Kỷ niệm 66 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944 - 22-12-2010) - Ngày Hội quốc phòng toàn dân :
Thiếu tướng đặc công kể chuyện đánh sân bay Cát Bi
15:41' 22/12/2010
|
Thiếu tướng Mai Năng (bên trái) |
Chiến
công lẫy lừng của quân dân Kiến An trong trận đánh sân bay Cát Bi tháng
3-1954 “chia lửa” cho Điện Biên Phủ đã đi vào những trang vàng của lịch
sử. Trong trận đó có một người được bình bầu là “dũng sĩ số 1”, đó là
Tổ trưởng trinh sát Mai Năng sau là Thiếu tướng nguyên Tư lệnh Binh
chủng đặc công, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Chủ tịch
Hội CCB Tp. Hải Phòng.
Năm
1950, tôi là bộ đội quân báo của Tỉnh đội Kiến An, sau là tổ trưởng tổ
trinh sát hậu địch chủ yếu ở khu vực Hải Phòng. Tháng 7-1953, tôi đang
chuẩn bị cho trận đánh ở Đồ Sơn thì được điều về giao nhiệm vụ trinh sát
chuẩn bị cho trận đánh sân bay Cát Bi.
Sân
bay Cát Bi là sân bay lớn thứ nhất của Pháp ở Bắc Đông Dương, một cầu
hàng không lớn nhất trong thời kỳ Pháp xâm lược, có trên dưới 200 máy
bay các loại. Sân bay nằm sâu trong hậu phương của địch, có 3 mặt giáp
sông, biển và một mặt giáp Hải Phòng, đựợc xây dựng một hệ thống bố
phòng rất kiên cố. Lực lượng của địch thời điểm cao nhất tới 7 tiểu đoàn
chủ yếu là Âu - Phi, lê dương, lực lượng thám báo người Việt. Xung
quanh sân bay gồm 78 đồn bốt, tháp canh chia làm 3 tuyến vành ngoài,
vành đai và trung tâm, 13 vị trí đề phòng tập kích phòng không, có 6
hàng rào dây thép gai bãi mìn, hàng ngàn đèn điện, mấy chục ngọn đèn pha
chiếu quét làm cho sân bay đêm cũng như ngày, một con chuột nhắt chạy
qua cũng bị phát hiện. Cứ 15 phút có một trung đội Âu-Phi trang bị cơ
giới và chó nghiệp vụ tuần tra quanh sân bay một lần. Tất cả đặt dưới sự
chỉ huy của một thiếu tướng Pháp và cố vấn Mỹ. Để đảm bảo tuyệt đối an
toàn cho sân bay, bọn địch đã dựng một “vành đai trắng” xung quanh.
Ngoài ra, hệ thống đồn bốt dọc trục đường 14 đi Đồ Sơn cũng là một lực
lượng bảo vệ sân bay chiến lược này từ xa.
Đó
là tất cả những khó khăn, thử thách đối với công tác trinh sát. Tổ
trinh sát gồm 4 người: tôi - Mai Năng - tổ trưởng và 3 chiến sỹ My,
Hồng, Diệp. Huyện Kiến Thuỵ cử một tổ 3 đồng chí trong đó có đồng chí là
uỷ viên ban thường vụ đảng uỷ xã Hoà Nghĩa sang hỗ trợ. Việc đi lại, ăn
ở, sinh hoạt chồng chất khó khăn bởi chưa có một cơ sở nào của ta ở địa
bàn quanh sân bay. Những ngày đầu trinh sát phải nằm ngoài bờ bụi, bãi
sú. Ngày qua ngày, đêm qua đêm, hằng tháng trời chưa xây dựng được một
cơ sở. Đột nhiên tối hôm đó, một gia đình đóng cửa che đèn gọi bộ đội
vào cho cơm ăn. Bà cụ vừa thở vừa nói: “Mẹ biết các con về lâu rồi ”.
