Cập nhật lúc 23h22, ngày 19/02/2009
NGUYỄN KHẮC BẢO
Hội Ngôn ngữ học Việt Nam
Truyện Kiềulà kiệt tác văn học bậc nhất của văn chương Việt Nam, góp phần không nhỏ trong việc tôn vinh Đại thi hào dân tộc - Danh nhân văn hóa thế giới: Nguyễn Du. Nhưng đến nay văn bản gốc có thủ bút của tác giả vẫn chưa sưu tầm được. Song bằng sự cố gắng, tận tâm của nhiều thế hệ, nên đến nay chúng ta đã sưu tầm được 44 bản Truyện Kiều in chữ Nôm, trong đó có nhiều bản rất cổ và đáng quý như: Liễu Văn đường 1866, 1871, 1904, 1916... Duy Minh Thị 1872, 1879, 1891... Thịnh Mỹ đường, Thuận Thành 1879, Quan Văn đường 1879, 1906, 1911, Tu Hiền đường 1886, Ấn Thư Hội 1896... và nhiều bản chép tay của các nhà khoa bảng.
Nhưng do đặc điểm của chữ Nôm là chưa được điển chế một cách chính quy và chặt chẽ, nên nhiều khi các bản Nôm đã chép thống nhất về mặt chữ nhưng khi phiên âm sang Quốc ngữ lại vẫn sai khác nhau. Nhận xét về tình trạng này, trước đây học giả Hoàng Xuân Hãn đã từng nói:
“Cái thứ 4 nữa là có bản Nôm mà không biết đọc bản Nôm, nhiều khi đọc sai mất nghĩa hoặc không có ý nghĩa gì... Rồi sau những người có Tây học, phiên âm để in thành sách, thì họ lại không biết đọc Nôm nữa...”(1).
Đây là một thực tế thường gặp trong quá trình phiên âm kho tàng văn bản chữ Nôm, như các cuộc trao đổi lâu này về các chữ Nôm khó như: “Song viết - song nhật” “nghỉ - nghĩ” “nen - nêm”, “sương siêu - sương gieo”... Song còn một thực tế nữa trong việc phiên âm Truyện Kiều lâu nay là:
- Chữ Nôm đã thống nhất chọn được một mặt chữ đúng.
- Phần phiên âm cũng đã được hầu hết các nhà phiên âm hàng đầu thống nhất cách ghi bằng chữ Quốc ngữ.
- Nhưng thực tế cách phiên âm ấy lại chưa chuẩn, chưa sát hợp với mặt chữ Nôm và cũng chưa tạo ra câu thơ hợp nghĩa.
Nay chúng tôi xin trình bày một vài ví dụ về việc “chỉnh lý” lại cách phiên âm vốn đã được “thống nhất” “quen tai” xưa nay nhưng lại là chưa đúng, rất mong nhận được sự bàn luận của các bậc thức giả túc Nôm trong nước.
I. Câu 1793: Mày xanh trăng mới in (痕 ngần ® HẰN)
Chữ thứ 6 của câu Kiều số 1793 (bên ngoài là bộ Nạch, bên trong là chữ Cấn) đã được các học giả từ: Trương Vĩnh Ký (1875)... Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Tản Đà, Đào Duy Anh (1974)... Nguyễn Tài Cẩn (2004), Đào Thái Tôn (2006) phiên âm thống nhất 100% là : NGẦN.
Nhưng chữ NGẦN trong các câu Kiều sau đây:
Câu 752: Mây tơ vắn vẻ có NGẦN (銀 ) ấy thôi.
Câu 1191: Tiếc thay trong giá trắng (NGẦN 銀 )
Câu 1216: Đủ (NGẦN銀 ) ấy nết mới là người soi.
Câu 1972: Ái ân ta có (NGẦN銀 ) này mà thôi.
lại có cấu tạo là chữ NGÂN = KIM + CẤN
Có lẽ cũng đã phát hiện ra sự “chênh lệch” ấy nên trong bản Kiều Nôm in năm 1884, A.Michels đã không chép là 痕 mà chữa thành 銀 cho “thống nhất” âm NGẦN với các câu Kiều dẫn kể trên. (Xem Bản Phụ lục 1).
