29 Tháng Năm 2009 7:00 SA
Phạm Văn Hùng
L.T.S: Hồn Việt số 11 (tháng 5/2008) đã
đăng một số ý kiến về Tướng Dương Văn Minh. Đó là một số ý kiến bước đầu
quan trọng, giúp ta tìm hiểu sâu hơn một sự kiện lịch sử, một con
người. Kỳ này, Hồn Việt xin công bố bản tóm tắt của một công
trình nghiên cứu công phu, nhiều tư liệu mới với độ tin cậy cao của ông
Phạm Văn Hùng. Hi vọng rằng, với công trình nghiên cứu này, sự kiện về
Tướng Dương Văn Minh sẽ được sáng tỏ thêm. Nó chứng minh thêm tầm vóc
của ngày 30/4 lịch sử dưới sự lãnh đạo toàn diện, sâu sát, kiên trì… của
Bộ Chỉ huy tối cao đứng đầu là Lê Duẩn và của những người trực tiếp
tham gia ở chiến trường miền Nam, của Trung Ương Cục miền Nam. Nó cũng
chứng tỏ sự phối hợp tuyệt đẹp giữa quân sự - chính trị - địch vận…
trong cuộc chiến tranh giải phóng. Nó nói lên sự phong phú vô tận của
cuộc sống, của cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc của lòng yêu nước Việt
Nam…
Chúng tôi mong nhận được thêm nhiều ý kiến.
THÂN THẾ VÀ GIA ĐÌNH
- Ông Dương Văn Minh sinh
năm 1916 ở tỉnh Mỹ Tho. Cha là ông Dương Văn Huề, khi đi học mướn lấy
tên là Dương Văn Mau (tên của người bà con), làm thầy giáo, sau làm tri
phủ, rồi đốc phủ sứ (hàm).
Ông Dương Văn Huề và bà
Nguyễn Thị Kỹ có bảy người con: bốn trai, ba gái. Ông Minh là con cả.
Dương Thanh Nhựt là con trai kế, có tham gia hoạt động cách mạng từ
trước Cách mạng tháng Tám (năm 1944) và suốt hai cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ, là đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Dương Thanh Sơn,
em trai thứ năm, là sĩ quan chế độ cũ.
Gia đình ông Minh theo đạo Phật, lễ giáo, nề nếp.
- Năm 1940, Dương Văn Minh học trường đào tạo hạ sĩ quan và sĩ quan dự bị của Pháp. Năm 1942 vào quân đội Pháp.
Sau Cách mạng tháng Tám năm
1945, Dương Văn Minh tham gia lực lượng vũ trang cách mạng chống Pháp
xâm lược. Pháp trở lại, gia đình ông Minh tản cư về Chợ Đệm (Tân An).
Lần đó, ông về thăm nhà, đơn vị rút đi, ông bị kẹt lại chưa tìm được đơn
vị thì bị Tây bắt, buộc ông trở lại làm việc cho quân đội Pháp. Năm
1946, Dương Văn Minh là thiếu úy, đại đội phó quân đội Pháp. Lần lượt
lên đến cấp tá, rồi qua Pháp học trường võ bị, là một trong những sĩ
quan đầu tiên của quân đội “Việt Nam Cộng Hoà”.
Ông Minh cũng theo đạo Phật,
nhân từ, thương người. Sợ sát sinh, sợ phải giết người. Thấy ai bị nạn
thì ra tay cứu như can thiệp cho em trai bà Bùi Thị Mè (1) là thiếu tá
chế độ cũ bị tình nghi hoạt động cho “Việt Cộng” được thả ra; giúp ông
Nguyễn Minh Triết (Bảy Trung), cán bộ của ta và là em bạn dì ruột bị
địch bắt giam ở nhà lao Phú Lợi, được ra tù…
- Ông Minh là người rất tự
trọng. Sau ngày 30/4/1975, ông được về nhà (98 đường Hồng Thập Tự, nay
là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3) sống với tư cách một “công dân
của một nước độc lập” (2). Đời sống khó khăn, ông lại bị bệnh tiểu
đường, bị đau dạ dày. Có lúc lãnh đạo Thành phố (đồng chí Võ Văn Kiệt)
nhờ bà Bùi Thị Mè gợi ý khéo là Đảng và chính quyền thành phố muốn hỗ
trợ ông trong cuộc sống. Nhưng ông Minh từ chối với lý do: “Các anh các
chị sống được thì tôi cũng sống được nếu chưa quen thì phải tập lại cho
quen”.
