Wednesday, 28 March 2012

Tiếng Hán Việt là gì?


Tiếng Hán Việt là thuật ngữ dùng để chỉ những từ đơn âm trong Việt ngữ có nguồn gốc Hán ngữ, được đọc bằng âm Hán Việt. Cách đọc này phản ánh ngữ âm tiếng Hán đời nhà Đường được dạy ở Giao Châu từ thế kỷ thứ 8, biến đổi dần sau thế kỷ thứ 10 (kỷ nguyên độc lập tự chủ). Mùi (trong mùi thơm, mùi thối...), vị (trong vị tinh, hương vị...), (trong mì chính) đều có cùng gốc Hán là , nhưng chỉ có vị được xem là một tiếng Hán Việt, theo định nghĩa đã nêu ở trên.

Tuesday, 27 March 2012

Hỏi han có phải là từ láy phụ âm đầu không?


Hỏi han là một tổ hợp đẳng lập. Han có nghĩa là hỏi (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:227). Truyện Kiều có câu:
Trước xe lơi lả han chào,
Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi.
Han chào chính là chào hỏi.

Saturday, 24 March 2012

Giữ giàng có phải là từ láy phụ âm đầu không?


Giữ giàng có nghĩa là giữ gìn, coi sóc (Vương Lộc,2001:72):
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên... (Truyện Kiều, câu 2034)
Việc binh bỏ chẳng giữ giàng... (Truyện Kiều, câu 2505)
Giàng là một từ cổ, có nghĩa là giữ (Vương Lộc, 2001:69). Bài Nhàn Ngâm trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập có câu:
Đón yêu trăm vẻ nên giàng bụng..
Như vậy giữ giàng là một tổ hợp đẳng lập.

Friday, 23 March 2012

Giữ gìn có phải là từ láy phụ âm đầu không?

Không. Gìn có nghĩa là giữ (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:221). Truyện Kiều có câu:
Gìn vàng giữ ngọc cho hay,
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
Như vậy giữ gìn / gìn giữ đều là những tổ hợp đẳng lập.

Wednesday, 21 March 2012

Xuất xứ của cách gọi Đàng Trong, Đàng Ngoài _ An Chi ( Đã đăng ANTG số 1.000, 9-10-2010).

Liên quan đến vấn đề này, GS Nguyễn Tài Cẩn có viết bài “Về việc dùng hai động từ «vào» «ra» để chỉ sự di chuyển đến một địa điểm ở phía Nam hay phía Bắc”, ban đầu in trong Tạp chí Khoa học số 4/91 của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nôi, sau đó in lại trong Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa ( Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001). Ngược với ý kiến cho rằng Đàng TrongĐàng Ngoài là nguyên nhân đưa đến lối nói vào Nam , ra Bắc, GS Nguyễn Tài Cẩn đã có công phát hiện những cứ liệu chứng minh điều ngược lại và những cứ liệu này, như ông đã chứng minh, chậm nhất cũng đã có từ đầu thế kỷ XV. Sau đây là những chứng cứ mà GS đã đưa ra.

