Friday, 6 January 2012

Trả lời về chữ NGA trong NGA LA TƯ – An Chi ( Đã đăng trên Kiến Thức Ngày Nay số 607 (20-6-2007)

      Nhiều tác giả đã giải thích một cách rất tự tin rằng cả ba âm tiết Nga La Tư đều là những tiếng dùng để phiên âm địa danh Russia của tiếng Anh. Các vị đó chẳng cần quan tâm xem nếu quả đúng như thế thì tiếng (âm tiết) Nga tương ứng với âm hoặc âm tiết nào của Russia. Đó là còn chưa kể rằng khi ba tiếng Nga La Tư ra đời trong tiếng và chữ Hán để chỉ quốc gia mà ban đầu người Anh gọi làRuss, rồi về sau là Russia thì người Trung Quốc thậm chí còn chưa tiếp xúc với tiếng Anh. Quả đúng như thế thật vì danh xưng La Tư xuất hiện trong thư tịch của Trung Hoa vào cuối đời Nguyên (1206 – 1368) đầu đời Minh (1368 – 1644), nghĩa là vào khoảng giữa thế kỷ XIV; lúc đó người Trung Quốc làm gì đã biết đến tiếng Anh. Lúc bấy giờ, người Trung Hoa gọi nước Nga là La Tư 羅斯 hoặc La Sát 羅 刹. Âm Bắc Kinh của La Tư 羅斯 là luósì, còn của La Sát 羅刹 là luóshà, phản ánh gần đúng danh xưngRoss(ia) của tiếng Nga mà người Trung Quốc biết được qua sự tiếp xúc với các bộ tộc sống ở phía Tây của nước mình.
        Nhưng đến đời Thanh thì bắt đầu có thay đổi. Triều đại này lại thích phiên âm tên của nước Nga từ tiếng Mông Cổ, mà một số từ, ngữ cũng đã được biết đến từ đời Nguyên. Một đặc điểm của tiếng Mông Cổ là nó không có từ nào bắt đầu bằng l- hoặc r-; nói một cách khác, hai phụ âm [l] và [r] không thể đứng đầu âm tiết đầu tiên của từ trong thứ tiếng này. Vì vậy nên người Mông Cổ không thể chấp nhận cách phát âm Rossia (có r- khởi đầu). Họ đã xử lý bằng cách lặp lại nguyên âm chính của ros- ( là [o]) làm âm tiết đầu tiên cho hình thức phiên âm. Do đó mà Rossia đã trở thành Orossia trong tiếng Mông Cổ.
        Ban đầu, Orossia được phiên âm sang tiếng Trung Quốc thành Oát La Tư  斡羅斯 (âm Bắc Kinh làwòluósì) hoặc Ngạc La Tư 鄂羅斯 (âm Bắc Kinh là èluósì). Về sau, khi biên soạn Đại Thanh nhất thống chí, người ta lại phiên Orossia thành Nga La Tư 俄羅斯 (âm Bắc Kinh là éluósì); rồi cũng có phần là do cái danh và cái uy của bộ sử này mà hình thức Nga La Tư đã trở nên thông dụng cho đến tận ngày nay mà được nói tắt thành Nga.
        Chữ nga 俄 không chỉ dùng để phiên âm âm tiết o trong Orossia mà còn dùng để phiên âm tiết đó trong nhiều địa danh, nhân danh khác, như:
Obadiah thành Nga Ba Để Á;
Ohio thành Nga Hợi Nga;
Oklahoma thành Nga Khắc Lạp Hà Mã;
Ophir thành Nga Phỉ;
Oregon thành Nga Lặc Cương;
Ostrava thành Nga Tư Đặc Lạp Phát; v.v..
Vậy Nga (La Tư) chẳng có liên quan gì đến tiếng Anh Russia.