Năm 1983, ông Minh được
Chính phủ ta chấp thuận để ông sang Pháp trị bệnh và thăm con. Toà Tổng
Lãnh sự Pháp ở Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Bộ Ngoại giao Pháp giúp ông
Minh vé máy bay và tiền gửi hành lý nhưng ông Minh từ chối, nói rằng
“đã có Chính phủ Việt Nam lo rồi”.
Khi đi, ông Minh chỉ xin
mang theo một ít đồ cổ trong nhà. Sang Pháp, ông không nhờ vả gì Chính
phủ Pháp, không xin trợ cấp xã hội Pháp.
Dương Văn Minh
QUÁ TRÌNH BINH ĐỊCH VẬN ĐỐI VỚI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH
Công tác binh địch vận đối
với tướng Dương Văn Minh bắt đầu từ năm 1962, với nhiều lực lượng, nhiều
ban ngành tham gia: Binh vận Trung Ương Cục, Tình báo, An ninh T4 (Sài
Gòn - Gia Định), Trí vận…
1/ Ban binh vận Trung Ương Cục miền Nam
Năm 1960, theo yêu cầu của
Ban binh vận Xứ ủy Nam bộ (sau này là Trung Ương Cục miền Nam), đồng chí
Võ Văn Thời, Cục trưởng Cục địch vận Tổng Cục Chính trị Quân đội Nhân
dân Việt Nam đề nghị và được cấp trên đồng ý điều động đồng chí Dương
Thanh Nhựt (3) về Cục để giao nhiệm vụ về miền Nam vận động Dương Văn
Minh. Đồng chí Nhựt được đặt bí danh là Mười Ty. Cuối tháng 12/1960,
đồng chí Mười Ty lên đường.
Tháng 8/1962,
đồng chí Mười Ty móc được với gia đình, trước hết là với ông Nguyễn Văn
Di, cậu ruột; qua cậu, móc vợ là Sử Thị Hương, nhắn vợ về thăm mẹ và tìm
hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau đó Mười Ty thăm em trai là
Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội Sài Gòn và em thứ tám là Dương Thu
Vân.
Thấy tình hình thuận lợi, đồng chí Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ý kiến của lãnh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính
Chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong lúc Tướng Minh đang bực tức Ngô Đình
Diệm độc tài, gia đình trị, phủ nhận công lao của mình (tảo thanh Bình
Xuyên và các giáo phái Hoà Hảo). Tướng Minh hứa sẽ tìm cách làm.
Ngày 01/11/1963,
Trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách
mạng phát lệnh đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm và lên làm Quốc trưởng
Việt Nam Cộng Hòa lần thứ nhất. Đồng chí Mười Ty nắm được ý định Tướng
Minh chuẩn bị đảo chính Diệm và có báo cáo về Ban binh vận Trung Ương
Cục.
Sau cuộc đảo chính Ngô Đình
Diệm một thời gian, đồng chí Mười Ty có vào nhà Dương Văn Minh (98 Hồng
Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai), sau đó qua nhà em là Dương
Thanh Sơn ở mười ngày. Qua nhiều lần gặp và trao đổi với Dương Văn Minh,
đồng chí Mười Ty cho rằng Tướng Minh trước đây mơ hồ về Mỹ là tên xâm
lược, nay thì hết tranh cãi về điều này, nhưng vẫn còn cho là Mỹ có giúp
đỡ miền Nam. Tướng Minh hứa hủy bỏ ấp chiến lược, cho nhân dân về nhà
cũ với ruộng vườn, mồ mả ông bà.
Trong thời gian làm Quốc trưởng lần thứ nhất. Dương Văn Minh có một số hành động tiến bộ có lợi cho cách mạng:
+ Quyết định hủy bỏ 16.000
ấp chiến lược. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge hỏi Dương Văn Minh vì sao làm thế?
