Sunday, 18 March 2012

Tìm hiểu thuật ngữ Vu Lan Bồn (Thích Đồng Thành - Nhà Phật)





Thích Đồng Thành



Vu Lan Bồn[1] là một lễ hội Phật giáo đã xuất hiện rất lâu ở Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam. Trong các tác phẩm văn học Phật giáo Trung Hoa, thuật ngữ Vu Lan thường được dịch là đảo huyền, nghĩa là treo ngược hay nằm lơ lửng để chỉ cho trạng thái đau đớn của những vong hồn trong địa ngục đang mong được cứu độ[2].
Trong tiếng Nhật, lễ Vu Lan có tên là “Obon” hay “Ura- bon-e”, nghĩa là lễ cầu nguyện cho những người đã quá vãng[3]. Urabon-e hay Vu Lan Bồn đều là những thuật ngữ chỉ cho một lễ hội Phật giáo với mục đich là cứu độ những người quá cố đang phải chịu những quả báo nặng nề chẳng hạn như nỗi khổ bị treo ngược và giúp họ chuyển hóa tâm thức, thoát khỏi cảnh giới khổ đau và thác sanh trong cõi lành.[4] Theo kinh Vu Lan Bồn, việc thiết lễ Vu Lan không chỉ vì mục đich cứu độ cha mẹ, tổ tiên trong bảy đời quá khứ mà còn để cầu nguyện cho cha mẹ trong đời hiện tại.
Thông thường, thuật ngữ Vu Lan Bồn được xem là phiên âm của từ Ullambana trong Phạn ngữ. Tuy nhiên, các học giả ngày nay đều không tìm thấy danh từ này trong Phạn ngữ hay các bộ từ điển Pāli[5]. Theo giáo sư Vo­gel, gốc động từ lamb (có nghĩa là treo) kết hợp với tiền tố ud (nghĩa là trên cao) để hình thành từ ullambita (quá khứ phân từ) có nghĩa là bị lơ lửng hay bồng bềnh. Hai từ khác là olam-ba (vật đang bị treo) và olambo (treo ngược) được đề cập trong hai cuốn từ điển Pāli của Childer và Rhys Davids cùng William Stede cũng có nghĩa tương tự với từ ullambita, nhưng tuyệt nhiên ta không tìm thấy từ ullambana trong những tác phẩm này. Giáo sư K. Chen cho rằng danh từ ul­lambana chỉ là một từ giả định vì rằng các bộ từ điển Phạn ngữ không hề đề cập đến nó.
Khuynh hướng giải thích thứ hai cho rằng Vu Lan Bồn là phiên âm của chữ avalambana.6 Theo học giả St. Julien, trong Phạn ngữ, quá khứ phân từ của hình thái ud-lamb là ullambita cùng mang nghĩa tương đương với từ avalambana là bị treo lơ lửng. Bàn về từ avalambana, giáo sư Caland đã trích dẫn một đoạn trong bộ sử thi nổi tiếng của Ấn Độ là Mahābhārata như sau: sau khi phạm giới tà dâm, Jaratkāru chợt thấy “những người cha” đang bị treo trên một cái hố, đầu trút xuống và sắp bị rơi xuống hố vì một con chuột đang gặm những sợi cỏ còn lại đang buộc quanh chân họ. Lúc đó Jaratkāru liền hỏi: “Các ông là ai, ai đang bị treo (avalambana) vậy?” Visser, tác giả của bộ Ancient Buddhism in Japan cho rằng có lẽ dịch giả của bản kinh Vu Lan Bồn đã dựa trên đoạn văn này và nghĩa mơ hồ của thuật từ “đảo huyền” (treo ngược) mà Mạnh Tử thường dùng rồi suy diễn rằng đây là một trường hợp đặc biệt chỉ cho trạng thái đau khổ của những người quá cố để từ đó dịch thuật ngữ Vu Lan Bồn là “treo ngược”. Visser còn cho biết thêm rằng theo sự tìm hiểu của tiến sĩ Rahder trong sáu đoạn của Ngạ Quỉ Sự (Peta-vat­thu) và trong bản luận giải của ngài Pháp Hộ về tác phẩm này có nhiều từ được phát sinh từ gốc olamb và những từ này đều có nghĩa là treo. Visser cũng nêu lên ý kiến của giáo sư Przyluski là thuật ngữ Ô Lam Bà Nã trong Hoa ngữ vốn là phiên âm của từ olambana trong Pāli và avalam­bana trong Phạn ngữ.
Học giả Nhật Bản J. Takakusu thì cho rằng Vu Lan Bồn là phiên âm của chữ ullumpana trong tiếng Pāli. Là một danh từ phát sinh từ ullumpati. Ullumpana có nghĩa là cứu độ hay từ ái. Khi được giới thiệu đến xứ Tây Vức, thuật ngữ ullumpana bị hiểu lầm là ullambana. Và như thế từ gốc của Vu Lan Bồn không phải là ullambana mà là ullumpana.
Rahder cũng đồng thuận với Takakusu về lối suy diễn này. Danh từ ullumpana được tìm thấy trong hai bộ Sumaṅgalavilāsini (Luận giải Trường Bộ kinh) của ngài Phật Âm và Paramatthadīpanī (Luận giải bộ Ngạ Quỉ Sự) của ngài Pháp Hộ. Bản Luận giải của ngài Phật Âm nói rằng đức Phật là người đã từ bỏ dục lạc thế gian, tâm Ngài luôn từ ái (ullumpanam) khi thuyết giảng giáo pháp để quảng bá thiện pháp và nuôi lớn tình thương với tất cả chúng sanh. Bộ Paramatthadīpanī thì thuật câu chuyện một peti (nữ quỉ, San­skrit: preta) thưa với một trưởng lão rằng: “... vốn là vợ của một người chồng chịu nhiều đau khổ trong một ngôi làng nọ. Vì bản tính hay ghen tuông và cũng vì tạo nghiệp bất thiện nên con bị đọa trong cảnh ngạ quỉ. Cầu xin ngài hãy đến nhà con để chồng con được cúng dường ngài. Xin ngài hãy hoan hỷ nhận phần cúng dường đó và chú nguyện để con sớm thoát cảnh ngạ quỉ này.” Khi nghe những lời cầu thỉnh như thế, vì thương tưởng cho nữ quỉ và vì lòng bi mẫn vô biên (ullumpana sabbhāva-saṇthitā) các vị trưởng lão bèn đến nhà người chồng khất thực. Vừa lúc thấy những vị trưởng lão đến nhà mình, người chồng mừng rỡ ra đón và sau khi các vị ấy an tọa, anh ta bèn dâng cúng những món ăn đượm vị. Sau khi thọ trai, các vị trưởng lão bèn kể cho người chồng những gì họ đã nghe và thành tâm chú nguyện cho nữ quỉ. Ngay lúc ấy, nữ quỉ kia liền thoát khỏi cảnh khổ, được thân xinh đẹp và đêm đó nàng về báo tin cho chồng mình.
Trong Phật giáo, danh từ preta (Sanskrit) hay peta (Pāli) thường được dùng để chỉ cho những người quá cố, vong hồn của những người đã khuất, các loài ma hay hương hồn tổ tiên trong nhiều đời. Đoạn văn trên trong Paramatthadīpanī cho ta thấy rằng truyền thống cúng dường chư Tăng hầu cầu đảo cho những người quá cố đã được nói đến ngay trong các văn bản Phật giáo Nguyên thủy và Vu Lan Bồn là một lễ hội Phật giáo thuần túy chứ không phải là một sự kết hợp giữa lễ Dīpālī của Ấn giáo thường diễn ra vào ngày 25 tháng 10 dương lịch và lễ tự tứ trong Phật giáo như Visser hay J. Edkins đã từng suy diễn.
Theo Phật giáo Trung Hoa, thuật ngữ Vu Lan Bồn được biết đến đầu tiên khi ngài Trúc Pháp Hộ dịch kinh Vu Lan Bồn vào đời Tây Tấn. Trong bản dịch này, ngoài tựa đề kinh thuật ngữ này được nhắc đến ba lần khi tôn giả Mục-kiền-liên bạch đức Phật rằng trong đời sau hàng đệ tử của đức Thế Tôn có thể thiết lễ Vu Lan Bồn (phụng Vu Lan Bồn) để cứu độ cha mẹ tại thế và trong bảy đời được chăng? Đức Phật dạy rằng tất cả mọi hạng người như Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-­ni, quốc vương, thái tử... cho đến những thường dân nên đựng thức ăn trăm món trong bồn Vu Lan và dâng cúng cho chư Tăng mười phương trong ngày tự tứ (Dĩ bách vị ẩm thực an Vu Lan Bồn trung thi thập phương tự tứ Tăng). Cuối bản kinh, đức Phật lập lại rằng vào ngày rằm tháng bảy tất cả những người đệ tử hiếu thảo của Ngài nên thiết lễ Vu Lan Bồn dâng cúng đức Phật và chư Tăng để báo đáp thâm ân dưỡng dục đầy từ ái của cha mẹ (vi tác Vu Lan Bồn thi Phật cập Tăng dĩ báo phụ mẫu trưởng dưỡng từ ái chi ân). Như vậy, căn cứ vào đoạn kinh thứ hai ở trên, ngoài ý nghĩa là một lễ cúng dường Vu Lan Bồn còn mang nghĩa là cái bồn, hay nói đúng hơn, là bình bát đựng đồ cúng dường. Có lẽ vì căn cứ vào điểm này nên một số tác giả Trung Hoa đời sau lý giải rằng chữ Bồn trong Vu Lan Bồn là vật đựng thức ăn hay để đựng vật phẩm cúng dường trong lễ Vu Lan.