Nam văn nữ thị (Năng Lượng Mới số 56 , 23 - 9 - 2011)

Nguyên bản ở Facebook An Chi (Huệ Thiên):
 Bạn đọc :  Xin cho hỏi tại sao trước đây cha mẹ đặt tên cho con trai thường lót chữ “văn” còn con gái thường lót chữ “thị”? (Nguyễn Thị Hồng Đào).
 An Chi : Về vấn đề này, ông Lê Trung Hoa có cho biết như sau:
“Chúng tôi đọc thấy một điểm đáng chú ý trong cuốn Les langages  de l’humanité của Michel Malherbe (...): Có lẽ tên đệm Văn có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập ben (con trai) và tên đệm Thị cũng từ tiếng Ả Rập binti (con gái) do các thương nhân Ả Rập vào buôn bán ở bờ biển Việt Nam. Tuy tác giả không nêu cứ liệu, chúng tôi thấy có khả năng đúng, vì: – về ngữ âm ben cho ra vănbinti cho ra thị là có thể chấp nhận; – Việt Nam chịu ảnh hưởng “họ” của người Trung Hoa. Nhưng người Trung Hoa trước đây và hiện nay không dùng các từ đệm văn và thị phổ biến như người Việt Nam” (Họ và tên người Việt Nam, Hà Nội, 1992, tr.62, chth.1).
Ông Hoa nói như thế còn chúng tôi thì cho rằng nói ben có thể cho ra văn và binti có thể cho ra thịchẳng khác nào nói rằng tiếng Pháp petit đã cho ra tiếng Việt bé tí còn colosse thì đã cho ra khổng lồ, chẳng khác nào nói tiếng Ý ciao đã cho ra tiếng Việt chào còn tiếng Tây Ban Nha niño thì đã cho ra nhỏ nhí. Nhận xét của Malherbe xuất phát từ một sự so sánh vô nguyên tắc mà sự công nhận của ông Lê Trung Hoa thì cũng chẳng có cơ sở khoa học nào. Lẽ ra, ông Hoa phải hiểu tiếng Việt hơn Malherbe mới đúng. Trong trường hợp này, Malherbe đã làm một công việc mà Henri Frei đã làm cách đây gần 120 năm trong quyển L’annamite, mère des langues (Tiếng An Nammẹ của các thứ tiếng – Hachette & Cie, Paris, 1892), trong đó quan năm Frei này đã so sánh tiếng Việt với nhiều thứ tiếng, có khi thuộc những ngữ hệ cách nhau rất xa. Ngữ học so sánh có những nguyên tắc của nó; không thể cứ thấy hai từ giống nhau thì vội vàng khẳng định chúng là bà con, như Frei và Malherbe đã làm và ông Lê Trung Hoa đã cả tin.
Thật ra thì chữ lót Văn trong tên của nam giới chính là chữ “văn” trong “văn thân”, nghĩa là xăm mình. Nhưng trước khi phân tích và chứng minh, xin hãy chép lại đoạn nói về “Tục lệ xăm mình của người Việt cổ” ở Wikipedia (cho đến tối 19-9-2011):
“ Sách Lĩnh Nam chích quái (phần “Hồng Bàng thị truyện”) viết như sau:
“ Bấy giờ, dân trên núi xuống nước đánh bắt cá thường bị thuồng luồng gây thương tổn, bèn cùng nhau tâu việc ấy với Vua. Vua nói:
 “– Các giống ở trên núi khác với các loài ở dưới nước. Các loài ở dưới nước chỉ ưa những gì giống với mình và ghét những gì khác mình, vì vậy, ta mới bị gây hại.
“ Nói rồi, Vua bèn ra lệnh cho ai nấy cũng phải lấy màu xăm hình thuỷ quái vào người. Từ đó, không bị thuồng luồng gây thương tích nữa. Tục vẽ mình của dân Bách Việt bắt đầu có kể từ đấy. Đặc biệt thời Trần, những thành viên thuộc đội quân Thánh Dực bảo vệ xa giá sẽ được xăm lên trán ba chữ Thiên Tử Quân (Quân đội Thiên Tử). Nghệ thuật này còn được thấy rõ rệt dưới triều đại này với việc xăm hai chữ “Sát Thát” (Giết giặc Tartar) trong thời kỳ kháng chiến chống Nguyên Mông, thể hiện sự quyết tâm đồng lòng chiến đấu, bảo vệ giang sơn của cha ông ta. Thường những người xăm trổ thời ấy đều là những chiến binh dũng cảm và can trường, họ xăm trổ để thể hiện sức chịu đựng và chí hướng của mình. Nhiều người dân cũng thường cũng xăm lên bụng những chữ Nghĩa dĩ quyên khu, hình vu báo quốc thể hiện tinh thần thượng võ.”
