Thursday, 19 July 2012

NGƯỜI LẠC VIỆT PHẢI CHĂNG LÀ MỘT NHÓM LAVA CỔ? (Tạ Đức)

 
Tạ Đức
 
(Trích từ mạng talawas)
 
Trong quá trình nghiên cứu về nguồn gốc và sự phát triển của ngôn ngữ và văn hóa Đông Sơn tôi đã đi đến một luận điểm là: người Lạc Việt là một nhóm Lava (Lawa) cổ, và người Âu Việt là một nhóm thuộc khối Thái lai Lava cổ [1] .

Sau đây là hệ thống các bằng chứng bước đầu cho phép đặt ra và chứng minh luận điểm đó.
1. Lava=Lo/Luo Yue=Lạc Việt

Lava-trong sách báo tiếng Anh thường ghi Lawa/Lwa/Lua/Luaq hiện là một tộc ít người sống chủ yếu ở hai tỉnh Chieng Mai và Mae Hong Son thuộc miền bắc Thái Lan. Tuy nhiên các tộc gần gũi với người Lava còn có ở Vân Nam Trung Quốc với các tên gọi Kawa/Wa, Bulang [2] .Về mặt ngôn ngữ, tiếng Lawa thuộc nhóm Palaungic, dòng Môn-Khmer, hệ Nam Á.

Tên gọi Lava được coi là tên được gọi từ người Thái, tức người Xiêm tộc người chủ thể của Thái Lan, trong khi tên tự gọi của người Lava thực ra là Lavua/Lavia/Ss-va/Rave(t) [3] 

Cholthira dẫn Vicit cho biết người Lava còn được gọi là Cao/Lua và người Lào hiện nay chính là người Thái lai Lava[4] . Mặt khác, theo Cầm Cường: người Lào lúc đầu còn được gọi là Thay Lava, sau thành Thay Lao=Người Lào [5].

Condominas cho hay: Loh=tên gọi người Lava từ người Karen-một tộc Tạng-Miến. Một tên gọi khác của họ làMilakkha, thường được hiểu là người man di [6] .

Trước hết, có thể thấy các tên gọi Lavia /Lavua/Lao/Lua/Lo là những biến thể của Lava, trong đó hai tên gọi Lua, Lo hoàn toàn trùng hợp với cách ghi Lo/Lua=Lạc trong tiếng Hoa thuộc dòng Hán-Tạng.


2. Lavaraja-Lạc Vương, Lua-Lạc dân...

Cholthira dẫn Luong Vicit Vaathakaan - một trong các nhà sử học hàng đầu, nổi tiếng của Thái Lan coi các nhóm Khom (Khmer)-Lava-Môn là 3 nhóm người bản địa tương tự nhau của vùng lục địa Đông Nam Á, trong đó người Lava là cư dân bản địa không chỉ của miền bắc Thái Lan mà còn của cả Thái Lan và một số vùng của Lào hiện nay. Ba quốc gia cổ của người Lava trước khi có sự bành trướng và thống trị của người Thái, Khmer là:
  • ang hay Yonok với trung tâm là Mường Ngeun Yang nằm bên sông Mêkông, tức ở phía bắc Chiềng Sén ngày nay, lãnh thổ của Yonok xưa gồm toàn bộ vùng bắc Thái Lan ngày nay.
  • Dvaravati (thế kỉ 4-11) với Nakhon Pathom là trung tâm, Lavo (Lopburi) và Siam (Sukhotai) là hai thuộc quốc [7]chính.
  • Gotarapura/Phanom=Funan (Hán)= Phù Nam (Hán-Việt) có Nakhon Phanom là trung tâm và lãnh thổ bao trùm hai tỉnh Udon Thani và Nakhon Ratchasima ngày nay.
Cũng theo Cholthira, thành phần tộc người của Dvaravati hiện là vấn đề còn gây tranh cãi. Đa số học giả dựa vào những bi kí chữ Môn tìm được trong vùng, từ lâu đã tin rằng coi Dvaravati là vương quốc của người Môn. Kachorn (1964) đoán nhận cư dân Dvaravati là một dạng Proto Thái, nhân tố làm cho người Thái đến sau này dễ dàng thâm nhập vào tầng lớp thống trị và từ đó biến vùng châu thổ sông Menam thành xứ Thái. Tuy nhiên, một số học giả hàng đầu Xiêm như hoàng tử Damrong, Luang Vicit lại coi cư dân cổ nhất, chiếm đa số của Dvaravati là người Lava.

Condominas cũng cho rằng “các tổ chức chính trị Lava có vị trí quan trọng hàng đầu ở vùng bắc Thái lan và nam Miến Điện [8] hiện nay, trước khi người Môn nắm quyền lãnh đạo và trở thành những người duy nhất xứng đáng được ghi lại trong các văn tự chính thức bằng tiếng Pali”. Ratanakul dẫn ý kiến hai học giả Thái khác là Sisavat và Khanthatthatbamrong coi người Lava là chủ nhân của vùng phía bắc bán đảo Vàng (Mã Lai) trước khi người Thái di cư từ Trung Hoa tới [9] ...

Riêng Cholthira cũng cho rằng vương quốc Dvaravati thực tế bao gồm nhiều tiểu quốc Lava bởi tên của thành phố Lop Buri - trung tâm của Dvaravati được ghi trong tiếng Pali là Lavapura=Thành phố Lava cho thấy tộc người chủ thể là Lava. Vị vua của Lop Buri được gọi là Lavoraja/Lavomaharaja (Vua Lava/Vua lớn Lava) trong khi vua của cư dân bị coi là man di phía bắc cũng được gọi là Milakkharaja/Lavaraja (Vua của người Milakkha/Lava). Trong biên niên sử, từ tên vị vua đầu tiên là Pu Cao Lava Cok với vợ là Ya Thao Lava Cok, các con trai cai quản các mường Sathuang, Khvang, Khiak là Lva Kumbho, Dassa Lakkho, Lva Gandha đến tất cả các vị vua của triều đại cuối cùng Lava Canka Raja (năm 638 sau CN), đều gắn với từ Lava và các biến thể của nó.

Mặt khác, cũng theo Condominas, Ratanakul, Lua/Lavia là tên tự gọi đồng thời cũng là từ chỉ tầng lớp bình dân Lava.

Dễ thấy, dù các tên gọi trên đều ít nhiều Pali hóa thì tên gọi tộc người Lava/Lavo/ Lua vẫn được bảo lưu trong tên gọi ông bà tổ/vua chúa, người dân Lava. Điều này tương ứng với các tên Lạc Long (tổ tiên huyền thoại của người Việt), Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng, Lạc dân...của người Lạc Việt xưa, dù đã được Hán hóa vẫn bảo lưu yếu tố Lạc. 


3. Yang=(Văn) Lang, Ngan Yang=An Dương (vương), Yunok=Âu Lạc?

Trở lại với tên của 3 quốc gia cổ của người Lava nêu trên, đáng chú ý nhất là tên Yang/Yonok.

Hill coi Yonok=thành phố của người Yuan song cũng giải thích Yonok vốn là từ chỉ người Yuan/Yon/Yan, sau trở thành từ chỉ thành phố, khu vực. Tuy nhiên, ông cho rằng đó là từ Thái lai Pali và chính Yonok, chứ không phải Sukhothai là vương quốc đầu tiên của người Thái ở Thái Lan [10] .

Điều đáng nói là tên nước Yang gợi nhớ đến tên nước Ya Yang chuyển sang âm Hán -Việt là Văn Lang/Dạ Lang/Việt Thường của người Lạc Việt; còn tên gọi Yuan cũng trùng hợp với tên gọi Yuan/Doan/Duôn là một tên gọi người Việt từ người Khmer và các tộc Tây Nguyên. Tên nước Yang cũng có thể liên quan tới tên Dương Việt (Yang Ya) vốn cũng là một tên gọi của nước Âu Lạc từ người Trung Hoa [11] .

Mặt khác, tên thủ đô của vương quốc Yonok là Ngeun Yang cũng gần như trùng với tên hiệu của Thục Phán là An Dương (âm Hán-Việt, H-V)=Ngan-Yang (âm Bắc Kinh, BK), đồng thời tên gọi nước Yonok hay một biến âm của nó là Yonaka rõ ràng rất gần với tên gọi nước Âu Lạc (H-V)=Ou Lo (BK). [12]

Đặc biệt, theo Jumsai trong sử biên niên Thái cổ, Yonok là một quốc gia-thành phố ở đâu đó tận Sipsong Chau Tai (tức Tây Bắc Việt Nam) [13] .

Một câu hỏi đặt ra là: phải chăng Yang-Yonok chính là sự phục hưng, hồi cố lại Văn Lang-Âu Lạc của con cháu vua An Dương khi bị mất nước đã phải chạy về miền trung, qua Lào, sang bắc Thái lan?

Hiện tượng cư dân của một tộc người vì những lí do nào đó phải di cư, di tản đến vùng đất mới lấy lại tên đất nước, nơi ở cũ là hiện tượng phổ biến toàn cầu từ xa xưa cho đến tận ngày nay.

Theo Cholthira [14] người Tai Yuan đã cai trị người Lava từ năm 112 tr CN đến năm 638 sau CN (có lẽ đúng hơn là người Yuan đã lập nước ở vùng này từ năm 112 tr CN) trong khi nước Âu Lạc bị mất vào tay Triệu Đà vào năm 180 tr CN, như vậy Yonok được lập sau khi Âu lạc mất.

Theo Ratanakul [15] một thủ lĩnh Va nói rằng tộc Va/Lava đã hàng ngàn năm trước di cư dọc theo sông Mae Ping về phía bắc và đã định cư từ lâu ở vùng Chiềng Mai ngày nay. Trên bản đồ, chúng ta thấy hạ lưu Me Ping gần với vùng Nghệ An - theo truyền thuyết là nơi vua An Dương sau khi chém Mị Châu đã được thần Rùa Vàng đưa xuống biển và là nơi được nhiều học giả coi là quê hương của nhóm Vietic. Đặc biệt, vương quốc Lava Phanom/Phù Nam có thủ đô Nakhon Phanom với lãnh thổ bao trùm hai tỉnh Udon Thani và Nakhon Ratchasima vùng đông bắc Thái Lan chính là vùng sát với tỉnh Khammuon của Lào nơi có nhiều tộc thuộc nhóm Vietic.


4. Yuan-Mường

Theo Hill [16] người Thái Lanna, tức người Thái lai Lava tự gọi là Khon Yuan và Khon Muang tức trùng khớp với Yuan/Duôn là một tên được gọi của người Việt và Kon Mon /Muan/Mường là tên tự và được gọi của người Mường.

Cholthira khi muốn chứng minh Dvaravati là vương quốc của người Lava hơn là của người Môn đã nêu ra lí do rằng, trong những biên niên sử Lanna đầu tiên, không có nêu tên Mon mà chỉ có Lava và Meng như là hai cư dân bản địa. Nhưng thực ra, Meng/Mang là những biến thể của tên gọi của người Môn và người Mường.

Cụ thể, theo Đặng Nghiêm Vạn, Mang là một tên của người Thái chỉ người Mường dựa vào tên tự gọi của người Mường là Mon, Muan [17] . Trong “Quắm tố mướng” cũng hay nhắc đến “đất Mọi đất Mang”,”người Mọi, người Mang” (lối nói láy trong đó Mọi=Mang). Tên này cũng rất gần với: Rmang/Ramang=một tên cổ của người Môn [18] .

Dù sao, sự trùng hợp các tên gọi trên càng có ý nghĩa nếu đặt nó trong một loạt mối quan hệ giữa Yang-Văn Lang/Nha Lang và Yonok-Âu Lạc. Rất có thể, đó chính là mối liên hệ vừa từ hiện thực lịch sử vừa trong tiềm thức và ý thức của những tộc người cùng cội nguồn.

Việc các học giả không thống nhất chủ nhân của Dvaravati là Môn hay Lava có thể giải thích bằng sự phân hóa Lava-Mon, tương tự với sự phân hóa Việt-Mường vào cùng thời gian đó, chưa hoàn toàn rõ rệt.


5. Nha Lang-Samang, Khun-Cun-Hùng, Thao-Tạo

Theo Kunstadter, samang/khun=dòng họ thủ lĩnh ở một làng Lava nói chung; lam=người già nhất dòng họ cai quản mọi công việc tín ngưỡng của dòng họ-làng [19] .

Condominas [20] cho biết thêm: samang là từ chỉ dòng họ hoàng gia, quí tộc, thày mo cao cấp, người gìn giữ văn hóa Lava. Tuy nhiên, chỉ có một trong số những con trai của một samang được kế thừa danh hiệu samang, những người khác được gọi là kun. Dưới samang là lam-thày cúng cấp thấp. Tương tự, chỉ có một con trai của lam trở thành lam như bố. Dưới lam là lua=bình dân. Đó là 3 đẳng cấp thế tập truyền đời của người Lava...

Theo Cholthira [21] người Lava có ông bà tổ là Pu Cao Ya Thao Cok và Ya Thao Lava Cok; có một vị vua hiệu làKhun Vilanga mà theo Condominas còn được ghi là Kun Luang Wilangka, Virangkha...

Ratanakul [22] dẫn tư liệu của công chúa Thái lan Rangsit theo đó xã hội Lava ở làng Umphai, tỉnh Chiềng Mai vào năm 1969 gồm 4 đẳng cấp: samang=hoàng tộc, lam=chức sắc, korit=thày cúng, lavua=bình dân.

Trong xã hội Mường cổ, theo Trần Từ [23] , Nha Lang=đẳng cấp thống trị; Lang Cun (Kun)=con trai cả chi trưởng trong dòng họ Nha Lang; Lang Tạo /Đạo=con trai cả các chi dưới; Kem=người bình dân giúp việc cho lang/quan của vua Trời trong Mo Mường; Mon=đẳng cấp bình dân-bị trị.

Có thể thấy: (Nha) Lang (Mường) tương ứng với (Sa) mang (Lava) do cùng gốc Ya Yang và tương ứng với Quan (Lang=con trai quí tộc và Mi (Nương /Nang (=Lang(Vua) Hùng (Việt)=(PuKun/Khun (Lava); Kem (Mường)=lam(Lava); Tạo/Đạo (Mường)=Cao/Thao (Lava) liên quan đến phụ đạo (H-V); cách gọi Mon (Mường) tương ứng với tên gọi tộc người -bình dân Lua (Lava) và với Lạc dân (H-V)...


6. Khun Chương-Hai Bà Trưng

Cũng theo Cholthira [24] , vào triều đại cuối cùng của vua Lava Canka Raja (thế kỉ VII), hoàng hậu Mea Ku (Mẹ Cu) đã được giao cho việc trị vì nước Lanna với niềm tin rằng đất nước sẽ chống lại được sự bành trướng của người Miến nếu triều đình gìn giữ truyền thống cổ. Trong lễ lên ngôi vua, một trong tục cổ mà Mea Ku phải tiến hành là làm lễ “phiithii suup chataa Khun Chương”(?) để trở thành Chương, người được tin là có thể giải quyết được cơn khủng hoảng chính trị của đất nước (TĐ nhấn mạnh).

Ta không thể không liên hệ phong tục này với việc Hai Bà Trưng Trắc-Trưng Nhị đã là hai nữ thủ lĩnh-vua đầu tiên lãnh đạo người Lạc Việt đứng lên chống nhà Hán dành độc lập cho nước Việt trước đó 600 năm (39 sau CN), vì không còn nghi ngờ gì nữa, Trưng chính là biến âm của Chương.

Tại nước Việt, cũng với truyền thống đó mà Trương Hống và Trương Hát đã trở thành tên gọi của hai vị thần sông có biểu tượng là rắn nước được nhân hóa với tên dân gian là Ông Dài - Ông Cụt, được phong làm là thần làng của nhiều làng thuộc 172 xã ven sông Cà Lồ, sông Thương, sông Cầu, hay còn được gọi là Thánh Tam Giang. Theo truyền thuyết, hai ông là hai vị tướng của Triệu Quang Phục-tức Dạ Trạch vương/Triệu Việt vương (thế kỉ 6). Khi Triệu Quang Phục bị giết, hai ông không theo Lí Phật Tử và tự vẫn, trở thành thần hiển linh báo mộng-âm phù cho vua Ngô Quyền đánh giặc Nam Hán, được Nam Tấn vương (951-965) phong là Đô hộ quốc thần vương (Vua thần hộ nước), sau giúp Lê Hoàn và Lí Thường Kiệt đánh Tống (bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư..” được nói là được vang lên trong đền của hai Ngài).

Tạ Chí Đại Trường, khi viết về hai vị thần này cho rằng ”sức mạnh thiên nhiên có công phù trợ nhà nước như thế, đã được nhân thần hóa thì phải mang họ của người và tất nhiên phải là họ tôn quí. Nhưng ông đã ”không hiểu vì sao họ Trương lại là tôn quí lúc bấy giờ”? mà chỉ biết đó là họ tôn quí “qua một bằng chứng của thế kỉ XII: Mùa đông tháng Giêng âm lịch (1129), thái uý Lê Bá Ngọc, người được Lí Nhân Tông vời đến khi hấp hối, được trấn giữ cung điện đề phòng bạo loạn khi Thần Tông-lên ngôi, con người nắm trong tay vận mệnh của dòng họ đương quyền như thế, được phong chức Thái sư và được đổi làm họ Trương” [25]

Một lần nữa ta thấy ý nghĩa tâm linh của danh hiệu Chương/Trưng/Trương-một truyền thống đã được người Việt và người Lava bảo lưu hàng ngàn năm lịch sử.


7. Mị-Mê-Mệ

Vùng bắc Thái Lan, đất cũ của người Lava-Môn đầy các địa danh bắt đầu bằng từ Mae (Me) như tỉnh Me Hong Son, huyện Me Sariang, Me Ping, vùng Me Amlan, Me Cham.v.v. liên quan tới các tên sông có tiền tố Me như Meping, Mekong...Tên gọi Me Ku-nữ hoàng Lava được phong Khun Chương cho thấy Me (Mẹ) ít nhất cũng là từ chỉ hoàng hậu, công chúa Lava tương ứng với Mị của Mị Châu, Mị Nương (công chúa con vua Hùng, Thục); xa hơn tương ứng với Mi được coi là họ (đúng hơn là từ đi trước tên riêng) của người Lạc Việt .

Tên gọi Mê/Mi linh - thành đô của Hai Bà Trưng; tên sông Mạ/Mã ở vùng Đông Sơn rất có thể những hồi âm vang vọng nhất và cuối cùng của việc dùng các từ chỉ Mẹ chỉ địa danh - một truyền thống Môn-Lava.