Chúng tôi giật mình. Rồi mẹ khuyên, địch đang khủng bố dữ, hay các con
tạm lánh ra vùng tự do một thời gian. Tôi cảm động và thưa với mẹ: “Cảm
ơn mẹ, chúng con là cháu Bác Hồ, con của nhân dân. Nhiệm vụ của chúng
con là xây dựng phong trào để giải phóng quê hương. Dù khó khăn gian khổ
thế nào, chúng con cũng không thể bỏ dân mà đi được. Chúng con sẽ bám
dân, bám đất cho đến ngày giải phóng”. Nghe chúng tôi bày tỏ quyết tâm,
mẹ đã khóc và nói: “Từ nay các con vào, dùng ngón tay gõ nhẹ là mẹ
biết”. Đó là mẹ Sàng - một cơ sở đầu tiên của tổ trinh sát ở thôn Hoà
Nghĩa. Từ nhà mẹ Sàng, chúng tôi xây dựng và phát triển thêm những cơ sở
mới như mẹ Tính, mẹ Vo, mẹ Tạ… Một tuần sau, mẹ Sàng bảo tôi: “Các con
cứ đi đi về về thế này vất vả mà không ổn, thôi các con đào hầm bí mật
trong nhà mẹ mà ăn nghỉ”. Mẹ còn giao nhiệm vụ cho anh Hàn, con trai mẹ
làm nhiệm vụ canh gác cho chúng tôi. Hơn năm mươi năm trôi qua, giờ các
mẹ cũng đã về nơi suối vàng nhưng hình ảnh những người mẹ yêu nước thôn
Hoà Nghĩa năm ấy còn mãi trong tôi. Từ những cơ sở đó, chúng tôi nắm
đựợc tình hình làm ăn của dân. Những người ra vào làm ăn ở khu vực sân
bay cung cấp tình hình trong sân bay cho chúng tôi. Trên cơ sở nắm tình
hình, chúng tôi chuẩn bị phương án trinh sát đột nhập, tập trung vào các
điểm hàng rào, bãi mìn, đường băng, nơi đỗ máy bay, kho tàng, thông
tin, trung tâm chỉ huy… Trinh sát xong, báo cáo cấp trên, tổ trinh sát
đưa chỉ huy các đơn vị vào nắm tình hình trận địa, từ đó xây dựng phương
án, huấn luyện chiến đấu. Cuối năm 1953, tỉnh nhất trí và lựa chọn các
lực lượng đánh sân bay gồm 130 cán bộ, chiến sỹ. Mục tiêu là phá huỷ
toàn bộ sân bay. Nhưng khi lực lượng vượt sông Văn Úc thì bị địch phát
hiện, tàu chiến địch bắn chìm thuyền làm một số bị thương vong và bị
bắt. Trận đánh phải hoãn lại.
Sau
lần xuất quân bị lộ đó, tổ trinh sát đã đề xuất với cấp trên thay đổi
lại phương án tác chiến, đó là “chuột nhắt chui kho, vào nhỏ ra to”.
Thực hiện phương án này, tổ trinh sát của chúng tôi lại được lệnh chuyển
hướng trinh sát, nắm lại tình hình. Tổ dẫn đồng chí Lê Thừa Giao chỉ
huy tiểu đoàn 204 cùng vào. Trong quá trình trinh sát, tổ chức diễn đi
diễn lại nhiều lần đột nhập và đã có những “sự cố” nhớ đời. Lần đầu vừa
qua hàng rào một đồng chí trinh sát đá phải mìn, mìn nổ, sáng trưng một
vùng, tôi đành phải kéo anh em vào trong sân bay. Địch dồn quân ra vây
ngoài hàng rào, tìm không thấy gì, chúng nói với nhau: “chắc có con gì
đi qua”. Lần khác vào trinh sát trạm xăng, đồng chí Hồng khi ngó đầu vào
trong đã va vào một cánh cửa đánh “rầm”. Tôi đành kéo anh em trốn vào
gầm máy bay. Chúng tôi nghe rõ bọn địch nói với nhau: “chắc gió to cửa
sổ va vào nhau (!)”. Một tình huống khác, trời mưa dầm gió bấc, vì quá
say sưa điều tra nên tổ quên cả giờ rút, đành nằm lại trong bụi cây mộc
đắng, không may lại trúng một tổ kiến lửa. Gần một ngày nằm yên không
nhúc nhích, tối đến, người vừa đói, mệt, toàn thân phồng dộp như bị
phỏng cháy.
Sau
khi hoàn tất công tác trinh sát, cấp trên quyết định tổ chức đánh. Lực
lượng tham gia lần này giảm tới 2/3 chỉ gồm 32 người, 2 chỉ huy, 6 trinh
sát, 24 chiến đấu viên, chia làm 2 mũi. Trang bị chủ yếu là thủ pháo,
lựu đạn, tiểu liên. Ngày 3-3-1954 xuất quân ra bờ sông Văn Úc thì gặp
tàu địch. Hôm sau cũng vậy. Phải thay đổi. Sáng 5-3 tới xã Hoà Nghĩa,
ban ngày toàn đội hình chiến đấu xuống hầm, 19g30 đơn vị vượt qua đường
14, sông Lạch Tray. Trinh sát mở cửa, cắt dây thép, gỡ mìn đưa lực lượng
vào. Đội hình chia làm hai mũi, mũi chủ yếu gồm 13 chiến đấu viên, 3
trinh sát, đánh vào khu máy bay B26, mũi thứ hai đánh vào khu máy bay
trinh sát vận tải. Đúng giờ G, cả sân bay như chìm trong bão lửa, tiếng
bộc phá, lựu đạn, tiếng đạn nổ hỗn loạn, máy bay địch cháy đỏ góc trời.