Một lẽ băn khoăn nữa, là vẫn chữ Nôm (痕 = Nạch + Cấn) ấy ở câu 174 đã được mọi nhà phiên âm thống nhất là: NGẤN (chữ không phải NGẦN).
Câu 174: Vàng gieo (ngấn 痕 ) nước, cây lồng bóng sân.
Do vậy trong Từ điển Truyện Kiều in năm 1974, học giả Đào Duy Anh đã giảng về chữ NGẦN ở câu thơ 1793, NGẤN ở câu thơ 174 như sau: “NGẦN: tức là NGẤN nói theo giọng bằng, nghĩa là ngấn tích, vết. Ví dụ: Mày ai trăng mới in ngần”
NGẤN : Dấu vết, đường lằn. Ví dụ: Ngấn nước
NGẦN NƯỚC: Làn sóng gợn nhỏ thành lằn trên mặt nước.
Ví dụ: Vàng gieo ngấn nước... Câu 174
Cách phiên âm chữ Nôm 痕 thành NGẦN và giảng là “NGẤN nói theo giọng bằng” xem chừng chưa ổn, vì đã dùng đến biện pháp tu từ kiểu Bút Tre mất rồi.
Chúng tôi xin đưa ra một cách phiên âm khác như sau:
Do chữ (Cấn艮 ) trong chữ Hán đã được dụng để hài âm cho các chữ (Hạn 限 ), (Hận 恨 ), (Hẩn 很 ) và trong chữ Nôm cũng đã được dùng để tạo các chữ (Hằn 恨 ) và (Hằn 垠 )(2).
Vậy chữ 痕 cũng có thể có cách đọc khác âm NGẤN như ở câu 174, mà có thể đọc là: HẰN.
Câu 1793 sẽ đọc là: Mày xanh trăng mới in (Hằn 痕 )
Cách phiên âm này không phải đọc trại âm NGẦN, mà vẫn giữ được đúng nghĩa: “HẰN: Để lại những dấu vết nổi rõ, in sâu của vật đã từng đi qua, đã từng đè lên”(3) tương tự cách giảng của cụ Đào: “Ngãi là ngấn tích, vết”, “dấu vết, đường lằn”.
Điều củng cố cho cách phiên âm trên là vừa qua trong Tự điển chữ Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm do GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng chủ biên, ngoài việc vẫn dùng chứ 痕 để đọc là NGẦN “Dấu vết để lại thành đường nét - Ví dụ: Mày ai trăng mới in NGẦN” (tramg 761), cũng đã thu nạp cách đọc mới là HẰN 痕 (còn đọc NGẦN): Vết, dấu in. Ví dụ: Những màu mây biếc cùng HẰN núi xanh (Chinh phụ ngâm)” (trang 467).
Như vậy với câu 56 của bản Chinh phụ ngâm cũng đã có sự chuyển đổi từ: TRẢI NGẦN sang PHƠI HẰN tuần tự như sau:
1. Tôn Thất Lương 1950: Tuông màu mây biếc, trải ngần núi xanh.
2. Hoàng Xuân Hãn 1952: Tuôn màu mây biếc, phơi hằn núi xanh
3. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1959: Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.
4. Lại Ngọc Cang 1964: Tuôn màu mây biếc, phơi hằn núi xanh.
5. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1978: Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.
6. Nguyễn Thế - Phan Anh Dũng 2000: Tuôn màu mây biếc, phơi ngần non xanh.
7. Nguyễn Văn Xuân 2002: Tuôn màu mây bích, rạch ngần núi xanh.
8. Nguyễn Quang Hồng 2006: Những màu mây biếc, cùng hằn núi xanh.
Theo chúng tôi, chữ Nôm trong bản của Tôn Thất Lương cho công bố năm 1950 là �� 痕phiên là: PHƠI HẰN là đúng và hợp nghĩa (Hỏa + Phi = Phơi, Nạch + Cấn = Hằn). Một số bản chép lầm chữ (Phi 丕) ra chữ gần giống chữ (Lịch viết tắt: 止) nên đọc lầm là: TRẢI hoặc RẠCH.