Sau này, triều đình Huế không ngẫu nhiên dùng từ Mệ để chỉ người trong hoàng tộc cả đàn ông và đàn bà. Cần nói thêm văn hóa Huế còn bảo lưu nhiều yếu tố văn hóa Việt-Mường cổ. Trần Từ (1996) đã từng chứng minh món ăn Huế, kể cả món ăn “trong Nội” (trong cung đình) là món ăn Mường, hay có gốc món ăn Mường.


8. Me Ku-Chăm Đêvi-Dương Vân Nga-đạo Mẫu

Hệ thống xã hội Lava là một hệ thống lấy người mẹ - người đàn bà làm trung tâm [26] tức mẫu quyền, mẫu hệ, cư trú đằng vợ... Ya Thao Lava Cok=bà vua tổ Lava là người chia đất phân mường cho các con trai. Như trên đã nói, một hoàng hậu chấp chính Lava có tên Me Ku. Một nhân vật nổi tiếng khác là Chăm Đêvi - nữ hoàng gốc Lava được coi là người đã sáng lập ra kỉ nguyên mới cho vương quốc Môn Haripunjaya (Lamphun) thế kỉ VIII bằng cách tiếp thu Phật giáo...

Truyền thuyết về việc 50 con trai theo Mẹ Âu Cơ ở lại vùng núi, lập nước Văn Lang; về việc Trọng Thủy ở rể nước Âu Lạc và Mị Châu được giữ nỏ thần; hiện tượng Hai Bà Trưng, Bà Triệu cùng các nữ tướng lãnh đạo những cuộc khởi nghĩa đầu tiên dành độc lập; vai trò của nhà vợ Ngô Quyền đối với sự nghiệp của Dương Đình Nghệ; việc Thái Hậu Dương Vân Nga chấp chính thời Tiền Lê trong mối quan hệ đặc biệt với Lê Hoàn...và đặc biệt đạo Mẫu của người Việt rõ ràng đều phản ánh hệ thống đó.


9. Lava-Lao-Giao-Keo-Swa-Java

Condominas [27] dẫn Finot cho biết: có một thời điểm trong lịch sử của Luông Phrabang(?) ”người ta thấy xuất hiện một triều đại của các thủ lĩnh Kha” (tức những người mông muội) do Khun Swa (Java) sáng lập lên, sau đó bị kẻ chinh phục người Thái là Khun Lò cướp đoạt mất(?). Tên của vị vua Kha đó được đặt cho đất nước: Muon Swa hay Java. Nước này cũng còn gọi là Lan Xan, không biết nguồn gốc từ này ở đâu”. Finot còn giải thích Java là tên được ghi trên tấm bia của Rama Khamheng... Dựa trên các nguồn tài liệu Trung Hoa, Tatsuo Hoshino cho rằng Java đó là một nhà nước đóng vai trò chủ chốt trong lúc giao thời của lịch sử Khmer và rồi người ta gán cái tên Java đó cho một hòn đảo lớn [28] .

Theo Parkin tộc Kala /Hkala thuộc nhóm Palaungic ở Vân Nam và Mianma có tên tự gọi là Ss-va [29] .

Như vậy, Swa=Sawa=Ssva=Java=Lava=Kava=Kala. Vương quốc của người Lava với vị vua mang tên Lava đó chính là tiền thân của nước Lan Xang của người Lào.

Trong khi đó, các tên gọi quận Giao châu, người Giao chỉ, Keo (=người Việt) cũng là những biến thể của Lava/Lao.

Nguyễn Gia Phu đã chứng minh các tên gọi quốc gia cổ ở vùng tây Bắc-Thượng Lào Ai Lao=Lão Qua=Nam Chưởngvà Nam Chưởng=Lan Xang [30] .

Dễ thấy, Lão Qua (cũng như Qua Oa) là một phiên âm Hán Việt của Lava. Đáng chú ý, Nam Chưởng không chỉ gần gũi với Lan Chang mà còn cả với Lạng Chượng=thủ lĩnh /ông tổ Thái Đen và nước Nam Cương trong truyền thuyết “Chín chúa tranh vua”.

Ceodès đã chứng minh ở thế kỉ 16 tên gọi Lan Chang (Lan Xang)=Triệu Voi mới xuất hiện.Tên gọi này tương ứng với Lanna=triệu ruộng - tên nước của người Thái Yuan tức Thái gốc Lava. Theo tôi, rất có thể cả hai tên Lan Chang và Lanna đều là sự Thái hóa cả về âm và nghĩa của Ya Yang/Nha Lang-tên các quốc gia gắn với người Lava-Lạc Việt.


10. Yonok-Âu Lạc-Thục Phán

Nếu vua Hùng/vua Lạc là vua của nước Văn Lang của người Lạc Việt/Lava cùng với người Môn/Mường thì Thục Phán-vua nước Âu Lạc là vua của tộc người nào, từ đâu đến?

Sử sách Trung Hoa và Việt Nam cổ (Giao châu ngoại vực kí, Quảng châu kí, Việt sử lược, Toàn thư) coi Thục Phán là con vua Thục (thời Xuân Thu) từ Ba Thục đến. Học giả Trung Quốc Trần Tu Hòa (1944) cũng cho rằng Thục Phán là con út hoặc con di phúc của vua Thục chạy tránh quân Tần đến Vũ Dương (Tứ Xuyên), rồi từ đó theo theo sông Mân Giang xuống Quí Châu, Vân Nam rồi lại theo sông Lô (Hồng) xuống chiếm Văn Lang. Đào Duy Anh về cơ bản đồng ý với Trần Tu Hòa, nhưng coi Thục Phán là cháu vua Thục còn sót lại sau một thời gian luân lạc ở Quí Châu, Vân Nam [31] ...

Nhưng, việc Lã Văn Lô (1963) công bố bản dịch truyền thuyết “Chín chúa tranh vua” do Lê Sơn phóng tác dựa trên truyền thuyết của người Tày, Nùng ở Cao Bằng một thời đã làm cho một số sử gia chuyển hướng, coi Thục Phán là vua nước Nam Cương ở vùng Cao Bằng, Quảng Tây của người Tây Âu -tổ tiên của người Tày -Nùng hiện nay(?). Nhưng một số học giả cũng nghi ngờ về điều này.

Dù trong cả hai trường hợp, Thục Phán đều có nguồn gốc Thái (nghĩa rộng bao gồm Tày-Nùng), nhưng chúng ta hiện có nhiều bằng chứng hơn để đoán định rằng Thục Phán là vua của một nước của người Thái lai Lava hoặc Lava Thái hóa (=Lự=Thái Đen=Ai Lao, tức gần gũi với người Lạc Việt) ở Vân Nam tương ứng với nước Tây Thục được ghi trong Hậu Hán Thư. Không ngẫu nhiên, Lua/Lự/Lặc/Lạc là những tên gọi của người Thái Sip song Panna-Vân Nam;La=tên gọi người Thái Đen ở Vân Nam; = họ vua chúa/quí tộc của người Thái Đen, Lào; người Mường gọi người Thái Đen là Rự

Cũng không ngẫu nhiên, dạng nhà Thái Đen có mái hình mu rùa rất gần gũi với nhà Va ở Vân Nam. Izikowitz - nhà dân tộc học Thụy Điển - coi Thái Đen là một nhóm gần gũi với người Lamet được Thái hóa [32] . Diffloth (1980) coi cả tiếng Lamet (hiện thuộc Khmuic) cũng thuộc Palaungic nhưng tên gọi Lamet/Khamet/Khamed cũng như văn hóa Lamet được coi là gần gũi nhất với người Khmu.

Mặt khác, theo Tanabe, Cao Cheng Yong-thủ lĩnh huyền thoại của người Lava thống lĩnh vùng Vân Nam đã trở thành một trong những thần bảo hộ chính của mường Hai -mường lớn thứ hai vùng Thái Lự Vân Nam hiện nay bởi người Thái là tộc người đến sau và đã hòa nhập vào với người Lava là tiền chủ vùng này... Rất có thể, người Côn Minh và tên thành phố Côn Minh hiện nay cũng có gốc từ Con Meng=Người Môn /Mường. [33]

Đáng xem xét ở đây là từ nguyên của Thục Phán.

Trần Quốc Vượng có lẽ dựa vào Cầm Trọng coi Thục Phán có gốc Tuc/To (đánh giặc, mở đất?) + Phắn /Phanh (mở đất mở mường)=thủ lĩnh đánh giặc, mở đất, mở mường trong từ vựng Tày-Thái cổ(?) trong khi Cầm Trọng lại dịch to túc phăn=người thống soái các đoàn quân chinh chiến thời cổ. [34]

Nhưng theo tôi, có nhiều khả năng hơn là Thục Phán=Shu pan (Hán) có gốc Chu Phen trong Chẩu/Chu phen đin/Chẩu phen căm=Chúa Đất/Chúa Người=lãnh chúa lớn cao nhất của người Lự (Chẩu=Chủ/Chúa,phen=1000=tượng trưng số nhiều, đin= đất, căm =người).

Ta biết chẩu/châu=chu, tương ứng với zhu (BK)=chủ (H-V) và có thể đã biến âm thành shu=Thục. Theo Lý Lạc Nghị - Jim Waters [35] chữ Thục (shu) trong Ba Thục có nghĩa gốc-tượng hình chỉ ấu trùng một loài bướm(?!) nhưng lại đồng âm với nhục=ai/người nào. Điều này cho thấy, tên gọi Thục tương ứng với chu/chau =người [36] .

Zhu Chang Li [37] cho biết chau phen din (Lự, Thái Đen)=zhao pian ling (Bái - một nhóm Thái) và trong tiếng Báizhao=vua/tộc người /khu vực /đất/ruộng.

Mặt khác, phen có thể gốc phan/pan/ban=1000 (Sipsong phan/pan na=12000 ruộng), từ đó phanđin=phanna chỉ lãnh thổ.

Như vậy, Thục Phán là vua của một nhóm hỗn chủng Thái-Lava từ phía tây bắc. Không ngẫu nhiên, trong ngọc phả đền Hùng viết Thục Phán là “bộ chúa Ai Lao” là một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Mặt khác, tên gọi An Dương (Ngan Yang) chắc hẳn cũng có quan hệ với các tên gọi nước Nha lang>Văn lang (có gốc Ya Yang); với nước Yelang=Dạ Lang ở tây Quí Châu cũng như đến tên Yuan >Yonok>Âu Lạc...

Có lẽ, điều này cho phép giải thích một loạt các hiện tượng: mối quan hệ thống nhất giữa văn hóa Dạ Lang, Điền (Thục Điền/Điền Việt) hay văn hóa Tấn Ninh ở Vân Nam với văn hóa Đông Sơn; sự tương đồng về cấu trúc giữa thành Cổ Loa và Xam Mứn của người Lự; các yếu tố Thái trong tiếng Việt... Điều này cũng phù hợp với thông tin của Jumsai về mối quan hệ Yonok (Âu Lạc)- Sip Song Chau Tay (12 châu Thái tức vùng Thái ở Tây Bắc Việt Nam); với quan điểm của Kachorn (1964) đoán nhận cư dân Dvaravati là một dạng Proto Thái; với sự trùng hợp tên gọi Yuan của người Việt, Thái Lanna, Lự và một bộ phận người Lào; với việc phần sông Hồng - con sông nối Vân Nam-Tây Bắc-Bắc Bộ Việt Nam ở bên Trung Quốc theo Kempers [38] được gọi là Yuan Jiang=sông Yuan... (ta biết hiện tượng tên sông gắn với tên tộc người rất phổ biến ở vùng Đông Nam Á cổ).

[1]Xem Tạ ĐứcNguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc -biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn”. Hội Dân tộc học và Trung tâm Tiền Sử Đông Nam Á xuất bản. Hà Nội 1999. Bài viết này, do đề tài đặc biệt của nó chỉ là một phần nhỏ rút ra trong cuốn sách, có rút gọn, sửa sang và cũng được bổ sung một số tư liệu mới. Bị tách khỏi tổng thể, bài viết có lẽ sẽ không tránh khỏi gây cảm giác bỡ ngỡ cho ai đó khi lần đầu tiếp xúc. Do đó, để hiểu rõ hơn một số điểm trong bài này (nhất là về mặt ngôn ngữ) mong bạn đọc có dịp đọc cuốn sách trên. Dù sao, mục đích của tác giả chủ yếu là xới lại “một vấn đề rất hay nhưng cũng rất khó” trong lịch sử dân tộc này để cùng tìm hiểu, trao đổi.
[2]Trong tên Lawa, âm w có thể là v/u/o, do đó Lawa >Lava//Lua/Lào. Tôi chọn cách ghi Lava. Tên gọi Lava /Lua/Lao...cùng với tên gọi Việt (Yue) suy cho cùng có gốc Ya cùng với Pu vốn là hai từ chỉ người cổ trong ngôn ngữ Tiền Đông Á có quê hương từ núi Himalaya, từ đó phát triển thành các hệ Hán-Tạng, Thái-Kađai, Nam Á, Nam Đảo. Chính hai từ đó là gốc của Bai Yue =Bách Việt, Bai Pu=Bách Bộc là tên người Hoa dùng chỉ các tộc khác ở Nam sông Dương Tử. Các biến âm của Ya là La/Nha/Ja/Cha/Xa/ Ka/Kha/Ta/Yang/Lang/Rang/ Nhang/ Chang/Yay/ Lay/Tay/Jay... còn lưu lại trong tên tự gọi của nhiều tộc người ở Đông Nam Á.
[3]Điều lí thú là trong tiếng Việt ở Hà Nội của những năm 60-70 có một cặp từ thường chỉ dùng trong giới trẻ để chỉ bố -mẹ là “ông bô-bà via” tương ứng với cặp ông bộc-bà việt (gốc Pu Ya) nếu bỏ thanh nặng và âm cuối c-t. Với từ Lạc Việt nếu bỏ âm cuối c, t sẽ cho La Vie gần đúng với tên tự gọi của người Lava. Tương tự, từ Liệt Ninh (H-V) bỏ hai âm cuối t, h sẽ cho âm Lie Nin gần đúng âm gốc Lenin. Một sự ngẫu nhiên?
[4]Cholthira Satyawadhna, Ethnic inter-trlationships in the history of LannaReconsidering the Lwa role in the Lanna scenario. Tai culture. Vol II, No 2. SEACOM. 1997, tr 15.
[5]Cầm Cường. Tìm hiểu văn học dân tộc Thái ở Việt Nam. KHXH. 1993, tr 23.
[6]Condominas, Georges. Không gian xã hội vùng Đông Nam Á (dịch từ tiếng Pháp). VH. 1997, tr 248.
[7]sub-states
[8]Nay gọi là Myamar - BT
[9]Ratanakul Suriya. The phonology of Lawa in SEA Linguistic Studies presented to A. G. Haudricourt. Bangkok. 1985, tr. (264-309)
[10]Hill Ronald. C. Where and what was Yonok ? in Proceedings of the 4th International Conference on Thai studies. Kunming. 1990, tr 286.
[11]Nguyễn Văn Tố. Đại Nam Dật Sử. Hội Khoa học Lịch Sử VN. 1997, tr 443.
[12]Về tên Yonaka xem Maspero. Eveline. Porée:, Etude sur les rites agraires des cambodgiens. Paris Mouton & Co La Haye.Tome 3 1969, tr 981.Về cách ghi Ngan yang=An Dương xem Aurousseau (1923:212), Chamberlain (1998:14). N.G.Phu (1992) cũng chứng minh Ngai Lao=Ai Lao do ai (Hán phương Bắc)=ngai (Hán phương Nam). Ta biết, ngay trong tiếng Việt Bắc và Nam bộ cũng có sự tương ứng ngoan-oan, nguyễn-uyễn. Trong trường ca Chương Han cũng có tên Mường Ngân Dang=Ngan Yang trùng với tên thủ đô Yonok...
[13]Jumsai Sumet. Naga-Cultural Origin in Siam and the West Pacific Singapore. 1989, tr 24.
[14]sđd:15
[15]sđd: 265
[16]sđd, tr 283
[17]Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái. KHXH 1977, tr 464.
[18]Parkin sđd, tr 61
[19]Kunstadter Peter: The Lua (Lawa)...of Maehongson Province, in Southeast Asian Tribes...Princeton University Press.1967, tr 656.
[20]sđd, tr 252
[21]sđd, tr18
[22]sđd, tr 265
[23]Trần Từ. Người Mường ở Hoà Bình. Hội KHLS VN. 1996, tr 10, 205.
[24]sđd, tr 14
[25]Tạ Chí Đại Trường. Thần, Người và Đất Việt. Văn nghệ -Caliorlia-USA. 1989, tr 57. Lịch sử không chỉ biết đến Hai Bà Chương Trắc Chương Nhị mà còn tới Chương Han, một anh hùng huyền thoại Khmu, Lào, Thái Đen; tới Mơ Trang Lơn (=Po Chương Lơn), một anh hùng Mnông thời chống Pháp. Danh hiệu Chương có quan hệ từ nguyên và ngữ nghĩa với Yang, từ chỉ thần linh trong ngôn ngữ của nhiều tộc người Đông Nam Á. Trong cuốn sách, tôi cũng đã chứng minh trong ngôn ngữ Việt, Chăm, Thái, nhiều từ chỉ dòng họ và họ, đặc biệt là các họ quí tộc có gốc là từ chỉ Người/tên tự gọi tộc người. Họ Trương là một cách chữ nghĩa hoá, từ đó Hán hoá danh hiệu Chương...
[26]matri-centred system
[27]sđd, tr 280
[28]có lẽ là đảo Java ở Indonesia. Không loại trừ người Java là con cháu của một nhóm Lava di cư. Java là đảo ở Indonesia tìm thấy nhiều trống đồng Đông Sơn nhất.
[29]Parkin Robert. 1991. A guide to austroasiatic speakers and their languages. University of Hawaii Press.
[30]Nguyễn Gia) Phu. Tìm hiểu các từ Ai Lao, Lão Qua, Nam Chưởng. NC Đông Nam Á. No 4. .1992, tr 68.
[31]Đào Duy Anh. 
Đất nước Việt Nam qua các đời...
 Thuận Hoá-Huế. 1994, tr 24.
[32]Parkin, sđd, tr 100
[33]Tanabe Shigeharu. Spirits and Ideological Discourse: The Tai Lu Guardian Cults in Yun Nan. Sojourn.Vol 3 No 1. 1988, tr 21.
[34]Cầm Trọng -Phan Hữu Duật. Văn hoá Thái Việt nam. VHDT. HN. 1995, tr 321.
[35]Lý Lạc Nghị & Jim Waters. Tìm về cội nguồn chữ Hán.Thế Giới. HN. 1997, tr 716.
[36]Về mối quan hệ từ nguyên giữa các từ chỉ Người-không gian tộc người (sông, núi, đất, nhà, làng, nước)-đại từ chỉ người-từ chỉ thân tộc-từ chỉ hồn ma-thần linh, tên tộc người-thủ lĩnh -vua chúa... xem Tạ Đức (sđd, phần III).
[37]Zhu Chang Li.. A research on Pong-an ancient Shan state in Proceedings of the 4th international Conference on Thai studies. Vol I-Kunming. 1990, tr 55.
[38]Kempers. A.J.B.. The Kettledrums of Southeast Asia. A. A .Balkema/ Rotterdam.1988, tr 263.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5.2000, Nguồn gốc và sự phát  triển của Kiến trúc-Biểu tượng và Ngôn ngữ Đông Sơn, Hà Nội, 1999. Bản đăng trên talawas có một số bổ sung của tác giả

 11. Thành Ốc: Cổ Loa -Lamphun...

Theo Condominas [1] công trình quân sự được gọi là “lăng mộ Lua” (kơvah Loh trong tiếng Karen) ở vùng bắc Thái Lan mà ông khảo sát có dáng gần gũi với các công trình hình tròn - một dạng thành bằng đất đắp của cư dân Môn-Khmer - cư dân nguyên thủy Đông Dương còn vết tích trên một vùng rất rộng ở Thái Lan, Cămpuchia, cao nguyên Thượng Lào, Nam Việt Nam.