Khi viết Sớ giải kinh Vu Lan Bồn, ngài Tông Mật (780-841) giải thich rằng Vu Lan là thuật ngữ của Tây Vức, Trung Hoa dịch là ‘đảo huyền’ (treo ngược). Bồn là âm của xứ Đông Hạ (thuộc Trung Hoa) có nghĩa là vật cứu độ (cứu khi). Thông thường, toàn bộ thuật ngữ này có nghĩa là bồn hay vật để cứu những ai đang bị treo ngược. Sách Pháp Uyển Châu Lâm cũng dùng từ Phật bồn và Tấn bồn khi bàn về lễ cúng dường vào ngày rằm tháng bảy. Trong Phật Thuyết Báo Ân Phụng Bồn kinh, một bản kinh được dịch vào thời Đông Tấn, chữ Bồn cũng mang nghĩa là vật đựng đồ cúng dường. Ngài Pháp Vân, tác giả bộ Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập cũng có cách giải thich hợp với quan điểm của ngài Tông Mật.
Tuy nhiên, trong tác phẩm Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa, ngài Huyền Ứng (TK VII) lại đưa ra một lối giải thich khác. Theo ngài, Vu Lan Bồn là lối phiên âm sai và cách phiên âm đúng phải là Ô Lam Bà Nã, nghĩa là treo ngược. Đây là nghi lễ của các nước phương Tây (của Trung Quốc) được tổ chức vào ngày tự tứ của chư Tăng. Những ai đã tạo tội lỗi nếu lúc qua đời không có con cháu cúng tế thường phải chịu nỗi khổ bị treo ngược trong cảnh ngạ quỉ. Việc thiết lễ cúng dường đức Phật và chư Tăng vào ngày cuối của mùa an cư nhằm mục đich cứu vớt những vong hồn đó ra khỏi nỗi khổ trên. Ngài Huyền Ứng còn cho rằng nếu hiểu Vu Lan Bồn là vật chứa thức ăn thì đó là một sự lầm lẫn. Như thế theo cách giải thich này, thuật ngữ Vu Lan Bồn hay Ô Lam Bà Nã không mang nghĩa là vật cứu độ hay vật đựng thức ăn để dâng cúng Đức Phật và chư Tăng như cách giải thích của các tác giả Trung Hoa khác mà nghĩa của nó là sự cứu độ (cho những ai đang chịu đựng nỗi khổ bị treo ngược).
Trong Vu Lan Bổn Sớ Tân Kí, ngài Nguyên Chiếu (1048-1116) một luật sư Phật giáo đời Bắc Tống cho rằng thuật ngữ Vu Lan Bồn có nghĩa là “treo ngược” hay “bị lơ lửng” và chữ Bồn chỉ là phiên âm của chữ bana trong thuật ngữ avalambana. Những kiến giải trên của ngài Huyền Ứng và ngài Nguyên Chiếu có phần hợp với quan điểm của ngài Ngộ Vinh, tác giả của bộ Vu Lan Bồn Kinh Sớ Hiếu Hoành Sao. Ngài Ngộ Vinh cho rằng theo các dịch giả đời Tống, Vu Lan Bồn là lối viết tắc sai của một từ trong Phạn ngữ. Cách đọc đúng phải là Ô Lam Bà Nã và từ này có nhiều nghĩa khác nhau như hiếu thảo, vâng lời, dâng tặng, yêu thương, treo ngược hay trạng thái lơ lửng. Chữ bồn cũng là một lối viết tắt sai vì cách đọc xưa là Bồn Tả Na, cách đọc mới là Môn Tả La hay Môn Tả Nãng, tức là bồn cứu độ. Nghĩa của toàn bộ thành ngữ này là cái bồn để cứu những ai đang trong trạng thái lơ lửng. K. Ch’en cho rằng Môn Tả La hay Môn Tả Nãng có thể là phiên âm của chữ muñcana hay muccana. Song những chữ này không có nghĩa là bồn hay chậu mà là giải thoát hay thả ra. Tuy nhiên Bồn Tả Na thì có âm rất giống với từ bhājana, nghĩa là bình bát hay vật đựng.
Yukihiro Murase (1748?- 1818), một trong những học giả trứ danh của Nhật Bản trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa Trung Hoa và Nhật Bản đã đưa ra một giả thuyết khá thú vị về thuật ngữ Vu Lan Bồn. Theo ông, Vu Lan Bồn không phải là phiên âm của từ ullambana trong Phạn ngữ mà là một từ ghép có nghĩa là một cái rổ bằng tre có hình dáng như một cái khay. Tác phẩm Lão Học Am Bút Ký nói rằng vào tiết Trung Nguyên người ta thường dâng cúng thức ăn lên tổ tiên và họ thường dùng cái khay bằng tre để đoán ước về thời tiết của mùa Đông sắp đến. Lễ nghi này có tên là Vu Lan Bồn. Murase còn trich dẫn cách cắt nghĩa của sách Mông Hoa Lục về chữ Vu Lan Bồn. Theo sách này, Vu Lan Bồn là cái bệ đèn bằng tre có ba chân, cao khoảng bốn hay năm bộ. Căn cứ vào hai bộ sách này, Murase đưa ra giả thuyết rằng từ Vu Lan Bồn trong tiếng Trung Hoa khác với cách phiên âm của từ ullam- bana. Vu Lan Bồn là từ để chỉ cho cái rổ có hình khay được làm bằng tre dùng để đoán ước và từ này không có liên hệ gì đến lễ ullambana trong Phật giáo. Cách giải thich này của Murase thực ra cũng chưa thuyết phục vì rằng lễ Vu Lan trong Phật giáo diễn ra đúng vào ngày và tháng của tiết Trung Nguyên nên có một sự trùng hợp ngẫu nhiên về danh xưng như trên. Bên cạnh đó, một số tác giả Phật giáo ở Trung Hoa còn diễn dịch rằng Vu Lan Bồn có nghĩa là bồn Vu Lan, tức vật đựng đồ cúng dường trong lễ Vu Lan.
Những lối giải thich khác nhau nói trên về thuật ngữ Vu Lan Bồn hay Ô Lam Bà Nã có thể phát xuất từ cách suy diễn của các tác giả Trung Hoa giữa hai gốc động từ ud-lamb (treo) và chữ ud-lump (cứu). Khi đọc đến thuật ngữ này một số tác giả bèn liên tưởng đến những hình thái phát sinh từ gốc động từ ud-lamb như là avalambana, ullambita hay olambana rồi diễn dịch ý nghĩa các từ này là treo ngược. Tuy nhiên, nghĩa thứ hai và có lẽ nghĩa chinh của thuật ngữ này là cứu độ và nghĩa này có liên hệ đến gốc động từ ud-lump. Cả hai ngài Tông Mật và Ngộ Vinh đều đề cập đến nghĩa này khi bàn về thuật ngữ Vu Lan Bồn. Nghĩa thứ hai này rất quan trọng vì rằng nội dung chinh của kinh Vu Lan Bồn đề cập việc thiết trai cúng dường để cứu độ những chúng sanh trong cõi tối tăm và giúp họ thoát khỏi đọa xứ. Có lẽ vì nhận ra tầm quan trọng của nghĩa này nên cả Takakusu và Rahder đều cho rằng Vu Lan Bồn là phiên âm của từ ullumpana, một thuật ngữ phát sinh từ gốc ud-lump, nghĩa là cứu vớt. Đề xuất này của Takakusu và Rahder mang tinh thuyết phục hơn các học giả khác.
Các tác giả Trung Hoa cũng có những quan điểm khác nhau về chữ bồn trong thuật ngữ Vu Lan Bồn. Sự khác biệt này bắt nguồn từ cách hiểu của họ về chữ bồn trong nội dung bản dịch kinh Vu Lan của ngài Trúc Pháp Hộ. Như đã nói ở trên, thuật ngữ Vu Lan Bồn xuất hiện ba lần trong nội dung bản kinh và chữ bồn được hiểu theo hai nghĩa: 1) là phiên âm của hai âm vị bana (hoặc pana), và 2) là bình bát hay vật để đựng thực phẩm dâng cúng trong lễ Vu Lan. So với ý kiến của ngài Huyền Ứng, cách lý giải của ngài Ngộ Vinh mang tinh thuyết phục hơn khi ngài cho rằng bồn là từ viết tắt của chữ Bồn Tả Na (bhājana), nghĩa là cái bồn hay bình bát. Như thế, nếu căn cứ vào quan điểm của ngài Ngộ Vinh và đề xuất của Takakusu thì nguyên văn của thuật ngữ Vu Lan Bồn hay Ô Lam Bà Nã trong Phạn ngữ hay Pāli ngữ có thể là ullumpana hoặc ullumpana-bhājana.22
Thích Đồng Thành
(Nguồn: TS. Pháp Luân số 29)
 _______________________________