Còn chữ 痕 nên đọc là HẰN để đảm bảo hai vế tiểu đối là: Mây tuôn màu biếc/ núi phơi hằn xanh; chữ Hằn nghĩa là đường nét - đối với chữ Màu ở vế trước - nổi bật lên trên một cái nền nào đó(4).
II. Câu 2768: Lau treo rèm nát, trúc (�� ® GẦY) phên thưa:
Chữ thứ 6 của câu 2768 đều đã được các nhà phiên âm sang Quốc ngữ, khởi đầu là Trương Vĩnh Ký (1875), A.Michels (1884), Phạm Kim Chi (1917)... phiên là: GÀI. Đến những năm cuối thế kỷ XX thì Nguyễn Văn Hoàn (1965), Nguyễn Thạch Giang (1972), Đào Duy Anh (1979), Nguyễn Quảng Tuân (1995), Vũ Văn Kính (1998)... lại chọn phiên là: CÀI.
Trong Từ điển Truyện Kiều (1974) học giả Đào Duy Anh trong văn bản thì chọn là: GÀI nhưng khi giảng nghĩa thì lại chọn là: CÀI
“Gài: Xem cài
Cài: Giắt vào, xỏ vào. Như Gài”
Nhưng xét 5 ví dụ mà cụ Đào trích dẫn thì ta lại thấy sự không thống nhất trong cách phiên âm chữ Nôm của học giả.
Câu 271: Mấy lần cửa đóng then (cài扌該) (LVD 1866)
Câu 2232: Đêm thâu đằng đẵng, ngày (Cài 掑) then mây (LVD 1866)
Câu 2768: Lau treo rèm nát, trúc (cài ��) phên thưa (LVĐ 1866)
Câu 3179: Nghe lời sửa áo (cài 掑) trâm (LVĐ 1866)
Câu 3229: Đến nơi đóng cửa (cài 掑) then (LVĐ 1866)
Riêng câu 2768, phiên chữ ��là CÀI là không đúng, vì chữ này ở các câu sau đây đều đã được phiên thống nhất là: GẦY
Câu 638: Nét buồn như cúc, mình (gầy ��) như mai (LVĐ 1866)
Câu 1430: Gương lờ nước thủy, mai (gầy ��) vóc sương (LVĐ 1866)
Câu 2234: Cỏ cao hơn thước, liễu (gầy ��) và phân (LVĐ 1866)
Câu 3026: Mười phân xuân có (gầy ��) ba bốn phần (LVĐ 1871)
GẦY có nghĩa là: chỉ thân thể không béo, mảnh khảnh(5)
Đoạn thơ đang xét đặc tả cảnh nhà Vương ông đang “sa sút khó khăn - may thê viết mướn kiếm ăn lần hồi” sống trong ngôi “nhà tranh vách đất tả tơi”, có của nả gì đâu mà phải “CÀI” cửa. Hơn nữa nhà đã quây bằng “phên thưa” thì “cài” cửa phỏng có tác dụng gì.
Với mã chữ Nôm thứ 6 ở câu 2768 này �� theo chúng tôi vẫn cứ phải phiên là GẦY, nhưng không phải là tính từ GẦY “chỉ thân thể không béo, mảnh khảnh” như Từ điển Truyện Kiều, mà là động từ GẦY với nét nghĩa như Huỳnh Tịnh Của (1895) đã giảng:
“Gầy”: Sắm sửa, bày ra, dàn ra, khởi công.
Ví dụ: Gầy nan đương: Đặt nan mà đương, dàn ra mà đương.
Gầy vỉ: Đặt nan dàn ra mà đương vỉ”(6).
Đến năm 1970, nhà ngôn ngữ học Lê Văn Đức vẫn còn giảng:
“GẦY: Động từ: Gây, dựng lên: Gầy giấm, gầy hụi
"Liệu mà đát được thì đương,
Đừng gầy rồi bỏ thế thường cười chê".
(Ca dao)”(7)
Như vậy câu thơ tả cảnh nhà Vương ông khi sa sút phiên âm đúng phải là:
"Nhà tranh vách đất tả tơi,
Lau treo rèm nát, trúc gầy phên thưa".