1.Trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi (đầu đời Lê), động từ nhập đã được dùng để chỉ việc đi vào Nam:“Trần Thái Tôn mệnh thượng tướng Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải NHẬP ngự Nguyên nhân vu Nghệ An ”(= Vua Trần Thái Tôn hạ lệnh cho thượng tướng Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải VÀOchặn đánh quân Nguyên ở Nghệ An).
2.Trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của một tác giả tự xưng là “nhà nho đỗ thi hương, họ Đỗ Bá, hiệu Đạo Phủ, quê ở Bích Triều, Thanh Giang” cũng đã có những câu dùng XUẤT, NHẬP, NGOẠI liên quan đến hướng Nam Bắc như vậy:  “Như tự Cửa Lạc việt, NHẬP, nghi thu đông, XUẤT nghi xuân hạ” (= Nếu từ Cửa Lạc vượt biển để VÀO thì phải đi trong mùa thu hay mùa đông, để RA thì phải đi trong mùa xuân hay mùa hạ). – “Tự Lại doanh XUẤT chí Kinh Nhà Hồ … Tự NGOẠI NHẬP chí Tam Độ” (= Từ doanh Lại RA đến Kinh nhà Hồ … Từ NGOÀI mà VÀO đến Tam Độ).
        3.Hơn nữa có chỗ văn bản vừa dùng câu chữ Hán có XUẤT, NHẬP vừa dùng câu Nôm có RA, VÀO để giải thích cho nhau: – “Tự Cầu Ngạn NHẬP tắc xanh thuyền diên Thạch Hà biên, XUẤT tắc xanh thuyền diên Thiên Lộc biên, tục vân VÀO THẠCH HÀ, RA THIÊN LỘC” ( Từ Cầu Ngạn mà VÀO thì phải chèo thuyền ven theo bên Thạch Hà, mà RA thì phải chèo thuyền ven theo bên Thiên Lộc, có câu tục ngữ rằng: VÀO THẠCH HÀ, RA THIÊN LỘC).
        Trở lên là những cứ liệu mà GS Nguyễn Tài Cẩn đưa ra để khẳng định rằng chính lối nói VÀO NAM, RA BẮC đã đưa đến cách gọi ĐÀNG TRONG, ĐÀNG NGOÀI chứ không phải là ngược lại và về mặt này thì chúng tôi hoàn toàn đồng ý với ông. Nhưng tất cả chỉ có thể chứ những điểm sau đây trong lập luận của ông thì chúng tôi cho là cần phải được xét lại. Ông chủ trương:
1. Chắc trước tiên phải có những câu nói cụ thể ở từng địa phương nhỏ, phản ánh đúng sự đi lại tùy theo địa hình từng vùng rồi sau đó mới hình thành những câu nói chung hơn như xuống Đông lên Đoài,ra Bắc vào Nam, chứ không phải là trước tiên có những công thức khái quát dựa trên địa lý toàn quốc rồi mới đem ứng dụng nhất luật vào từng vùng nhỏ.
2. Lối nói vào Nam/ra Bắc đã có mặt từ thời Nguyễn Trãi. Vậy nó phải sản sinh trên cơ sở những lối nói về việc đi lại trên địa bàn Việt Nam khoảng thời gian trước đó, tức khoảng đầu thế kỷ XV về trước. Thời gian này, như cứ liệu lịch sử cho biết, lãnh thổ Việt Nam mới bao gồm vùng Bắc Bộ và giải đất từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên.
3. Đi vào nơi hẹp, kín, bí hiểm, tận cùng mà dùng vàovào trong …, đi ra nơi rộng thoáng, mở mang mà dùng rara ngoài …, điều đó hoàn toàn không có gì xa lạ với những lối nói quen thuộc như vào ngõvào cỗngvào trong hangvào trong rừng/ra khơira đồngra ngoài sânra ngoài bãi …
4. Nhưng do một sự tình cờ của địa lý, giải đất hẹp, bí hiểm vùng biên giới lại ở phía Nam, chỗ đồng bằng rộng thoáng, mở mang lại ở phía Bắc, cho nên những lối nói có vào/ra như trên lại ngẫu nhiên mang thêm một nét nội dung mới: nói vào một địa điểm X là nói đi về phía Nam hơn, so với đồng bằng Bắc bộ; và nói ra một địa điểm Y là nói đi về phía Bắc hơn, so với các vùng Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên.