Ông trả lời, đại ý: Người Việt Nam có phong tục tập quán riêng, không
người nào muốn xa rời mảnh đất đã gắn bó đời mình và mồ mả ông cha. Dồn
dân vào ấp chiến lược là chủ trương sai, vì lẽ đó tôi giải tán ấp chiến
lược để người dân trở về quê cũ của mình.
+ Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mc
Namara và Tướng Harkin yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ
ném bom ra miền Bắc, không ném ồ ạt mà ném bom nổ chậm trên đê sông
Hồng. Miền Bắc sẽ bị lũ lụt mất mùa, người dân sẽ đói… Dương Văn Minh
lắc đầu từ chối.
+ Tháng 1/1964, Đại sứ Cabot
Lodge yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh nghiên cứu, chuẩn y và thực
hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián điệp, biệt kích chống miền Bắc). Dương
Văn Minh không trả lời.
+ Theo lời kêu gọi của Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam (4) Dương Văn Minh tỏ ý muốn thương
lượng để tuyển cử tự do, thực hiện một chế độ trung lập, lập Chính phủ
liên hiệp. Nhưng Mỹ cự tuyệt hòa đàm, chống mọi xu hướng trung lập.
- Do những chủ trương và
hành động của Dương Văn Minh không theo đúng ý đồ “Bắc tiến” của Mỹ,
theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Johnson, cuối tháng 01/1964, chính quyền
Mỹ đã đưa Nguyễn Khánh lên làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng
kiêm Thủ tướng Chính phủ Cộng Hòa Việt Nam bằng một cuộc đảo chính.
Nguyễn Khánh tuyên bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh để cứu đất nước này
khỏi rơi vào tay Cộng sản”.
Mỹ thấy Dương Văn Minh có
hậu thuẫn ở miền Nam, nhưng khó điều khiển nên chỉ thị cho Chính quyền
Sài Gòn phong Dương Văn Minh làm đại tướng và cử làm đại sứ lưu động ở
Đài Loan. Mỹ mời ông Minh qua Mỹ một thời gian rồi cho lưu vong ở Thái
Lan (từ đầu năm 1965) có sự giám sát của CIA, làm con bài dự trữ.
Cuối năm 1967,
theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung
Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục, đồng chí Mười Ty có
chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái thứ 8 là
Dương Thu Vân qua Pháp. Có thời gian Mười Ty ở nhà Dương Minh Đức (con
trai Dương Văn Minh). Được biết, khi người em gái thứ 6 Dương Thu Hà bị
ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái, sau đó ở
lại Pháp hơi lâu, có ý chờ tin của Mười Ty. Nhưng vì bọn CIA bảo trung tá Đẩu (sĩ quan tùy viên của Tướng Minh) kêu ông Minh về Thái Lan, nên không ở lâu hơn được nữa.
Khi chị Dương Thu Vân qua
Paris gặp Mười Ty cho hay là ông Minh không thể qua Pháp được nữa, thì
Mười Ty mới chuyển kế hoạch qua em (Dương Thu Vân) và cháu (Dương Minh
Đức) truyền đạt ý kiến của cấp trên cho Dương Văn Minh. Sau đó Đức báo
lại ý kiến của cha anh với Mười Ty như sau: “Lập Chính phủ ba thành phần là khó lắm, cần đánh cho văng Thiệu, Mỹ phải rút đi là hết chiến tranh.
Tôi có ra làm chính phủ ba thành phần khi bầu cử thì ông Thọ (Luật sư
Nguyễn Hữu Thọ) cũng thắng cử, tôi có thất cử cũng không nghĩa lý gì,
miễn có lợi cho đất nước là hơn”. Dương Minh Đức nói thêm: Ba
cháu không còn lực lượng, không biết làm chính trị, không giỏi bằng ông
Thọ; ra ngoài (ra khu) lúc này là không có lợi, ở trong này khi cần có
lợi hơn…
Sau đó, đồng chí Mười Ty về
Hà Nội, được đồng chí Lê Duẩn gặp và mời cơm (với đồng chí Võ Văn Thời).