Câu “Vua bèn ra lệnh cho ai nấy cũng phải lấy màu xăm hình thuỷ quái vào người” trong Lĩnh Nam chích quái là một câu có tính chất hồi chỉ và nó hồi chỉ “dân trên núi xuống nước đánh bắt cá”. Những người dân này chỉ là đàn ông. Cho đến tận thời nay, ra khơi đánh cá vẫn chỉ là đàn ông mà thôi. Thiên tử quân đời Trần cũng chỉ là đàn ông. Cho đến mãi thế kỷ XX thì trong nội bộ người Việt, xăm mình vẫn chỉ có đàn ông (chứ phụ nữ Mãng, chẳng hạn thì có xăm mặt). Cứ như trên thì xăm mình là một nét đặc trưng của đàn ông người Việt thời xưa và đặc trưng này đã được đưa vào tên họ của họ. Truy nguyên ra thì thấy như thế và những cái tên, chẳng hạn như Trần Văn Ổi vốn có nghĩa là người họ Trần tên Ổi có xăm mình; Phạm Văn Me vốn có nghĩa là người họ Phạm tên Me có xăm mình; Võ Văn Xoài vốn có nghĩa là người họ Võ tên Xoài có xăm mình; mà hễ có xăm mình thì đều là đàn ông. Ý nghĩa của tục lệ này dần dần phai mờ với thời gian nên về sau, chẳng cần có xăm mình gì cả thì con trai sơ sinh vẫn thường được cha mẹ dùng chữ Văn làm tiếng lót khi đặt tên.
Còn thị là một từ Việt gốc Hán, chữ Hán viết là . Đây là tiếng dùng để chỉ phụ nữ. Nghĩa này của nó được Từ nguyên và Từ hải ghi là “phụ nhân xưng thị” (đàn bà gọi là thị) còn Vương Vân Ngũ đại từ điểnthì ghi là “phụ nhân” (đàn bà) và Mathews’ Chinese-English Dictionary thì ghi “a female” (người thuộc giới tính nữ). Từ nguyên còn cho biết rõ thêm rằng ngày nay thị cũng là một từ mà phụ nữ dùng để tự xưng (Kim dịch vi phụ nhân tự xưng chi từ).
Trong tiếng Việt, nó còn có một công dụng mà Từ điển tiếng Việt 1992 đã ghi như sau: “Từ dùng để chỉ người phụ nữ ở ngôi thứ ba với ý coi khinh”. Vậy rõ ràng thị có nghĩa là đàn bà. Nhưng do đâu mà nó trở thành tiếng lót, tức tên đệm của phụ nữ? Thì cũng là từ công dụng của nó trong tiếng Hán mà ra, sau một quá trình chuyển biến ngữ nghĩa. Công dụng này đã được Hiện đại Hán ngữ từ điển (Bắc Kinh, 1992) chỉ ra như sau: “Đặt sau họ của người phụ nữ đã có chồng, thường thêm họ chồng vào trước họ cha để xưng hô” (Phóng tại dĩ hôn phụ nữ đích tính hậu, thông thường tại phụ tính tiền gia phu tính, tác vi xưng hô). Thí dụ: Triệu Vương thị là “người đàn bà mà họ cha là Vương còn họ chồng là Triệu”.
Người Việt Nam ngày xưa đã không làm y hệt theo cách trên đây của người Trung Hoa mà chỉ đặt “thị” sau họ cha rồi liền theo đó là tên riêng của đương sự theo kiểu cấu trúc “X thị Y”, hiểu là người đàn bà họ X tên Y. Cấu trúc này giống như cấu trúc có yếu tố công (= ông) mà dân Nam Bộ đã dùng để gọi nhà yêu nước Trương Định một cách tôn kính: Trương Công Định, có nghĩa là “ông (được tôn kính) họ Trương tên Định”. Hoặc như của chính người Trung Hoa khi họ khắc trên mộ chí của Trương Khiên mấy chữ Trương Công Khiên (chi mộ), có nghĩa là “(mộ của) ông (được tôn kính) họ Trương tên Khiên”. Vậy, cứ như đã phân tích, Nguyễn Thị Mẹt là người đàn bà họ Nguyễn tên Mẹt, Trần Thị Nia là người đàn bà họ Trần tên Nia, còn Phạm Thị Cót là người đàn bà họ Phạm tên Cót, v.v... Cách hiểu nguyên thủy này đã phai mờ dần theo thời gian, làm cho về sau người ta tưởng rằng thị chỉ là một yếu tố có tính chất “trang trí” cho tên của phái nữ mà thôi. Chính vì đã không còn hiểu được công dụng ban đầu của “thị” nữa nên người ta mới dùng nó mà làm tiếng lót, nghĩa là tên đệm, cho các bé gái khi chúng chào đời. Người ta đã làm như thế mà không ngờ rằng ngày xửa ngày xưa, các cụ bà của chúng chỉ được dùng tiếng thị để chỉ định sau khi họ đã trưởng thành, và rằng thị chỉ được dùng chủ yếu là trong lời nói, đặc biệt là trong ngôn ngữ hành chính, chứ không phải là cho việc đặt tên.
Ý nghĩa và xuất xứ của hai tiếng “văn” và “thị” trong họ tên người Việt trước đây, theo chúng tôi đại khái là như thế. Chứ hai từ ben và binti của các chú lái buôn người Ả Rập thì chẳng có liên quan gì với nó cả.