Có thể thấy, thành Cổ Loa, kinh thành của nước Âu Lạc, còn được gọi là Kiển thành (thành hình kén) chính là một dạng thành hình tròn nói trên.

Theo Higham, thành Cổ Loa được dựng cùng thời với các thành đất đắp ở thung lũng sông Mun (Thái Lan) tức vào khoảng 400 năm tr CN đến 200 năm sau CN và giữa hai vùng có sự tiếp xúc trao đổi qua dãy Trường Sơn. Thành có nhiều vòng thành nhất hiện còn là thành Noen U Loke với 5 vòng. Đặc biệt, kết cấu thành Ban Chiang Hian rất gần gũi với thành Cổ Loa [2] . Tên sông Mun cho thấy chủ nhân vùng này là người Mun/Môn tức người Mường cổ.

Về mặt kiến trúc, thành Cổ Loa có lẽ là thành lớn nhất trong số các thành đất đắp hình tròn của cư dân Môn-Khmer cổ còn dấu tích dày dặc ở Đông Nam Á lục địa và Madagasca có niên đại cách đây 1500-2500 năm trong đó nhiều thành có đặc điểm tương tự thành Cổ Loa với sự kết hợp chức năng phòng thủ với chức năng chứa nước, dẫn nước, giao thông...

Vấn đề là, trong các sách tiếng Hán xưa của cả Trung Quốc và Việt Nam như Nam Việt chí (Cựu Đường thư), An Nam chí lược, An Nam chí nguyên, Việt Kiệu thư, Lĩnh Nam chích quái, Dư địa chí, Hoàng Việt dư địa chí, Đại Việt sử kí toàn thư thì thành được ghi bằng nhiều tên Hán Việt khác nhau là: Khả Lũ, Khả Lưu, Loa Thành, Côn Lôn, Tư Long, Quỉ Long...

Về tên gọi thành này có nhiều quan điểm.

Stein, khi xem xét mối quan hệ về mặt từ nguyên giữa các biểu tượng mang tính vũ trụ như quả bầu, hang, núi Côn Lôn trong văn hóa Trung Hoa và Việt đã cho rằng từ Côn Lôn có gốc klong (Tây Tạng)=rộng lớn, một thể hỗn mang, một làn sóng, mọi vật lượn sóng (ví dụ những nếp uốn của vỏ sò), sự rộng mênh mông về không gian và chiều sâu tinh thần, điểm trung tâm... Từ đó, thành Cổ Loa đã được dựng theo mô hình huyền thoại Côn Lôn với hình xoắn của vỏ sò...

Trong một cuốn sách năm 1990, ông cũng đưa ra các bằng chứng về việc Phạm Lãi khi dựng thành cho vua nước Việt Câu Tiễn cũng đã mô phỏng mô hình vũ trụ khởi nguyên - núi Côn Lôn tương ứng với với thiên văn (tượng của trời). Đặc biệt, ở phía mặt lớn của thành, Phạm Lãi còn cho dựng Qui Sơn=Núi Rùa có vai trò là “quái du đài” - tức nơi để xem bói mu rùa và quan sát thiên khí. ...

Cũng theo Steine, trong tâm thức Trung Hoa, núi Côn Lôn, nơi khởi nguồn của sông Hoàng Hà, cũng được coi là ngọn núi khởi nguyên và trong nhiều trường hợp được đồng nhất và chia sẻ nhiều đặc tính với núi Meru của Ấn Độ, núi Sumeru Tây Tạng.

Đặc biệt núi Côn Lôn cũng được quan niệm có 9 tầng (theo chiều dọc) hay 9 vòng quanh co hình xoáy ốc thể hiện 9 khúc quanh co của sông Hoàng Hà (theo chiều ngang). Đó là nơi trú ngụ của các con rồng bay lên trời cũng theo hình xoáy ốc. Tương tự núi Meru, Côn Lôn là cột trụ nối trời với đất, là trục của vũ trụ và của 9 tầng trời được dựng trên lưng rùa, nơi chứa đựng linh khí, nơi thành hôn của Phục Hi và Nữ Oa - cặp vợ chồng khởi nguyên vốn là hai anh em ruột và là ông bà tổ của người Trung Hoa.

Mặt khác, ông cũng vạch ra mối liên hệ giữa truyền thuyết Rùa Vàng giúp việc dựng thành Cổ Loa với quan niệm về vai trò trấn thủy, bảo hộ đê điều của các biểu tượng rùa-trâu-ốc thể hiện qua tục yểm hay ném xuống sông hồ tượng các con vật trên đúc bằng kim loại, tục thờ thần Trấn Vũ (Rùa=Huyền Vũ) ở Trung Quốc và Việt Nam; mối quan hệ biểu tượng và từ nguyên giữa rùa-trâu-ốc sên (rùa có hai cái bướu ở đầu như sừng của trâu và ốc sên, trong tiếng Hán ốc sên được gọi là ốc ngưu (H-V)... [3]

Trong mối liên hệ đó, theo Taylor, việc dựng thành Cổ Loa và truyền thuyết rùa vàng cũng gợi nhớ đến việc nhà Tần xây dựng Thành Đô ở Tứ Xuyên sau khi chiếm nước Thục một thế kỉ trước đó. [4]

Cần nói thêm, hình xoáy ốc tương ứng với hình cuộn tròn của mình rắn cũng chính là hình thế của núi khởi nguyên Meru/Sumeru/Himalaya cũng được coi là mô hình của các đền tháp Ấn Độ và Đông Nam Á cũng như của kim tự tháp của người Indien Aztec ở Mexico. [5]

Rõ ràng, việc dựng thành Cổ Loa theo sử sách có hình xoáy ốc với 9 vòng thành đã nằm trong một truyền thống chung của kiến trúc tiền sử nhân loại. Đó là tạo ra các công trình gắn với các huyền thoại khởi nguyên và mô phỏng một mô hình, một biểu tượng vũ trụ khởi nguyên....

Trong khi đó, Đào Duy Anh [6] , một mặt, coi tên gọi Loa Thành là “do người Trung Quốc đặt ra để gọi thành xưa của An Dương Vương mà tập truyền cho là hình xoáy ốc (loa=ốc), vì thấy nó có vòng trong vòng ngoài, được miêu tả là “có 9 lớp, chu vi 9 dặm”. Từ tên Loa thành đó mới có tên làng Kẻ Loa=người làng có thành Loa, có tên thành là Kẻ Loa rồi sau phiên âm thành chữ Hán là Cổ Loa/Khả Lũ”, mặt khác cũng ngờ rằng Loa thành với Kiển Thành (thành hình kén) do Mã Viện cải tạo là một.

Trần Quốc Vượng, tuy cũng mô tả “thành Cổ Loa gồm nhiều lũy đất quanh co xoáy ốc có kè đá” nhưng lại coi tên gốc của thành là Klủ>Chủ, liên quan tới các từ dân gian gọi Cổ Loa là Kẻ Chủ, thành Chủ; tên An Dương Vương là vua Chủ, trong đó Chủ=Chẩu=thủ lĩnh và tương ứng với vai trò kinh đô, nơi vua ở của thành, còn tên Cổ Loa thì chỉ là”một lời lí giải kiểu ông đồ” [7] ...

Bùi Văn Nguyên [8] khi coi Thành Đông/Loa Thành/Việt Vương Thành có thể ở xã Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, nơi cũng có đền An Dương Vương lại cho rằng tên Loa Thành =Thành ốc có thể là thành xây bằng gạch vỏ ốc chứ không chắc là thành có hình xoáy ốc vì ở chính vùng này ở dưới đất có nhiều vỏ sò, ốc kết thành tảng có thể dùng để xây tường thành chắc như gạch (!).

Mặt khác, Hà Văn Tấn cho hay: học giả Anh Davidson từ hiện tượng Rùa Vàng là thần bảo hộ cho thành Cổ Loa trong truyền thuyết Mị Châu -Trọng Thủy, cho rằng tên Cổ Loa rất có thể tương ứng với kara (Chăm)=kroa(Giarai)=kula (Proto IN)=rùa=kula/karac (Proto Nam Đảo) = con trai... [9]

Tuy nhiên, được biết: ốc=klo (Khmu)=lo (Proto Va, Lava)=lo (BK)=loa (H-V)... Điều này cho thấy tên thành Cổ Loa cũng như các tên gọi khác như Khả Lũ, Côn Lôn, Tư Long...có nhiều khả năng đều là sự chuyển âm Hán Việt của từ cổ klo với hai âm đầu k-l và nhiều nghĩa trong đó một nghĩa=ốc hiện còn được bảo lưu trong tiếng Khmu. Điều lí thú là nhiều địa danh quanh Cổ Loa như sông Cà Lồ, bến đò Lo, làng Lủ (Việt)= Kim Lũ (H-V)= tên làng Cổ Loa; vùng/huyện Phù Lỗ...và cả tên người làm nỏ thần trong truyền thuyết Loa Thành là Cao Lỗ ... đều có thể có quan hệ từ nguyên với klo.

Có thể thấy, từ klo/lo=ốc có họ hàng với một loạt từ chỉ sông nước, tiếp đó chỉ các con vật gắn với sông nước và trở thành các biểu tượng cho sông nước khác như klung (Tây Tạng cổ điển, Môn)=krong (Bahnar, klo (Karen, Toraja)=klu (Arem)= kung/kang/giang (H-V)=gang (Skr)= sông/kênh; >klu (Tây Tạng)=klu/khú (Mường)=rồng (Việt, Khmer cổ)=long (H-V)=vua rắn nước /cá sấu; klu (Mường)= tru (Việt Trung bộ)=trâu (Việt Bắc Bộ); ro (Mường)=rùa(Việt)=kroa (Giarai); khu (Mường)=cá sấu/rồng...

Tương tự, ya (Lê)=ia/ea (Êđê, Jarai)=ayar (Malay)=aek (Tạng -Miến)=he (BK)= (H-V)...=sông/nước >ya(Lê)=tha/xà (H-V)=naga (Skr)= rắn/rồng....

Cần nhấn mạnh rằng, trong ngôn ngữ Đông Nam Á cổ, các từ klu/klo... hay ya/đa/đak/nak... vốn là các từ có gốc từ chỉ Người (Pu-Ya), sau chuyển thành các từ chỉ sông/nước như một dạng không gian cư trú gắn với người, tiếp đó là từ chỉ các con vật biểu tượng cho sông nước rồi dần mới phân hóa thành các từ chỉ rắn, trâu, rùa, cá sấu, ốc, trai, rồng... [10]

Vấn đề là, theo Jumsai [11] , bình đồ của thành phố Hariphunchay (Lamphun) vào thế kỉ 7 và 8 sau CN có hình con ốc. Một biên niên sử Thái có tên gọi là Jamthewiwong cho biết, hai đạo sĩ là Vasuthep (hay Sutheva) và Sukkathanta chính là hai người đã thiết kế và xây dựng thành phố đó. Cả hai đã cùng quyết định coi hình ốc là hình dạng thích hợp nhất cho thành phố và nhờ một đạo sĩ thứ ba có tên là Phra Satchnalai tìm cho con ốc ở tận đáy biển làm mô hình mẫu. Khi thành phố Hoàn thành, hai nhà đạo sĩ mời Jamthevi, một hoàng hậu từ phía nam về cai quản. Sau đó, Jamthevi lại cùng với hai đạo sĩ dựng lên một thành phố khác có tên là Khelangnakhon hay Lampang ngày nay cũng có hình thù giống với vỏ ốc.

Ngoài ra, các thành phố khác trong vùng như Chiang Mai, Phrae cũng có hình vỏ ốc... Khi chuẩn bị xây dựng thủ đô Ayudhya (của người Xiêm), người ta cũng phát hiện được vỏ ốc ở lòng đất chính ở nơi dự định xây, và điều này được coi là một điềm lành. Người Xiêm coi vỏ ốc chính là biểu tượng chiến thắng của Narai, được coi là hiện thân của thần Visnu, vị thần chủ của naga. Cũng ở thời Dvaravati, vỏ ốc được coi là một biểu tượng của nước, sự phồn thực và được dùng trong các nghi lễ lớn của triều đình.

Chính ở đây, chúng ta cũng có thể kết nối từ Klo/Cổ Loa với từ Krung, từ đứng trước từ Ayudhya, tên thủ đô của nước Xiêm từ 1531 đến 1767. Jumsai [12] nhận xét: từ krung có gốc kreung (Môn)= sông/ kênh. Ai thống trị được sông nước cũng sẽ là người thống trị được đất nước và từ krung trở thành đồng nghĩa với nơi trị vì của vua chúa hay thủ đô.

Cũng cần nói thêm, trong khi tên các nhánh sông Hồng như Cà Lồ/Lô tương ứng với Klo thì một tên cổ của sông Hồng là Phú Lương, cũng như tên sông Đuống có thể tương ứng với krung /klung.

Vấn đề là, theo Condominas [13] : Lamphun chính là tên thành và tên một vương quốc của người Lava; Jamthevi, một biến thể của Camadevi/Chamtevi/Camdevi chính là một hoàng hậu gốc Lava (trong khi Coedes coi là người Môn) và đạo sĩ Vasudesa, cũng là người Lava, chính là cha nuôi của nàng; nàng là mẹ của hai vua Môn sau này là Haripunjaya (Lamphun) và Khelanga (Lampang)...

Như vậy, ta lại thấy có sự tương đồng về tính biểu tượng ốc giữa thành Cổ Loa của người Lạc Việt và tiếp đó của người Âu Lạc với những thành trì của người Lava-Môn-Xiêm (Thái lai Môn).

Điều lí thú là theo Parkin [14] Khalo/Kalo một thời cũng là từ người Việt gọi chung các tộc miền núi Quảng Bình thuộc nhóm Vietic và hiện vẫn là tên của một số nhóm Palaungic và Katuic. Như vậy không loại trừ đã có mối quan hệ “đồng thanh tương ứng” giữa tên gọi gốc của thành Cổ Loa là Klo với tên gọi tộc người Klo/Kalo cũng như với tên sông Cà Lồ/Lô của sông Hồng, con sông bồi đắp nền văn minh Việt cổ. Điều này lại cho phép kết nối quan điểm coi tên gọi Lạc=Lo/Lua=Người với các quan điểm: a- của Nguyễn Kim Thản -Vương Lộc (1974) coi Lạc=nác/rác/nước; b- của học giả Nhật Goto Kimpei (1975) coi Lạc=lạch, rạch; c- của học giả Lào Kham Banh (1994) coi Ai Lao có gốc Cẩu Lổng=Cửu Long=Chín Rồng... Cần nói thêm là người Toraja (Indonesia) có dạng nhà gần gũi nhất với dạng nhà sống võng trên trống Ngọc Lũ lại có từ klo=kênh /rạch...

Về Cao Lỗ, Tạ Chí Đại Trường [15] nhận xét: ”Truyện của Việt Điện U Linh... coi Cao Lỗ là bầy tôi của An Dương Vương nhưng (ông) lại là một vị thần được thờ cúng, trong khi An Dương Vương vắng mặt trên đền đài của các triều vua buổi đầu độc lập; ít ra thì tính cách thiêng liêng của Cao Lỗ đã nổi bật hơn, nếu không nói là khuynh loát An Dương Vương, nghĩa là sự thờ cúng Cao Lỗ đã là của truyền thống ăn sâu vào trong thời gian khiến con người quan tâm đến thần linh địa phương như Cao Biền... đã phải lưu ý mà lập đền thờ”...

Mặc dù trong văn cảnh của truyền thuyết, tên Cao Lỗ từng được gắn với Nỗ=nỏ song có nhiều khả năng hơn Cao Lỗ/Cao Thông chính là biến âm của Klo/Klong=tổ tiên-thần bảo hộ thành Cổ Loa có gốc Klo/Klong=sông/nước/ốc/rùa/trâu/rắn/rồng và đồng thanh tương ứng với tên tộc người Lava/Kala/Kalo=Lạc Việt. Không ngẫu nhiên, Cao Lỗ còn được coi là thần rồng đá (Giáp Mão Thạch Long). Sau này, vị thần-tổ tiên đó đã mang tên Hán hóa là Lạc Long Quân...

Ngoài ra, cũng có thể kết nối Cao Lỗ/Cao Thông với các từ Cổ Long, Côn Lôn là các từ trong sử sách Trung Hoa dùng để chỉ vua, quan đại thần, cư dân Phù Nam, Chăm, Khmer, Mã Lai... tóm lại các cư dân khác Hán [16] . Đáng chú ý ở đây là tên gọi này cũng lại trùng khớp với tên núi Côn Lôn...