Sau khi nghe đồng chí Mười Ty báo cáo đầy đủ chuyến đi công tác ở Pháp,
đồng chí Lê Duẩn khen và nói: “Dương Văn Minh trả lời như vậy là thành thật, nói như vậy là làm được, chứ hứa hết có khi không làm được…”
Cuối năm 1970,…
theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục miền Nam, Ban binh vận
Trung Ương Cục tìm một người khác, để tiếp cận vận động Dương Văn Minh.
Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của ta trong sĩ quan là bạn bè
và thầy trò có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh. Đồng chí Nguyễn Tấn
Thành (tức Tám Vô Tư), bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh vận Trung
Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn Hữu Hạnh.
Tháng 3 và 4/1975,
đồng chí Tám Vô Tư thường gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh. Sau khi Nguyễn Văn
Thiệu từ chức, đồng chí Tám Vô Tư gợi ý ông Hạnh nên tiếp cận và vận
động Dương Văn Minh nếu lên làm Tổng thống thì tìm cách kết thúc cuộc
chiến có lợi cho nhân dân.
Khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28/4/1975,
từ Cần Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên
Sài Gòn gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu
trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng
tham mưu trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đã góp phần quan trọng
vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội
Sài Gòn “án binh bất động”, tan rã tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy
Chính phủ Dương Văn Minh sớm bàn giao chính quyền cho cách mạng.
2/ Thâm nhập vào “nhóm Dương Văn Minh”
Tháng 9/1972, Ban An ninh T4 (Thành phố Sài Gòn - Gia Định) thành lập Cụm điệp báo mới, bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực lượng điệp báo bí mật trong một số đối tượng, trong đó có lực lượng thứ ba, đặc biệt là “nhóm Dương Văn Minh”… (các thành viên bộ tham mưu nhóm Dương Văn Minh, ban biên tập bản tin nội bộ nhóm Dương Văn Minh, thư ký tòa soạn báo Điện Tín, báo Đại dân tộc…).
Đầu năm 1975,
đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương), Trưởng Ban An ninh T4, chỉ đạo
A10 tìm cách thâm nhập vào lực lượng thứ ba và nhóm Dương Văn Minh để
tác động, vận động lực lượng này chống đối, cô lập, chia rẽ chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu.
Thời gian này, Cụm điệp báo
A10 tiếp cận, bám sát “nhóm Dương Văn Minh”, có lúc họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá
Thành) ở luôn trong nhà Dương Văn Minh; tham gia viết và in tuyên cáo
“chống Chính phủ Thiệu không có Thiệu”, đòi Trần Văn Hương từ chức (Tổng
thống).
Ngày 01/3 và cuối tháng 3/1975,
đồng chí Huỳnh Bá Thành (lần sau có thêm các đồng chí Trần Thiếu Bảo,
Huỳnh Huề…) vào căn cứ báo cáo với đồng chí Mai Chí Thọ (Bí thư thành
ủy), Trần Thanh Vân (Phó trưởng Ban An ninh T4). Đồng chí Mai Chí Thọ
chỉ đạo: “…Phải bằng mọi cách để Dương Văn Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi giao chính quyền cho cách mạng. Đó là chủ trương của Đảng nhằm tránh đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”.
3/ Tác động vào Chính phủ Dương Văn Minh
Cụm điệp báo VĐ2 thuộc phòng tình báo chiến lược M22,
cục tham mưu Miền cũng có chỉ đạo vận động tác động nội các Dương Văn
Minh đầu hàng thông qua kỹ sư Tô Văn Cang trong những ngày cuối cùng của
chế độ Sài Gòn. Theo ông Tô Văn Cang, sáng ngày 28/4/1975, ông Cang đến
gặp Đại tá Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) ở nhà ông Ba Lễ (cơ sở tình báo)
hẻm đường Triệu Đà, Sài Gòn, để báo ý kiến của ông Nguyễn Văn Diệp
(trong Chính phủ Dương Văn Minh) muốn tìm gặp đại diện Chính phủ cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam để xin ý kiến xử trí tình hình Sài Gòn.