Chúng tôi thì nghĩ khác hẳn GS Nguyễn Tài Cẩn về cái hướng để giải quyết vấn đề này; mà ngay trong từng điểm cụ thể thì luận cứ của ông cũng chẳng vững chắc chút nào. Về điểm 1, ngược với ông, chúng tôi nghĩ rằng chính những công thức khái quát (vào Namra Bắc) dựa trên địa lý khu vực duyên hải Biển Đông (từ Giao Chỉ vào Cửu Chân, từ Cửu Chân vào Nhật Nam, và cứ thế mà dần dần Nam tiến …), chứ không phải chỉ toàn quốc (Việt Nam), đã được ứng dụng nhất luật vào từng vùng nhỏ. Về điểm 2, chúng tôi cho rằng lối nói vào Nam/ra Bắc đã có mặt từ trước đầu thế kỷ XV khá xa, có thể đến năm, ba thế kỷ là thường vì công cuộc Nam tiến không những diễn ra liên tục, mà còn từ rất sớm nữa là đằng khác. Chính GS cũng đã phải thừa nhận:“ Theo tài liệu lịch sử, có những đợt di dân như năm 1075, 1042, …, những đợt vận chuyển lương thực như năm 1376, và những đợt kéo quân vào tập luyện, đánh Chiêm Thành (1104, 1252, 1311, 1318, 1353, 1367, 1376-1377, 1383, 1402, 1403,…).” ( Sđd, tr.128, chth. 8). Về điểm thứ 3, khi ta nói, chẳng hạn, “Đến bốn giờ chiều hôm đó thì đại đội X mới ra khỏi cánh rừng Y mà vào thành phố Z ”, thì có lẽ nào thành phố lại là nơi hẹp, kín, bí hiểm, tận cùng?Huống chi, vào trong hang tuyệt đối chẳng khác gì vào trong cung điệnvào trong công viên nước,vào trong thảo cầm viênvào trong vườn Tao Đànvào trong khu ăn chơi Las Vegas, v.v., cả về nghĩa lẫn ngữ dụng của vị từ VÀO. Cuối cùng thì, với chúng tôi, sự việc đã diễn ra một cách hoàn toàn độc lập đối với điểm thứ 4 của GS Nguyễn Tài Cẩn.
Với chúng tôi thì vấn đề không phải ở chỗ địa bàn rộng hay hẹp; địa thế kín hay hở; môi trường bí hiểm hay mở mang; v.v.; mà là vấn đề lập trường, nghĩa là chỗ đứng để định hướng, nói rõ ra là chuyện địa bàn dân tộc. Nó na ná chuyện cái tên Hà Nội của Tàu mà chúng tôi đã nói đến trên chuyên đề An ninh Thế giới số 996 (25-9-2010). Địa danh này được từ điển Từ hải giảng: “Kim Hà Nam tỉnh Hoàng Hà dĩ Bắc địa, cựu thời thông xưng viết Hà Nội; nhi xưng Hoàng Hà dĩ Nam viết Hà Ngoại”, nghĩa là “Đất tỉnh Hà Nam hiện nay từ Hoàng Hà trở về Bắc, xưa thường gọi là Hà Nội; còn từ Hoàng hà trở xuống Nam thì gọi là Hà Ngoại”. Rõ ràng đây là một cách đặt tên theo lập trường dân tộc. Từ Hoàng Hà trở về Bắc nói chung thì thời xưa là địa bàn của tộc Hán, mà cái nôi là Trung Nguyên. Vậy từ Hoàng Hà về Bắc là TA (dĩ nhiên là “ta” của Tàu), là nhà, là bên trong, là Hà Nội. Còn bên kia Hoàng hà là Nam Man, là CHÚNG NÓ, là bên ngoài, là Hà Ngoại (dĩ nhiên đây cũng chỉ là chuyện “đời xưa”). Nhưng trong khi người Trung Quốc vận dụng chỗ đứng để xử lý việc đặt địa danh theo từng vùng BẮC/ NAM (thành NỘI/NGOẠI) thì người Việt lại vận dụng nó để xử lý việc diễn đạt sự chuyển dịch từ BẮC xuống NAM và ngược lại, bằng hai vị từ VÀO/RA.
Đối với người Việt thì vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ hiên nhiên là địa bàn gốc, địa bàn cố hữu. Khi di dân xuống phía Nam, họ định cư đến đâu thì địa bàn gốc của họ cũng kéo dài đến đó. Địa bàn này là gia hương quốc thổ mà khi họ càng đi xuống phía Nam để định cư thì sẽ trở thành cố hương của họ. Đi xuống phía Nam, vô hình trung, là RA khỏi gia hương quốc thổ, là RA khỏi ĐẤT NHÀ để đi VÀO một vùng ĐẤT KHÁC. Vùng đất này ở phía NAM cố hương của họ cho nên đi VÀO vùng đất này là ĐI VÀO NAM. Rất rõ ràng mà đơn giản. Sự đối lập về nghĩa và ngữ dụng giữa RA/VÀO ở đây cũng giống hệt sự đối lập giữa hai từ này mà ta đã thấy trong ngữ đoạn “RA khỏi cánh rừng Y để VÀO thành phố Z. Và rõ ràng là chính lối nói này (VÀO NAM, RA BẮC) đã đưa đến cách gọi Đàng TrongĐàng Ngoài, đúng như GS Nguyễn Tài Cẩn đã chủ trương. Nhưng ta phải tránh cái sai lầm lớn lao mà có người đã phạm phải vì đã cho rằng, ở đây, TRONG là NHÀ, là  “đất chính, đất của mình” (còn NGOÀI là KHÁCH), như có thể thấy trong đoạn tường thuật dưới đây của tác giả Phạm Văn Tình  do corling đưa lênCorpus Linguistics (Vietnam) ngày 26-5- 2010:
“Gần đây, theo tác giả Roland Jacques (trong cuốn Những người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ học, NXB Khoa học xã hội, 2007), thì cách giải thích của một thầy cả Dòng Tên (và cũng là một nhà ngữ học) người Bồ Đào Nha là Gaspar do Amaral (tài liệu công bố năm 1637) có nhiều luận cứ đáng tin cậy. Theo ông, sau khi Nhà Mạc chiếm quyền thắng thế ở Thăng Long, việc phục hồi nhà Lê lập tức được tiến hành. Năm 1545, nhà Mạc đã củng cố và xây dựng đắp luỹ, làm nên một “mật khu” ở Thanh Hoá, Nghệ An. Sau đó kinh đô Thăng Long bị mất, nhà Mạc rút về hậu cứ và kiên trì tìm cách lấy lại. Mãi đến năm 1592 nhà Mạc mới đoạt lại được đất đai từ tay kẻ “thoán nghịch” sau nhiều lần chinh chiến. Chính vào giai đoạn này người ta quen gọi vùng Thanh Hoá, Nghệ An là Đàng Trong (ngụ ý đất chính, đất của mình). Phần từ đó trở ra bắc gọi là Đàng Ngoài. Cũng phải thôi, vì với triều thần nhà Mạc, dải đất Thanh - Nghệ kia mới đáng là “trái tim” trong giang sơn của họ.”
Vậy theo thông tin do cố đạo Gaspar do Amaral cung cấp thì hai tên gọi Đàng TrongĐàng Ngoài đã ra đời từ khoảng giữa thế kỷ XVI và chúng tôi thực sự tin tưởng ở thông tin này. Nhưng nói rằng Đàng Trong hàm ý chỉ “đất chính, đất của mình”, như đã thấy trong lời tường thuật trên đây, thì lại hoàn toàn sai. Chỉ hai câu điện thoại thông thường, giản dị dưới đây cũng đã đủ để bác bỏ cái cách hiểu “phản Việt ngữ” đó:
A (từ TPHCM): – Hẳn là Hà Nội đang khẩn trương chuẩn bị cho đại lễ 1.000 năm?
B (từ Hà Nội): – Ừ, NGOÀI NÀY đang khẩn trương lắm.
Có quá ngây ngô hoặc cực điên rồ mới dám nói (bậy) rằng NGOÀI NÀY không phải là  “đất chính, đất của mình” đối với nhân vật B. Ngoài ra, cũng xin nói thêm rằng khi nhà Mạc suy vong và chạy lên Cao Bằng thì “đất chính, đất của mình” của dòng họ này lại “di dời” lên tận Đàng Trên chứ đâu có còn ở “Đàng Trong” nữa. Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Từ điển Việt Bồ La) của cố đạo A. de Rhodes (Roma, 1651) ghi nhận danh ngữ đàng tlên (tức Đàng Trên) mà lời giảng đã được nhóm Thanh Lãng dịch là “những tỉnh ở rừng núi”. Bấy nhiêu cứ liệu đã đủ để phế truất cái cách hiểu Đàng Trong là “đất chính, đất của mình” rồi. Vậy xin mọi người vui lòng rũ bỏ cái ý “đất chính, đất của mình” ra khỏi từ TRONG của danh ngữ Đàng Trong. Tiếc rằng trong bài viết trên đây, tác giả Phạm Văn Tình còn gắn cả nội dung này vào cách hiểu của nhà Nguyễn mà viết tiếp:
“Thực tế, đã có một sự chuyển đổi, do vào thời Trịnh Nguyễn, sự khác biệt địa lí rõ rệt của hai vùng đất nước (thuộc hai triều chính khác nhau) đã tạo nên một nét nghĩa địa lí mới cho Đàng Trong vàĐàng Ngoài. Và cũng chỉ người ở phía Nhà Nguyễn ưa dùng cặp từ trái nghĩa này hơn. Bởi lẽ, như đã nói ở trên, Đàng Trong được coi là trung tâm, là tiêu điểm giang sơn, là đáng trọng, còn ngoài vùng đó (Đàng Ngoài) là “đất của mình nhưng tạm thời do người khác chiếm đoạt”. Âu cũng là một nét nghĩa mang dấu ấn lịch sử mà ta cần tham khảo.”
Ta không biết trên đây có đích thực là quan niệm của “người ở phía Nhà Nguyễn” hay chỉ là do ông Phạm Văn Tình suy diễn nhưng dù là của ai thì cũng xin thưa với các vị rằng, trong tiếng Việt, TRÊN, DƯỚI, TRONG, NGOÀI đều có thể là “đất chính, đất của mình” cả. Hai địa danh dân dã ĐÀNG TRONG/ĐÀNG NGOÀI chỉ là hệ quả của lối nói VÀO NAM/RA BẮC; còn lối nói VÀO NAM/RA BẮC thì chính nó lại bắt nguồn từ quan niệm RA KHỎI ĐẤT NHÀ MÀ VÀO ĐẤT NGƯỜI KHÁC, chứ không phải từ bất cứ quan niệm kỳ thị nào. Đằng sau lối nói đó là bóng dáng của những cuộc di dân từ Bắc xuống Nam, những đợt Nam tiến.