Mặt khác, suy cho cùng rắn/rùa/ốc/cá sấu..., các hiện thân cụ thể của rồng cũng là các biểu tượng của vua chúa - chủ thành - chủ đất nước và ở trung tâm đất nước. Chính quan điểm này kết nối và thống nhất các quan điểm của Stein - Trần Từ - Trần Quốc Vượng - Davidson về từ nguyên Cổ Loa. Ngoài ra, việc truyền thuyết kể Rùa Vàng giúp Thục Phán xây thành, cho móng làm lẫy nỏ giữ thành cũng là một sự phát triển của mô típ rùa dạy người làm nhà trong huyền thoại khởi nguyên Mường.

Trong mối quan hệ đó, như một truyền thống, nhiều tên gọi thủ đô của nước Việt sau Cổ Loa không chỉ kế thừa truyền thống kĩ thuật mà còn cả biểu tượng rồng thể hiện qua tên gọi như Long Biên, Long Đỗ (Bụng/Rốn Rồng) và nhất là Thăng Long...


12. Trống đồng

Trong một chuyên khảo về trống đồng ở Đông Nam Á, Kempers [17] dẫn tư liệu từ nhiều học giả cho biết:
  1. Trống đồng (yàan) là nhạc cụ quí nhất của người Yuan Kammu (có lẽ một nhóm Yuan Khmu hóa) ở Lào. Từyàan (Kammu) rất gần với từ yang (Karen) và yang deang (dùng ở Thái Lan). Quan niệm phổ biến của người Kammu là trống đồng được mua ở Miến Điện, trống do người Lwa/Lva (Lava) đúc. Tại vùng Yuan ở Lào cũng có một làng Lva ...
  2. Trong đời sống xã hội và tín ngưỡng của người Lamet, trống đồng có vai trò rất quan trọng. Người Lamet tiếp thu từ chỉ trống đồng=klo từ người Karen và mua trống từ vùng bắc Thái Lan. Chắc chắn, người Lamet không tự đúc được trống mà mua nó từ người Niang - có thể là một nhóm Karen - ở Muong Kiem, gần Chiêng Mai Thái Lan...
  3. Người Karen thường nói họ mua những trống đồng cổ nhất từ người Yu ở Vân nam hoặc người Wakawtha (Vakaotha) hay Swa...
  4. Trống Ongbah (loại I Hegerl) được phát hiện ở hang Ongbah - tỉnh Kanchanaburi, vùng giữa hai con sông Me Khwae Noi và Khwae Yai, theo Parkin [18] vùng này là đất của người Lava.

Trong ba trường hợp đầu, tộc người đúc trống đồng được coi là Lva, Niang, Yu và Vakaotha/Swa. Ta đã thấy ở trênSwa=Java=Lua=Lava. Tên gọi Niang Yang của nhóm được ngờ là người Karen cũng gợi tới Lang có gốc Yang tương tự với Yuan>Yunok/Yonok. Tên gọi Yang của người Karen ở bắc Thái Lan cũng nằm trong trường hợp này. Không loại trừ đây là một nhóm Lava Tạng Miến hóa (tiếng Karen hiện được xếp hoặc vào nhóm Tạng Miến, hoặc vào nhóm Tạng-Karen thuộc dòng Hán-Tạng). Đáng chú ý là từ chỉ sông của người Karen, theo Hoàng Thị Châu là klo, rất gần gũi với từ chỉ sông của người Arem là klu cũng như với tên sông Cà Lồ, sông Lô, sông Lừ là những nhánh của sông Hồng gắn với các vùng đất Lạc Việt cổ. Trường hợp cuối cho thấy rất có thể chủ nhân trống đồng Ongbah là tổ tiên người Lava ở vùng đó. [19]

Như vậy Lạc Việt=Lava=Lão=Yang=Yuan là một tộc người có truyền thống đúc trống đồng nổi tiếng ở Đông Nam Á. Điều này lại tương ứng với việc theo Kampers [20] , khu vực Bắc Việt nam liền kề với nam Trung Hoa và Vân nam (đều là đất của người Lava/Lạc Việt xưa) được coi là ứng cử viên sáng giá nhất cho đến nay cho danh hiệu quê hương của những trống loại Heger I cổ nhất. Đáng lưu ý là các từ gọi trống đồng yan/yang/ klo lại gần như trùng khớp với tên gốc tộc người, tên nước, tên sông và tên thủ đô của người Lava-Lạc Việt.


13. Gừng

Cũng theo Cholthira [21] , trong lễ Songkran (lễ gốc Lava-Môn có cả ở người Lự Vân Nam), vua Chiềng Mai/Lanna cùng với triều thần từ hoàng cung ra sông, tới một thủy đình dựng giữa sông Me Ping, xuống sông tắm gội sạch sẽ rồi lên mặc trang phục truyền thống. Sau đó, các quan làm lễ té nước lên người vua cầu phúc. Trong dịp này, người Lava và người Yang (Karen) sống ở Mae Sariang và vùng phụ cận tới dâng tặng vua hoa, thuốc lào và điếu. Nhà vua nhận các lễ vật, hút thuốc. Một lễ vật đặc biệt khác là gừng. Theo quan niệm của người Lava, khi nhà vua nhai gừng và phun bã lên người họ, sẽ đem lại cho họ nhiều điều tốt lành.

Trong Mo Mường có đoạn kể khi đúc trống đồng không được, cho rằng trống bị ma ám, thợ đúc trống phải đi tìm gừng bỏ vào miệng nhai phun vào trống đồng để đuổi ma, nhờ đó mới đúc được trống [22] .


14. Quan hệ Vietic-Palaungic-Bahnaric- Katuic-Monic qua tên gọi tộc người

Theo Haudrricourt, vị trí đúng của tiếng Việt (hay của cả nhóm Vietic) phải là trong họ Nam Á, giữa nhóm Palaung-Wa (Palaungic) ở tây bắc và khối Môn -Khmer ở tây nam. [23]

Diffloth [24] coi nhóm Vietic gồm các tiểu nhóm: bắc (Việt, Mường, Nguồn); tây bắc (Toum, Lihà, Phọng/Cham); tây (Ahoc, Ahao, Ahlao); đông nam (Chứt, Rục, Sách, Mày/Cuối); tây nam (Aten, Thémaru, Arao/Ahao/Ahlao, Makang, Malang, Maleng, To’e); nam (Kri, Phọng, Mlengbrou).

Parkin [25] cho hay: nhóm Palaungic gồm các tộc Palaung, Puman/Bulang, Pouma, Riang/Lang/Yang, Mảng, Danaw, Wa/Va/Vu/Kava/Lave/Ravet/Krak, La, Khalok/Kha lo, Kala, Samtau (Xam tao), Kon Keu hiện ở Thái Lan, Miama, Vân Nam -Trung Quốc, Việt Nam.

Cần nói thêm, theo Nguyễn Văn Lợi [26] người Pơlju ở Quảng Tây có tên tự gọi Pơlju, được người Hán gọi là Lai /Hlai và được các học giả Trung Quốc xếp vào tộc Klao (Chú ý Lao=Lai=Lju và Pơlju=Klao). Tiếng Pơlju được Benedict xếp vào Vietic nhưng được N.V.Lợi và đồng nghiệp xếp cùng nhóm Palaungic cùng với tiếng Mảng.

Có lẽ, khối Môn -Khmer ở tây nam đó trước hết có nhóm Katuic, bởi theo Diffloth, trong hệ Nam Á, Katuic là nhóm gần gũi Vietic nhất và cách đây hơn 4000 năm có một khối ngôn ngữ Vietic-Katuic chung [27] .

Ngoài ra, theo tôi, có thể đưa nhóm Bahnaric vào khối Môn-Khmer ở tây nam trên dựa trên sự gần gũi cuả các từ cơ bản trong họ từ Người của nhóm này với nhóm Vietic.

Mặt khác, tên tự gọi và được gọi Mon /Mwon/Mol/Mwal/Mang của người Mường về cơ bản tương ứng với tên tự gọi của người Môn/Mun/Man (Monic) có gốc rmang/ramang/rmeng/rang/reng [28] cũng như với tên gọi người Mảng (Palaungic).

So sánh các tên gọi tộc người, bao gồm các biến thể và tên các nhóm địa phương của các nhóm Palaungic-Vietic-Katuic-Bahnaric-Monic ta thấy nhiều mẫu số chung:
  1. Từ Nha (Nha Chứt, Nhà Làng (Vietic)-Nha Kur (Monic) -Nha Hon-Langnha (Bahnaric).
  2. Từ Lang (Talaing/Môn = Kriang/Khiang (Katuic) = Taliang /Tariang /Triêng /Prang /Salang (Bahnaric) = Malang/Maleng /Mlengbrou /Nhà Làng /Salang /Xolang (Vietic) =Bulang /Palaung /Riang /Lang /Yang (Palaungic) =Rang (Monic)...
  3. Từ La/Lo và các biến thể của nó: Khalo=Chứt (Vietic)=Kaloq /Nor /Loar (Katuic)= Khalok /Khalo /La /Va(Palaungic) = Laya = Alak = Bri La = Zava = Ro (Bahnaric)...
  4. Từ KuoiCuối (Vietic)=Kui/Kuoy (Katuic)=Keu (Palaungic)=Kuoi/Kuy/Kui/ Kuoy=Người=tên tự gọi của người Pear (Khmerric).

Sự trùng giống tên gọi trong một chừng mực phản ánh một quan hệ cội nguồn, phân tán và đan xen của các tộc người trên.


15. Nhà, làng, giềng, mường

Ta có: nha/nya (Va-Lava)=nhà (Việt, Mường); lang (Lava)=hlang (Proto Va-Lava)=từ loại chỉ nhà (sau chuyển hóa thành từ chỉ làng trong tiếng Việt); yong/yung/yuang/yueng=làng (nhỏ) là gốc của giềng (từ Việt cổ)= làng trong từ ghép láng giềng và liên quan tới bồ chính /bồ đình (H-V)= chánh tổng (liên làng) của người Việt trước 1945 [29] 

Theo Cholthira [30] tên gọi các đơn vị hành chính Lava mà Yaa Thao Laawa Cok (bà tổ của người Lava) chia cho các con trai là Muang Sathuang, Muang Khwang và Muang Khiak.

Như vậy các từ chỉ những đơn vị xã hội cơ bản nhất của người Lava về cơ bản trùng hợp về cả âm và nghĩa với các từ Việt -Mường. Điều lí thú là tên gọi các mường Lava cũng rất gần gũi với tên gọi 3 trong số 4 mường lớn của người Mường ở Hòa Bình là Thang, Vàng, Bi (chú ý sự tương ứng b/p/k/kh).

16. Lúa, ruộng, cơm, gạo, cám, rau, thịt

Cũng theo Diffloth [31] hngo (Proto Va-Lava=PWL)=ngo (Va)=go (Lava)= (Việt Trung Bộ)=lúa (Việt Bắc Bộ); keng(PWL)=kơng (Lava)=ruộng lúa nước, vùng đồng bằng, đất nước; rngko (PWL) = kao /gao (Lava)= gạo; kam=cám;ti=thịt, tau=rau. Theo Ratanakul [32] : kuen som aop (Lava)=con ăn cơm với kuen=con, som=cơm, aop=ăn.

Có thể thấy: do sự tương ứng ng/g/n/l (ví dụ: ngáy/gáy, gái/nái) nên ngo=go=ló/lúa; keng /kung /kong có gốckrong/krung=sông và cũng tương ứng với ruộng (Việt) và roong (Mường), tương tự krong (Bana, Chăm)=kong (Hoa Nam cổ)=thông (Tày)=sông /kênh /mương tương ứng với từ kênh (rạch) trong tiếng Việt Nam Bộ. Ta lại nhớ đến một nhận xét của N.Từ Chi rằng “kiểu thủy lợi Nam Bộ (dựa theo chế độ thủy triều) ứng với (kiểu thủy lợi được) miêu tả trong “Thủy kinh chú” của người Lạc Việt” [33] . Không loại trừ do sự tương ứng r/l/d/t/th/s từ tồng (Thái)=đồng (Việt) cũng có gốc krong/rong. Cholthira [34] cũng cho biết cok (Lava)=cuốc (Việt).

Như vậy, từ chỉ các phương tiện sống quan trọng nhất của người Lava cũng rất gần với các từ Việt.

17. Các từ khác

Một sự so sánh nhanh từ vựng Lava/Vaic [35] với tiếng Việt hiện đại (chủ yếu là tiếng Việt Bắc bộ) đã cho thấy khá nhiều sự gần gũi (nhất là ở các trạng từ, tính từ và động từ khá cơ bản) giữa hai ngôn ngữ đã cách biệt hàng ngàn năm với nhiều biến động này. Các từ Vaic/Lava (bên trái) trong nguyên văn được ghi bằng kí hiệu ngôn ngữ học sẽ được chuyển về chữ latinh thông thường. Các từ được chọn là những từ của nhóm khác nhau nhưng gần gũi nhất với tiếng Việt (bên phải).
  • Tính từ và trạng từ: ngom=ngon ngọt, song=đắng, soy=thối, nga=ngấy, saic=(cảm giác) se se, sak=sặc (sụa),snga/sanga=sạch, te/đê= (gần) kề, ngai=xa (ngái), hlong/long=(cao) lồng lộng /(cao) vống, thiơm=thấp, rau=sâu,ngeng=ngắn, cia=xa, sa ngai=(xa) ngái, (c)yong = (nhẹ) nhàng, ngoic=ngột=nóng, long=lạnh, ek/iak=ít,hoen/hoh/hun=hơn (nhiều), yit /et = út /ít, ra/ya=to/lớn, pu=(dày) bự, rga=gày, hril=(mỏng) dính, teo=(bé) teo,nok=no, dem /tem=tém=ngắn, thấp (tóc tém=tóc ngắn) ngieng=ngắn, lang=lằng (nhằng) =dài, ling /lơin=lâu,nok/kro=no, sau=đau, hlat=nhát, ntuk/duk=đui (mù), rang=(rõ) ràng, eit/oet=mệt, hnge=nghén=có mang,hoc/hait=hết, sin=chín, plang=trong (sáng), sngal = xanh, pang=trắng (bong), khuat/kut=khụ= (người) già,soh=khô, tom/sam=đăm=bên phải, jie=dễ, som=đêm (tối), ndơ=(đù) đờ (câm lặng), kle=lười, rwuy/rawuy=(tóc) rối, long=lạnh, soh =khô, nhac=nhả/nhớt (trong cơm nhả=cơm nhão=nhiều nước), taip=thường, o=nỏ (Nghệ Tĩnh) =không, gat=rất, nhơ=nhé/nhớ (Bắc Bộ)=nghe (Nam Bộ)= từ ở cuối câu chỉ sự nhấn mạnh (đi nhé, đi nghe), ư/ơ=ừ/ ờ=vâng /dạ, nih=nghỉ (đợi)...
  • Động từ: ot/aik=ở, mah=là, koe/kay/kuy/koi=có, se=sẽ (trước động từ chỉ hành động trong tương lai),eah/aih=ăn, yu/nyu/nyau=nhậu (uống), tuat/nduat=nuốt, pu/bu=bú (tí), rmo /lomo = mơ (mộng), ho/hu=đi=họ (hiện chỉ còn là từ dùng để giục trâu đi), luen/lun=lượn (đi, lại), coi=quay (đi), ngaom=ngồi, lau/lao=nói,kok/goug=gọi, ke=cãi, mong=mảng (tiếng Việt cổ =nghe), hnge/ngeht=nghe, meh=mến, mong=mong (đợi),kaya=cười, rak=rên, ngan =ngắm, yo=ngó (nhìn), len=(trông) nom, yep/yip=díp (nhắm mắt), hum/haim=tắm,sak=giặt quần áo, gen=găm (giữ), tuk=tóm (tay), vung=vung (ném), len=ném, dơih =đá, dac=đạp (dẫm hạt),ci=xía (chọc), cok=chọc, toh/ta=giã (gạo), jieng=giành (giật), hloh=lấy, poh=mở, nghih =nghiêng, chong=chống (đỡ), kok=gọi, hit/het=hít, hngap=ngáp, mok=mổ, ceh=xé, taic=đặt, tek=đè, yin=ấn, yok/yuak=nhấc, puk=bục,ngom=ngồi, glak=la (liếm), haic=gãi, hok=hơ (làm khô), mok=ho, thok=khạc (nhổ), hol=nôn (mửa), tut=tụt (kéo), lot=rút, sat=(xát) chải, sak=giặt (quần áo), puk/bơk =buộc, jeng=ràng (buộc)= khâu, kah=cởi,jung/chong= dựng/chống, hong=hong (thổi nấu xôi, cơm), tang/tain=đan, peng=bắn, dut =đứt, suet/saviat=(xoắn) xuýt, hlat=nhát/sợ, nghlat=(doạ) nạt, dap=đắp/lợp (đường/mái nhà), kut=cản, kiat=cắn, hui-ik=húc,roh=rú (sủa), way/vay=vay (mượn), ros/roh=(chọn) lựa, hsam/sum=chăm=trồng (cây), da/thia=tãi /thia lia,ream=rẫy (cỏ), =nở (hoa), da=té (nước), so=đổ/xối (nước), pu/pun/peu=bay, mor=bò, gah/kah=(cho) gả,ceh=xé, mơn =mân (mê), klaie=quấy (đảo) ndah=đập, lih=lìa (rơi, đi khỏi), lah=(cắt) lát, haic=gãi, koic=cạo,soh=xới (cỏ), thơi=thắp (ngọn đèn), tuk=tắc (nghẽn), koic=cạo, bo=bỏ (thêm), tak=(tỉa) tót, baih=(được) bào (nhẵn), tok=tựa/giống...
  • Số từ: la/lay=hai, pon=bốn, lua/liah=sáu, satai/tai=tám, tim=chín...
  • Từ loại: ke/ka/kau/kai=cơ thể, từ loại chỉ người, động vật=con/cái /kẻ, plah=lá (loại từ cho các vật mỏng như lá cờ, lá bài).
  • Đại từ: no=nó, ma/me=má/mẹ, ba/pia/phia=ba (bố), me/mi/mai/ may=mi/mày, ta =ông /người già (Mường /Việt Bình Trị Thiên), meng/mouing=(vợ)= mình (trong cách gọi mình ơi), te=tê (Nghệ-Tĩnh)=( cái) kia=đi (từ cuối câu chỉ mệnh lệnh như ăn đi)...
  • Giới từ: ngraum/gruim=dưới, may/mai=mới=(cùng/với), seh=sệ (xuống)...
  • Danh từ chỉ bộ phận cơ thể: tai/tay=tay, kliak=nách, ngeune=ngón (tay), hna=nạ (mặt), mus/muh=mũi,spa/pa=má, kap=cằm, muang/moeng=miệng, tak/lak=lưỡi, ngok=cổ (gốc của từ ngóc cổ?), hak=da,wac/vaik=dạ (bụng), huk=tóc, siang=xương, hmaing/mem=móng (tay), hrang=răng, lmpan/mwa=vai,chuong/cuang=(chân) cẳng, nong=hông (eo), krong /kraung= (sống) lưng, tis/tơs /tơh=tí (=vú trong từ bú tí),viek=ruột...
  • Danh từ chỉ hệ thân tộc: ya=dạ/già (bà), kon/kun/kuan=con (cái), hsau/sou=cháu, o=chị cả (?), mlay/plia=(chàng) trai, ntoi=(trẻ) mồ côi...
  • Các sản phẩm văn hóa: king/kaung/kong=vùng, đồng bằng, ruộng lúa, kmme /lammi /rami=mía, nha/nya=nhà,sato=(lụa) là/sa, kra/kha=(đường) xá, klong/kraung=trống (kl=bl>tr), wic=(dao) nhíp, pleh/piao=lê (trong lưỡi lê)=cái lao, grai=chày, pol=cối, sa=cái (rổ) rá, tom=tấm (gỗ, bảng), mok=mũ, ntay/lai=(cái) váy, nge/ngai=ngày,nơm /num = năm, tang=chuồng (nơi nhốt súc vật), nting/teng=tường (vách), long=săng (quan tài),ramoit/ramaik=mồ/mả, hon=ống...
  • Các sản phẩm tự nhiên: maik=mây, sinum=sấm, rayong=cầu vồng, klong=sông, bing /mbơin =bùn,kte/kate=đất, nong/noung=rừng, doi=đồi (núi), mlong=(núi) non, rang/laang=hang, ka=cá, ktam=(cua) rạm, rich=(con) vích (rùa), so=chó, mok=bò, rok=cóc, sep=rết, tep=(bọ) chét, roy=(con) ruồi, ang=ong, mrung/maruin=rệp,si=chí (chấy), saơng= xởng (Mường) = thạnh (Nghệ-Tĩnh)=(con) rắn, rway/kawai=khái (Nghệ Tĩnh)= hổ,sim=chim, akou /sikau = chim bồ câu, lak/ak=quạ, kong=công, be/pe/le=dê, lik/lơic=lợn, klun/klơn=trăn, ryol = vượn, nga=ngà (voi), reng/rung=sừng, ti/to=thịt, ktom/tom=trứng, ko/kao/kau=cây, kak = cành, ple/plai=trái (quả), hla=lá, lo=vỏ (cây), kat=gai res/reh=rễ, bre/phre=(rừng) rú, khoi = củi (>khói), po=bó, bong=măng,phlo/phlu=trầu, phria/phrua=(cây) dừa, plong=tranh (lợp nhà), to=lỗ/tổ (nghĩa gốc là cái lỗ), sa=(buổi) sáng...