Đồng chí Sáu Trí phân tích tình hình và “khuyên Chính phủ Dương Văn Minh
chấp nhận đầu hàng vô điều kiện”. Ý kiến này được ông
Cang phản ánh lại cho ông Diệp và sau đó ông Diệp có báo cáo lại cho bộ
ba Dương Văn Minh – Nguyễn Văn Huyền – Vũ Văn Mẫu.
4/ Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị
Sau hiệp định Paris (1973), Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung Ương (tháng 7/1973) đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị”;
“mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc Giải phóng gồm mọi giai cấp, tôn
giáo, lực lượng hòa bình, độc lập, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở
nước ngoài”.
Năm 1974, theo
chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), Phó Bí thư Trung Ương
Cục miền Nam, đồng chí Quốc Hương (Mười Hương), Ủy viên Thường vụ,
Trưởng Ban An ninh T4 đã chọn một số thanh niên, sinh viên cài vào hoạt
động trong lực lượng thứ ba.
Trên thực tế thì lực lượng ta đã hình thành trước khi có hiệp định Paris qua tổ chức “Lực lượng quốc gia tiến bộ”
do luật sư Trần Ngọc Liễng và nhà tư sản dân tộc (ngành vật liệu xây
dựng) Phan Văn Mỹ thành lập tháng 6/1969 với mục tiêu là: đòi các lực
lượng ngoại nhập (Mỹ và đồng minh) phải rút khỏi miền Nam, thành lập
chính phủ hòa giải dân tộc. Sau đó, lợi dụng lúc Thiệu đi nước ngoài,
luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Lực lượng hoà giải dân tộc”. Sau hiệp định Paris, tháng 02/1974, nhóm luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Tổ chức nhân dân đòi thi hành hiệp định Paris”, xác định mình là lực lượng thứ ba, mục tiêu chính là đòi thi hành hiệp định Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc.
Thành viên của “nhóm Dương
Văn Minh” gồm một số trí thức, dân biểu đối lập, ký giả, tướng lĩnh .
Hằng tuần, nhóm họp bàn về tình hình thời sự chính trị (lúc tình hình
sôi động mỗi tuần họp hai lần). Cạnh tướng Dương Văn Minh có Văn phòng báo chí. Lúc báo Điện tín bị đóng cửa, “nhóm Dương Văn Minh” ra bản tin bán công khai để phát cho các tổ chức, đoàn thể, báo chí trong và ngoài nước.
- Theo ông Lý Quý Chung (Hồi ký), tuần lễ đầu tháng 4/1975,
tướng Dương Văn Minh và “nhóm Dương Văn Minh” đã họp tại Dinh Hoa Lan
(nhà ông Minh) bàn và quyết định công bố ý định thay thế Nguyễn Văn
Thiệu để góp phần chấm dứt chiến tranh.
5/ Phối hợp phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Sài Gòn
Với các khẩu hiệu “đuổi Mỹ,
lật Thiệu”, đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi hình hiệp định Paris,
hòa bình, chấm dứt chiến tranh, đòi dân chủ, cải thiện dân sinh… các
cuộc xuống đường diễn ra liên tục, mạnh mẽ thu hút hàng ngàn, hàng vạn
người. Như cuộc xuống đường của 200 ký giả Sài Gòn ngày 10/10/1974, ngày
“ký giả đi ăn mày” lôi cuốn gần hai vạn quần chúng tham gia đã có tiếng
vang lớn cả trong và ngoài nước. Cuộc tuần hành ngày 20/4/1974 của hàng
vạn công nhân lao động, sinh viên, học sinh, trí thức, thương phế binh…
đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi hành hiệp định Paris, đòi hòa
bình, cơm áo, chống sa thải, chống thuế VAT…, là cuộc đấu tranh lớn nhất
từ sau hiệp định Paris.
