Saturday, 15 September 2012

Đọc lướt «Từ điển từ và ngữ Việt Nam» của Nguyễn Lân (An Chi / Huệ Thiên)

Đọc lướt «Từ điển từ và ngữ Việt Nam» của Nguyễn Lân

by An Chi on Sunday, July 8, 2012 at 11:19pm ·

NXB TPHCM vừa cho ra mắt Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (nộp lưu chiểu tháng 3-2000). Cũng như một số từ điển tiếng Việt ấn hành trước nó, đây là một quyển sách công cụ bổ ích nhưng «dù có cố gắng đến đâu vẫn không thể tránh khỏi sai sót khiếm khuyết» («Lời nhà xuất bản», tr. 5). Chính vì vậy nên «nhà xuất bản và tác giả mong nhận được sự chỉ giáo của tất cả quý bạn đọc» (chỗ đã dẫn). Là một người thường xuyên dùng từ điển và dùng nhiều loại từ điển, sau khi đọc lướt qua quyển từ điển của Nguyễn Lân, chúng tôi xin có vài điều nhận xét bước đầu như sau:
Kỳ 1: phần chữ cái «A», «Ă», «Â», «B»
Trong phạm vi các chữ a, ă, â và b, chúng tôi đã sơ bộ thấy có những chỗ sai sau đây (xin ghi lại nguyên văn từng mục rồi sau đó sẽ nêu nhận xét):
1. «A hành ác nghiệp, tt (H. a: dựa theo; hành: làm; ác: ác; nghiệp: kiếp trước) Nói người độc ác hành hạ người khác: Người mẹ chồng a hành ác nghiệp».
Trước nhất về từ loại thì a hành ác nghiệp không phải là tính từ («tt» theo cách viết tắt của tác giả). Đây cũng không phải là một từ vì nó là một thành ngữ tiếng Hán trong đó mỗi thành tố đều có nghĩa riêng biệt và cụ thể (như chính tác giả đã giảng). Thành ngữ này không chỉ tính chất mà chỉ hành động nên nó phải là một thành ngữ «động từ tính» (tương đương với động từ) chứ không phải là «tính từ».
«Nghiệp» ở đây không phải là «kiếp trước». Từ điển Phật học Hán Việt của Phân viện nghiên cứu Phật học thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Nxb, KHXH, Hà Nội, 1998) giảng từ tổ «ác nghiệp» như sau: «Hành động trái với đạo lý gọi là Ác. Thân khẩu ý tạo tác gọi là Nghiệp. Hành vi do trái với đạo lý gọi làác nghiệp.» (tr. 44). Vậy nghiệp ở đây chỉ có nghĩa là hành vi và ác nghiệp nói một cách đơn giản là việc ác. Và a hành ác nghiệp có nghĩa là hùa với kẻ khác mà làm điều ác chứ không phải dùng để «nói người độc ác hành hạ người khác». Bọn buôn bán ma túy chẳng những không hành hạ các con nghiện mà còn giúp cho họ «đi mây về gió» và «phê» đến cực điểm nhưng chẳng có lẽ vì thế mà việc làm của chúng lại không phải là ác nghiệp hay sao?
2. «Ả đào. Người phụ nữ làm nghề ca xướng trong chế độ cũ».
Cứ theo lời giảng của tác giả thì những nữ ca sĩ trong chế độ cũ đều là «ả đào» tất chăng? Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã giảng chính xác hơn: «Người phụ nữ làm nghề hát ca trù trong các nhà hát riêng thời trước».
3. «Áo cứ chàng, làng cứ xã. Chê người có tính ỷ lại, không biết tự mình lo việc cho mình».
Ở một chỗ khác, trong Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (Nxb Văn Hoá, Hà Nội, 1989), tác giả Nguyễn Lân đã giảng bằng những lời lẽ khác, nhưng nội dung cũng tương tự, như sau: «Nói tính ỷ lại của người đàn bà, cũng như tính ỷ lại của những người dân trong thôn xóm, không thấy được vai trò làm chủ của mình».