Sunday, 18 March 2012

Do đâu mà có từ Vu Lan?


Ở Việt Nam ngày xá tội vong nhân vào rằm tháng bảy âm lịch hàng năm (sách vở tiếng Anh dịch là Ullambana Festival, Avalambana Festival, Ghost Festival..), còn được gọi là lễ cúng cô hồn hay lễ Vu Lan. Ở Trung Quốc gọi lễ này được goi là盂蘭盆會 (âm Hán Việt là Vu Lan Bồn Hội), trước đó là烏藍婆 (âm Hán Việt: ô lam bà) /  烏藍婆拏 (âm Hán Việt: ô lam bà noa). Tuy nhiên giới học thuật không có sự nhất trí về nguồn gốc của 盂蘭盆, 烏藍婆, 烏藍婆拏.
Một số tác giả cho rằng các từ đang xét trong tiếng Hán chỉ là phiên âm của ullambana trong tiếng Xăng-crít, có quan hệ gần gũi với lambana (nghĩa là treo) hoặc avalamba (nghĩa là treo ngược), diễn tả tình trạng khổ ải cùng cực.Theo hướng tìm kiếm này, có tác giả cho rằng từ gốc không phải là ullambana mà phải là ullambhana mới đúng. Người khác lại bảo avalambana mới đúng. Một số khác thì cho rằng (bồn) không phải là từ mượn âm mà là một từ Hán có nghĩa, chỉ một vật dụng đựng thực phẩm cúng dường.
Một trường phái khác cho rằng các từ ngữ Hán mượn âm tiếng Pa-li ullumpana mà nguyên mẫu là động từ ullumpati với nghĩa là cứu, giúp (cứu vớt, cứu độ...). Không loại trừ khả năng ullumpana đuợc chuyển tự sang tiếng Xăng-crít là ullambana rồi từ đó đi vào kinh sách chữ Hán. Giả thuyết các nhà sư Trung Hoa đọc tiếng Pali và chuyển thẳng âm u  thành âm a, cũng không phải là không thể xảy ra, bởi vì từ mượn âm không nhất thiết phải giống hệt âm gốc, chuyển tự (thường nhưng) không luôn luôn tuân theo một quy luật nhất định.
Các học giả đều cố công đưa ra nhiều bằng chứng góp phần khẳng định giả thuyết của mình và/hoặc bác bỏ cách lý giải của người khác.  Nhìn chung, các bằng chứng đó đều dựa trên sự gần gũi về ngữ âm giữa từ mượn và từ được giả định là nguồn gốc, và/hoặc ý nghĩa giả định của từ gốc phù hợp đến mức độ nào với các đặc tính quan trọng của lễ Vu Lan (treo ngược, hành hạ, giải thoát...). Không có học giả nào đưa ra ngữ liệu ghi nhận thời điểm xuất hiện của  盂蘭盆, 烏藍婆, 烏藍婆拏... cũng như tên người chế tác / sử dụng đầu tiên và nguồn tư liệu của người đó. Do đó tất cả các cách kiến giải về tổ tiên xa xưa của Vu Lan đều có giá trị hạn chế như nhau, mặc dù tất cả các cách kiến giải ấy đều rất lý thú. 

Tàu lát là tàu gì?

Tàu lát (tiếng Anh là LASH, viết tắt của Lighter Aboard Ship) là tàu chuyên dùng để chở xà lan, do đó có thể nhận và trả hàng sâu trong nội thủy, vừa tiết kiệm được thời gian vận chuyển vừa hạn chế được hao hụt...