MỸ, PHÁP VỚI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH
* Mỹ: Năm
1971, Mỹ yêu cầu Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng thống với Nguyễn Văn
Thiệu để tỏ ra chế độ Cộng hòa miền Nam có dân chủ, nhưng phải thất cử
để trở thành lãnh tụ của phe đối lập trong nghị viện. Tướng Dương Văn
Minh từ chối. Đại sứ Mỹ Bunker còn trắng trợn hỏi ông Minh cần bao nhiêu
đô-la cho cuộc tranh cử. Ông Minh cố nén giận, nhưng giữ lịch sự, đưa
tay chỉ đại sứ Mỹ về phía của phòng (không tiếp đại sứ Mỹ nữa). Cuộc bầu
cử đó, Tướng Dương Văn Minh có ra ứng cử, nhưng đến giờ chót quyết định
rút lui, chỉ còn Nguyễn Văn Thiệu trở thành ứng cử viên Tổng thống “độc
diễn”, làm bẽ mặt Mỹ – Thiệu.
Sau khi Thiệu từ chức, Phó
tổng thống Trần Văn Hương lên thay tổng thống, tuyên bố “cương quyết tử
thủ dù phải hi sinh đến nắm xương tàn”, đã bị nhân dân và báo chí Sài
Gòn đấu tranh đòi Chính phủ Trần Văn Hương từ chức ngay lập tức. Trần
Văn Hương trì hoãn việc giao quyền cho Dương Văn Minh, mãi đến ngày 26/4/1975, lưỡng viện Sài Gòn đã bầu Dương Văn Minh làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa với 147/151 phiếu.
* Pháp: Theo
đồng chí Phan Nhẫn, ngày 27 (hoặc 28/4/1975), Bộ Ngoại giao Pháp gặp
đồng chí Phạm Văn Ba (Giám đốc Trung tâm thông tin Chính phủ cách mạng
lâm thời Cộng Hòa miền Nam) gợi ý Chính phủ Cách mạng lâm thời nên đi
vào đàm phán. Lúc đó, Pháp hi vọng “giải pháp Dương Văn Minh” và khả năng thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam.
Theo chuẩn tướng Nguyễn Hữu
Hạnh và ông Lý Quý Chung, sáng ngày 30/4/1975, tướng tình báo Pháp
Vanuxem đến Phủ thủ tướng (số 7 Thống Nhất, nay là đường Lê Duẩn) gặp
Tổng thống Dương Văn Minh, gợi ý ông Minh nên kêu gọi Trung Quốc can
thiệp để cứu miền Nam không rơi vào tay Cộng sản Bắc Việt. Ông Minh từ
chối, nói rằng: “Tôi đã từng làm tay sai cho Pháp rồi cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc”.
TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH VỚI 3 NGÀY LÀM TỔNG THỐNG
15 giờ chiều ngày 28/4/1975, Tướng Minh làm lễ nhậm chức Tổng thống, cử Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.
Tổng thống Dương Văn Minh cử
một số Bộ trưởng và người phụ trách quân đội, cảnh sát, trong đó có
đảng viên và cơ sở của ta là: Luật sư Triệu Quốc Mạnh, Giám đốc Nha cảnh
sát đô thành, và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá Tổng tham mưu
trưởng sau là quyền Tổng tham mưu trưởng.
Về Bộ quốc phòng, Tổng thống
Dương Văn Minh chỉ định Giáo sư Bùi Tường Huân, Giáo sư Đại học Huế
(không phải tướng tá) làm Bộ Trưởng. (Theo ông Lý Quý Chung, việc Tổng
thống Dương Văn Minh chỉ định ông Bùi Tường Huân làm Bộ trưởng quốc
phòng để chứng tỏ chính phủ này không muốn chiến tranh).
17 giờ ngày 28/4/1975, phi đội 5 chiếc A37 của Nguyễn Thành Trung ném bom sân bay Tân Sơn Nhất.
Theo ông Hồ Ngọc Nhuận (Hồi
ký), tối hôm đó, Tướng Minh giao cho ông chuẩn bị chiếm đài phát thanh
(đề phòng Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chính).
Đêm 28/4, Tướng Dương
Văn Minh và gia đình dời đến ở nhà một người bạn của tướng Mai Hữu Xuân
ở đường Phùng Khắc Khoan do sợ Nguyễn Cao Kỳ ném bom dinh Hoa Lan (nhà
ông Minh).