Thursday, 5 January 2012

Nhà “đại thể” hay vẫn là nhà xác? An Chi(Năng Lượng Mới số 84, 30-12-2011).

Nguyên bản ở Facebook của An Chi (Huệ Thiên):
 Bạn đọc : Ở gần nhà tôi có nhà đại thể. Tôi tra trên mạng thấy đó là nhà xác. mà sao lại gọi là “đại thể” vậy ông An Chi?  (L.N.B.).
        An Chi : Vì bất cứ lý do gì mà “thay tên đổi họ” của nhà xác thành “nhà đại thể” thì, theo chúng tôi, cũng cứ là chuyện không cần thiết, và chỉ là nhiễu sự mà thôi. Đúng như bạn nói, nếu gõ ba chữ “nhà đại thể” trên Google, ta sẽ được rất nhiều kết quả: 
  – “Lễ tiễn biệt các thây nhi (thai nhi đã chết) ở Bệnh viện Từ Dũ thường diễn ra vào chiều thứ năm hàng tuần. Hôm nay là một ngày tiễn biệt như thế ở khu nhà đại thể (nhà xác) bệnh viện Từ Dũ.” (“Chuyện ghi ở nhà đại thể” của Kim Liên – Ngọc Hiếu, Sài Gòn giải phóng, 27-10-2009).
        –“Chiều 10-11, với sự giúp đỡ của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an, tất cả 4 xác nạn nhân trongnhà đại thể của Bệnh viện đa khoa Bình Thuận đã được phân biệt danh tính.”( “Tài xế chính xe gây tai nạn trình diện cơ quan công an” của Phong Châu - Lê Nguyễn, Tiền phong ngày 11-11-2011).
– “Tại Perm, thành phố cách Matxcơva hơn 1.000 km về phía đông, từng nhóm những người có thân nhân có mặt ở hộp đêm tụ tập bên ngoài nhà đại thể với vẻ mặt đau buồn, chờ nhận dạng người nhà của mình. Một số người liên tục rít thuốc lá, hoặc nhìn chằm chằm vào bản danh sách với đôi mắt trống rỗng.”(“Bắt 5 người trong vụ cháy hộp đêm ở Nga” của T.Huyền, VnExpress, 6/12/2009).
Nếu tiếp tục “rà”, ta sẽ còn thấy thêm rất nhiều kết quả tương tự, trên rất nhiều tờ báo khác nhau, kể cả báo địa phương, cũng như sẽ thấy danh ngữ nhà đại thể đã được dùng khá nhiều trong một số bệnh viện mà không biết là nhờ sự thông minh của ai. Vì “nhà đại thể” mà người ta đã “bỏ” nhà xác. Còn về thời điểm thì ta có thể biết cái cách gọi chẳng hay ho gì này đã ra đời cách đây ít nhất là 7 năm, theo bài “Sống bên cạnh người chết” của Thu Hà trên báo Thanh Niên mà Việt Báo.vn ngày 20-7-2006 đã đăng lại: 
“Trước đây, ở Bệnh viện Đà Nẵng, nhà để quàn những bệnh nhân – hoặc những nạn nhân – vừa qua đời được gọi là Nhà xác và những người phục vụ được gọi bằng một tên nghe đến “rợn người”: nhân viên Nhà xác. Tên gọi của nơi để quàn những người quá cố nghe quá nặng nề nên từ năm 2004, nơi đây được đổi tên là Nhà Đại thể và nghiễm nhiên, những nhân viên phục vụ tại đây cũng được gọi bằng một cái tên khác: nhân viên Nhà Đại Thể.”
Về cái tên lạ lẫm này, Người lao động, ngày 15-05-2011 cho biết, theo bác sĩ Nguyễn Đát Lý, Trưởng Khoa Giải phẫu bệnh, đơn vị quản lý nhà đại thể của Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương, thì hai chữ “đại thể” dùng để chỉ toàn bộ cơ thể, vốn được dùng để phân biệt với “vi thể”, tức các bộ phận nhỏ, lẻ trong “đại thể”. Chúng tôi chưa thực sự yên tâm về cách giải thích này vì thể ở đây không phải là thân hình con người, mà là thể thức, phương cách. Theo Giải phẫu đại cương  Nhập môn giải phẫu học do TS Trịnh Xuân Đàn chủ biên thì:
“Giải phẫu học người (human anatomy) là môn khoa học nghiên cứu cấu trúc cơ thể con người. Tuỳ thuộc vào phương tiện quan sát, giải phẫu học được chia ra thành 2 phân môn: giải phẫu đại thể (gross anatomy hay macroscopic anatomy) nghiên cứu các cấu trúc có thể quan sát bằng mắt thường; giải phẫu vi thể (microscopic anatomy hay histology) nghiên cứu các cấu trúc nhỏ chỉ có thể quan sát dưới kính hiển vi.”