Câu này đã bị tác giả chép sai và vì chép sai nên cũng đã giảng sai hẳn ý nghĩa đích thực của nó. Nguyên văn của nó là «Áo cứ tràng, làng cứ xã» (còn có dị bản «Áo cứ tràng, làng cứ lý trưởng). Tràng là vạt trước của áo dài và đây là một cách hiểu hoàn toàn đúng với cấu trúc cú pháp - ngữ nghĩa của câu tục ngữ đang xét. Trong kiểu cấu trúc «A cứ B, C cứ D» này thì B luôn luôn là một bộ phận của A còn D luôn luôn là một bộ phận của C. Trong câu «Thuyền cứ mạn, quán cứ vách», chẳng hạn, thìmạn là một bộ phận của thuyền còn vách là một bộ phận của quán. Cũng vậy, trong câu đang xét thìtràng là một bộ phận của áo còn  (trưởng) hoặc lý trưởng là một thành viên, nghĩa là một bộ phận của làng. Vì vậy mà đưa «chàng» (đối với «nàng») vào đây thì rất lạc lõng: làm sao mà «chàng» lại có thể là một bộ phận của cái áo cho được! Cũng vì tác giả nhất quyết đưa «chàng» vào cho nên «nàng» mới mắc cái oan của Thị Kính (bị chê là hay ỷ lại vào đàn ông) rồi dân làng cũng mang tiếng lây là không thấy được vai trò làm chủ của chính mình.
4. «Ăn tết. Dự những cuộc ăn uống trong những ngày Tết».
Cứ theo lời giảng của tác giả thì hễ ai cư trú ở thành thị mà về quê ăn tết thì cũng chỉ là về để «dự những cuộc ăn uống trong những ngày Tết» mà thôi chứ không cần cúng kiếng ông bà, viếng thăm hàng xóm, v.v... Và trong đôi câu đối:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh
thì chỉ có «thịt mỡ, «dưa hành» và «bánh chưng xanh» mới thuộc chương trình «ăn tết» ngày xưa chứ «câu đối đỏ», «cây nêu» và «tràng pháo» thì không!
5. «Ẩn dụ (H. ẩn: kín; dụ: rõ ràng)»
Thực ra, ở đây, dụ có nghĩa là sự so sánh chứ không phải là «rõ ràng».
6. «Ẩn lậu (H. ẩn: kín, lậu: rỉ ra) Giấu giếm, không nói ra: Ẩn lậu hàng hóa»
Lậu ở đây thực ra là sót, bỏ sót chứ không phải «rỉ ra». Đã «rỉ ra» thì «bật mí» rồi chứ còn đâu là «bí mật» mà nói đến chuyện «giấu giếm».
7. Ấn hành (H. ấn: in; hành: làm) In ra và phát hành rộng».
Thực ra, hành ở đây là lưu thông, khiến cho lưu thông chứ không phải «làm».
8. «Ấu trùng (H. ấu: non ớt; trùng: động vật nhỏ li ti). Động vật nhỏ ở thời kỳ mới sinh»
Trùng không phải là «động vật nhỏ li ti» mà là côn trùng, nghĩa là sâu bọ, như vẫn được giảng trong các quyển từ điển tiếng Hán. Con ve, con dế, con bướm, con ong, v.v... thì «nhỏ li ti» thế nào được? Ấu trùng cũng chẳng phải là «động vật nhỏ ở thời kỳ mới sinh». Hẳn không có ai lại cho rằng chuột là một giống động vật to lớn nhưng có lẽ nào vì thế mà người ta gọi chuột con mới sinh là «ấu trùng»? Ấu trùng thực ra là một dạng của côn trùng, mới nở ra từ trứng, có đời sống tự do và có những nét khác biệt quan trọng từ hình dáng đến chế độ ăn và môi trường, so với dạng trưởng thành.
9. «Á nguyên (H: á: dưới một bậc; nguyên: bắt đầu)»
Nguyên ở đây là đứng đầu chứ không phải «bắt đầu».
10. «Ác nghiệt (H. ác: ác; nghiệt: mầm ác)»
Nghiệt chỉ là mầm chứ không phải «mầm ác» (ác nghiệt mới là «mầm ác»)
11. «Anh linh (H. anh: đẹp, tốt; linh: thiêng liêng). Hồn thiêng liêng.
Linh ở đây có nghĩa là hồn của người chết chứ không phải «thiêng liêng».
12. «Ảo giác (H. ảo: không thực; giác: thấy được)»
Giác ở đây là điều thấy được chứ không phải «thấy được» vì đây là danh từ chứ không phải động từ.
13. «Âm vị (H. âm: tiếng; vị: nói)»
Vị ở đây không phải là «nói» mà là đơn vị.
14. «Ấm sinh (H. ấm: con quan; sinh: học trò)»
Ấm không phải là «con quan» mà là quyền lợi con cháu được hưởng nhờ công lao của cha ông.