Bọn địch sau cú choáng váng đã chống trả quyết liệt. Nhưng chúng không
có cách nào dập tắt được cơn bão lửa đang tràn ngập toàn bộ sân bay!
Hoàn thành nhiệm vụ, đơn vị đã rút ra ngoài an toàn.
Đây
là một trận đánh chuẩn bị rất khó khăn nhưng cũng rất công phu, kỹ
lưỡng, đảm bảo bí mật. Một trận đánh lớn nhất, tiêu diệt nhiều máy bay
nhất, 56 chiếc chủ yếu là máy bay chiến đấu. Trận đánh đã phối hợp kịp
thời, hiệu quả đối với chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ, như Đại tướng
Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: Chiến thắng trong trận đánh sân bay Cát Bi
có ý nghĩa nhất đối với chiến dịch Điện Biên Phủ. Một “cầu hàng không”
chủ yếu của Pháp đã bị cắt, tạo điều kiện để dân công, quân đội vào Điện
Biên Phủ, giảm tối đa sự chi viện của Pháp cho căn cứ chiến lược này.
Có
thể nói đây là trận đánh có ý nghĩa mở đầu, từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm xây dựng lực lượng, nghiên cứu trang bị vũ khí, tìm ra cách đánh
cho lực lượng đặc công, biệt động sau này. Lúc đó, 32 người đánh một sân
bay, sau này ở miền Nam ta chỉ cần 1 tiểu đội. Lúc đó bình quân 2 kg
thuốc nổ đánh một máy bay, sau này ta chỉ cần 200g. Và một bài học thành
công rất cơ bản đó là lòng dân. Phải xây dựng đựợc cơ sở trong nhân dân
làm bàn đạp để trinh sát và ém quân khi tấn công.
Đoàn
chiến đấu đánh sân bay Cát Bi được nhận thư khen của Bác Hồ: Bác chúc
mừng chiến công của cán bộ, nhân dân Kiến An. Bác tặng đoàn đánh Cát Bi
danh hiệu “Dũng sỹ Cát Bi”. Toàn đoàn được thưởng 4 Huân chương Quân
công và 28 Huân chương Chiến công.
Bản
thân tôi đựơc tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và được đơn vị
bình bầu là “Dũng sỹ số 1”của trận đánh, là người đã tổ chức và triển
khai thực hiện xây dựng cơ sở, tạo điều kiện cho các lực lượng chiến đấu
thắng lợi. Tôi còn được đồng chí Tỉnh đội trưởng tặng khẩu cạc bin,
được đi dự Đại hội thanh niên dân chủ thế giới. Bài học tôi ghi nhớ: Dù
tài giỏi, dũng khí đến đâu mà không có dân thì cũng khó giành thắng lợi.
…
Tôi say sưa với câu chuyện của người dũng sĩ Mai Năng. Anh còn kể tôi
nghe về mối tình với cô du kích vùng Tiên Lãng. Người con gái đồng bằng,
mặc áo nâu non, thắt khăn mỏ quạ, bắn súng trường rất tài ấy đã phải
lòng anh bộ đội trinh sát đẹp trai, hiền lành, hơn mình 6 tuổi. Anh bộ
đội trinh sát gan dạ ấy cũng yêu đến si mê cô du kích đồng bằng xinh
xắn, nết na. Tình yêu của họ bền chặt dần lên trong những tháng
ngày chống Pháp gian khổ. Và trước hôm người tổ trưởng trinh sát Mai
Năng dẫn bộ đội vào tấn công sân bay Cát Bi 3 ngày, họ đã làm đám cưới.
Năm trong sáu người con của họ nối nghiệp cha, trở thành những cán bộ
quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Tôi còn được biết trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, Thiếu tướng Mai Năng là một trong những cán bộ
đặc công nước đầu tiên, tham gia chiến đấu và chỉ huy nhiều trận đánh
vang dội của đặc công nước, phá huỷ trên 3.000 tàu, thuyền của Mỹ. Đoàn
126 mà Thiếu tướng là Phó đoàn đã 2 lần được tuyên dương Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân. Đội 1 đặc công nước mà Thiếu tướng Mai Năng
từng là đội trưởng đã 3 lần được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân. Thiếu tướng Mai Năng cũng đã vinh dự được Đảng, Nhà
nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Lã Quý Hưng (ghi chép)
(http://xaydungdang.org.vn/Home/Dang-vien-phan-dau-tot/2010/3194/Thieu-tuong-dac-cong-ke-chuyen-danh-san-bay-Cat-Bi.aspx)