Cứ như trên thì “các cấu trúc có thể quan sát bằng mắt thường” trong giải phẫu đại thể đâu có phải là “toàn bộ cơ thể”. Nhưng, nói cho cùng, dù ta có hiểu như thế nào thì hai tiếng đại thể trong danh ngữnhà đại thể cũng không trực tiếp liên quan đến thuật ngữ “giải phẫu (học) đại thể” mà lại liên quan đến thi hài của người hiến xác thông qua ẩn dụ mang tính tôn xưng đại thể lão sư của Trung Hoa Đài Loan.
Trước đây, do thuận miệng mà sinh viên y khoa ở Đài Loan thường dùng hai tiếng đại thể trong tên của môn đại thể giải phẫu học 大體剖學解 (giải phẩu học đại thể) để gọi thi thể mà họ quan sát. Ta có thêm một bằng chứng cho thấy chữ thể ở đây không liên quan đến thân thể con người. Rồi sau đó thì Trường Đại học Từ Tế 慈濟大學 (Tzu Chi University) ở Đài Loan mới tôn xưng mà gọi là Đại thể lão sư大體老師 (người thầy trong môn giải phẫu học đại thể) để chỉ thi hài của người hiến xác. Sinh viên, cũng như giáo sư và cán bộ giảng dạy xem những thi hài đó như là những người thầy (lão sư) hiền hậu, vô tư, rộng lượng, không phản ứng mảy may trước sự mổ xẻ, v.v., giúp cho họ có thể biết được đến từng ngóc ngách tất cả những gì thuộc về cơ thể con người trong khi họ học hoặc dạy môn giải phẩu học đại thể. Nhưng những người thầy này lại chẳng nói năng gì; vì vậy nên họ còn được gọi là Vô ngữ lương sư 無語良師 (thầy giỏi không nói). Vậy Đại thể lão sư và Vô ngữ lương sư là hai thành ngữ mang tính ẩn dụ để chỉ thi hài của người hiến xác được sử dụng trong phòng thực nghiệm, thực tập. Đại học Từ Tế là một trường đại học danh tiếng và có uy tín nên được biết đến ở nhiều nơi trên thế giới.
Vậy việc thành ngữ Đại thể lão sư do nó khởi tạo được biết đến ở Việt Nam cũng không phải là chuyện lạ. Lạ – quái dị nữa là đằng khác – là việc nhiều người, nhiều nơi trong ngành y tế cũng như nhiều nhà báo và phương tiện truyền thông của Việt Nam lại dùng hai tiếng đại thể của nó một cách thật khiếm nhã. Tại quê hương của nó thì hai tiếng này được dùng để chỉ thi thể của những người cao thượng đã hiến xác cho khoa học mà cả  loài người đều biết ơn, đặc biệt là với các trường y khoa. Nơi lưu giữ và bảo quản các thi thể hiến tặng này để cho sinh viên thực tập gọi là đại thể thất 大體室, tương đương với gross anatomy laboratory của tiếng Anh. Còn tại Việt Nam thì hai tiếng đại thể lại được dùng để chỉ bất cứ cái xác chết nào được lưu giữ và bảo quản tại nhà xác, từ xác chết của một anh đại gia lắm tiền nhiều của cho đến xác chết của một tên lưu manh bỏ mạng vì đâm thuê chém mướn. Vô hình trung đại thể thất/gross anatomy laboratory bị biến thành nhà xác, mà tiếng Hán là trần thi sở 陳尸所 hoặc đình thi thất 停尸室 còn tiếng Anh là morgue hoặc  mortuary.
May mắn một cách lạ lùng là tuy cái danh ngữ tân thời kỳ dị này đã ra đời cách đây ít nhất 7 năm nhưng theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì nhiều bác sĩ, ngay cả ở những bệnh viện lớn như Chợ Rẫy, cũng không hề biết đến nó. Điều này chứng tỏ rằng danh ngữ nhà xác vẫn còn một sức sống mạnh mẽ. Vậy xin nhân tiện đề nghị ngành y tế hãy cho cái danh ngữ nhà đại thể vào “nhà đại thể”.