[1] Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh, T16n685, tr. 779c.
[2] J. Eitel, Handbook of Chinese Buddhism, Hongkong, 1888, tr. 185. B. Nanjio, A Cata­logue of the Chinese Translation of the Bud­dhist Tripitaka, Oxford: The         Clarendon Press, 1883, p. 78. Phật Quang Đại Từ Điển, tr. 3454. W.E. Soothill & L. Hodous, A Diction­ary of Chinese Buddhist Terms, Delhi: Motilal Banarsidass, 2003. W.E. Soothill và L. Hodous còn cho rằng Vu Lan Bồn hay Ô Lam Bà Nã là phiên âm của các từ Lambana hoặc Avalamba, tr. 274.
[3] M.W.D. Visser, Ancient Buddhism in Ja­pan, Leiden: E.J. Brill, Vol.1, 1935, p. 62.
[4] Sđd, tr. 62.
[5] Rhys Davids and William Stede, Pali – English Dictionary, New Delhi: Munshiram Manohalal, 2001, p. 170.
6 K. Chen “Filial Piety in Chinese Bud­dhism”, Harvard Journal of Asiatic Studies,Vol. 28 (1968), p. 86.
7. K. Chen, Sđd.
8. Visser, Sđd, tr. 62.
9. Visser, Sđd, tr. 64.
10. E. Ashikaga, “Notes on Urabon (“Yu Lan P’en, Ullambana”), Journal of The Amarican Oriental Society, Vol. 71, No. 1 (Jan. – Mar., 1951), p. 72.
11. Visser, Sđd, tr. 67.
12. J. Edkins, Chinese Buddhism, Varanasi: Chaukhamba Amarabharati Prakashan, 1975, p. 268.
13. Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh, tr. 779c.
14. Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh Sớ, Quyển Hạ, T39n1792, tr. 506c.
15. T53n2122, tr. 750a-b.
16. T16n686, tr. 780a.
17. T54n2131, tr.1112c.
18. T54n2128, tr. 535b.
19. Visser, Sđd, tr. 61.
20. K. Chen, Sđd, p. 88.
21. E. Ashikaga, Sđd, tr. 73.
22 Theo từ điển của Rhys Davids and Wil­liam Stede, ullumpana có nghĩa là cứu, giúp.Xem Rhys Davids and William Stede, tr. 156.

“Vu lan” (lễ Vu lan) có nghĩa là gì? (Kiến Thức Ngày Nay số 399, ngày 10-9-2001)

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết hai tiếng “Vu lan” (lễ Vu lan) có nghĩa là gì. “Vu” là gì, “lan” là gì?
AN CHI: “Vu lan” chỉ là hai tiếng vô nghĩa dùng để phiên âm mà thôi. Trong bài “Sự tích Rằm tháng Bảy và xuất xứ của hai tiếng vu lan”, (KTNN số 89, 1-8-1992, tr.41-44), Huệ Thiên đã viết như sau:
Vu lan là dạng tắt của Vu lan bồn. Đây là ba tiếng dùng để phiên âm danh từ Sanskrit ullambhana. Từ này thoạt đầu đã được phiên âm bằng bốn tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt là Ô lam bà na (...). Về sau, Ô lam bà na được thay thế bằng dạng phiên âm mới là Vu lan bồn trong đó vu thay thế cho ôlan cho lam và bồn cho bà-n(a). Vì Vu lan bồn chỉ là ba tiếng dùng để phiên âm cho nên từng tiếng một (vu, lan, bồn) hoàn toàn không có nghĩa gì trong Hán ngữ cả. Do đó, tách bồn ra mà giảng thành “cái chậu đựng thức ăn” như hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi đã làm (trong Từ điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr.795) là hoàn toàn không đúng.
Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Danh từ Sanskrit này có ba hình vị: tiền tố ud (trở thành ul do qui tắc biến âm sandhi khi d đứng trước l), căn tố LAMBH và hậu tố ana (...) Tiền tố ud chỉ ý phủ định hoặc đối lập (...). Căn tố LAMBH là hình thái luân phiên với LABH, có nghĩa là lấy, chiếm lấy, nắm bắt. Vậy ul – LAMBH có nghĩa là giải thoát. Hậu tố ana chỉ hành động có liên quan đến nghĩa mà tiền tố và căn tố diễn đạt. Vậy ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Ullambhana được phiên âm sang Hán ngữ bằng ba tiếng đọc theo âm Hán Việt là Vu lan bồn. Vu lan bồn được nói tắt thành Vu lan. Vậy Vu lan là sự giải thoát”. (Bđd, tr.44)
Tiếc rằng cho đến nay vẫn còn nhiều tác giả giảng sai về xuất xứ và nghĩa gốc của hai tiếng vu lan. Vì khuôn khổ nên sau đây chúng tôi chỉ nêu một trường hợp làm dẫn chứng mà thôi.
Trong Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du (bản in lần thứ hai, An Tiêm, Paris, 1995), Hoàng Xuân Hãn đã viết như sau:
“Phạn-ngữ ullambana nghĩa là cực khổ tột bực. Nghĩa lại chuyển thành cứu khỏi cực khổ. Phiên âm Hán ngữ đã có nhiều cách; một cách là Vu-lan-bồn, nói tắt: Vu-lan”.
(Sđd, tr.14)
Không biết Hoàng Xuân Hãn đã căn cứ vào nguồn thư tịch nào về Phật học và về tiếng Sanskrit (Phạn ngữ) mà lại khẳng định rằng “ullambana là cực khổ tột bực”, rồi “nghĩa lại chuyển thành cứu khỏi cực khổ”. Để cho rõ vấn đề, trước nhất, xin nhấn mạnh rằng trong tiếng Sanskrit thì ullambhana vàullambana là hai từ khác hẳn nhau về nghĩa gốc của căn tố.
Căn tố của từ trước là LABH/ LAMBH, như đã phân tích, còn căn tố của từ sau thì lại là LAMB. Cũng như từ trước, ullambana có ba hình vị: tiền tố ud (trở thành ul vì lý do đã nêu), căn tố LAMB và hậu tốana. Ngoài nghĩa nêu trong đoạn đã dẫn của Huệ Thiên, ud (>ul ) còn chỉ hướng chuyển động từ dưới lên. LAMB là treo (vậy ul – LAMB là treo lên) còn ana là hậu tố chỉ hành động có liên quan đến nghĩa mà tiền tố và căn tố diễn đạt, như đã thấy. Vậy ullambana là sự treo lên và tất cả chỉ có thế. Từ này hoàn toàn chẳng có liên quan gì đến ý “cực khổ tột cùng”, càng không phải là “cứu khỏi cực khổ”. Chúng tôi mạo muội đoán mò rằng chẳng qua Hoàng Xuân Hãn chỉ căn cứ vào những lời giảng sai về mấy tiếng “vu lan (bồn)” trong thư tịch của Trung Hoa rồi lấy cái nghĩa đó mà gán cho danh từ Sanskritullambana, tự nó vốn cũng chẳng có liên quan gì đến mấy tiếng “vu lan (bồn)”.
Mathews’ Chinese – English Dictionary đã chú một cách ngắn gọn và chính xác về xuất xứ của ba tiếng “vu lan bồn” như sau:
From the Sanskrit ullambhana, deliverance”. (Do tiếng Sanskrit ullambhana, (có nghĩa là) sự giải thoát).
Gần đây nhất, nhà nghiên cứu Phật học Nguyên Huệ, trong bài “Lễ Vu lan – Rằm tháng bảy qua sự ghi nhận nơi một số tác phẩm biên khảo về văn hóa, phong tục, tín ngưỡng” (Nguyệt san Giác ngộ, số 65, 8-2001, tr.28-30), cũng đã chú rõ rằng “Kinh Vu lan bồn”, tiếng Sanskrit là Ullambhana sútra (sútra = kinh).
Vậy cái nghĩa “cứu khỏi cực khổ” mà Hoàng Xuân Hãn cho là nghĩa phái sinh (“chuyển”) của ullambanachính là cái nghĩa đích thực của ullambhana (sự giải thoát, sự cứu nạn,...) còn “cực khổ tột bực” chẳng những không phải là nghĩa gốc của từ này mà cũng chẳng phải của từ ullambana do Hoàng Xuân Hãn nêu ra.