Theo cựu dân biểu Dương Văn
Ba (Hồi ký), đêm 28/4/1975, hai đại tá phi công lái hai máy bay trực
thăng phục vụ tổng thống đậu trên nóc dinh Độc Lập, gặp Tổng thống Dương
Văn Minh đề nghị đưa Tổng thống và tất cả những người trong bộ tham mưu
tổng thống và gia đình bay ra Đệ Thất Hạm Đội. Ông Minh trả lời: “Hai
em có thể yên lòng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm Đội, bất cứ ai có mặt ở
đây muốn đi theo thì có thể ra đi. Phần tôi, tôi nhất quyết không
đào ngũ bỏ chạy; không thể nào bỏ dân chúng Sài Gòn, không thể nào bỏ
miền Nam như con rắn mất đầu”.
Ngày 29/4/1975
Tổng thống Dương Văn Minh,
Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu bàn và ra lệnh
cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành Triệu Quốc Mạnh thả tù binh chính
trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin cho cơ quan Viện trợ quân sự
Mỹ (DAO) rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ để giải quyết hòa bình ở
Việt Nam.
Đến 16 giờ chiều ngày 29/4,
đã thực hiện xong việc trả tù binh chính trị (trong đó có Huỳnh Tấn
Mẫm). Chỉ huy các ban và cảnh sát 18 quận, huyện đã tan rã (trừ bộ phận
biệt phái).
Tổng thống Dương Văn Minh
chỉ thị không được di chuyển quân, không được phá cầu. Dựa vào chỉ thị
trên, chiều ngày 29/4/1975, phụ tá Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh
đã ra lệnh cho các đơn vị không được phá cầu. Đơn vị nào muốn phá cầu
phải có lệnh của Bộ Tổng tham mưu.
Sau đó, khoảng 15 giờ, phái
đoàn do Luật sư Trần Ngọc Liễng cầm đầu có Linh mục Chân Tín, Giáo sư
Châu Tâm Luân vào Trại David, được đồng chí Võ Đông Giang, Phó trưởng
phái đoàn ta tiếp. Ông Liễng đã thông báo với phái đoàn ta về chủ trương
“không chống cự” của Tổng thống Dương Văn Minh, mà ông coi là niềm vui
sướng nhất trong đời ông, vì đã thông báo cho bên trong biết “Sài Gòn không chống cự”
vào giờ chót của cuộc chiến tranh. Theo Luật sư Liễng, Tổng thống Dương
Văn Minh đã chấp nhận đầu hàng từ buổi trưa hôm đó (ngày 29/4/1975).
Từ chiều và tối ngày 29/4,
cũng có một số người tác động Tổng thống Dương Văn Minh hướng “Thành phố
để ngõ”, đầu hàng. Như ông Lý Quý Chung, họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành).
Thông qua ông Phan Xuân Huy và ông Đoàn Mai, thượng tọa Thích Trí Quang
nói điện thoại trực tiếp với Tổng thống Dương Văn Minh: “còn chờ gì nữa
mà không đầu hàng”.
Ngày 30/4/1975
- 6 giờ, chuẩn tướng
Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng (tướng Vĩnh Lộc, Tổng tham
mưu trưởng đã chuồn) và tướng Nguyễn Hữu Có đến báo cáo với Tổng thống
Dương Văn Minh về toàn bộ tình hình quân sự. Sau đó, ông Minh (cùng các
ông Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7 Thống nhất, nay là đường Lê
Duẩn).
Tổng thống Dương Văn Minh
họp với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và một số
người trong nội các “nhóm Dương Văn Minh”, bàn và quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu soạn bản thảo tuyên bố này.
- 9 giờ, Tổng thống Dương Văn Minh đọc vào máy ghi âm.
Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh
đề nghị và được Tổng thống Dương Văn Minh đồng ý có nhật lệnh cho quân
đội. Ông Hạnh soạn thảo nhật lệnh này. Đồng thời tướng Nguyễn Hữu Hạnh
gọi điện thoại cho tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân khu 4 yêu cầu cố
gắng thi hành lệnh của Tổng thống trên đài phát thanh.
9 giờ 30: Đài phát thanh phát tuyên bố của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc”; “yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Cộng Hòa ngưng nổ súng, và ở đâu thì ở đó”; “Chúng
tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam để
thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu
vô ích cho đồng bào”.