Wednesday, 4 January 2012

Xoay xở hay xoay sở?

Cách đây khoảng mười năm, một nhóm nghiên cứu ở Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Thành Phố Hồ Chí Minh dưới sự lãnh đạo của ông Bùi Khánh Thế đã lưu ý rằng “hiện tượng sai chính tả đã phổ biến, và đang trở thành một tranh chấp thực sự” (Đặng Thái Minh & Nguyễn Vân Phổ, 2001:99). Từ một kho ngữ liệu 14 triệu lượt từ, nhóm này tìm được 19 xoay xở và 10 xoay sở.
Sự phân bố về mặt thể loại càng thú vị hơn. Cả hai dạng đều không có mặt trong công văn, giấy tờ hành chính (dĩ nhiên). Trên hầu hết các thể loại, tỷ lệ sai chính tả xấp xỉ 50%. Trên các văn bản có tính cách cá nhân (thư tín, nhật ký), sai đúng ngang nhau. Trong khi đó người ta hầu như không viết sai trên các văn bản phổ biến khoa học (kiểu tạp chí Kiến Thức Ngày Nay...).
Số liệu thống kê (tần số) phần nào cho thấy chính tả phải được xem xét và cân nhắc từng trường hợp cụ thể chứ không thể là quy định nhất loạt cứng nhắc. (Đặng Thái Minh & Nguyễn Vân Phổ, 2001:99)
Hiện nay trên Google dạng sai chính tả đã phổ biến gấp mười lần dạng chuẩn.

Tuesday, 3 January 2012

Màu tăng gô là màu gì?