Trong đó động từ gầy cùng loại với động từ: đát, đương, đan lát... đối với động từ treo là rất chỉnh.
Trong khi đặt ra chữ Nôm, các bậc túc giả xưa nhiều khi cũng hay mượn các chữ đồng âm, khác từ loại nhưng lại có trước để ghi âm cho các chữ đồng âm khác nghĩa ít dùng xuất hiện sau.
Trên đây là ví dụ về dùng chữ GẦY �� : tính từ để ghi âm động từ GẦY cũng là ��.
Trường hợp tương tự cũng đã xảy ra ở hai câu 1019 - 1020:
"Kiếp này nợ giả chưa xong,
Làm chi thì cũng một (chồng) kiếp sau".
(Theo LVĐ 1871)
Do quá bị ảnh hưởng ở mặt chữ Nôm thứ 6 câu bát (chữ trọng + phu) nên các nhà biên khảo cứ hiểu là danh từ CHỒNG, câu thơ trở thành tối nghĩa. Vậy nên qua nhiều lần sửa, cuối cùng thành:
"Kiếp này nợ giả chưa xong,
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau".
khác khá xa các bản Kiều chữ Nôm cổ.
Vậy nên nếu chúng ta hiểu rằng trước đây khi tạo nhiều chữ Nôm các nhà Nho cũng bỏ qua việc cài thêm các bộ phận biểu nghĩa, mà cứ việc mượn thẳng các chữ Nôm đồng âm khác nghĩa có sẵn từ trước - như mượn tính từ GẦY ��để ghi động từ GẦY, mượn danh từ CHỒNG để ghi động từ CHỒNG... thì ta đã tránh được việc sai lầm trong phiên âm hoặc chữa thơ của tiền nhân.
III. Thay lời kết luận
Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học dân tộc mà mỗi người chúng ta ít nhiều đều thuộc lòng từ tấm bé và thường tin câu mình thuộc, quê mình đọc là đúng nhất. Việc dựa vào các văn bản Truyện Kiều chữ Nôm cổ (tuy chưa có được bản có thủ bút của Thi hào) phần nào đã phục nguyên được một số câu Kiều. Song chúng tôi hiểu rằng, sửa “nhất tự” nhiều khi không chắc đã được thưởng “thiên kim” mà nhiều khi còn rất dễ bị “thiên kim châm”. Rất mong nhận được sự phản hồi từ các bậc thức giả yêu chữ Nôm và Truyện Kiều.
Chú thích:
1. Học giả Hoàng Xuân Hãn nói về Truyện Kiều; Nghiên cứu Văn học số 3 - 1997.
2. Trần Văn Kiệm: Giúp đọc Nôm và Hán Việt; Nxb. Thuận Hóa 1979, tr.483.
3. Từ điển Tiếng Việt: Hoàng Phê chủ biên, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học 2004, tr.427.
4. Chinh phụ ngâm: Lại Ngọc Cang khảo thích và giới thiệu, H; Nxb. Văn học, 1964, tr.193.
5. Đào Duy Anh: Từ điển Truyện Kiều, Nxb. KHXH, H. 1974, tr.148.