Tìm hiểu thuật ngữ Vu Lan Bồn (Vương Trung Hiếu)

Chép lại từ tường FB Vương Trung Hiếu:

Bài dưới đây là bản lưu trên FB, còn đường liên kết này dẫn tới bài đã đăng trên vanchuongviet.org:

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=18057

Trên nhavantphcm.com.vn có đăng hai bài của ông An Chi: “Sự tích rằm tháng bảy và xuất xứ của hai tiếng Vu Lan” và “Trao đổi với tác giả Minh Đức Triều Tâm Ảnh”. Cả hai bài này đều nói về nguồn gốc và ý nghĩa của chữ Vu Lan. Đây là đề tài mà chúng tôi quan tâm và thấy rằng cần trao đổi với ông An Chi để làm sáng tỏ đôi điều. Dĩ nhiên, tất cả đều trên tinh thần thiện chí, với mục đích là tìm sự chính xác về từ nguyên và ý nghĩa của chữ Vu Lan.

Vu Lan là gì?

Vu Lan là chữ viết ngắn gọn từ Vu Lan bồn, một thuật ngữ có nguồn gốc từ bài Phật thuyết Vu Lan bồn kinh 佛說盂蘭盆經. Trong Vu Lan bồn kinh, Đức phật dạy môn đồ Mục Kiền Liên 目乾連 (Maudgalyāyana) cách làm thế nào để cứu thoát mẹ của ông, người đã làm điều tội lỗi ở trần gian, sau khi qua đời đã bị đày xuống địa ngục làm ngạ quỷ. Cách Phật dạy là vào ngày 15 tháng 7 âm lịch,  Mục Kiền Liên dùng thức ăn, thức uống cúng dường chư Tăng sẽ có được vô lượng công đức, cứu mẹ thoát khỏi cảnh bị treo ngược, đói khát. Có rất nhiều bài viết về nội dung của bài kinh này nên chúng tôi không kể chi tiết ở đây.

Ở Ấn Độ, khi Đức Phật còn tại thế, con cháu của những người qua đời cũng đã thực hiện nghi lễ cúng dường Đức Phật và chư Tăng như kể trên, mục đích của lễ này là nhằm cứu những vong hồn tội lỗi thoát khỏi kiếp làm ngạ quỷ. Sau khi lễ này du nhập vào Trung Hoa, Lương Vũ Đế 梁武帝 là vị vua đầu tiên xuất gia và cũng là người đầu tiên cúng Vu Lan Bồn vào năm 538. Lễ cúng diễn ra tại chùa Đồng Thái tỉnh Giang Tô 江蘇. Sau đó lễ này được truyền khắp Trung Hoa. Theo Đại Việt sử Ký toàn thư 大越史記全書 của Ngô Sĩ Liên, lễ Vu Lan bồn du nhập vào nước ta rất sớm. Từ năm 1072, vua Lý Nhân Tông đã từng thiết trai đàn cầu siêu cho cha mẹ. Thế rồi, qua thời gian, Vu Lan bồn dần dần trở thành đại lễ cho đến ngày nay.

Nguồn gốc Vu Lan bồn

Theo Phật giáo Trung Hoa, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ 竺法護 là người dịch Vu Lan bồn kinh đầu tiên vào đời Tây Tấn 西晉 (265-316). Đến đời Đông Tấn 東晉 (317-420), một bản dịch khác xuất hiện với tựa đề là Phật thuyết báo ân phùng bồn kinh 佛說報恩奉盆經 (không rõ người dịch).

Dưới đây là ảnh chụp một bản dịch Phật thuyết Vu Lan bồn kinh.

Trên thực tế, để trả lời chính xác nguồn gốc Vu Lan bồn không phải là điều đơn giản. Bởi vì có nhiều ý kiến khác nhau về thuật ngữ này, không chỉ tại Việt Nam mà còn cả ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… và phương Tây.

Trước hết chúng ta tìm hiểu xem Vu Lan Bồn xuất phát từ tiếng Sanskrit (tiếng Phạm/Phạn) hay tiếng Pali (Pāli पाऴि). Trong Vu Lan bồn kinh có chi tiết: Đức Phật dạy rằng vào ngày tự tứ (ngày 15 tháng 7 âm lịch), Mục Kiền Liên nên làm thức ăn trăm món để dâng cúng chư Tăng mười phương (thập phương chúng tăng ư thất nguyệt thập ngũ nhật tăng tự Tứ. (…) Cụ phạn bách vị ngũ quả cấp quán bồn khí. (…) Cúng dường thập phương Đại Đức chúng tăng. 十方眾僧於七月十五日僧自恣時. (…) 具飯百味五果汲灌盆器. (…) 供養十方大德眾僧).

Ngày tự tứ 自恣日 là ngày lễ cuối mùa an cư của chư Tăng thuộc Phật giáo Bắc tông (trước đây còn gọi là Phật giáo đại thừa 大乘, sa. Mahāyāna). Đây là Ngày Phật hoan hỉ 佛歡喜日, bởi vì sau 3 tháng vào rừng trầm tư suy tưởng, các môn đồ của Phật trở về, báo với Phật về sự tiến bộ của họ. Đức Phật rất vui vì thấy nhiều đệ tử đạt đến sự Khai sáng. Ngày tự tứ cũng được xem là ngày “tự phê bình, kiểm điểm cá nhân”. Từng vị Tăng ra giữa các đồng môn, thành khẩn kể những lỗi lầm mà mình đã phạm và thỉnh cầu Phật cũng như các chư Tăng chỉ bảo điều tốt để sám hối và sửa sai.

Căn cứ vào yếu tố này có thể khẳng định rằng Vu Lan bồn được chuyển tự từ tiếng Phạn chứ không phải tiếng Pali, bởi vì tiếng Pali được dùng trong kinh của Phật giáo Nam tông (trước đây còn gọi là Phật giáo tiểu thừa 小乘, sa. Hīnayāna).
Cũng cần nói rằng Vu Lan bồn được phiên âm từ một chữ trong tiếng Sanskrit (संस्कृतम् saṃskṛtam) nhưng đó là chữ gì thì chúng tôi sẽ đề cập đến ở phần sau. Từng chữ trong cụm từ Vu Lan bồn không có nghĩa riêng, vì thế chúng tôi không xét từ “bồn” trong cụm từ này, mà chỉ xét từ “bồn” trong nội dung bài kinh có nghĩa là gì, một chữ còn gây nhiều tranh cãi.

Ông An Chi trích dẫn lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi : " Bồn là cái chậu đựng thức ăn. Cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết không còn phải đọa cảnh khổ nữa”.

Ông An Chi phản đối: “bồn” không phải là chậu đựng thức ăn cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7, vì “đựng thức ăn trong loại đồ dùng đó mà dâng lên cho chư tăng thọ thực là một hành động hoàn toàn thất nghi và thất lễ”. Ông dựa vào đoạn dịch sang tiếng Việt sau:

Phải toan sắm sửa chớ chầy
Ðồ ăn trăm món trái cây năm màu
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu
Món ăn tinh sạch báu mầu
Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng
(Diễn ca kinh Vu Lan bồn)

Sau đó ông An Chi phán một câu chắc nịch rằng: thức ăn phải “đựng trong bình bát" mới “đàng hoàng lịch sự”. Theo chúng tôi, ông An Chi đã nhầm lẫn. Tại sao? Xin mời xem phân tích dưới đây:
Trước hết chúng ta xét từ “bồn”.

Bồn 盆 là danh từ, thuộc bộ mãnh 皿, có hai nghĩa liên quan tới điều đang bàn:

1. Chậu (đáy nhỏ, miệng to, khá sâu, làm bằng sành, gỗ, kim loại, ...). Thí dụ: kiểm bồn 臉盆 là chậu rửa mặt.

2. Vật dụng dùng để đựng giống như cái chậu. Thí dụ: thái bồn 菜盆 là chậu rau.
Bát 钵 cũng là danh từ, thuộc bộ phẫu 缶, có nghĩa là cái bát ăn của nhà sư. Ở Việt Nam loại bát này được gọi là bình bát.

Bây giờ chúng ta xem tần số xuất hiện của từ bồn 盆 và bát 钵 trong Phật thuyết Vu lan bồn Kinh. Chữ bồn 盆 xuất hiện 3 lần (không kể 3 lần xuất hiện trong cụm từ Vu Lan bồn), nhưng rất tiếc chúng tôi lại không hề thấy chữ bát 钵. Dưới đây là những câu tương ứng với đoạn ông An Chi đã dẫn chứng:
具飯百味五果汲灌盆器.
Cụ phạn bách vị ngũ quả cấp quán bồn khí.
香油錠燭床敷臥具.
Hương du đĩnh chiếu sàng phu ngọa cụ.
盡世甘美以著盆中.
Tận thế cam mỹ dĩ trứ bồn trung.
供養十方大德眾僧.
Cúng dường thập phương Đại Đức chúng tăng.

