Sunday, 20 November 2011
Hạm đội Đông Dương ăn gì?
Từ điển có hạm với nghĩa là hổ lớn, hổ dữ (Vương Lộc, 2001:74). Ăn như hạm chính là ăn như hổ dữ. Nhưng ngày nay nhiều người không biết hạm là con gì, lại hiểu hạm là tàu do loạt từ ngữ Hán Việt chiến hạm (tàu chiến), soái hạm (tàu chỉ huy), khu trục hạm (tàu khu trục), tuần dương hạm (tàu tuần dương)... Hạm tàu ăn gì thì không ai biết nhưng hạm đội gồm nhiều hạm tàu ắt phải ăn nhiều hơn một hạm. Do đó mà có thành ngữ ăn như hạm đội, sau phát triển thành ăn như hạm đội Đông Dương. Và không chỉ có ăn như hạm mà bây giờ còn có cả yêu như hạm với nghĩa là yêu luông tuồng, yêu lung tung, yêu bừa bãi. Hổ dữ ăn ra sao thì ai cũng biết chứ đã ai biết nó yêu thế nào mà đổ cho nó cái tội sinh hoạt bừa bãi?
Saturday, 19 November 2011
Ai bảo biểu tình luôn gắn với chống chính quyền?
Từ biểu tình không có mặt trong Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931). Vào thời ấy biểu tình còn được xem là một từ ngoại lai, gốc Trung Quốc (表 情), nghĩa là bày tỏ tình cảm:
Nhân lại vừa dịp lễ sinh-nhật 82 tuổi quan Giám-quốc Mazarick nước Tchécoslovaquie, Thượng-nghị-viên Pháp biểu-tình kính-mến. (Nam Phong Tạp Chí số 171, 1932:428)
Hán Việt Từ Điển Giản Yếu giảng biểu tình là dân chúng tụ họp nhau để biểu-thị ẩn-tình và ý nguyện. Bên cạnh đó còn có chua chữ Hán là表 情 và tiếng Pháp là meeting (Đào Duy Anh, 2005:73). Các từ điển tiếng Việt sau đó có thể định nghĩa biểu tình với từ ngữ, câu cú khác nhau nhưng về căn bản nội dung khái niệm đã ổn định suốt từ lúc biểu tình được du nhập vào tiếng Việt (Thanh Nghị, 1967:127; Lê Văn Đức, 1970a:114; Nguyễn Kim Thản, 2005:140). Đặc biệt không một từ điển nào đưa từ chính quyền vào định nghĩa bởi vì chống hay ủng hộ chính quyền, chính phủ không phải là một thuộc tính của biểu tình. Không rõ căn cứ vào đâu mà có người như đại biểu quốc hội Hoàng Hữu Phước lại thấy Phải khẳng định ngay từ khởi thủy và cho tới tận ngày nay biểu tình là để chống lại chính phủ, chống lại chủ trương của chính phủ nước mình.
Friday, 18 November 2011
Cơm sồn sồn là cơm gì?
Tuổi sồn sồn là tuổi nửa già nửa trẻ; cơm sồn sồn là cơm nửa sống nửa chín (Génibrel, 1898:702; Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:494; Lê Văn Đức, 1970b:1305). Vương Lộc (2001:146) coi sồn sồn với nghĩa nửa sống nửa chín là từ cổ. Nguyễn Kim Thản (2005:1410) coi là từ cũ.
Trên Internet chỉ thấy có bài vè sau đây lưu giữ dấu vết của cụm từ cơm sồn sồn:
Đầu lớn chôm bôm, là con tôm tít
Bắt người ăn thịt, là con tôm hùm
Ở bụi ở lùm là con tôm cỏ
Bắt bỏ vào giỏ là con tôm lương
Gánh đất lấp đường là con tôm đất
Vô chùa lạy Phật là con tôm tu
Sóng đánh chổng khu là con tôm cồn
Nấu cơm sồn sồn là con tôm gạo
Lấy nước thơm thảo là con tôm trầm
Bịt chén bịt mâm là con tôm bạc
Phải quấy mình gạt là con tôm càng
rèn đục rèn chàng là con tôm sắt
Hay cắn hay ngắt là con tôm chồng
Nghe bậu lấy chồng là con tôm lóng
Lấy chồng cho chóng là con tôm lang
Da thịt nó vàng là con tôm nghệ
Việc làm bê trễ là con tôm te.
Trên Internet chỉ thấy có bài vè sau đây lưu giữ dấu vết của cụm từ cơm sồn sồn:
Đầu lớn chôm bôm, là con tôm tít
Bắt người ăn thịt, là con tôm hùm
Ở bụi ở lùm là con tôm cỏ
Bắt bỏ vào giỏ là con tôm lương
Gánh đất lấp đường là con tôm đất
Vô chùa lạy Phật là con tôm tu
Sóng đánh chổng khu là con tôm cồn
Nấu cơm sồn sồn là con tôm gạo
Lấy nước thơm thảo là con tôm trầm
Bịt chén bịt mâm là con tôm bạc
Phải quấy mình gạt là con tôm càng
rèn đục rèn chàng là con tôm sắt
Hay cắn hay ngắt là con tôm chồng
Nghe bậu lấy chồng là con tôm lóng
Lấy chồng cho chóng là con tôm lang
Da thịt nó vàng là con tôm nghệ
Việc làm bê trễ là con tôm te.