15. «Ba đào (H. ba: sóng; đào: dậy sóng)»
Đào ở đây không phải là «dậy sóng» mà là sóng to (Ba đào là một từ tổ gồm có hai danh từ đồng nghĩa đẳng lập).
16. «Ba hoa chích chòe (chích chòe là loài chim nhỏ)»
Chim chích mới là một loài chim nhỏ chứ chích chòe thì không thể nói là nhỏ được. Có lẽ tác giả đã nhầm con sau thành con trước chăng?
17. «Ba mươi sáu chước (dịch từ chữ Hán: tam thập lục kế). Ý nói cách trốn đi là hợp»
Trên đây là Nguyễn Lân viết. Còn Nguyễn Du thì viết trong Truyện Kiều như sau:
Thừa cơ lẻn bước ra đi,
Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn.
«Chước gì» tức là chước «lẻn bước ra đi», nghĩa là chước trốn và chước trốn trong ngôn từ của Nguyễn Du chỉ là một trong ba mươi sáu chước mà thôi. Không biết do phép lạ nào mà trong từ điển của Nguyễn Lân nó lại kiêm luôn ba mươi lăm chước còn lại nên «ba mươi sáu chước» mới «có ý nói trốn đi là hợp».
18. «Bạch đái (H. đái: đeo lấy)»
Đái là tên một chứng bệnh phụ khoa mà Mathews’ Chinese-English Dictionary dịch là «a discharge or flux» (sự tiết ra hoặc sự băng huyết) còn Dictionnaire classique de la langue chinoise của F. S. Couvreur thì dịch là «leucorrhée» (khí hư). Vậy đái ở đây không phải là «đeo lấy».
19. «Bạch phiến (H. phiến: tảng). Chất ma túy có thuốc phiện)»
Ở đây «phiến» không thể có nghĩa là tảng được chỉ đơn giản vì đó là tiếng thứ hai trong hai tiếng «nha phiến» hoặc «a phiến» (mà tiếng Việt đọc trại thành «á phiện») dùng để phiên âm một từ có nghĩa là thuốc phiện mà chúng tôi cho là thuộc một phương ngữ của Ấn Độ, tuy chưa xác định nhưng có nhiều phần chắc chắn là có liên quan về nguồn gốc với tiếng Pāli «ahipheņa». Ahi là rắn còn phena là bọt; vậy ahiphenïa có nghĩa gốc là bọt mép của rắn, được chuyển nghĩa để chỉ á phiện. Concise Pāli-English Dictionary của A. P. Buddhadata Mahāthera, (Colombo, 1975) đã cho: «Ahipheņa: opium». Vậy a phiến < a(hi)phen(a) và «phiện» chỉ là một âm tiết vô nghĩa, còn bạch phiến chẳng qua chỉ là «bạch a (hoặc nha) phiến» nói tắt mà thôi. Xin lưu ý thêm rằng a phiến (hoặc nha phiến) còn có một từ đồng nghĩa nữa là a phù dung (mà tiếng Việt thường nói trại thành «ả phù dung») phiên âm từ tiếng Anh «opium».
20. «Bản quyền (H. bản: của mình; quyền: quyền) Quyền lợi của tác giả».
Ở đây, bản có nghĩa gốc là tấm, miếng, tờ, v.v... rồi nghĩa phái sinh là sách vở, rồi tác phẩm chứ không phải là «của mình». Đây cũng chính là chữ «bản» trong «xuất bản».
21. «Bánh lái. Bộ phận hình tròn xoay được, dùng để lái xe hơi, máy cày...» .
Thực ra, cái mà Nguyễn Lân đã tả bằng lời giảng trên đây là «tay lái (volant) chứ không phải «bánh lái». Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh-Tịnh Paulus Của đã giảng tại chữ «bánh» rằng bánh lái là «tấm cây tra sau lái ghe, để mà khiến nó đi» và tại chữ «lái» rằng bánh lái là «cây ván đóng bổ, tra sau đốc chiếc thuyền, để mà khiến bát cạy». Với nghĩa mà Huỳnh-Tịnh Paulus Của đã giảng, hai tiếng bánh láicòn được dùng theo ẩn dụ trong từ tổ «sao bánh lái», cũng theo Huỳnh-Tịnh Paulus Của là «các vì sao chòm, giống hình cái bánh lái ghe». Đấy, bánh lái là như thế. Chứ nếu nó là cái tay lái (volant) như Nguyễn Lân đã giảng thì sao bánh lái tất nhiên sẽ là một chòm sao hình... tròn vo như cái bánh xe.