Những câu trên cho thấy không có từ nào mang nghĩa là bát (bình bát), nhưng lại có hai từ là bồn 盆. Xét ở yếu tố này, chúng tôi khẳng định rằng thức ăn đựng trong bình bát là điều không thể xảy ra. Ông An Chi đã không tham khảo bản gốc, chỉ căn cứ vào từ dịch là “bình bát” để suy diễn mà thôi. Theo chúng tôi, bồn trong bài kinh cũng không phải là chậu thường dùng hàng ngày. Nó chính là loại bồn đựng thức ăn cúng dường có bề ngoài giống như cái chậu, được gọi là Phật bồn hay Tấn bồn. Và đây là dẫn chứng của chúng tôi: trong Pháp Uyển Châu Lâm 法苑珠林 (quyển 62) do  Pháp sư Đạo Thế 道世 biên soạn vào đời nhà Đường 唐朝 (618-907), có một bản kinh gọi là “Đại Bồn Tịnh Độ Kinh”. Bản này cho biết, sau khi nghe Đức Phật dạy Tôn giả Mục Liên cách cứu mẹ khỏi vòng ngạ quỷ, những vị quốc vương thành tâm làm các loại bồn quý, đựng thức ăn để cúng dường Phật và các chư Tăng. Về sau, các chùa lớn tại Trung Quốc đều tổ chức Lễ hội Vu Lan bồn. Mọi người, từ vua chúa, quan quyền cho tới thứ dân khi đến chùa làm lễ báo hiếu đều đựng thức ăn trong bồn. Loại bồn này cũng xuất hiện trong bài Phật thuyết báo ân phùng bồn kinh vào thời Đông Tấn.

Từ nguyên và ý nghĩa

Theo ông An Chi chỉ có một trong hai chữ Phạn sau đây có nghĩa là Vu Lan bồn: Ullambana hoặc Ullambhana. Sau đó ông Chi phân tích chữ thứ nhất: “Ullambana gồm có ba hình vị : ud (trở thành ul do quy tắc biến âm samdhi khi d đứng trước l) là một tiền tố, thường gọi là tiền động từ (préverbe) chỉ sự vận động từ dưới lên, lamb là căn tố động từ có nghĩa là treo và ana là hậu tố chỉ hành động. Vậy Ullambana có nghĩa là sự treo lên”.

Ông An Chi say sưa thuyết giảng từ ullambana về “qui tắc biến âm, tiền tố, tiền động từ”… nhưng ông không hề biết rằng mình đang giải thích một từ…“không có thật” trong tiếng Sanskrit. Chúng tôi xin nhấn mạnh rằng từ ullambana không hề xuất hiện trong bất kỳ văn bản tiếng Sanskrit nào, kể cả những từ điển Phạn ngữ. Đây là cái sai rất phổ biến. Không chỉ những học giả phương Tây, mà cả một số học giả phương Đông, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam đều bị rơi vào cái bẫy này.

Tại sao có sự nhầm lẫn như thế? Bởi vì, tiếng Sanskrit là một hệ thống rất phức tạp. Ở đây chúng ta xét vài nét về động từ và danh từ, vì chúng có liên quan tới “sự treo lên”.

Động từ trong tiếng Sanskrit có 10 loại (gaṇas, गण), chia thành 2 nhóm lớn (có nguyên tố chủ âm và không nguyên tố chủ âm). Động từ vô cùng đa dạng với tiền tố, trung tố, hậu tố và cả hiện tượng láy âm. Khá nhiều gốc từ có 3 cấp độ: guna (गुण), vṛddhi (वृद्धि) và zero, trong khi đó nguyên âm của động từ lại thay đổi tùy theo cấp.  Còn danh từ thì có rất nhiều biến tố tùy theo giống đực, giống cái hay trung tính hoặc theo số ít, số nhiều hay số kép. Danh từ lại có đến 8 cách: danh cách (प्रथमा), hô cách (आमन्त्रण), đối cách (द्वितीया), công cụ cách (द्रव्यद्वैत hay पञ्चमी), li cách/đoạt cách (अपादान), tặng cách (चतुर्थ), sở hữu cách (षष्ठी hay प्रथमा) và vị trí cách (अधिकरण), ấy là chưa kể đến 5 biến cách của danh từ, sự nhấn giọng và hợp biến âm (संधि) trong lúc nói…

Với sự phức tạp kể trên thì việc chuyển tự sai lầm có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Theo chúng tôi, cái sai trong cách chuyển tự ullambana xuất phát từ nguyên nhân: do thời xưa chưa có hệ thống kí âm, người chuyển tự dựa vào quan điểm cá nhân nên mới dẫn tới tình trạng hiện nay ullambana vẫn là “một bóng ma trong văn bản tiếng Phạn”. Đến thế kỷ 19, tiếng Phạn mới được kí âm theo bảng chữ cái Latin. Tiêu chuẩn phổ biến nhất, được dùng làm chuẩn học thuật là Bản chuyển tự IAST (International Alphabet of Sanskrit Transliteration, năm 1912). Tóm lại, do chuyển tự sai, người đời sau tiếp thu cái sai của người đời trước rồi sử dụng suốt nhiều thế kỷ qua. Quá trình này lặp đi lặp lại nhiều lần, cuối cùng cái sai (ullambana) đã mặc nhiên trở thành cái đúng và được thế giới công nhận.

Vì lẽ trên, không có gì lạ khi nhiều bài viết, sách báo và từ điển Đông – Tây đã tiếp thu một cách máy móc từ ullambana (xem mục: “Tài liệu dẫn chứng”(1) cuối bài).

Và có lẽ, do không tìm được từ gốc nên ngay cả Wikipedia cũng chẳng có chú thích chuẩn cho từ ullambana. Ngoài bản tiếng Việt có từ Vu Lan, Vu Lan bồn với chú thích là ullambana, còn 15 ngôn ngữ khác thì chỉ cho thấy từ tương ứng, riêng bản tiếng Ý và Nhật ghi là ullambana rồi chú thích là उल्लम्बन. Nhưng rất tiếc chúng tôi chưa tìm thấy từ उल्लम्बन trong từ điển tiếng Phạn, chỉ thấy một từ gần giống là उल्लम्बित (ullambita), từ này có nghĩa là sự treo hoặc sự bay lượn, trôi lơ lửng.
Xin nhắc lại cách phân tích từ ullambana của ông An Chi để bàn tiếp: “ud (trở thành ul do quy tắc biến âm samdhi khi d đứng trước l) là một tiền tố, thường gọi là tiền động từ (préverbe) chỉ sự vận động từ dưới lên, lamb là căn tố động từ có nghĩa là treo và ana là hậu tố chỉ hành động. Vậy Ullambana có nghĩa là sự treo lên.

Chúng tôi không đồng ý cách phân tích từ và nhận định trên của ông An ChiVì sao? Trước hết, do ullambana là từ không có thật nên không thể có nghĩa là “sự treo lên”. Còn nếu phân tích “ud” उद् là tiền tố thì theo Cologne Digital Sanskrit Lexicon, ud không phải là tiền động từ như ông An Chi đã khẳng định. Ud là tiểu từ (particle), làm tiền tố (prefix) cho động từ và danh từ. Nếu xét về động từ thì ud chính là giới từ (उपसर्ग, preposition) mang nhiều nghĩa khác nhau, tùy theo trường hợp nó kết hợp với động từ nào. Ud có thể mang nghĩa là “trên, phía trên, ngoài, ra khỏi, không có ” hoặc “lên, hướng lên, rời, khắp” hay “xa, xa cách, biến đi, biến mất…”.

Thứ hai, “ana” không phải là hậu tố chỉ hành động khi kết hợp với “lamb”. Nếu là thành phần độc lập thì ana là danh từ giống đực, có nghĩa là hơi thở hay sự hô hấp. Do ullambana không có thật nên chúng tôi đưa ra một thí dụ khác cũng có hai thành phần giống là lamb लम्ब् và ana अन. Khi hai thành phần này kết hợp sẽ thành “lambana” (लम्बन). Lambana là danh từ có trên 10 nghĩa, trong đó có một nghĩa quan trọng liên quan tới khái niệm chúng ta đang bàn, đó là “sự treo ngược”.

Bây giờ, ta tạm chấp nhận ullambana là một từ có thật để giải quyết những vấn đề liên quan. Trong văn bản Trung Quốc và những ngôn ngữ khác, dựa vào nội dung của Vu Lan bồn kinh, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ullambana có nghĩa là đảo huyền 倒 懸 (treo ngược) hay cứu đảo huyền 救倒 懸 (cứu những linh hồn bị hình phạt treo ngược).

Thế nhưng ông An Chi phản đối: " cứu đảo huyền " không phải là " cứu nạn treo ngược " mà lại là " giải thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng ". Hai tiếng " đảo huyền " ở đây không còn được hiểu theo nghĩa đen nữa.