Tạm kết luận

Nguyễn Từ Chi [36] trong một bài nghiên cứu về Vua Chủ (An Dương Vương) từng viết: “Tài liệu hiện có chưa cho phép nói chắc rằng người “cởi trần...xưng vương” ở nước Âu Lạc, cùng cư dân dưới quyền ông (tức người Âu Việt và người Lạc Việt) thuộc khối tộc người nào...”

Tuy nhiên, trong một bài giảng của mình [37] ông cũng viết:“tạm thời có thể kết luận”: trước Bắc thuộc có một cộng đồng người ở xa sông Hồng (có thể là Hán-Thái hay Tạng-Miến) đã đến vùng đầu tam giác châu (thổ sông Hồng), dựng nhà nước, xây thành Cổ Loa, người đứng đầu tự xưng là An Dương Vương [38] .

Về người Lạc Việt, những bằng chứng nêu trên tuy chưa cho phép “nói chắc” nhưng cũng cho phép tạm kết luận nữa rằng: người Lạc Việt (tổ tiên trực tiếp của người Việt) thuộc về khối tộc người Lava cổ, là tộc người chủ thể bao gồm người Môn (là tổ tiên trực tiếp của người Mường) đã dựng nước Ya Yang/Nha Lang/Văn Lang ở vùng Bắc Bộ Việt Nam như một trung tâm của khối Lava-Môn-Khmer của khu vực Nam sông Dương Tử. Trong khi đó, cần nói thêm, tuy người Âu Việt thuộc về khối Thái (có thể coi như là một khối Malay cổ gần gũi và đã Hán -Tạng hóa hoặc như một khối Hán Tạng đã Malay hóa) nhưng trước khi lập nước Âu Lạc đã có sự hòa nhập nhất định với khối Lava -Môn ở Vân Nam, Quảng Tây và là tổ tiên trực tiếp của các tộc Thái Đen, Lào, Lự và cả một số nhóm Tày -Nùng hiện nay [39] .

Đương nhiên, các điều tạm nói trên cần tiếp tục được chứng minh, nhưng điều cần nhấn mạnh ở đây là, trong việc xác định nguồn gốc tộc người, các tư liệu ngôn ngữ luôn có vai trò quyết định.

[1]sdd, tr 252
[2]Higham Charles.. The bronze Age of Southeast Asia. Cambridge Univesity Press. 1996, tr 217.
[3]Stein Roft. Jardins en miniature dextrême -Orient. BEFEO. XVII. 1937, tr 54,136; The world in miniature. Stanforf University Press. Califorrnia. 1990. Chú ý: trong nguyên văn viết ốc ngưu, theo trật tự từ tiếng Việt (?).
[4]Taylor K.W. The birth of Vietnam. University of California Press. 1983.
[5]Jumsai, sđd, tr 12, 20, 22
[6]sđd: tr 32
[7]Trần Quốc Vượng. Cổ Loa, truyền thuyết và lịch sử, trong Hùng Vương dựng nước, t 4, KHXH 1974
[8]Bùi Văn Nguyên. Dã sử nói về An Dương Vương. KCH.No 2. 1978, tr 67.
[9]Hà Văn Tấn. The citadel of Cổ Loa. Việt Nam News -Avril 4. 1999, tr 5.
[10]Một ví dụ điển hình cho hiện tượng từ chỉ người chuyển thành các từ chỉ không gian sống của người làbanua/panua/wanua/fenua/vanua... (các tộc Nam Đảo)=người /người bình dân /nhà/làng /thị trấn /thành phố /đất/đảo /lục địa /trời/thế giới /vũ trụ. Xem Benedict, Paul.K. 1975-Austro-Thai, Language and culture, with a glossary of roots. HRAF PRESS, tr 416. Waterson. Roxana. The living house-an antropology of architecture in South-East Asia.Singapo.1997, tr 92-3.
[11]sđd, tr 149
[12]sđd, tr 161
[13]sđd, tr 254-6
[14]sđd: 89, 105
[15]sđd: 38
[16]Maspero: sđd, tr 786
[17]sđd, tr 389-401
[18]sđd, tr 108
[19]Hoàng Thị Châu. Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông. Thông báo khoa học Văn học-Ngôn ngữ. T.II. GD. 1966, tr 98.
[20]sđd, tr 213
[21]sđd, tr 9
[22]Vương Anh (chủ biên): Mo Mường. VHDT. 1997, tr 1487.
[23]Haudricourt A.G. 1991. Vị trí của tiếng Việt.... T/c Ngôn ngữ No1.
[24]Dẫn theo Chamberlain. James.R. The origin of the Sek, implication for Tai and Vietnamese History. The International Conference on Tai Studies. Thailand. 1998, tr 9.
[25]sđd:105
[26]Nguyễn Văn Lợi. (đồng tác giả). Vị trí của tiếng Mảng. NN.No 3. 1998.
[27]Dẫn theo Nguyễn Tài Cẩn.. Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt. Giáo dục. 1995
[28]Maspero: sđd, tr 724
[29]Các từ Lava lấy từ Diffloth. G. The Wa languages, Linguistics of the Tibeto-Burman area. 1980, tr 99, 131.
[30]sđd, tr 13
[31]sđd, tr 99, 124, 97, 100
[32]sđd, tr 269
[33]Nguyễn Từ Chi. Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người. VHTT. 1996 , tr 422.
[34]sđd, tr 11
[35]từ tư liệu của Diffloth và Ratanakul.
[36]sđd, tr 168
[37]sđd, tr 423
[38]Từ Chi cũng đã có lần nhắc tới hiện tượng klu là từ chung chỉ loài rắn lớn có mào, được coi là vua nước - thế giới bên dưới của cả người Tây Tạng và Mường. Ta cũng đã thấy klo (Karen)=sông/trống đồng=klu (Chứt)=tên sông Cà Lồ/thành Cổ Loa và sự tương ứng mô hình Cổ Loa-Côn Lôn... Các nhân tố Thái-Hán-ạng-Miến trong việc dựng nước Âu Lạc, thành Âu Lạc chắc không chỉ có thế...
[39]Thực ra, quan điểm coi Lạc Việt=Lão đã là quan điểm có từ lâu của các học giả Trung Quốc, Việt Nam như Trần Tu Hoà, Từ Tùng Thạch, Vưu Trung, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn (theo Nguyễn Linh: Trở lại vấn đề nước Thục... trong Hùng Vương dựng nước, tr. 2, 1972, tr 194). Một khi Lava=Lao=Lão như đã thấy thì Lava=Lạc Việt chỉ là một hệ quả. Xét rộng hơn, tên gọi Lava có quan hệ nguồn gốc với nara (Skr)=người cũng như tên gọi các tộc Malava (Ấn Độ), Malaya, Java, Dayak, (To)raja (Indonesia); tên gọi Mon (Mường) có quan hệ cội nguồn với các tên gọi Munđa (Ấn Độ), Mian (Mianma), Môn, (Yu/Yao) Mien (Dao), Mong/Meo, Mian (quần đảo Banggai, Indonesia) đều có nghĩa đen=Người. Điều lí thú là tên gọi Lava/Lao/Va và Mon tương ứng với hai nửa tách ra từ Malava, Malaya và Yao Mien (ta đã biết tên Keo của người Việt có gốc Giao gắn với tên Giao Châu). Sử Trung Hoa gọi các tộc khác Hán vùng Lưỡng Quảng, Bắc Việt Nam, Vân Nam là Man Lão/Man/Lão, rất có thể là sự phiên âm tên tự gọi của họ là Malava/Mon/Lava/Lao. Ta cũng đã thấy chủ nhân của Dravati được học giả này coi là người Lava, học giả khác coi là người Môn. Rõ ràng, sự tách biệt Lava-Môn hay Việt-Mường đã diễn ra cùng với sự tách biệt tên tự gọi mang ý thức tộc người này.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5.2000, Nguồn gốc và sự phát  triển của Kiến trúc-Biểu tượng và Ngôn ngữ Đông Sơn, Hà Nội, 1999. Bản đăng trên talawas có một số bổ sung của tác giả.

Wednesday, 18 July 2012

Ý nghĩa Quốc hiệu Lạc Việt (Vũ Thế Ngọc)