Màu tăng gô là màu da cam đậm. Tên này được dùng cho màu này từ đầu thế kỷ 20 cùng với phong trào nhảy tăng gô ở phương Tây.
Từ tăng gô vào tiếng Việt qua đường mượn âm tiếng Pháp; tiếng Pháp mượn của tiếng Tây Ban Nha vào năm 1912. Từ tango xuất hiện trong tiếng Tây Ban Nha năm 1864, chỉ một vũ điệu của người Nam Mỹ có gốc gác là nô lệ da đen từ châu Phi qua. Từ nguyên của tango hiện vẫn chưa được xác định rõ ràng, nhưng người ta đã tìm được một trong những nghĩa đầu tiên của nó là chỗ bọn buôn người tập kết nô lệ trước khi đưa lên tàu.
Điệu tăng gô làm mưa làm gió ở Paris và khắp châu Âu từ năm 1913 đến năm 1915. Thiên hạ không chỉ nhảy tăng gô mà gì cũng tăng gô được. Ăn nhậu, chơi bời có trà đình tăng gô (thé tango), tiệc rượu tăng gô (cocktail tango), cơm tối tăng gô (dîner tango), hội nghị tăng gô (connférence tango), chiêu đãi tăng gô (réception tango). Đi đứng có xe lửa tăng gô (train du tango). Thời trang có áo tăng gô (blouse tango), coóc xê tăng gô (corset tango), nước hoa tăng gô (parfum tango), quần chẽn tăng gô (culotte tango), giày tăng gô (chaussure tango), nón tăng gô (chapeau tango).... Thôi thì cái gì cũng tăng gô được. Tất cả chỉ để nhảy tăng gô cho đã.
Một nhà buôn vải lụa, đang phải ôm kho một đống xa tanh màu da cam đậm, thấy thiên hạ mê tăng gô quá liền tung đống vải cũ nát của mình ra thị trường với cái tên là Couleur Tango (màu tăng gô). Thế là giải phóng được kho trong tích tắc. Chẳng những thế các xưởng dệt khác và các nhà buôn khác còn tranh nhau dệt thêm, nhập thêm để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Theo gương bên Tây, ở ta có lẽ cũng nên đặt tên vải, tên màu theo tên nghệ sĩ (Hoàng Thùy Linh, Lý Nhã Kỳ, Đàm Vĩnh Hưng...). Nhất định bán chạy.

Sunday, 1 January 2012

Băng ghế và nhà băng có gì liên quan với nhau?


Nhà băng (ngân hàng) xuất hiện ở nước ta cùng với sự thiết lập chế độ thực dân Pháp.
Quan Thuộc địa Thượng thư Sarraut có viết giấy xin phép cho các phái viên Nam Bắc kỳ vào xem một nhà “băng” lớn ở Paris, là nhà Crédit Lyonnais. (Phạm Quỳnh, 2004:198)
Nhà băng của tiếng Việt vốn là maison de banque của tiếng Pháp. Maison được dịch ra là nhà. Người Việt nghe từ banque của tiếng Pháp, không giữ được phụ âm /k/ ở cuối âm tiết, phiên thành băng. Đây là một trong mươi từ mượn âm Pháp được vào từ điển tiếng Việt sớm nhất (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:35)
Băng của băng ghế cũng là một từ gốc Pháp (banc).
Phương, áo cổ vuông màu cánh dán, tóc buộc cao vống, người gầy, thấp bé, chiếm một chiếc ghế băng để sát chỗ Hồng, đọc “Tuyển tập kịch Sếch-xpia”. (Dương Thị Xuân Quý, 2007:238)
Trong tiếng Pháp bancbanque là hai từ đồng âm, vào tiếng Việt thành hai từ vừa đồng âm (phát âm giống nhau) vừa đồng tự (viết cũng giống nhau).

Friday, 30 December 2011

Màu đô là màu gì?


Màu đô là màu đỏ của rượu chát boóc-đô (Bordeaux), tức là màu đỏ tươi pha thêm chút xanh hoặc chút tím; mã RGB là (128, 0, 0). Màu đỏ boóc đô, màu đỏ đô, màu boóc đô, màu đô và màu rượu chát là một. Thông dụng nhất là màu đỏ đô.