Với nhiều bằng chứng trong tay, chúng tôi tin rằng ullambana có nghĩa là “đảo huyền” hay “cứu đảo huyền”. Riêng từ “cứu đảo huyền” chúng tôi không nghĩ đó là “cứu nạn treo ngược”, mà cho rằng đó là “cứu thoát linh hồn đang bị treo ngược”.

Chúng tôi tô màu đỏ hai chữ đảo huyền 倒 懸 trong văn bản tiếng Trung Quốc dưới đây để bạn đọc dễ nhận ra:
懸盂蘭盆經》的經題解釋有兩種法︰一說,盂蘭」是梵音Ullambana,義為倒懸;「盆」是華語,指盛食供僧的器皿。二說「盂蘭盆」是梵語Ullambana的音譯。(zh.wikisource.org/zh-hant/佛學大辭典/盂蘭盆).
Còn đây là từ đảo huyền 倒 懸 trong văn bản tiếng Hàn, nhưng bản này chỉ công nhận ullambana là Ô Lam Bà Noa 烏藍婆拏, chứ không phải là Vu Lan bồn (về điều này chúng ta sẽ bàn ở phần sau):
그는 위 자 료에서 보이듯이 우란분은 잘못된 말이며 ‘烏藍婆拏’라는 말이 옳다고 하였다. 또한 그 뜻은 ‘倒 懸’ 즉 거꾸로 메달려 있다는 뜻이라고 하였다. 현응의 이같은 설명은 이후 우란분의 어원과 관 련한 기본적 자료로 인식되었으며, 각종 사전류에도 우란분의 어원은 烏藍婆拏(ullambana)라는 내용이 실리게 되었다. (Trích trang 34 trong tài liệu Hội thảo về “Nỗi đau đớn tột cùng của con người trong cuộc sống và cái chết” (인간의 삶과 죽음의 번뇌), do một Viện Phật tử ở Hàn Quốc  tổ chức vào ngày 9 tháng 8 năm 2008).

Thêm vào đó, trong phần tài liệu dẫn chứng (1), chúng tôi đã chứng minh có trên 10 quyển sách cho thấy ullambana có nghĩa là “treo ngược”, “treo lơ lửng lộn ngược”, “treo đầu lộn ngược” (“to hang upside down”, “to be suspended upside down” “omgekeerd hangen”, “suspendu tête en bas”) hoặc có nghĩa là “sự giải thoát những vong hồn đang bị treo ngược” (rescuing those who are hanging upside-down) hay “ngày giải thoát những vong hồn đang bị treo ngược” (the day for releasing those who are hanging upside-down).

Tóm lại, nếu xét ở nghĩa bóng, chúng tôi cũng đồng ý rằng “cứu đảo huyền” có nghĩa là “giải thoát sự khốn khổ tột cùng”. Nhưng có điều chúng tôi thắc mắc là: tại sao ông An Chi không chấp nhận nghĩa đen mà chỉ bám vào nghĩa bóng? Việc bác bỏ nghĩa đen của “cứu đảo huyền” chứng tỏ ông An Chi có cách nghĩ hết sức cực đoan, một việc cần tránh trong khoa học. Chúng tôi chấp nhận cả hai nghĩa đen và bóng và cho rằng nghĩa đen rất cần thiết, vì không có nó thì chẳng nêu bật được “hình phạt treo ngược dưới địa ngục” theo quan niệm Phật giáo.

Bây giờ đến trường hợp ông An Chi cho rằng Vu Lan bồn (Yulanpen) chuyển tự thành “ullambhana” với nghĩa là “sự giải thoát”. Chúng tôi đồng ý nhận định này, vì phần Tài liệu dẫn chứng (1) của chúng tôi cũng cho thấy điều đó. Tuy nhiên, chúng tôi lại không tìm thấy ullambhana trong từ điển tiếng Phạn, chỉ có một từ gần giống là ullamphana (उल्लम्फन) có nghĩa là “sự nhảy, bước nhảy” (danh từ trung tính). Tóm lại, chúng tôi cũng không tin ullambhana là một từ có thật trong tiếng Sanskrit. Nếu ông An Chi chứng minh được ullambana và ullambhana xuất phát từ hai chữ nào trong tiếng Phạn với nghĩa là “sự treo lên, sự giải thoát” và đưa hai chữ đó ra làm bằng chứng thì tôi xin bái phục.

Kế tiếp, theo ông An Chi: “Vu Lan là dạng nói tắt của " Vu Lan bồn ". Ðây là ba tiếng đã được dùng để phiên âm danh từ Sanscrit Ullambhana. Từ này thoạt đầu đã được phiên âm bằng bốn tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt là Ôlambàna. Dạng phiên âm cổ xưa này đã được Từ Hải khẳng định. Về sau, Ôlambàna được thay thế bằng dạng phiên âm mới là " Vu Lan bồn"…”.

Chúng tôi không đồng tình ý kiến trên, bởi vì Vu Lan bồn hay Ôlambàna không thể là từ phiên âm của chữ ullambhana, một chữ không thấy xuất hiện trong tiếng Phạn. Theo chúng tôi, từ có khả năng nhất để phiên âm thành Ô lam bà nã 乌 蓝 婆 拿 và Ô lam bà noa 烏藍婆拏 chính là avalambana (अवलम्बन), một danh từ có nghĩa là “sự treo ngược” và cũng có bốn hình vị (ava-lam-ba-na) tương ứng với bốn chữ Ô lam bà nã hay Ô lam bà noa. Trong The Concise Oxford Dictionary of World Religions (1997) của John Bowker và những từ điển tiếng Phạn mà chúng tôi tham khảo đều ghi nhận avalambana có nghĩa là “sự treo ngược”. Riêng cụm từ Vu Lan Bồn có khả năng là dạng phiên âm ngắn gọn cũng từ chữavalambana (Vu/ava + Lan/lam + bồn/bana).

Lễ Vu Lan và lễ cúng cô hồn

Ông An Chi bác bỏ ý kiến cho rằng Lễ Vu Lan và lễ cúng cô hồn là một. Theo ông hai lễ cúng này khác nhau, nhưng “được cử hành trong cùng một ngày” (ngày rằm tháng 7).

Khi nhận định hai lễ cúng nŕy khác nhau thě ông An Chi đã đúng chuyện đời xưa nhưng lại sai chuyện ngày nay. Tại sao? Theo chúng tôi, lễ cúng cô hồn xuất phát từ quan niệm của Đạo giáo, còn lễ Vu Lan có nguồn gốc từ Phật giáo.

Quan niệm của Đạo Giáo cho rằng tiết Trung Nguyên bắt đầu từ ngày mồng 1 tháng 7 âm lịch (ngày“mở cửa quỷ môn”) cho đến ngày 30 tháng 7 (ngày “đóng cửa quỷ môn”). Đầu tháng này, cửa địa ngục mở ra cho các cô hồn (chết oan, chết bất đắc kỳ tử hoặc chết mà không có người thân thờ cúng) lên dương thế để thọ hưởng sự cúng tế và nhận đồ thế chấp của người trần gian, cũng như tìm người thế mạng. Người trần gian muốn tránh các cô hồn phá rối hay làm hại tính mạng của mình nên vào ngày rằm tháng 7 họ làm lễ bày các vật phẩm, đồ ăn thức uống và những loại vàng mã, hình nộm để cúng các cô hồn. Trước là cho cô hồn ăn uống, sau là cầu mong cô hồn đừng làm hại mình. Lễ cúng này được gọi là Tiết Trung Nguyên, đọc trại thành Tết Trung Nguyên. Những điều vừa nêu có ghi rõ trong kinh Huyền Đô Đại Hiến của Đạo Giáo.

Riêng về Lễ Vu Lan, đây là lễ để con cháu tỏ lòng tôn kính, báo hiếu cha mẹ còn sống hay đã qua đời, kể cả ông bà 7 đời. Trong ngày Lễ Vu Lan, ngoài ý nghĩa cầu siêu cho người thân đã mất, mong họ được siêu sanh về tịnh độ, người ta còn lập đàn cúng cô hồn, quỷ đói, cầu nguyện cho những vong hồn sớm giải thoát mọi phiền não, khổ đau để an nhiên về cõi Phật.

Tuy quan niệm và cách thức hành lễ của Phật giáo và Đạo giáo khác nhau, nhưng cuối cùng cả hai cùng với Nho giáo đã hợp thành một khối chung theo tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên”(cả ba tôn giáo có cùng một gốc) và “Tam giáo đồng quy” (cả ba tôn giáo có cùng mục đích). Trong đời nhà Đường, trên tinh thần hợp nhất như thế, Phật giáo và Đạo giáo đã tổ chức lễ hội Trung Nguyên Phổ độ, vì thế tiết Trung Nguyên còn gọi là Trung Nguyên Phổ Độ.