Ý nghĩa Quốc hiệu Lạc Việt
* G.S. VŨ THẾ NGỌC

(Trích Đặc San Đền Hùng - Xuân Kỷ Tỵ 1989 - San Jose)
 Với các tài liệu Cổ Nhân học, Nhân Chủng học và Khảo Cổ học được phát hiện trong hai thập niên qua, thêm vào những nghiên cứu của các ngành khoa học khác từ Dân Tộc học, Ngôn Ngữ học cho đến các ngành Kim Loại học, Địa Chất học ... ngày nay người ta đã có thể mang thời đại Hùng Vương vào chính sử. Thành ra phạm vi của bài viết này chỉ hết sức khiêm nhượng như là một chú thích nhỏ của một luận văn lịch sử về thời dựng nước đầu tiên của Việt tộc.
Bài viết cũng không có những phát kiến nào mới lạ hơn là bổ xung và tổng kết những đề nghị, luận cứ của các học giả đi trước. Tuy nhiên nó cũng có một hy vọng là để chấm dứt những bài "sưu khảo" chỉ lập lại những ý kiến của Maspero, Lê Dư, Lê Chí Thiệp ... cách đây hơn nửa thế kỷ, hoặc tệ hơn nữa là các bài viết ca tụng mơ hồ cái gọi là "chim lạc".
 Từ Ngữ Hán Việt: Hầm Bẫy Các Học Giả
Một thời báo chí Sài Gòn đã chế diễu một ngài tổng bộ trưởng của Việt Nam Cộng Hòa khi ông ta nhầm Nhật Nhĩ Man (chữ Hán cũ phiên âm để chỉ nước Đức: Germany, German) là nước Nhật (Japan). Nhưng nhiều người không biết là chính "trò chơi" tương tự đã là hầm bẫy biết bao học giả Việt Nam và ngoại quốc trong vấn đề nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam. Bởi vì lý do duy nhất là tất cả tài liệu lịch sử của chúng ta đều viết bằng Hán văn, và một số không nhỏ các danh từ về nhân, vật, địa danh, danh xưng ... chỉ là chữ "ký âm" mà các vị không biết, chỉ chạy theo nghĩa tự Hán Việt.
 "Lạc" Theo Nghĩa Tự Hán Việt
Trở lại với các tài liệu viết về cổ sử Việt Nam, ta thử tìm hiểu khi viết về Lạc Việt, lạc điền, lạc hầu, lạc tướng ... người ta viết chữ "Lạc" như thế nào và với ý nghĩa gì.
Đầu tiên, Hán Thư (khoảng thế kỷ thứ nhất) dùng chữ  Lạc (mã + các), sẽ gọi là "Lạc bộ Mã", để viết chữ Lạc Việt. Thủy Kinh Chú của Lịch Đại Nguyên (đầu thế kỷ 6) là tài liệu cổ nhất có viết nhiều về sử Việt, có dẫn sách Giao Châu Ngoại Vực Ký (sách viết vào thế kỷ thứ tư, đã mất), thì viết là  Lạc (các + chuy), sẽ gọi là "Lạc bộ Chuy".
Đặc biệt chỉ riêng có các sử gia Việt Nam là viết chữ  Lạc (trãi + các), sẽ gọi là "Lạc bộ Trãi", như trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên đời nhà Lê (thế kỷ 15) (1)
"Lạc bộ Mã", sách Tống Bản Quảng Vận đời nhà Tống cho nghĩa là "Ngựa trắng, bờm đen" (2), sách nghiên cứu về Ngữ Nguyên học của Bernhard Karlgren cũng cho nghĩa "Ngựa trắng, bờm đen" (3), Karlgren với L. Wieger còn cho một nghĩa khác là con lạc đà (4).
"Lạc bộ Chuy", sách Quảng Vận chú nghĩa là chim Kỵ Kỳ. Chim Kỵ Kỳ (5) thì theo tự điển Từ Hải chính là chim cú mèo (otus sunia japonicus) (6), sách của Karlgren cũng chú nghĩa là một loại chim (7) cũng như sách của Wieger (8).
Riêng về chữ "Lạc bộ Trãi", chỉ riêng có sử gia Việt là dùng. Chữ này phải đọc là Mạch (âm Quan Thoại là Mỏ) chỉ một dân tộc (rợ) phương Bắc Trung Quốc, hoặc là Hạc (âm Quan Thoại là Hao) nghĩa là một loài chồn, badger, da dùng làm áo. Chúng ta sẽ hiểu tại sao chỉ có sử gia Việt dùng chữ này ở đoạn sau.
Với tất cả những nghĩa đó, ta thấy ngay không có nghĩa nào để chỉ dân tộc Lạc Việt, Lạc điền, Lạc tướng cho xuôi. Vì không thể nào người ta lấy tên chim cú mèo, vốn được coi như loài chim quái gở, (vì thế sau này người ta còn thay chữ "Lạc bộ Chuy" là cú mèo, thành "Lạc bộ Mã" trong các nhân danh, địa danh Trung Quốc). Trong tiếng việt còn có các thành ngữ xấu như: Mắt cú vọ, cú dòm nhà bệnh, cú kêu ra ma, cú đói ăn con v.v.... Nếu nói là vật tổ, thì từ trống đồng đến thần thoại chẳng thấy có nhắc gì đến cú mèo cả.
Về nghĩa "Ngựa trắng bờm đen" thì cũng tương tự, hơn thế nữa, bọn trí thức phong kiến Trung Quốc, với đầu óc hẹp hòi, tự tôn và thực dân đã luôn luôn dùng những chữ bộ khuyển (chó) để chỉ những dân tộc láng giềng (Duẫn, Qua, Dao, Lào, Đồng). Chính vì không thích chữ "chó ngựa" như vậy, các sử gia Việt mới dùng chữ "Lạc bộ Trãi" để thay thế (9). Vì vậy tại sao ta thấy chỉ có sử gia Việt Nam mới dùng chữ "Lạc bộ Trãi", và cố tình "phiên thiết" sai như vậy, để chỉ rõ đây chỉ là chữ ký âm.
 "Lạc" Là Từ Tố Tiếng Việt
Một hai học giả đã thấy được sự bất ổn khi truy nghĩa tự Lạc theo Hán văn. Người đi xa nhất là Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc trong bài "Thử Tìm Nguồn Gốc Ngữ Nghĩa của Từ Tố "Lạc" (10).
Như đã dẫn, sách Thủy Kinh Chú dẫn lại sách Giao Châu Ngoại Vực Ký là sách cổ nhất viết về sử nước ta viết như sau:
"Thời xưa khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, thì đất đai có Lạc Điền, ruộng ấy là ruộng (cầy cấy) theo con nước thủy triềụ Dân khai khẩn ruộng ấy mà ăn nên gọi là Lạc Dân. Có Lạc Vương, Lạc Hầu làm chủ các quận huyện. Ở huyện phần đông có Lạc Tướng. Lạc Tướng có ấn bằng đồng, (đeo) giải (vải mầu) xanh. Về sau con vua Thục đem ba vạn lính đánh Lạc Vương Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Con vua Thục nhân đó xưng là An Dương Vương" (11)
Khi thấy tất cả nghĩa Hán Việt của từ Lạc đều không thỏa mãn ý của chữ Lạc trong đoạn văn trên, thì người ta đồng ý ngay là từ "Lạc" phải là từ tố tiếng Việt. Vậy tiếng cổ "Lạc" có nghĩa là gì?
Nguyễn Kim Thản đã rất sáng mà đặt giả thuyết đó là chữ có nghĩa "nước". Tuy nhiên về chứng cớ, ông chỉ tìm được có một từ là "rạc" trong nước rạc (nước ròng), cạn rặc (cạn hết) (12). (Cũng nên biết chữ Rạc (nôm) dùng chữ Hán là "Lạc bộ Thủy" để ký âm). Thành ra phần phê bình của ông thì hợp lý, nhưng ông chưa chứng minh được giả thuyết mà ông vừa "thấy" được. Phần sau đây chúng tôi xin trình bầy để minh chứng rõ ràng "Lạc" đúng là "Nước".
 "Lạc" là "Nước"
Ta hãy nhìn vào bảng tiếng chỉ "nước của các dân tộc được coi là đồng chủng (?) sau đây:
BẢNG 1: Việt (hiện dùng): Nước - Mạ: Đa - Churu: Đạ - Koho: Đa - Nup: Đa - Muong: Đa - Bana: Đák - Sơ Đăng: Đák - Cua: Đaák - Xi Tiêng: Đaác - Mường: Rác - Việt (tiếng địa phương bắc Trung Bộ): Nác
(Nên nhớ vùng "tiếng địa phương bắc Trung Bộ" vẫn được các nhà ngữ học coi là nơi duy nhất còn giữ được nhiều tiếng cổ Việt)
Như vậy ta thấy rõ rệt Nác, hay Đák chính là cổ âm của từ "Nước".
Nay chỉ còn mấu chốt giải thích từ âm tự "Nác" biến thành "Nước". Chúng ta sẽ chứng minh có sự biến đổ từ âm "A" thành "Ươ" như Nguyễn Kim Thản đề nghị (13), ta có thể theo dõi các bảng so sánh sau đây:
BẢNG 2:
a) So sánh tiếng địa phương bắc Trung Bộ (cổ hơn) với tiếng địa phương Bắc Bộ: Nác - Nước, Náng - Nướng
b) Tiếng Mường (được xem là gần với cổ Việt) so với tiếng Việt hiện đại: Rác - Nước, Lái - Lưới
Đặc biệt là tiếng Việt hiện nay ta còn thấy rất nhiều tiếng tương đương đang được dùng lẫn cho nhau:
BẢNG 3:
Bang / Bương (Bương ra)
Chàng / Chường (anh chường)
Đàng / Đường (đường đi)
Đang / Đương (đương cai)
Nàng / Nường (nõn nường)
Nhạt / Nhược (nhường nhược)
Nập / Nượp ( đi nượp nượp)
Rám / Rướm (rướm nắng)
Rán / Rướn (rướn cổ)
Tan / Tương (rách tương)
Đặc biệt hơn nữa là những từ Hán Việt âm "A" cũng thường được "nôm hóa" bằng "Ươ"
BẢNG 4:
Khang / Khương (an khương)
Lạng / Lượng (một lượng)
Lang / Lương (lương đống)
Phang / Phương (phương hướng)
Phan / Phướn (cây phướn)
Phạt / Phược (thọ phược)
Thang / Thương (vua Thương)
Không những các âm "A" biến đổi với âm "Ươ" như trên, mà phụ âm L/N/R còn cũng có thể thay đổi lẫn nhaụ Thí dụ xem bảng 5. Nên nhớ R, Đ, N, L đều là âm Răng Nướu (Dental Alveolar) chỉ khác nhau ở độ cong lưỡi.
BẢNG 5:
Nác - Lạc - Rác
Năm - Lăm (mười) - Rằm (mười)
Nơi - Lơi - Rơi
Nép - Lép - Rẹp
Nung - Lung (lay) - Rung
Nỉ (non) - Lí (nhí) - Rỉ (rê)
Nêu - Lêu (...!) - Rêu
Ắt chúng ta còn biết một số lớn người không phát được âm L (ông Nái Nợn ...) Đặc biệt là tất cả dân Việt vùng biển Bắc Bộ đều phát âm L thành N.
Theo luật Ngữ học thì âm nào càng dễ đọc và được đại đa số người ta phát âm được thì càng cổ hơn. (Đó cũng là trường hợp đại đa số dân Việt Bắc Bộ không phát được âm TR (vì âm đó không có trong Việt Ngữ, là sự ký âm sai của các giáo sĩ ngoại quốc). Như vậy âm "N" chắc chắng phải có trước âm L.
Tuy nhiên cũng cần nên biết về Ngữ Âm học lịch sử từ nguyên học (Etymology) thì người ta chỉ chú trọng đến từ căn (root) còn các phụ âm đầu (prefix), phụ âm cuối (suffix) thì rất biến đổi theo thời gian và không gian. Cũng như chỉ chú ý đến Âm Tố (Phoneme) chứ không chú ý đến các ký hiệu ký âm.
Nhưng còn chữ Lạc nếu chỉ là ký âm thì người Trung Quốc đọc như thế nào ? Điều quan trọng là phải biết họ phát âm ở thời cổ như thế nào?
Thật may mắn, công trình nghiên cứu về cổ âm Hán đã được nhà Trung Hoa học nổi tiếng Karlgren nghiên cứu. Tra từ điển của ông ta thấy cổ âm hán đọc cả ba chữ Lạc (bộ mã, bộ chuy, bộ thủy) đều được đọc là "Lak" (14). (Ngày nay người Bắc kinh đọc là Lo). Khi nghiên cứu các bản văn Phạn ngữ ký âm bằng Hán tự, phát hiện được ở động Đôn Hoàng, chúng tôi đã kiểm chứng lại sự chính xác của Karlgren (15).
Thành ra chữ Lạc Điền chỉ là Ruộng Nước, chữ Lạc là chữ ký âm chẳng khác nào chữ Dã Thụ là cây Dừa (Dà là chữ ký âm của Dừa), Ba La Mật Thụ là cây B'La Mít (cây mít), Phù là Bìu (trầu) v.v...
Nhưng ruộng nước là ruộng gì? Có gì đặc biệt ở đó? Phải nên biết Hán tộc bắc phương, đất tổ là phía bắc Hoàng Hà chỉ biết trồng lúa mì (ruộng khô). Phương nam mới là nơi trưởng sinh ra phương pháp trồng lúa gạo (ruộng nước).
Muốn trồng được lúa gạo, con người phải đạt được trình độ văn minh cao hơn hết thẩy so với các hoạt động kinh tế nông nghiệp khác, vì họ phải biết tính toán được chu kỳ thiên văn, điều thủy .... bên cạnh các kỹ thuật như làm ra được lưỡi cầy và thuần phục được trâu (15b) (là giống vật duy nhất để cấy được ruộng nước, vốn là một con thú hoang dữ tợn và to lớn) v.v....
Vì vậy dân tộc đầu tiên làm chủ được ruộng nước, ắt phải kiêu hãnh lắm (so với tình trạng thời đó, thì còn hơn là các nước Âu châu trong thời gian "cách mạng kinh tế" của thế kỷ 19 nhiều). Thế mà dân Lạc Việt lại là dân tộc đầu tiên trên thế giới biết đến nó, cuộc khai quật của Wilheim G. Solheim, thuộc đại học Hawaii lại cho thấy sau khi thử phóng xa C-14, mẫu lúa của người Hòa Bình, cho niên đại là khoảng 3500 trước Tây Lịch, sớm hơn ở Ấn Độ và Trung Quốc khoảng 1000 năm, nơi mà người ta vẫn cho là quê hương của loại lúa trồng này (16). Solheim còn tin là nếu tiếp tục tìm kiếm người ta có thể tìm được mẫu lúa, chứng tỏ là người Lạc Việt đã biết trồng lúa hơn bốn ngàn năm trước Tây lịch (17). Cũng nên nhắc ở đây là qua các cuộc đào tìm này người ta đã minh chứng một số chứng liệu cụ thể khác như nền văn hóa Hòa Bình biết đến kim loại sớm nhất thế giới, biết làm đồ gốm sớm nhất thế giới .... (18). Nhà địa chất học Hoa Kỳ Carl Sauer từ năm 1952 cũng đã đặt giả thuyết chính người Hòa Bình biết đến nông nghiệp sớm hơn hết, giả thuyết này cho đến năm 1966 thì được các giáo sư của các đại học Otago (Tân Tây Lan), Hawaii (Hoa Kỳ) chứng minh bằng các mẫu đậu với niên đại cho bởi phóng xạ C-14 là 10 ngàn năm trước Tây lịch (19). Cuối cùng Solheim đặt giả thuyết nền văn hóa Hòa Bình, ở Bắc Việt Nam có thể đã là gốc mẹ của nền văn hóa Lưỡng Thiều Trung Quốc (nơi phát tích ra văn hóa Trung Quốc) (20).
Trở lại với từ tố "Lạc", như vậy chúng ta đã đi qua được các chặng đường:
1.Minh chứng "Lạc" là Nước, cổ âm của tiếng Việt và cổ Hán cũng trùng hợp như vậy (21).
 2.Dân Lạc Việt bản địa là chủ nhân đầu tiên trên thế giới biết về nghề làm "ruộng nước" (lúa gạo) và rất hãnh diện khi nhận mình là "Lạc dân" (không thể hiểu là "người nước" (22) như Nguyễn Kim Thản viết, mà nên hiểu là "người có ruộng nước", "người làm chủ ruộng lúa", "người biết làm nghề nông", giống như là "Engineer, Actor, Artist, Administrator ... Mặc dù không ai phủ nhận là nền văn hóa của chúng ta cho đến hiện nay vẫn đặt cơ sở trên nền kinh tế thuộc về "nước" (nói theo kiểu Hydraulic Society), yếu tố "sông nước" không thể tách rời khỏi văn hóa Việt: Long Quân ... theo cha xuống biển ... người trong một nước .... như tác giả đã viết). Vậy thì để trả lời câu hỏi là Hùng Vương hay Lạc Vương của các cụ đặt ra từ trước 1945, ta trả lời thế nào?
 KẾT LUẬN:
Lạc Vương là Hùng Vương.
Không có vấn đề viết nhầm.
Kết luận ta có thể thoải mái mà hiểu rằng từ Lạc trong Lạc Việt, Lạc Điền, Lạc Tướng ... dù viết theo "Lạc bộ Chuy", "Lạc bộ Mã" hay "Lạc bộ Trãi", đều chỉ là chữ ký âm, và ngày nay với chữ quốc ngữ, vô tình vấn đề đã được giải quyết: chúng ta chỉ còn một chữ Lạc.
Để tìm hiểu Lạc có nghĩa là gì hy vọng bài này đã giải quyết được câu hỏi đó. Nhưng trở lại câu hỏi, vậy thì là Hùng Vương hay Lạc Vương? Chúng tôi đề nghị lời giải đáp như sau:
Trước hết về thư tịch, sách cổ hơn hết là Giao Châu Ngoại Vực Ký (thế kỷ thứ 4) do sách Thủy Kinh Chú (thế kỷ thứ 6) dẫn lại (xem phần trên) thì đều viết là Lạc (Lạc Vương, Lạc Điền, Lạc Tướng ... ) Trái lại sách Nam Việt Chí (thế kỷ thứ 5) do sách Sơ Học Ký (thế kỷ thứ 7) dẫn lại thì đều viết là Hùng (Hùng Vương, Hùng Điền ....)
Riêng sách sử chúng ta viết về sau, nhưng đặc biệt là tất cả đều viết là Lạc (xem phần trên), trừ danh từ duy nhất là Hùng Vương, thì viết chữ  Hùng (xem các sách Lĩnh Nam Chích Quái, Việt Điện U Linh, Việt Sử Lược, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, v.v....)
Sử gia Ngô Sĩ Liên còn cho biết: (trước là) Lạc Tướng sau lầm ra Hùng Tướng (Lạc Tướng hậu ngọa vi Hùng Tướng) (23)
Trước đệ nhị thế chiến H. Maspero đọc Hán Thư cho thấy trước thế kỷ thứ 5 sách Trung Quốc chỉ dùng từ ngữ Lạc Vương và từ ngữ Hùng Vương chỉ thấy xuất hiện từ sau Nam Việt Chí (thế kỷ thứ 5) nên chủ trương chỉ có Lạc Vương, sở dĩ có từ Hùng Vương vì viết nhầm chữ Lạc (các + chuy) thành chữ Hùng (quang + chuy). Đó có lẽ cũng là lý của Ngô Sĩ Liên (24).
Lê Dư và hầu hết các học giả Việt Nam sau này, đều chủ trương Hùng Vương bởi các lẽ:
1. Lạc Vương là chữ do người Trung Quốc dùng để ghi tên Vua nước Lạc, chữ Hùng Vương mới là tên hiệu của tổ nước Việt.
2. Chữ Lạc trong từ Lạc Việt viết với bộ trãi, và bộ mã thì không thể lầm với chữ Hùng được.
3. Tất cả trong dã sử, truyền thuyết Việt ... qua đến các di tích lịch sử đều viết hoặc mang danh hiệu Hùng Vương (xem các truyện Nhất Dạ Trạch, Đổng Thiên Vương, Lý Ông Trọng ... các địa danh Đền Hùng, Núi Hùng ....)
Cuộc tranh luận cho đến nay chưa xong ... cho đến hôm nay.
Chúng tôi mới được một giáo sư đồng nghiệp giới thiệu cho biết cuốn sách mang tên là Thuyết Văn Thông Huấn Định Thanh của Chu Tuấn Thanh thì cho thấy chữ Lạc bộ Chuy có thể được thay thế bằng chữ  Hùng (quang + chuy): chứng cớ tên Lạc Đào nhân vật trong sách Hán Thư, phần cổ kim nhân biểu (Lạc Đào là bạn vua Thuấn) đã được Thi Hiệu (mưu sĩ của tể tướng đời Tần là Thương Ưởng), tác giả Thi Tử Thập Nhị Thiên đổi tên là Hùng Đào.
Tóm lại, chúng tôi đã trình bày ý nghĩa của từ Lạc chỉ có nghĩa là Nước. Vì nhu cầu ghi chú, sử sách cả ta lẫn Trung Quốc bắt buộc phải dùng Hán tự để ghi chép. Riêng người Việt chúng ta thích dùng chữ Lạc bộ Trãi vì ghét nghĩa đen của hai chữ Lạc kia: (Ngựa trắng bờm đen, cú vọ). Việc này chỉ xẩy ra khi ta tiếp xúc với Hán tộc và biết dùng Hán tự.
Tuy nhiên theo nghĩa đen thì cả chữ Lạc đều chẳng tốt đẹp gì. Còn chữ Hùng thì thật là tốt đẹp hơn (đực, trống, mạnh) như trong các từ anh hùng, hùng tráng, hùng hồn, hùng dũng .... Vậy thì khi biết được Hán tự, có thể chẳng cần biết đến chữ nọ thay được chữ kia, dân Lạc Việt cũng đã tự động tôn xưng vị lãnh đạo là Hùng Vương rồi. Thế mà tiền lệ Hùng Đạo đã có từ ba trăm năm trước tây lịch, thì đương nhiên dân Lạc Việt phải gọi vị quốc tổ mình là Hùng Vương thì càng đúng. Cho nên mãi đến sau này mọi truyện thần thoại hay địa danh dân đều kính trọng mà gọi là Hùng Vương, hội đền Hùng v.v.... Tóm lại, Hùng là chữ khác của chữ Lạc, là danh từ Lạc dân tôn xưng Vua của mình, không thể có chuyện viết lầm như H. Maspero hay Ngô Sĩ Liên đã viết.
Riêng về các từ khác, Lạc điền, Lạc tướng, Lạc hầu .... thì hoặc vì tôn trọng vị lãnh tụ nên ông Lạc hầu chẳng dám nhận người ta gọi mình là Hùng hầu, hoặc vì Hùng điền thì đi quá xa nghĩa nguyên thủy là ruộng nước ... nên dân Việt vẫn tiếp tục dùng Lạc điền, Lạc hầu .... Cho nên đến tận ngày nay chúng ta vẫn chỉ dùng chữ Hùng Vương, còn tất cả đều là Lạc hết: Lạc hầu, Lạc tướng, ruộng lạc ....
Riêng về quyển sách Nam Việt Chí của Thẩm Hoài Viễn, thì ngày nay không còn, đâu đó chỉ là những đoạn được chép lại trong Sơ Học Ký (thế kỷ thứ 7), trong Thái Bình Hoàn Vũ Ký của Nhạc Sử đời Tống (thế kỷ thứ 10) mà có lẽ đoản văn được nhiều người dẫn đi dẫn lại "Giao Chỉ có ruộng, người ta gọi ruộng ấy là Hùng Điền, dân ấy là Hùng Dân, quân trưởng là Hùng Vương, hữu ty là Hùng Hầu, đất đai chia cho các Hùng Tướng". Xem thì thật giống đoạn dẫn ở Thủy Kinh Chú (đã dẫn ở phần trên). Có điểm khác là Nam Việt Chí thì toàn dùng chữ Hùng.
Điều này cũng dễ giải thích, hoặc là ông không còn biết từ tố "Lạc" là Nước, và theo lối thay chữ của Thi Hiệu, ông dùng Hùng thay cho chữ Lạc có nghĩa đen không tốt đẹp gì vì lý do thanh nhã, lịch sự (chắc ông phải có cảm tình gì lắm mới để tâm huyết mà viết quyển Nam Việt Chí kia). Sử cũng nói rằng ông đã từng sống ở Giao Chỉ thì ắt ông cũng biết về lý do người Lạc Việt gọi ông tổ họ là Hùng Vương. Trái lại tác giả Thủy Kinh Chú và Giao Châu Ngoại Vực Ký là quan lại của Trung Quốc, một quốc gia phong kiến đang đô hộ dân Việt, ắt họ dùng "Lạc bộ Mã" với nghĩa đen là "Ngựa trắng bờm đen" thì cũng đúng là "sách lược khai hóa man di" lắm vậy.
VŨ TH NGC
Bát Bất Đường, San Jose Mùa Xuân

Tuesday, 17 July 2012

Sáng lạng là sao?

Là viết sai chính tả. Từ điển chỉ có xán lạn, âm Hán Việt của燦爛, nghĩa là rực rỡ. Với một số người Việt hiện nay cả xánlạn đều vô nghĩa. Vì vậy họ nghĩ phải viết là sáng mới hợp với cái nghĩa rực rỡ. Nhưng lạng là gì thì chẳng ai giải thích được.

Monday, 16 July 2012

A. de Rhodes, trả lời các ông Phạm Quang Tuấn và Phong Uyên (Bùi Kha - Talawas)


19.5.2006
Bùi Kha
Sau khi viết bài “Alexandre de Rhode, chữ Quốc ngữ và quan điểm chính trị”, tôi định ngưng bàn về vấn đề này cho đến cuối tháng 8 năm nay vì có một số việc cần phải làm. Nhưng thấy có hai bài viết sai lầm về quan điểm chính trị của A. de Rhodes, nên tôi muốn trả lời ngắn để làm sáng rõ vấn đề.