Sau đó, cả các ông Dương Văn
Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu cùng nội các đến Dinh Độc Lập để chờ
bàn giao chính quyền cho cách mạng.
Sau khi đọc tuyên bố “đầu
hàng” xong, Tướng Dương Văn Minh nói với mọi người (trong Chính phủ):
“Mọi việc coi như đã xong. Bây giờ ai muốn đi hay ở thì tùy”.
11 giờ 30, xe
tăng quân giải phóng vào Đinh Độc Lập. Xe quân giải phóng đưa ông Dương
Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh để đọc tuyên bố đầu hàng
vô điều kiện.
KẾT LUẬN
1/ Tướng Dương Văn Minh là
người có tinh thần dân tộc, yêu nước. Từ chỗ lúc đầu còn mơ hồ về việc
Mỹ xâm lược miền Nam, cho rằng Mỹ có giúp đỡ miền Nam, dần dần tỏ thái
độ chống Mỹ: chống Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ và đồng minh vào miền Nam,
kéo dài và mở rộng chiến tranh, muốn có hòa bình, độc lập và hòa hợp dân
tộc.
2/ Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh
và ông Lý Quý Chung, Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ý
để thương thuyết với cách mạng vì đã thấy không còn khả năng thương
thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến tranh vì lâu nay ông Minh chủ
trương hoà bình, chấm dứt chiến tranh. Điều này thể hiện rõ ở Tổng thống
Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của ta (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh
và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ trang: quân đội và cảnh
sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức thì ngày 29/4/1975, đã ra
lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO của Mỹ; không di chuyển quân,
không phá cầu v.v..
3/- Trong điều kiện cuộc
tổng tiến công quân sự của các binh đoàn chủ lực kết hợp với cuộc tiến
công và nổi dậy của các lực lượng vũ trang và quần chúng ở thành phố Sài
Gòn – Gia Định đã tạo sức ép quân sự lớn; công tác vận động, binh địch
vận của nhiều lực lượng ta với Tướng Dương Văn Minh; được sự đồng tình,
tác động tích cực của những người chủ yếu trong nội các, lực lượng thứ
ba và “nhóm Dương Văn Minh”; Tổng thống Dương Văn Minh đã quyết định
“không chống cự”, tuyên bố “ngưng nổ súng và ở đâu ở đó vào 9g30 (sau đó
tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” vào 11g30) ngày 30/4/1975 là hành động
thức thời, làm giảm ý chí đề kháng của đại bộ phận quân đội Sài Gòn vào
những giờ chót của cuộc chiến tranh, tạo thuận lợi cho quân giải phóng
tiến nhanh vào giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn còn nguyên vẹn và
không đổ máu. Nhiều thành phố và thị xã khác cũng được giải phóng nguyên
vẹn, ít tổn thất. Chúng ta biết rõ giành được thắng lợi to lớn này,
cuộc tổng tiến công của các quân đoàn kết hợp với các cuộc tiến công và
nổi dậy của lực lượng vũ trang và quần chúng địa phương đóng vai trò
quyết định. Tuy nhiên, công bằng mà nói, hành động thức thời của Tổng
thống Dương Văn Minh và nội các của ông đã góp phần làm cuộc chiến kết
thúc sớm, tránh đổ nhiều xương máu của binh sĩ và nhân dân, thành phố
Sài Gòn và nhiều đô thị còn nguyên vẹn. Đó là nghĩa cử yêu nước, thương
dân của ông Dương Văn Minh.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30/10/2004
http://honvietquochoc.com.vn/bai-viet/961-ho-so-ve-tuong-duong-van-minh.aspx
____________
(1)
|
Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế – xã hội – thương binh Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam.
|
(2)
|
Phát biểu của ông Dương
Văn Minh trong cuộc Thượng tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban quân quản
TP. Hồ Chí Minh tuyên bố trả quyền công dân cho toàn bộ viên chức Chính
phủ “Việt Nam Cộng Hoà”.
|
(3)
|
Bộ đội Nam bộ tập kết ra Bắc, ở Sư đoàn 330. Sau đó chuyển ra nông trường quân đội.
|
(4)
|
Sách “Gởi người đang sống” (tr 334-335) của Thượng tướng Trần Văn Trà. |