6. Huỳnh Tịnh Của: Đại Nam quấc âm tự vị, Sài Gòn 1895, tr.344.
7. Lê Văn Đức: Tự điển Việt Nam, Nhà sách Khai Trí Sài Gòn xuất bản 1970, tr.522.
PHỤ LỤC BÀI: “Phiên âm lại mấy chữ Nôm trong Truyện Kiều”
Câu số: 1793: Mày xanh trăng mới in HẰN
Người lập: Nguyễn Khắc Bảo
STT
|
Bản Kiều Nôm
|
Nội dung khảo
|
Quốc ngữ
|
Nội dung khảo
| ||
1
|
Liễu V. Đường
|
1866
|
痕
|
Trương Vĩnh Ký
|
1875
|
ngần
|
2
|
N. Hữu Lập
|
1870
|
痕
|
Michls
|
1884
|
ngần
|
3
|
Liễu V. Đường
|
1871
|
痕
|
Nordem ann
|
1897
|
ngần
|
4
|
D.Minh Thị
|
1872
|
痕
|
Ph. Kim Chi
|
1917
|
ngần
|
5
|
Q.Văn Đường
|
1879
|
痕
|
N.Văn Vĩnh
|
1923
|
ngần
|
6
|
Thuận Thành
|
1879
|
痕
|
Bùi K. Diễn
|
1926
|
ngần
|
7
|
Thịnh Mỹ
|
1879
|
痕
|
B.Kỷ-TT Kim
|
1927
|
ngần
|
8
|
A.Michels
|
1884
|
銀
|
Hồ Đắc Hàm
|
1929
|
ngần
|
9
|
Tạ Hiền đường
|
1886
|
痕
|
Huyền Mặc
|
1930
|
ngần
|
10
|
Ấn Thư Hội
|
1896
|
痕
|
Ngô Tử Cống
|
1931
|
ngần
|
11
|
Kiều Oánh Mậu
|
1902
|
痕
|
N.Can Mộng
|
1936
|
ngần
|
12
|
Chu M. Trịnh
|
1906
|
痕
|
Tản Đà
|
1941
|
ngần
|
13
|
Q. Văn Đường
|
1911
|
痕
|
B. Kỷ-TT Kim
|
1950
|
ngần
|
14
|
Liễu Văn Q.Tập
|
1916
|
痕
|
Trung Chính
|
1951
|
ngần
|
15
|
Phúc Văn
|
1918
|
痕
|
Trần Ngọc
|
1952
|
ngần
|
16
|
Thịnh Mỹ
|
1919
|
痕
|
Lê Văn Hòe
|
1953
|
ngần
|
17
|
Liễu Văn Q.Tập
|
1919
|
痕
|
Bùi Kỷ
|
1957
|
ngần
|
18
|
Quảng Thịnh
|
1922
|
痕
|
Đỗ Nam Cư Sĩ
|
?
|
ngần
|
19
|
Liễu Văn Q.Tập
|
1924
|
痕
|
Văn H. Thịnh
|
?
|
ngần
|
20
|
Phúc Văn
|
1926
|
痕
|
N. Việt Hoài
|
1957
|
ngần
|
21
|
Phúc Văn
|
1932
|
痕
|
N. Văn Hoàn
|
1965
|
ngần
|
22
|
Phúc An Hiệu
|
1933
|
痕
|
N. Thạch Giang
|
1972
|
ngần
|
23
|
Chiêm Vân Thị
|
chép in
|
痕
|
Chiêm Vân Thị
|
?
|
ngần
|
24
|
VNb-60
|
in ?
|
痕
|
Đào Duy Anh
|
1974
|
ngần
|
25
|
Kinh Bắc
|
in ?
|
痕
|
Đào Duy Anh
|
1979
|
ngần
|
26
|
Tương Giang
|
in ?
|
痕
|
Đặng Thanh Lê
|
1984
|
ngần
|
27
|
R 2003
|
chép tay
|
痕
|
Phan Ngọc
|
1989
|
ngần
|
28
|
R.987
|
chép tay
|
痕
|
N.Quảng Tuân
|
1995
|
ngần
|
29
|
Bản Diễn Châu
|
chép tay
|
痕
|
Vũ Văn Kính
|
1998
|
ngần
|
30
|
Bản Giản Chi
|
chép tay
|
痕
|
N. Tài Cẩn
|
2004
|
ngần
|
痕
|
Đ.T. Tôn
|
2006
|
ngần
|
So 174: Vàng giao (ngấn 痕 ) nước cây lồng bóng sân.
So 752: Mây tơ vắn vẻ có (ngần 銀 ) ấy thôi.
So 1191: Tiếc thay trong giá trăng (ngần 銀 )
So 1216: Đủ (ngần 銀 ) ấy nết mới là người soi.
So 1972: Ái ân ta có (ngần 銀 ) này mà thôi.
PHỤ LỤC BÀI: Phiên âm lại mấy chữ Nôm trong
Truyện Kiều
Truyện Kiều
Câu số: 2768: Lau treo rèm nát, trúc GẦY phên thưa.