Trước hết, tôi muốn nhân cơ hội này, để một lần nữa, biện chính với tất cả những ai, nhất là linh mục Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, các giáo sư Chương Thâu, Nguyễn Đình Đầu và Đinh Xuân Lâm về cụm từ “la conquête de tout l’Orient”, mà quí vị dịch và chú thích là “Nước Cha trị đến”, là một việc làm hết sức tùy tiện, đoạt từ cưỡng ý. Cụm từ “Nước Cha trị đến” tiếng Anh viết là “thy kingdom come” được tìm thấy trong cuốn Lord’s Prayer (Kinh Lạy Cha). Đây là một bài được in trong Kinh Nhật Khoá của các nhà thờ, hầu như con chiên nào cũng biết. Đoạn tôi trích sau đây ở trong cuốn Worship II (nhà xuất bản G.I.A publication, Inc. Edition 1975. Sách không có số trang nhưng đánh số thứ tự theo bài), bài thứ 334:


Our Father, who art in heaven (Lạy Cha chúng con ở trên trời) hallowed be thy name (chúng con nguyện danh Cha cả sáng); thy kingdom come (nước Cha trị đến); thy will be done on earth as it is in heaven(vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời).


Give us this day our daily bread (Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày) and forgive us our trespasses (và tha nợ chúng con) as we forgive those who trespass against us (như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con); and lead us not into temptation (xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ) but deliver us from evil (nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ). Amen.


Tôi hy vọng từ nay không ai còn nhầm lẫn hay cố ý nhầm lẫn để dịch theo ý riêng của mình, nhằm thoả mãn một tình cảm nào đó.




AÔng Phạm Quang Tuấn


1. Ông chỉ trích việc tôi dẫn định nghĩa trong từ điển để minh chứng cho cách dịch chữ “soldat” và cụm từ “la conquête de tout l’Orient” như sau:


“Lý lẽ này rất nực cười. Muốn hiểu mọi nghĩa đen nghĩa bóng của một chữ thì phải xem người đời dùng chữ đó ra sao, chứ từ điển (nhất là từ điển yếu lược như những từ điển Pháp Việt, Anh Việt hiện có) làm sao mà kê khai được tất cả những lối viết văn vẻ, bóng bảy của mọi giới, mọi nghề? Chỉ có những người không rành tiếng Anh hay tiếng Pháp mới phải viện dẫn hai từ điển đó...”


Trong bài, tôi đã dẫn chứng đến SÁU luận điểm; từ bối cảnh chính trị, tôn giáo, hành động, phát ngôn và tư cách của linh mục de Rhodes, để quyết định hiểu chữ “soldats” theo nghĩa nào. Việc ông Tuấn chỉ trích dẫn một trong sáu luận điểm để đối luận với tôi là ông Tuấn thiếu đàng hoàng.


Thực ra, còn hai chứng cớ nữa để hiểu chữ “soldats” mà Lm. de Rhodes dùng có nghĩa là binh lính vì trong thời gian trú ngụ tại Việt nam, de Rhodes đã vẽ một bản đồ có tính chiến lược về quê hương ta. Trong cuốn Phép giảng Tám ngày, Lm. de Rhodes còn hung bạo đòi chém ông Thích Ca, người sáng lập đạo Phật. Hành động không đưa ra tòa, không có án tử hình mà đòi chém kẻ khác, thì việc xin binh lính chỉ là một hành động hết sức bình thường, tại sao ông Tuấn còn bênh vực một cách thiếu sử liệu và vô lý?


2. Ông trích:


“Bùi Kha viết "Danh từ ‘La France’ (nước Pháp) chứ không phải danh từ ‘Eglise francaise’ (Giáo hội Pháp) là chủ từ của mệnh đề đó, nên chữ ‘soldat’ phải được hiểu là ‘lính chiến’ chứ không thể hiểu ẩn dụ là ‘lính thừa sai’ được.", nhưng lại bỏ đoạn kế tiếp của tôi [1] rồi đặt câu hỏi “Xin hỏi tại sao nước Pháp (la France) lại không thể có thừa sai, hay những linh mục có thể gửi đi làm thừa sai? Như vậy nói "Pháp có nhiều tàu chiến" là sai, phải nói là "hải quân Pháp có nhiều tàu chiến" mới là đúng sao?”


Một lần nữa trong đoạn tiếp theo tôi cũng nhắc lại cụm từ “chính phủ Pháp” [2] , nhưng ông Tuấn vẫn lờ đi.


Hai lần ông Tuấn cố tình bỏ quên 3 chữ “chính phủ Pháp” của tôi, mà chỉ sử dụng hai từ “Nước Pháp, La France” để lạc dẫn dư luận.


3. Ông Phạm Quang Tuấn trích việc tôi viện dẫn sự kiện linh mục Alexandre de Rhodes vào triều đình vận động làm bằng chứng (cho hành động của A. de Rhodes), rồi đặt câu hỏi:


“Vào triều đình đâu có nghĩa là chỉ có thể để xin lính chiến. Tại sao Bùi Kha không nghĩ là de Rhodes xin bảo trợ tiền bạc cho thừa sai, và giúp ông quảng bá lời kêu gọi truyền giáo của ông đi khắp các giáo phận của Pháp? Trước đó thì triều đình Bồ Đào Nha đã bảo trợ rất nhiều cho công việc truyền giáo, vậy de Rhodes xin triều đình Pháp bảo trợ thì có gì là không hợp lý? Ngoài ra, ước muốn chính của de Rhodes là có giám mục đi Việt Nam, vì chỉ giám mục mới có quyền phong chức linh mục cho người bản xứ, để cho việc truyền đạo được nhanh chóng. Vì vậy de Rhodes cần vào triều đình (xin xem giải thích thêm ở sau)”.


Việc ông Tuấn đặt câu hỏi “tại sao, không nghĩ... xin triều đình bảo trợ tiền bạc… xin quảng bá lời kêu gọi...”, chỉ là các giả thiết và cách suy diễn của ông Tuấn mà thôi, chứ không có tư liệu làm bằng.


4. Ông Phạm Quang Tuấn viết:


“Bùi Kha viết " Linh mục de Rhodes cũng đã bộc lộ thêm: ‘Tôi chưa công bố thánh chiến… và đem đi cắm những nơi cùng kiệt cõi đất’." Thật lạ lùng khi Bùi Kha dùng đoạn này để chứng tỏ soldat là lính chiến (nghĩa đen)! Câu này cho thấy là de Rhodes lúc nào cũng nghĩ tới các nhà truyền đạo, chứ đâu có nghĩ tới lính đánh trận.”


Xin hỏi ông Tuấn là đạo Công giáo có đến tám cuộc Thánh chiến, họ có dùng binh lính, có các giáo sĩ và tín đồ có vũ trang để tàn sát trên cả trăm triệu mạng người vô tội không? Chẳng lẽ chỉ có cuộc “Thánh chiến” của Lm. Rhodes (“Tôi chưa công bố cuộc thánh chiến chống lại...”) là thuần túy “đạo đức” vì họ là các “nhà truyền đạo”? Nếu được như vậy, hẳn giáo hoàng Phao Lồ II đã không cần phải thiết bàn thờ (ngày 12.3.2000) để xin nhân loại tha thứ bảy núi tội mà giáo hội đã phạm trong suốt hai ngàn năm truyền giáo.


5. Ông Tuấn viết “Ông Bùi Kha có hiểu "con cái thánh Inhaxu" và Phanchicô Xavie là những ai không nhỉ?”


Thưa ông Phạm Quang Tuấn, tôi biết rất ít về hai vị “thánh” này, nên chỉ xin trình bày vài nét như sau:


a. Thánh Inhaxu (thánh Ignatius, người sáng lập dòng Tên):


“Từ lúc Ignatius chết năm 1556, các con của ông (các giáo sĩ Dòng Tên) đã chiến đấu chống lại các người ngoại giáo ở Ấn độ, Trung hoa, Nhật, Tân thế giới, và đặc biệt là miền Nam nước Pháp và Tây Đức.” [3]“Những tu sĩ dòng Tên là những trí thức hợm hĩnh kiêu ngạo (intellectual arrogant), chủ trương cứu cánh biện minh cho tất cả các phương tiện (The end justifies all the means). Họ chủ trương tìm mọi cách làm lợi cho giáo hoàng La mã” (We know best what benefits the pontiff).


b. “Thánh” Phanchicô Xavie (Francis Xavier) là môn đệ khét tiếng của Inhaxu (nói ở trên). Kinh “Nhật Khoá” của Giáo phận Sài gòn, được Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình duyệt y, ngày 19.3.1971, có đoạn cầu ông “thánh” Phan-ci-cô Xa-vi như sau:


“Ông Thánh Phan xi cô là môn đệ rất xứng đáng của ông Thánh I-nha-xi-ô (Ignatius)
  • là quan thầy các nước Đông phương; 
  • là kẻ nghịch đạo dị đoan; 
  • phá tan đạo bụt thần ma quỉ; 
  • là lính rao tiếng Đức Chúa Thánh Thần cho những dân mọi rợ.” 
Theo đoạn kinh này thì hơn 90% dân Việt Nam không theo Công giáo đều là những tên mọi rợ, cần phải tiêu diệt tất cả.


Trong “Toàn niên kinh nguyện” của địa phận Bùi Chu và Hà nội [4] , chúng ta cũng thấy những câu tương tự:


“Cúi xin Chúa từ nay về sau đừng để những người ngoại đạo khinh dễ công ơn cứu chuộc. Xin Chúa vì lòng nhân từ Chúa mà dong thứ cho những kẻ ấy xưa nay đã lạc đàng thờ lạy bụt thần”. (trang 18-19).


Qua trang 143-145 cũng có các câu tương tự:


“Xin Chúa hãy làm vua các kẻ còn ở nơi tăm tối thờ lạy bụt thần hay là theo đạo Mahomét mà rũ thương chúng nó nhận biết sự sáng thật cùng phục quyền Chúa tôi.”


Tín đồ đạo Phật (bụt) thì không sao. Còn với người Hồi giáo, rất may là họ không đọc được tiếng Việt. Nếu không, hẳn sẽ có chuyện đổ máu xảy ra, tội nghiệp cho con dân Việt nam vô tội.


Ðã trải qua hơn ba thế kỷ, từ thời Lm. Đắc Lộ, mà các chức sắc giáo hội Công giáo Việt Nam còn có thái độ khinh mạn, đòi “phá tan” những tín ngưỡng khác như vậy. Có thể coi đó là lý do thứ 8 nữa để chứng minh nghĩa ngữ của chữ soldats mà linh mục dòng Tên A. de Rhodes sử dụng trong cuốn Hành trình và truyền giáo của ông.


6. Ông Phạm Quang Tuấn tiếp:


“Bùi Kha viết "Giáo sĩ Ðắc Lộ (hoặc bất cứ một giáo sĩ nào) không thể trông cậy vào Giáo hội Pháp (hoặc bất cứ một giáo hội nào) nên ông đã vào triều đình Pháp để xin lính chiến là do bối cảnh chính trị tôn giáo trong thời kỳ đó như thế. Nhưng trong thời gian trị vì, vua Louis XIV bận rộn với những cuộc chiến tại Âu châu và phí tổn xây cất cung điện Versailles quá lớn, nên việc vận động của giáo sĩ Ðắc Lộ, có lẽ vì thế, mà không thành." Không hiểu Bùi Kha đã lấy tài liệu ở đâu về cái "bối cảnh chính trị tôn giáo" kỳ cục của ông để suy diễn lung tung như vậy. Trong thời kỳ de Rhodes đến Pháp tìm thừa sai, Louis làm sao mà "bận rộn với những cuộc chiến tại Âu châu và phí tổn xây cất cung điện Versailles"! Lúc ấy, Louis XIV hãy còn là "vua kiểng", quyền hành nằm hết trong tay quan nhiếp chính Mazarin cho tới khi ông này chết vào năm 1661. Versailles chỉ bắt đầu xây năm 1661. De Rhodes trở về Âu châu năm 1649, thăm Pháp trong thập niên sau đó, và chết ở Ba Tư năm 1660.”


Về đoạn phê bình này, thì ông Tuấn có đúng một phần nhỏ, nhất là thời gian xây cất cung điện Versailles. Nhưng về tình hình chính trị và tôn giáo thời bấy giờ, tôi có thể tóm lược như sau.


Giáo hội La Mã muốn biến nước Pháp thành một nước ngoan đạo và cuồng tín như Tây Ban Nha. Khi Vua Henri IV bị ám sát chết vào năm 1610, vua Louis XIII (1610--1643) lên nối ngôi. Giáo hội bố trí cho Hồng y Richelieu nắm giữ chức vụ tương đương như thủ tướng bây giờ.


Theo lệnh của Giáo hội, Hồng y Richelieu cố gắng biến nước Pháp thành một nước theo đạo Công giáo hùng mạnh nhất Âu Châu để khống chế các nước khác theo đạo Tin Lành và biến ông vua nước Pháp thành một tên bạo chúa theo khuôn mẫu như các bạo chúa Ferdinand V (1452-1516), Isabella I (1451-1504), Philip II (1527-1598) của Tây Ban Nha và Mary I (1553-1558) với tục danh là "Mụ Mary Khát Máu" (Bloody Mary) của nước Anh. Sự kiện này được sách Living World History viết như sau:


"Với dáng người mảnh khảnh, nước da xanh xao do một căn bệnh bất khả trị gây nên, nhưng Hồng y Richelieu lại có một ý chí sắt đá. Ông đã thành công hai mục tiêu là (1) tăng cường quyền lực của nhà vua và (2) làm cho nước Pháp trở nên hùng mạnh nhất ở Âu Châu. Để hoàn thành mục tiêu thứ nhất, ông bãi bỏ quyền chính trị của tín đồ Tin Lành Huguenots và quyền lực của giới quý tộc. Ông ra lệnh tấn công vào thành phố quan trọng, La Rochelle, của người Tin Lành Huguenots để cưỡng bách Tin Lành phải từ bỏ đặc quyền duy trì quân lính trú đóng ở trong các thị trấn của họ. Ông ban hành sắc lệnh tiêu hủy tất cả các lâu đài nào của giới quý tộc không cần thiết cho việc phòng thủ quốc gia. Giới quý tộc tại các địa phương phải nhường quyền hành cho các bồi thần tay sai thân tín của nhà vua có nhiệm vụ canh chừng và theo dõi mọi hoạt động của những người bị coi như là kẻ thù của vua. Hồng Y Richelieu cũng hoàn thành được mục tiêu thứ hai bằng cách làm suy yếu quyền lực của triều đình Hapsburgs. Ông đẩy nước Pháp vào cuộc Chiến 30 Năm và sau cùng nước Pháp trở thành một quốc gia hùng mạnh nhất Âu Châu."[5]


Vua Louis XIII qua đời vào năm 1643, người lên kế nghiệp là vua Louis XIV (1643-1715), nhưng quyền hành vẫn ở trong tay Giáo hội với Hồng y Mazarin nắm giữ chức vụ thay thế Hồng y Richelieu (qua đời vào ngày 4 tháng 12 năm 1642.) Hồng y Mazarin cũng đi theo con đường của ông hồng y tiền nhiệm (Richelieu) do Giáo hội La Mã vạch ra từ trước, và đã hoàn thành nhiệm vụ biến vua Louis XIV thành một bạo chúa lừng danh của nước Pháp với lời tuyên bố để đời "L' État, c' est moi" (Quốc gia chính là ta). Trong khi đó, nhân dân Pháp thù ghét chế độ này đến tận xương tủy. Đoạn văn sử dưới đây là bằng chứng:


"Hà khắc và luôn luôn hà khắc, Hồng y Richelieu tỏ ra rất ít quan tâm đến đời sống người dân thường của nước Pháp. Chính ông đã cưỡng bách nhân dân Pháp phải gánh chịu thuế khóa nặng nề. Cũng vì thế mà khi ông ta chết vào năm 1642 cũng là lúc nhân dân Pháp hân hoan reo mừng. Một năm sau, vua Louis XIII cũng qua đời, người con trai của nhà vua lên nối ngôi là Louis XIV, lúc đó mới có 4 tuổi. Trước khi chết, Hồng y Richelieu đã huấn luyện được người chuẩn sẽ thay thế mình là Hồng y Mazarin gốc Ý Đại Lợi. Trong thời kỳ tuổi thơ của Vua Louis XIV, Mazarin nắm trọn quyền chính. Các nhà quý tộc có thế lực cố gắng chống lại để giành quyền bị ông hồng y này đàn áp thẳng tay. Vì thế mà nước Pháp rơi vào thảm cảnh nội chiến. Các nhà viết sử gọi cuộc nội chiến này là "The Fronde". Cuối cùng vào năm 1653, các thế lực chống đối đều bị dẹp tan hay quy phục chính quyền của nhà vua (thực ra là của Hồng y Mazarin, có Giáo hội La Mã ở hậu trường). Khi Hồng y Mazarin qua đời vào năm 1661, Vua Louis XIV đã 22 tuổi, và trực tiếp nắm trọn mọi việc triều cương.


Vua Louis XIV là một trong những ông vua quyền thế trong các ông vua của nước Pháp. Ông cầm quyền cho đến năm 1715 và được xem như là một người chuyên chế hoàn hảo. Ông tuyên bố "Quốc gia là ta", một lời nói diễn tả chính xác thái độ của ông đối với nước Pháp." [6]


Vua Louis XIV không những lừng danh về lời tuyên bố “L’État C'est moi", mà còn nổi tiếng về việc xây điện Versailles và chính sách đàn áp các tôn giáo khác với những biện pháp vô cùng dã man, trong đó có việc hủy bỏ Sắc lệnh Nantes vào năm 1685. Sự kiện này được các nhà viết sử ghi lại như sau:


"… Thế rồi Vua Louis XIV phạm một lỗi lầm đã làm suy yếu nước Pháp. Ông ta nhất quyết cho rằng người Tin Lành Huguenots là những người bất trung và là mối nguy hiểm cho đất nước. Năm 1685, nhà vua ra lệnh hủy bỏ Sắc lệnh Nantes, luật này cho phép người Tin Lành được hưởng quyền tự do tôn giáo. Hơn một trăm ngàn dân Pháp theo đạo Tin lành Huguenots đành phải bỏ nước Pháp mà đi còn hơn là phải từ bỏ tín ngưỡng của họ và theo đạo Công giáo La Mã để được ở lại nước Pháp. Mặc dầu tín đồ Tin Lành chỉ chiếm vào khoảng 10 phần trăm dân số nước Pháp, nhưng trong khối tín đồ Tin Lành này, có nhiều người là những nhà lãnh đạo trong các ngành kỹ nghệ, là các thương gia và các nhà thủ công nghệ tuyệt vời. Mất đi những tài năng này là làm cho nước Pháp thiệt hại rất nhiều." [7]


Tôi hơi dài dòng trong đoạn trích dẫn này để ông Tuấn khỏi thắc mắc và lạc dẫn người đọc là tôi lấy tài liệu ở đâu. Có điều không hiểu tại sao ông Tuấn không nói rõ chức tước Mazarin là Hồng y do giáo hội La Mã gài vào bên cạnh ông vua trẻ tuổi mà chỉ gọi là “quan nhiếp chính Mazarin”?