Kể từ đó, lễ Vu Lan kết hợp chung với lễ cúng cô hồn, hành lễ vào ngày 15 tháng 7 âm lịch. Như vậy, có thể nói rằng hai lễ này tuy hai mà một. Chính vì thế mà hiện nay trong Wikipedia Trung văn, người ta nhập chung hai lễ này trong một đề mục và gọi là Trung Nguyên tiết dữ Vu Lan bồn tiết 中元節與盂蘭盆節 (2), có nghĩa là “Lễ cúng cô hồn hay lễ Vu Lan bồn”. Ở Phương Tây, người Anh, Mỹ gọi lễ Vu Lan là Lễ hội cô hồn (Ghost Festival) hay Lễ hội cô hồn đói (Hungry Ghost Festival), còn người Pháp gọi là Fête des fantômes; người Tây Ban Nha gọi là Festival de los fantasmas; người Ba Lan gọi là Święto Duchów; ...tất cả đều có chung một nghĩa là Lễ cúng cô hồn. Tại Việt Nam, lễ cúng cô hồn còn được gọi là lễ xá tội vong nhân.

Tóm lại, hai lễ này đã được sáp nhập chung tại nước ta từ rất lâu và đã trở thành đại lễ, được tổ chức hàng năm vào ngày rằm tháng 7 âm lịch. Do đó, việc tách riêng hai lễ này theo quan điểm của ông An Chi có thể xem là “xưa rồi Diễm ơi”./.


-------------------
(1) Tài liệu dẫn chứng:
Quyển Phật Học Từ Điển Sanskrit/Pali - Việt của Thiện Phúc, Multilingual Dictionary of Buddhism (2001) của Minh Thông, A Dictionary of Buddhism (2004) của Damien Keown cũng đã ghi nhận từ ullambana.
- Celui-ci lui remit le livre du sûtra ullambana à lire « suspendu tête en bas ». La torture de sa mère prit fin. Suivant cette légende, les bouddhistes, qui croient que la première des bonnes actions à accomplir réside dans le devoir filial, demandent souvent aux bonzes et bonzesses de réciter ce sûtra le 15 du septième mois pour soulager leurs parents défunts qui souffrent dans l'autre monde. (french.beijingreview.com.cn).
- …urabon, 盂蘭盆 (ullambana). Fête bouddhique qui se tient généralement le 15 juillet (ou le 15 août) et au cours de laquelle on fait des offrandes aux Trois trésors (Bouddha, Dharma, Sangha) pour le bien des défunts. Le sanskrit ullambana signifie "suspendu par les pieds", métaphore pour la souffrance ressentie dans le monde des esprits améliques.(www.larbredesrefuges.com).
-… op het Sanskrit-woord Ullambhana, zoals in Ullambhana Sutra, dwz de Sutra voor de zielen die "omgekeerd hangen", met andere woorden de zielen die in nood zijn, bevrijd moeten worden en daarom met bepaalde offers gespijsd worden. (As the twig is bent ...: essays in honour of Frits Vos, Frits Vos, Erika de Poorter - 1990 - 257 trang).
- The Ullambana Dharma assembly began / Upon his request for the World Honored One's help. Ullambana is Sanskrit and is translated as "rescuing those hanging upside-down." (Vajra bodhi sea: Volume 36, Issues 421-427, Sino-American Buddhist Association. Publisher: Sino-American Buddhist Association, 2005).
- The phrase "yii-lan" is generally understood as a transliteration of the Sanskrit Ullambana, the meaning of which is “to hang upside down” or “to be in suspense”... (About our ancestors: the Japanese family system by Kunio Yanagita, Fanny Hagin Mayer, Nihon Yunesuko Kokunai Iinkai - 1988 - 193 trang).
Hanging upside down; the condition of certain condemned souls, especially for whom the Ullambana (or Lambana, cf. ]j£) festival is held in the seventh month ; the phrase is used as a tr. of Ullambana, and as such seems meant for Lambama. (最新漢英佛學大辭典, William Edward Soothill, Lewis Hodous – 1937).
-… then, having assumed the form of Guanyin, visualizes dizang, who has aspired to release all beings from hell (t 0: . 76c). 7. the Sanskrit word avalambana (ullambana in Pâli) literally means “hanging upside down” and is ...( The making of a savior bodhisattva: Dizang in medieval China (trang 2), Zhiru Ng, , 2007 - 305 trang).
- Ullambana means 'releasing those who are hanging upside down.' The Buddha told Maudgalyayana that, on the fifteenth of the seventh lunar month, the day of the ...( Buddhist Text Translation Society's Buddhism A to Z by Ronald B. Epstein, Buddhist Text Translation Society. Editorial Committee - 2003 - 284 trang).
- Ullambana means, "releasing those who are hanging upside down." The Buddha told Maudgalyayana that, on the fifteenth day of the seventh (lunar) month. (The Buddha speaks of Amitabha Sutra: a general explanation (trang 86) by Hsüan Hua - 2003 - 194 trang).
- The Japanese is an abbreviation of Urabon, a phonetic reduction of the Sanskrit Ullambana, meaning “to hang upside down.” (The Path of Dreams (page 1), Ene Woodbury - 2008 - 294 trang).
- Ullambana means “releasing those who are hanging upside down.” (The Foundling: A Novel of Wandering in the Dreamland of Ch'an Masters (trang 209), Ander Goldstein - 2009 - 700 trang).
- Ullambana is a Sanskrit word which means "rescuing those who are hanging upside-down. ... The Ullambana is performed especially for releasing those undergoing the painful suffering of being hungry ghosts and enabling them to be reborn...(The Shurangama sutra with commentary: Volume 1 (trang 122), Hsüan Hua - 2003 - 9 trang).
- Ullam- bana is the day for releasing those who are hanging upside-down, those who have not obtained liberation. (Flower adornment sutra: chapter 39, entering the Dharma realm: Volume 3 (trang 44), Hsüan Hua, Buddhist Text Translation Society - 1984).
- ... that has long been assumed to be a transcription of the Sanskrit word Ullambana, meaning “to be suspended upside down. ... The sutras that are read all day in order to guide lost souls (guhun) out of Hell relate the story from the ...( Traditional festivals, vol. 1 [A - L]: a multicultural encyclopedia (trang 91), Christian Roy - 2005 - 256 trang).
- Tulanpen is the Chinese transliteration of the Sanskrit ullambhana (deliverance). The festival was also called zhongyuanjie, translated both as Ghost Festival and Universal Salvation Ritual. (Native place, city, and nation: regional networks and identities ...(page 93),  Bryna Goodman - 1995 - 367 trang).
- The Chinese characters suggest the Sanskrit word Ullambhana as their original, and this word meansrescue, extrication, or deliverance.( Essays on the Chinese language, T. Watters, Thomas Watters - 1889 - 496 trang).
- The usual explanation of the feast day as the Indian ullambhana, or in Chinese yil lan p'en which means "to be suspended upside down," refers to the journey of Ti-tsang Wang74 down to hades to save his mother.(Folk cultures of Japan and East Asia, Taryô Ôbayashi, Taryô Ôbayashi - 1966 - 163 trang).
- (yúlánpénjing) N: the name of a Buddhist sutra, being a translation from Sanskrit " ullambhana " (deliverance) (Chinese customs and traditions: Volume 2 (trang 134), ng Ho Chang - 1987 - 324 trang).
- The festival held on the 15th of the 7th lunar month for the deliverance of hungry ghosts - often spoken of as the Feast of All Souls — from the Sanskrit ullambhana, deliverance — Matthew's Chinese-English Dictionary, p. 1138, No. 7595 (a). 2.( Studies in Chinese Buddhism, Anukul Chandra Banerjee - 1977 - 116 trang).
- Details of the story are given in the Ullambhana Sutra, otherwise known as Deliverance or, in Chinese Yfl-lan P'an Ching. the Feast of Hungry Ghosts, section entitled Fa-hua Hsflan-tsan. 69. (Phi Theta papers: Volumes 6-10, Phi Theta. California State Chapter. University of California, California. University. Oriental Languages Students Association – 1961).
 - The Ghost Festival (Guijie), which coincides with the Buddhist Ullambhana (Deliverance) Festival, is held on the fifteenth day of the seventh month.( Worldmark Encyclopedia of Religious Practices: Countries A-L, Thomas Riggs - 2006 - 3 trang).
(2): Wikipedia Trung Văn:
農曆七月十五日(有些地方,尤以華南,是七月十四日,相傳是宋代末年蒙古人入侵某地,居民為逃難而提早一天過節),道教稱為中元節,佛教稱為盂蘭盆節(簡稱盂蘭節),民間俗稱鬼節、七月半。中元節與除夕、清明節、重陽節(除、清、九)等三節,都是中國傳統節日裏祭祖的四大節慶。http://zh.wikipedia.org/wiki/%E4%B8%AD%E5%85%83%E7%AF%80%E8%88%87%E7%9B%82%E8%98%AD%E7%9B%86%E7%AF%80

Thursday, 15 March 2012

Hoa di nha là hoa gì?