Người lập: Nguyễn Khắc Bảo
S
TT
|
Bản Kiều Nôm
|
Nội dung khảo
|
Quốc ngữ
|
Nội dung khảo
| ||
1
|
Liễu Văn đường
|
1866
|
��
|
Trương Vĩnh Ký
|
1875
|
gài
|
2
|
Ng. Hữu Lập
|
1870
|
棋
|
Michls
|
1884
|
gài
|
3
|
Liễu Văn đường
|
1871
|
��
|
Nordem ann
|
1897
|
gài
|
4
|
D.Minh Thị
|
1872
|
棋
|
Ph.Kim Chi
|
1917
|
gài
|
5
|
Q. Văn đường
|
1879
|
��
|
N.Văn Vĩnh
|
1923
|
gài
|
6
|
Thuận Thành
|
1879
|
木 該
|
Bùi K. Diễn
|
1926
|
cài
|
7
|
Thịnh Mỹ
|
1879
|
��
|
B.Kỷ - TT Kim
|
1927
|
gài
|
8
|
A.Michels
|
1884
|
棋
|
Hồ Đắc Hàm
|
1929
|
cài
|
9
|
Tạ Hiền đường
|
1886
|
��
|
Huyền Mặc
|
1930
|
gài
|
10
|
Ấn Thư Hội
|
1896
|
��
|
Ngô Tử Cống
|
1931
|
gài
|
11
|
Kiều Oánh Mậu
|
1902
|
掑
|
N.Can Mộng
|
1936
|
gài
|
12
|
Chu M. Trịnh
|
1906
|
掑
|
Tản Đà
|
1941
|
cài
|
13
|
Q. Văn đường
|
1911
|
��
|
B. Kỷ - TT Kim
|
1950
|
gài
|
14
|
Liễu Văn Q.Tập
|
1916
|
掑
|
Trung Chính
|
1951
|
gài
|
15
|
Phúc Văn
|
1918
|
��
|
Trần Ngọc
|
1952
|
gài
|
16
|
Thịnh Mỹ
|
1919
|
��
|
Lê Văn Hòe
|
1953
|
gài
|
17
|
Liễu Văn Q.Tập
|
1919
|
掑
|
Bùi Kỷ
|
1957
|
gài
|
18
|
Quảng Thịnh
|
1922
|
掑
|
Đỗ Nam Cư Sĩ
|
?
|
cài
|
19
|
Liễu Văn Q.Tập
|
1924
|
掑
|
Văn H. Thịnh
|
?
|
gài
|
20
|
Phúc Văn
|
1926
|
��
|
N. Việt Hoài
|
1957
|
gài
|
21
|
Phúc Văn
|
1932
|
��
|
N. Văn Hoàn
|
1965
|
cài
|
22
|
Phúc An Hiệu
|
1933
|
掑
|
N. Thạch Giang
|
1972
|
cài
|
23
|
Chiêm Vân Thị
|
chép in
|
扌該
|
Chiêm Vân Thị
|
?
|
gài
|
24
|
VNb-60
|
in ?
|
��
|
Đào Duy Anh
|
1974
|
gài (xem Cài)
|
25
|
Kinh Bắc
|
in ?
|
��
|
Đào Duy Anh
|
1979
|
cài
|
26
|
Tương Giang
|
in ?
|
掑
|
Đặng Thanh Lê
|
1984
|
cài
|
27
|
R 2003
|
chép tay
|
掑
|
Phan Ngọc
|
1989
|
gài (xem Cài)
|
28
|
R.987
|
chép tay
|
掑
|
N.Quảng Tuân
|
1995
|
cài
|
29
|
Bản Diễn Châu
|
chép tay
|
��
|
Vũ Văn Kính
|
1998
|
cài
|
30
|
Bản Giản Chi
|
chép tay
|
扌面
|
N. Tài Cẩn
|
2004
|
gài
|
So 638: Nét buồn như cúc, mình (gầy �� ) như mai
So 1430: Gương lờ nước thủy, mai (gầy �� ) vóc sương
So 2234: Cỏ cao hơn thước, liễu (gầy �� ) vài phân
So 3026: Mười phần xuân, có (gầy �� ) ba bốn phần./.
Thông báo Hán Nôm học 2006 (tr.80-91