Áo tô là áo gì?
Áo tốt nghiệp, áo cử nhân, áo thạc sĩ, áo tiến sĩ... các kiểu lụng thụng với một dải vải vắt qua vai, buông lòng thòng trước ngực chính là áo tô. Áo tô nguyên là y phục của công dân La Mã, được cải biên thành áo choàng của giáo sư, quan tòa, luật sư. Học sinh, sinh viên trong ngày tốt nghiệp cũng được phép mặc áo tô.
Tiếng Việt có từ tô ga gần âm với toga trong tiếng La Tinh, tiếng Anh và nhiều thứ tiếng châu Ấu khác (tiếng Nga là тога phát âm cũng giống như thế). Khó có thể xác định tô ga được mượn từ tiếng nào trước.
Ngoài ra tiếng Việt cũng có tô-giơ và tô-jơ chắc chắn là từ toge của Pháp (Lê Ngọc Trụ, 1993:780). Trong từ điển này cũng có từ tô, được xem là rút gọn của tô-giơ và tô-jơ.
Tuy nhiên do áo tô đã biến mất khỏi đời sống ở Việt Nam một thời gian khá dài cùng lúc với sự suy tàn của tiếng Pháp, từ tô hiện nay rất có thể được xem là kết quả rút gọn của tô ga.
Tiếng Việt có từ tô ga gần âm với toga trong tiếng La Tinh, tiếng Anh và nhiều thứ tiếng châu Ấu khác (tiếng Nga là тога phát âm cũng giống như thế). Khó có thể xác định tô ga được mượn từ tiếng nào trước.
Ngoài ra tiếng Việt cũng có tô-giơ và tô-jơ chắc chắn là từ toge của Pháp (Lê Ngọc Trụ, 1993:780). Trong từ điển này cũng có từ tô, được xem là rút gọn của tô-giơ và tô-jơ.
Tuy nhiên do áo tô đã biến mất khỏi đời sống ở Việt Nam một thời gian khá dài cùng lúc với sự suy tàn của tiếng Pháp, từ tô hiện nay rất có thể được xem là kết quả rút gọn của tô ga.
Thursday, 17 November 2011
Tại sao những người tự đề cao mình một cách lố bịch lại bị gọi là cái rốn của vũ trụ?
Cái rốn vốn chỉ là cái ống dẫn máu từ nhau vào bào thai. Cái ống đó được cắt bỏ khi đứa nhỏ sinh ra được cắt. Cái sẹo hình tròn còn lại ở giữa bụng cũng gọi là rốn. (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:472; Lê Văn Đức, 1973b:1247; Hoàng Phê, 2006:833). Do ảnh hưởng của tiếng Pháp, rốn có thêm nghĩa bóng là trung tâm: cái rốn của vũ trụ là kết quả dịch sao phỏng cụm từ tiếng Pháp le nombril de l’Univers. Cũng bằng cách dịch sao phỏng, le nombril du monde sang tiếng Việt thành cái rốn của thế giới. Điều thú vị là người Việt hay nói tưởng mình là cái rốn của vụ trụ hơn tưởng mình là cái rốn của thế giới. Trong khi đó người Pháp lại hay nói se prendre pour le nombril du monde. hơn se prendre pour le nombril de l’Univers. Bởi vậy dịch cụm từ cái rốn của vũ trụ ra tiếng Pháp là một vấn đề nan giải. Cách dịch nào cũng có cái hay và cái dở của nó.
Wednesday, 16 November 2011
Tại sao dây dọi còn được gọi là lập lòn?
Dây dọi / lập lòn gồm một quả đồng thau dằn chì cho nặng treo vào đầu một sợi dây. Thợ xây thả dây dọi/lập lòn để kiểm tra xem tường có thẳng đứng hay không. Dây dọi tiếng Pháp là fil à plomb, dịch sát từng từ là sợi dây có cục chì. Người Việt bỏ âm tiết đầu, chỉ giữ đoạn sau thành ra lập lòn.
Tuesday, 15 November 2011
Trăm hay chưa được thì nghìn hay được không?
Trăm trong Trăm hay không bằng tay quen không phải là từ chỉ số lượng. Hội Khai Trí Tiến Đức (1931:594) giảng là nói líu lo dấp dính. Ví dụ: nói trăm như tiếng mọi. Từ trăm với nghĩa này cũng được ghi nhận trong Génibrel (1989:873), Hue (1937:1052). Trăm hay trong câu tục ngữ trên đây có nghĩa là nói hay. Ý nghĩa của cả câu đó là nói hay không bằng quen làm.
Subscribe to:
Posts (Atom)