Hoa di nha thuộc họ Cúc (Asteracae). Lá mọc đối, hình trái xoan thuôn dài, mặt lá phủ lông. Hoa có màu trắng, vàng, đỏ, hồng, tím. Tên hoa tiếng La Tinh là zinnia, được đặt theo tên nhà thực vật học người Đức Johann Gottfried Zinn (1727-1759). Từ zinnia này được giữ nguyên dạng trong nhiều ngôn ngữ khác như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha... Tiếng Nga là цинния, phiên âm cũng khá gần. Khó có thể xác định di nha được phiên âm từ thứ tiếng nào trong các ngôn ngữ châu Âu kể trên.
Di nha còn được gọi là hoa bách nhật, do tên hoa tiếng Trung Quốc là 百日草 (âm Hán Việt là bách nhật thảo, nghĩa là cỏ trăm ngày).

Làm cần vụ có oai hơn làm loong toong không?


Từ planton trong tiếng Pháp được dùng để chỉ người lính làm nhiệm vụ truyền đạt mệnh lệnh của sĩ quan chỉ huy. Khi không có việc chạy đi chạy lại, anh lính này phải túc trực bên cạnh chỉ huy để đợi sai phái. Khi đó anh trở thành lính gác cố định một chỗ (sentinelle fixe).
Thời Pháp thuộc những người lính như vậy được gọi là bờ lăng tông / lăng tôngloong toong / loong toong nơ. Phổ biến nhất là loong toong. Không chỉ có lính để chỉ huy sai vặt bị gọi là loong toong mà mọi loại nhân viên cấp dưới bị cấp trên sai vặt đều là loong toong cả:

* Ông Đỗ Thận có viết ở đâu đó rằng: “Quan cũng một nghề, làm thuê cho nước”, mới nghe qua tợ-hồ tác-giả có ý bì-lý; nhiều ông luật-sư cũng nói như vậy, nhưng cũng không đúng: thí như một người lông-tông (planton) ăn lương của Nhà-nước, tức là làm thuê cho nước, nhưng mà lại không phải là quan. Nam Phong Tạp Chí số 28 (1919:290, Thân Trọng-Huề)
Ngần này tuổi tôi còn làm loong toong cho người ta sai vặt, biết bao giờ mới thành nghề thành nghiệp? (Dương Thu Hương, 1990:89)
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống ngành y, Loco bất chợt quay sang làm quảng cáo cũng là một sự tình cờ, ban đầu Long cũng chỉ thiết kế vu vơ mấy tài liệu cho bạn bè trong lớp rồi vào làm cho một công ty quảng cáo nhỏ như một… loong-toong-nơ thôi. (Lê Thị Thái Hòa, 2009:162)
Để người bị sai vặt khỏi buồn vì thân phận con sâu cái kiến, người ta nghĩ ra nhiều chức danh hoa mỹ cho họ. Ở miền Nam trước 1975 họ trở thành các ông tùy phái; ở miền Bắc trước đây và trên cả nước hiện nay họ là những nhân viên tạp vụ. Trong quân đội cách mạng từ lâu không còn loong toong để thượng cấp sai phái nữa mà chỉ có các chiến sĩ liên lạc. Từ năm 1950, sau khi các cố vấn Trung Quốc đến Việt Nam, họ trở thành người cần vụ chăm lo chỗ ăn, chỗ ngủ, cái ăn cái mặc của thủ trưởng. Xong việc, họ là người cảnh vệ giữ cho thủ trưởng được an toàn hoặc anh tiêu binh đứng im như pho tượng. Tất cả các chức danh đó được dịch ra tiếng Pháp bằng một từ duy nhất là planton mà ngày xưa tiếng Việt đã nhập dưới dạng loong toong.

Sunday, 11 March 2012

Từ tẩy chay xuất hiện trong tiếng Việt khi nào?


Từ tẩy chay xuất hiện trong tiếng Việt vào đầu thế kỷ 20 cùng lúc với phong trào dân ta từ Nam ra Bắc đùng đùng rủ nhau không mua bán, giao dịch với Hoa kiều. Thượng Chi tức Phạm Quỳnh tường thuật trên Nam Phong Tạp Chí số 27 (1919:226-227) như sau:
Trong khoảng một tháng nay, tiếng An-nam ta mới tăng thêm được một tiếng mới, giọng đọc lơ-lớ như tiếng nước người, mà gióng-giả mạnh-bạo như câu hiệu-lệnh, trong giây-phút truyền khắp cỗi nước Nam. Tiếng ấy là gì? Tiếng ấy là tẩy chay. Tẩy chay ! Tẩy-chay ! miệng người An-nam nào từ Nam chí Bắc cũng chỉ thấy nói một tiếng ấy, như tụng một câu Na-mô của một tôn giáo mới nào. Vậy thời “tẩy-chay” là gì? “Tẩy-chay” là tiếng khách Quảng-đông đọc hai chữ để-chế 抵  制  : “để-chế” nghĩa là kháng-cự kẻ nghịch kẻ thù mình, tức là tuyệt-giao với kẻ mình không ưa, nhất là về đường giao-dịch buôn-bán. Đó là nghĩa chung; cứ cái nghĩa riêng của chữ để-chế thời là đồng lòng nhau không mua đồ hàng của người mình ghét. Chữ để-chế người An-nam ta dùng trong một tháng nay là dùng theo cái nghĩa riêng ấy.
Nguyên nhân trực tiếp của sự việc, vẫn theo Thượng Chi (1919:227), là:
Cái cận-nhân thì ở việc một chú Chiệc kia bán cà-phê cho đồng-bào ta tại Sài-gòn, bỗng-dưng ma ám qui xui tăng giá chén cà-phê lên hai su mà khởi ra cái lòng công-phẫn của cả một dân đối với người Tàu. Nguyên-nhân nhỏ-mọn như thế, mà kết-quả to-lớn như vậy, người không biết cũng lấy làm lạ thay.
Ly cà phê đang từ hai xu vọt lên bốn xu, kể cũng hơi quá đáng, nhưng đó chẳng qua chỉ là cái tàn lửa làm bùng nổ thùng thuốc súng, tức cái nguyên nhân sâu xa khiến cho dân Nam hằn học với Hoa-kiều “là ở cái thế-lực to-tát quá chừng của người Tàu đã chiếm được trong trường kinh-tế ở nước ta” (Thượng Chi, 1919:227)

Saturday, 10 March 2012

Ai là người đầu tiên đề nghị sử dụng thuật ngữ “dân tộc học”?


Cái tên của một môn học nhiều khi thể hiện rất rõ rệt quan điểm địch-ta. Việc giới khoa học Việt Nam chấp nhận thuật ngữ dân tộc học trong những năm 50 của thế kỷ trước là một ví dụ cho thấy tên gọi không thể là chuyện vô thưởng vô phạt:
Khoa dân tộc học mác-xít và khoa dân tộc học tư sản có nhiều điểm khác nhau về cơ bản. Khoa dân tộc học tư sản chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu các dân tộc lạc hậu, thuộc địa. Như ở đế quốc Đức trước kia, bọn học giả tư sản chia ra làm dân tục họcdân tộc học. Dân tục học (Volkskunde hoặc Folklore) nghiên cứu dân tộc bản quốc, dân tộc học (Volkerkunde) nghiên cứu các dân tộc nước ngoài, chủ yếu là dân tộc thuộc địa.
Trong dân tộc học, bọn học giả ở các nước tư sản lại chia ra làm hai ngành: Ethnologie tức dân tộc học lý luận và Ethnographie tức dân tộc học tự thuật hoặc dân tộc học miêu tả, do đó chúng tách rời lý luận với quan sát thực tế. Ở Liên-xô và các nước xã hội chủ nghĩa, cả hai ngành này đều kết hợp làm một, và đều dùng một danh từ thống nhất là Ethnographie. Trước kia, ở Trung-quốc, người ta thường dịch chữ Ethnographie bằng nhiều danh từ khác nhau, khi là nhân chủng học, khi là nhân văn chí, khi là dân tục học, nhưng từ răm năm nay, các nhà khoa học Trung-quốc đã dùng một danh từ thống nhất là dân tộc học. Ở Việt-nam, trước đây, người ta cũng quen gọi khoa học này, bằng tiếng Pháp là Ethnologie và bằng tiếng Việt là nhân chủng học. Cả hai chữ, dùng đều không đúng. Cho nên tôi đề nghị, từ nay chúng ta cũng gọi khoa học này bằng một danh từ thống nhất là dân tộc học mà tiếng Âu châu của nó là ethnographie hay ethnografia.
(Nguyễn Lương Bích,  “Mấy nét sơ lược về dân tộc học Mác-xít” trong Tập San Nghiên Cứu Văn Sử Địa số 47 (1958:16))
Trong khi đó ở miền Nam, các tên gọi cũ vẫn được lưu hành cho đến năm 1975: ethnographie được dịch là nhân chủng chí, ethnologienhân chủng học (Thanh Nghị, 1967:1002).