nước ông này mới được một tuổi – là người sưu tập các giống sầu riêng ngon của Campuchia trong thời gian ông làm thái phó (thầy dạy học) cho con vua xứ này, đem về trồng trong vườn nhà bên bờ sông Cái Mơn, cách nhà thờ Cái Mơn hơn 100m. Vườn ông Lưu, nằm sát nhà ông Trương Vĩnh Ký, trồng một cách có khoa học gồm toàn các loại cây ăn trái đặc sản: sầu riêng, bòn bon, măng cụt và dừa. Những người cao tuổi kể rằng, những gốc sầu riêng ở nhà ông trước năm 1975 to đến hai người ôm. Có người còn đồ rằng một trong những cây sầu riêng giống đầu tiên mang về từ Campuchia của ông phó Lưu, có một cây rất đặc biệt được ông đặt tên là “sầu riêng sữa bò” chính là cụ kỵ của giống sầu riêng cơm vàng hạt lép sau này.
Sách Monographie de la province de Ben Tre ghi Cái Mơn lúc bấy giờ thuộc tổng Minh Lý.
Cũng có luồng ý kiến thứ ba cho rằng trái cây này do Hoa kiều thời Trương Vĩnh Ký buôn từ Malaysia về và đọc trại tên durian địa phương thành sầu riêng.
Sách Monographie de la province de Ben Tre (Bến Tre chí) xuất bản năm 1903, không ghi một dòng sản lượng nào về sầu riêng Cái Mơn. Như vậy giống cây này khó có thể do Trương Vĩnh Ký du nhập nửa cuối thế kỷ 19.
Theo đà này, Cái Mơn trở thành một trong những địa phương tiên phong đưa nông dân đi học kỹ thuật nông nghiệp và về sau đưa ra nước ngoài học nghề. Những cái tên nông dân nổi tiếng hiện nay như Chín Hoá – người tạo nên thương hiệu sầu riêng Chín Hoá, Ba Tài – người nông dân lập website hoa kiểng Cái Mơn, Sáu Ri – cây giống Sáu Ri…
Có thể nói Cái Mơn là một trong những nơi áp dụng khoa học nông nghiệp đầu tiên của Nam bộ. Nhờ có sự định hướng của những ông Tây từ đầu thế kỷ 19, Cái Mơn biết phát huy lợi thế của đất và người, họ giàu nhanh và chú trọng đầu tư cho giáo dục, để nắm bắt kỹ thuật cao.
Đại công xưởng cây kiểng
Nghề ghép cây học từ người Pháp hồi đầu thế kỷ được truyền theo trực hệ trước hết là con cháu trong gia đình, sau đó đến hàng xóm, rồi lan ra khắp vùng Chợ Lách, hình thành nên một ngành sản xuất cây giống nhiều triển vọng.
Có thể xâu chuỗi tiến trình phát triển về kỹ thuật cao trong nông nghiệp ở Cái Mơn như sau: nhập giống mới, nhân giống, chiết cành để rút ngắn thời gian cho trái, ghép cành, nghiêng về cung cấp giống (kỹ thuật cao) so với cung cấp trái cây, chuyên cung cấp các loại cây mới, chuyển đổi sang phát triển hàng cao cấp – cây kiểng. Đến những năm đầu thập niên 90, người nông dân Chợ Lách chỉ mới biết kỹ thuật ghép bo da, chiết cành thì ngày nay đã hoàn chỉnh kỹ thuật ghép xương, ghép mắt, ghép đọt, ghép cành… Đặc biệt, kỹ thuật ghép cành cho tỷ lệ cây sống rất cao, đã được ứng dụng vào sản xuất cây kiểng góp phần đưa Chợ Lách trở nên một vùng chuyên canh cây kiểng hàng đầu Việt Nam ngày nay.
Hiện nay, toàn huyện Chợ Lách có khoảng 5.000 hộ chuyên sản xuất cây giống, hoa kiểng. Nhiều gia đình theo nghề này tới 3 – 4 thế hệ. Theo tài liệu của tỉnh Bến Tre, trong vòng mười năm qua, huyện Chợ Lách đã có sự chuyển dịch mạnh về cơ cấu kinh tế, từ kinh tế vườn chủ yếu chuyên canh chuyển sang phát triển thâm canh có lựa chọn, đẩy mạnh việc sản xuất cây giống và cây hoa kiểng. Giờ đây, khi mà lợi nhuận một mẫu kiểng gấp mười lần một mẫu vườn cây ăn quả thì Cái Mơn hầu như trở thành đại công xưởng cây kiểng. Cơn bão số 5 cách đây năm năm dường như đặt dấu chấm hết cho những cây ăn quả cổ thụ khi đi qua xứ này và quật ngã những gốc măng cụt hai người ôm của bà Huỳnh Thị Kỷ.
Ông Phan Văn Hiếu, phó bí thư xã Vĩnh Thành, cũng là một nông dân thứ thiệt cho biết, hiện nay xã Vĩnh Thành đã hình thành được mười làng nghề chuyên sản xuất cây giống và cây kiểng. Từ đây, chính quyền xã sẽ kiến nghị lên huyện, tỉnh hỗ trợ người nông dân các kiến thức khoa học kỹ thuật tiên tiến, tiến tới thành lập hợp tác xã bậc cao phối hợp với xây dựng thương hiệu và mô hình du lịch sinh thái để làng nghề phát triển bền vững.
CÔNG KHANH - NHƯ THUẦN