Như thế, nước Pháp thời bấy giờ được điều hành bởi một ông Hồng y (còn vua chỉ mới 14 tuổi). Lm. Đắc Lộ vào triều để gặp hoàng hậu, gặp vua, gặp hồng y xin “plusieurs soldats” để “la conquête de tout l’Orient”, lại càng tốt hơn nữa, vừa che đậy được sắc lệnh của giáo hoàng Alexander VI, chia thế giới cho Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, vừa dễ có kết quả hơn, vì vua còn quá trẻ (14 tuổi) và “phe ta” đã ngự trị trong triều! Nhất cử lưỡng tiện.


Trong bài trước, tôi đã trích sắc lệnh của Giáo hoàng Alexander VI về việc chia thế giới cho Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha nên giáo hội Pháp không thể chen chân vào phương Đông được mà chỉ có nước Pháp mà thôi. Đoạn mô tả về tình hình chính trị tại Pháp lúc bấy giờ như trên làm sáng rõ thêm nhận định của tôi về quan điểm chính trị của Lm. Rhodes. Do đó, câu ông Tuấn phê bình dưới đây nên thế hai chữ Bùi Kha thành Phạm Quang Tuấn mới đúng:


“Quả là người đọc, nếu không hiểu về bối cảnh chính trị tôn giáo ở Pháp thời đó, sẽ lấy làm lạ về việc de Rhodes tìm tới triều đình Pháp và có thể suy diễn lung tung như ông Phạm Quang Tuấn đã làm.”


7. Về lời thề bí mật của dòng Tên đã được phát giác: thậm chí quốc hội Mỹ cũng đã có biên bản về lời thề độc ác này. Nhưng ông Phạm Quang Tuấn lại cho rằng “Thực ra, đó chỉ là một lời thề giả mạo.” Theo tôi, nếu ông Tuấn viết rằng “Lời thề đó do cộng sản bày ra để xuyên tạc dòng Tên” thì có khi cũng thuyết phục được một số người đọc.


8. Ông Phạm Quang Tuấn viết:


“Còn rất nhiều suy diễn hàm hồ khác mà Bùi Kha đã dùng để bảo vệ cách hiểu của ông, nhưng viết ra hết thì quá dài (và hầu như sẽ nhắc lại toàn bài của Bùi Kha) nên xin dừng ở đây. Cũng xin minh xác rằng tôi không phải tín đồ bất cứ phái nào của Thiên chúa giáo và không có lý do gì để thiên vị hay ủng hộ đạo này. Tôi thừa hiểu rằng, dưới con mắt của người thời nay, nhiều suy nghĩ và hành động của de Rhodes và của Giáo hội nói chung không thể chấp nhận được (cũng như việc cấm đạo và giết giáo dân của các vua Nguyễn không thể chấp nhận được). Tuy nhiên, đã viết ra thì phải có chứng cớ vững vàng và lý luận mạch lạc chứ đừng tung hỏa mù làm rối mắt công chúng. Ông Bùi Kha nên hiểu rằng những lý luận yếu kém, hiểu biết sai lạc và sự khăng khăng bảo vệ nhầm lẫn của mình không những chẳng thuyết phục được ai mà còn làm thiệt thòi cho quan điểm của mình, không kể là mất thì giờ người đọc.”


Những phê bình của ông Tuấn về tôi, đúng thì tôi sẽ học hỏi (như tôi đã viết trong bài trước), còn sai thì những phê bình chỉ trích ấy sẽ trở về với nguyên chủ.


Mặc dầu ông Tuấn đã thừa nhận là “... nhiều suy nghĩ và hành động của de Rhodes và của Giáo hội nói chung không thể chấp nhận được”, nhưng ông lại thêm “cũng như việc cấm đạo và giết giáo dân của các vua Nguyễn không thể chấp nhận được”. Tôi cũng thấy việc giết giáo dân vô tội là một tội ác. Còn việc cấm đạo thì chúng ta nên thận trọng lúc phê phán. Mặc dầu ông Tuấn khuyên tôi “... đã viết thì phải có chứng cớ vững vàng...”, nhưng trong bài đối luận với tôi ông chỉ suy diễn tùy tiện chứ không có chứng cớ. Ngay cả tài liệu của quốc hội Mỹ ông cũng cho là “giả mạo”. Và lúc phê phán về việc cấm đạo dưới triều Nguyễn ông cũng thiếu chứng cớ.


Tôi xin dẫn ba ý kiến của ba người có thẩm quyền và địa vị rất cao trong xã hội và cùng có chung một tín ngưỡng là Công giáo về hành động “cấm đạo” của triều Nguyễn.


Giáo sư Lý Chánh Trung, một trí thức công giáo, trong cuốn Tôn giáo và dân tộc viết rằng, “Nếu đặt địa vị của chúng ta vào các ông vua triều Nguyễn thì chúng ta cũng không thể làm khác được”.


Đô đốc Rigault de Genouilly, người chỉ huy cuộc đổ bộ quân Pháp lên Đà Nẵng, 1.9.1858, trong một văn thư đề ngày 29.1.1959, viết:


“Không một nền cai trị nào, dù là phục vụ cho đạo Công giáo, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự, và quân sự vốn không được và không phải thuộc quyền hạn của họ (các giáo sĩ, BK). Nếu cũng vì những yếu tố buộc tội đó mà Giám mục Pellerin bị nhà cầm quyền An Nam trục xuất thì báo chí của người truyền đạo lại kêu la om sòm là họ bị “bạo hành”[8] .


Còn Đô đốc Page, trong văn thư đề ngày 14-12-1859 và 25-12-1859, viết như sau:


“Thật vậy, trong lúc dân chúng hoảng hốt chạy trốn khi quân Pháp kéo đến và tổ chức vũ trang tự vệ, ở nơi đông dân thì 3000 tín đồ Gia Tô đi theo Pháp và xin được đưa vô Sài Gòn là nơi mà Page đã dựng lên một thị trấn. “Tôi ngạc nhiên biết bao khi hôm sau các nhà truyền giáo đến nói với tôi, rằng các con chiên An Nam không tuân theo một quyền lực vô đạo, họ nói như thế. Thế sao! Họ cũng không muốn có cảnh sát để chặn đứng trộm cướp du đãng, cướp bóc thành phố? Và tôi rất hổ thẹn khi thú nhận với Ngài rằng Giáo hội Công giáo tại An Nam đã ngạo nghễ đi rao giảng các nguyên lý đó. ‘Ngoài ra không người Việt Nam theo Công Giáo nào ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua Việt Nam không theo đạo, không phải là vua của họ.’ Chắc bây giờ ngài đã hiểu tại sao vua, quan đã coi các nhà truyền giáo là kẻ thù?” [9]


Xem thế, một Đô đốc thực dân Pháp cùng tín ngưỡng cũng không thể chịu nổi những hành động của các giáo sĩ, trách gì các vua quan triều Nguyễn?


Hy vọng qua tám đối luận ở trên, ông Tuấn sẽ thấy thêm sự thực của vấn đề.




B. Ông Phong Uyên


Đúng ra tôi không nên đối luận với ông. Lý do: Thay vì trưng bày những sự kiện lịch sử để làm sáng tỏ một vấn đề học thuật đã bị nhầm lẫn hơn 60 năm qua, ông lại chụp mũ tôi là cộng sản để lạc dẫn độc giả và để chặn họng người mà ông muốn đối thoại. Đây là câu ông chụp mũ tôi: “Tôi có cảm tưởng khi đọc những dòng trên như đang sống lại thời Nhân văn-Giai phẩm...”


Ông còn viết một câu khác ra ngoài học thuật, “Tôi không khỏi ngạc nhiên là thời buổi đổi mới này vẫn còn có người...”


Tôi nghĩ, thời buổi đổi mới không có nghĩa là phải thay đổi các sử liệu để biến đen thành trắng. Mà chúng ta nên tìm hiểu lịch sử, rút tỉa những bài học của quá khứ để tránh tái phạm và định hướng cho tương lai. Không nên có tư tưởng khơi lại đống tro tàn để tạo mối bất hoà giữa những người khác quan điểm, khác tôn giáo, khác giai cấp.


Đúng ra, tôi không nên đối luận với ông như đã nói ở trên. Nhưng để tránh dĩ hư truyền hư, tôi chỉ thảo luận với ông hai điểm nhỏ (còn nhiều điểm khác trong bài của ông cũng mang đầy tính hư cấu và thiếu khách quan như ông Phạm Quang Tuấn mà tôi đã trả lời).


Ông Phong Uyên viết, “Nếu A. de Rhodes có thật muốn vua Louis thứ 14 gửi quân mà vì lí do gì không muốn dùng những chữ troupes, armées thì chỉ cần thêm mạo tự les, des, viết một cách giản dị và đúng mẹo luật cho tới bây giờ là les soldats, des soldats.


Đó là những sơ đẳng của tiếng Pháp mà một người có trình độ trung bình về tiếng này cũng có thể nhận thức được...”


Ông phê bình rất đúng về tôi, “một người thiếu trình độ sơ đẳng và dưới mức trung bình về am tường văn phạm tiếng Pháp.” Quả như vậy. Tiếng Pháp tôi chỉ biết đọc, viết sơ sơ. Tiếng Hán cũng thế. Có thể làm học trò (?) của ông về phương diện văn phạm Pháp văn.


Tuy nhiên, lúc ông đề nghị thêm mạo tự les, des, vào trước chữ soldats như “les soldats, des soldats” cho đúng mẹo luật từ thời Lm. Rhodes tới bây giờ, tôi nghĩ ông đã sai lầm lớn. Lm. Rhodes vào triều đình để xin nhiều binh lính, nhưng không biết số lượng sẽ được bao nhiêu, nên ông dùng chữ plusieurs (indéfini). Les cũng là số nhiều nhưng có thể định lượng (défini). Do đó, chữ les không thể dùng trong trường hợp của linh mục Rhodes.


Kế tiếp, chúng ta nên nhớ rằng Lm. Đắc Lộ xin nhiều plusieurs soldats để “chinh phục toàn cõi phương Đông”, chứ chỉ xin một vài tên lính làm sao mà chinh phục cả lục địa lớn như thế được? Do đó, thêm một lần nữa, chữ “plusieurs” không thể được dịch một vài như Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên và như ông.


Tóm lại, chúng ta cố gắng tiếp cận tất cả những thông tin, những sử liệu có được để đánh giá đúng mức (nếu có thể) về tâm tư, nguyện vọng và hành động của người xưa nhằm nếu chê trách thì không bị hàm oan, mà vinh danh phải cho xứng đáng. Trường hợp Lm. Đắc Lộ, chúng ta nên thông cảm. Ông sống trong một thời kỳ với bao nhiêu điều “bất thiện” xảy ra. Nước Pháp trong hai thế kỷ 16 và 17 (xung quanh thời Lm. Đắc Lộ) bị nội chiến, đối đầu với các giáo phái Tin Lành trong nước, chiến tranh với các quốc gia khác ở Âu châu. Về Giáo hội Công giáo La Mã thì phải đối mặt với các cuộc chiến giữa Tin Lành, Công Giáo, Chính Thống Giáo, Do Thái Giáo. Tám cuộc “Thánh” chiến khởi sự từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 15, kéo dài cả ngàn năm. Rồi tiếp đến là các toà án xử dị giáo (Inquisitions) vô cùng dã man do Giáo Hoàng Gregory IX thành lập năm 1232. Phải mãi đến năm 1820, Hoàng đế Ferdinand thứ VII Tây Ban Nha mới ra lệnh chấm dứt thời kỳ "Inquisition" man rợ trên đất nước ông.


Các thương gia và tư bản muốn tìm thị trường để tiêu thụ hàng hoá và thu về những nguyên liệu thiên nhiên cho các ngành kỹ nghệ đang phát triển. Do đó, nếu chúng ta là giáo sĩ dòng Tên và sống vào thời Lm. Đắc Lộ, có lẽ chúng ta cũng không thể làm khác hơn, là cần phải chinh phục, phải chém giáo chủ các tôn giáo khác, phải thống trị thế giới, thống trị phương Đông để kiếm linh hồn cho Chúa. Và chính đó là thảm cảnh các quốc gia nhỏ bé như Việt Nam phải gánh chịu, mà hệ quả của nó vẫn còn dai dẳng đến ngày nay.


Tìm lại những hành động của người xưa không phải là để khơi lại đống tro tàn, mặc dầu chưa tắt hẳn, hoặc nhằm gây sự bất hòa giữa các cộng đồng tôn giáo một cách không cần thiết, mà để rút tỉa một bài học cho tương lai. Nếu ai có công cần phải được tán thưởng, có tội phải răn đe, chứ không thể vinh danh kẻ đáng lên án như trường hợp linh mục Alexandre de Rhodes được.


8.5.06


© 2006 talawas



[1]“Xin hỏi trong chính phủ Pháp không làm gì có lính thừa sai để cha xin, mà chỉ có lính chiến mà thôi.”
[2]“Ðể việc biện chính được rõ hơn, tôi sẽ trở lại vấn đề này và dẫn thêm sử liệu để cho thấy tại sao cha Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes) không xin Giáo hội Pháp mà xin chính phủ Pháp.”
[3](When Ignatius died in 1556, his sons fought against the heretics in India, China, Japan, the New World, especially in Southern France and Western Germany (Linh Mục Edmond Paris, The Secret History of the Jesuits, 1975, p.24).
[4]Do Cơ sở Dân Chúa P.O.Box 1419, Gretna, LA, Hoa Kỳ, Lm. Việt Châu Chủ quản in lại.
[5]“The cardinal, pale and delicate from incurable disease, had a will of iron. He succeeded in his two aims: to strengthen the power of the king in France and to make France supreme in Europe. To accomplish the first goal, he took steps to destroy the political rights of the Huguenots and the power of the nobles. By attacking their chief town, La Rochelle, he forced the Huguenots to give up their privilege of maintaining fortified towns garrisoned by their own troops. He issued an edict for the destruction of all nobles' castles that were not necessary for national defense. Nobles lost their jurisdiction over local districts to new royal officials called intendants, who kept a watchful eye on the kings enemies. Cardinal Richelieu achieved his his second aim chiefly by weakening the power of the Hapsburgs. He plunged France into the Thirty Years' Wars, from which, it emerged as the strongest nation in Europe." trong Arnold Schrier & T. Walter Wallbank, Living World History (Glenview, Ill: Scott, Foresman and Co, 1974), tr. 358.
[6]"Richelieu, harsh and relentless, showed little concern for the common people of France, who had to bear heavy tax loads, and they rejoiced at his death in 1642. Louis XIII died a year later, and his son became king - Louis XIV - at the age of four. Richelieu had trained Jules Mazarin, an Italian born-cardinal, to be his successor, and during Louis' childhood, Mazarin held the reins of rule in his capable hands. Strong nobles tried to gain control of the government, but after a civil war known as the Fronde, Mazarin in 1653 suppressed the challenge of the nobles to royal power. When Mazarin died in 1661, Louis XIV, then twenty-two years old, personally took over the direction of the government.
Louis XIV was one of the most powerful French kings. Louis XIV ruled France until 1715, and has been called the perfect example of absolute ruler. He is supposed to have declared "L'Etat, c'est moi" (I am the state), a saying that accurately describes his attitude toward France." trong Arnold Schrier & T. Walter Wallbank, Living World History (Glenview, Ill: Scott, Foresman and Co, 1974).
[7]“.... Then Louis made an error that tended to weaken France. He became convinced that the Huguenots were disloyal and a danger to the nation. In 1685, he revoked, or canceled, the Edict of Nantes, which had given the Huguenots religious freedom. Over 100.000 French Protestants chose to leave France rather than give up their faith. Although they totaled only about a tenth of French population, many of them were leaders of industry, tradesmen, and exellent craftmen. The loss of their skills injured France." trong Anatole G. Mazour & John M. Peoples, Men And Nations (New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1975), p. 349.
[8](Fut - elle au service de l'intérêt chrétien, ne pouvait tolérer leur intrusion permanente et insolente dans les affaires politiques, civiles et militaires qui ne sont et ne doivent pas être de leur ressorts. Si l'expulsion du Mgr Pellerin avait été prononcée, pour les mêmes chefs d'accusation, par une autorité Vietnamienne, la presse des missionnaires aurait crié partout persécution” (Dépêche de l’Amiral Genouilly du 29-1-1859).
[9]Nguyên văn tiếng Pháp: Après avoir “beaucoup parcouru le pays, beacoup regardé, beaucoup écouté, l'amiral Page finit par reconnaitre le bienfondé des arguments du gouvernement de Huế, lui même ayant été choqué par l'attitude des missionnaires et de leurs chrétiens.
En effet, tandis que la population fuyait avec épouvante à l'approche des troupes francaises et que des milices armées s'organisaient là où il y avait un centre de population, 3.000 catholiques se rallièrent aux Francais et demandèrent à être ramenés à Saigon où Page avait crée une municipalité. “Quelle a été ma surprise? Lorsque le lendemain les missionnaires sont venus me déclarer que les chrétiens annamites ne pouvaient pas obéir à une autorité payenne, c'est leur mot. Quoi! Pas même pour la police municipale? Pour empêcher les voleur, les vagabonds de mettre la ville au pillage? Et je suis confus d'avouer à Votre Excellence que ces principes sont professés hautement par les associations annamites catholiques... “Du reste, pas un Vietnamien catholique n'hésita à demander à s'enriler comme soldat sous le draupeau francais. Le roi payen du Vietnam n'était point leur roi. “Votre Excellence comprendra sans doute maintenant comment le Roi et les mandarins regardent les missionnaires catholiques comme des ennemis? (Dépêche de l'amiral Page, du 14-12 et 25-12-1859. Archives Nationales, Fonds, Marine BB4 777).