22. «Báo giới (H. báo: tờ báo; giới: hạng, loại). Nói chung những người làm báo».
Giới ở đây không phải là «hạng, loại» mà là cõi, là lĩnh vực, là địa hạt. Báo giới, nói nôm na, chẳng qua là làng báo.
23. «Bảo tháp (H. bảo: quí; tháp: lầu cao)»
Tháp đây không phải «lầu cao» mà là một loại hình kiến trúc nhiều tầng và nhỏ dần theo chiều cao.
24. «Bảo trọng (H. bảo: giữ; trọng: nặng) Giữ gìn và coi trọng».
Trọng ở đây không phải là «nặng» mà là đánh giá cao, trái với khinh (là xem thường). Bảo trọng cũng không phải là «giữ gìn và coi trọng» mà là chú ý giữ gìn sức khỏe hoặc an toàn cho bản thân. Vì vậy, mà cái thí dụ «tự đặt» của Nguyễn Lân («Bảo trọng danh dự của gia đình») cũng là một thí dụ không thích hợp.
25. «Bạo phát (H. bạo: dữ; phát: bắn tên ra). Bùng ra đột ngột và dữ dội».
Phát ở đây không phải là «bắn tên ra» mà là khởi lên, nổ ra, xảy ra, v.v... .
26. «Bát dật (H. bát: tám; dật: yên vui). Lối múa xưa, có tám hàng, mỗi hàng tám người».
Dật ở đây không phải là «yên vui». Đây là một chữ Hán khác hẳn, có nghĩa là hàng. Vì vậy nên bát dậtmới là tám hàng, như chính tác giả cũng đã giảng.
27. «Bắc thần (H. bắc: phương bắc; thần: tế thần). Ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Tiểu hùng tinh (... )»
Đây là một chữ thần khác hẳn (chứ không phải thần trong tinh thần), có nghĩa là ngôi sao, chữ Hán là辰 mà âm thông dụng là thìn và với âm này thì nó dùng để chỉ chi thứ năm trong mười hai địa chi, ứng với con rồng.
28. «Băng hà (H. băng: sụp đổ; hà: xa). Nói vua chết».
Để «nói vua chết», người ta chỉ có thể nói «băng» hoặc «thăng hà». «Băng hà» là một cách ghép sai mà đã là từ điển thì không nên thu nhận hoặc nếu thu nhận thì phải có nhận xét, phê phán.
29. «Bần cố nông (H. bần: nghèo; cố: làm thuê; nông: làm ruộng). Người nông dân nghèo phải làm thuê cho địa chủ».
Nông ở đây không phải là «làm ruộng» mà là người làm ruộng. Vì vậy nên Mathews’ Chinese-English Dictionary mới dịch là «a farmer» (nhà nông) còn Dictionnaire classique de la langue chinoise mới dịch là «laboureur» (dân cày).
Bần cố nông cũng không phải là «người nông dân nghèo phải làm thuê cho địa chủ» vì đó là hai tầng lớp khác nhau trong giai cấp nông dân mà nếu liệt kê cho đầy đủ thì gồm có (từ nghèo nhất đến khá nhất): cố nông, bần nông, trung nông và phú nông mà phú nông thì vô hình trung từng bị xem là đã có một chân ngấp nghé bước sang «vùng đất» của giai cấp địa chủ. Cố nông được xem là vô sản nông thôn, còn bần nông thì còn có tí ti ruộng đất hoặc in ít tư liệu sản xuất gọi là. Vậy bần cố nông là bần nông và cố nông, nghĩa hai tầng lớp chứ không phải chỉ một tầng lớp như tác giả đã giảng.
30. «Bất chắc, không chắc sẽ xảy ra: Phòng khi bất chắc dụng binh (Tú Mỡ)».
Tiếng Việt chẳng làm gì có hai tiếng «bất chắc» với nghĩa mà Nguyễn Lân đã giảng. Câu thơ của Tú Mỡ mà tác giả đã nêu làm thí dụ có lẽ đã bị in sai («trắc» thành «chắc») còn Nguyễn Lân thì cứ ngỡ đó là một đơn vị từ vựng thực thụ của tiếng Việt. Cho là không có chuyện in sai thì hai tiếng «bất chắc» chẳng qua cũng chỉ là do ông Tú Mỡ «sáng tác» mà thôi. Nó đâu đã được mọi người chấp nhận mà đưa vào từ điển?
31. «Bật đèn xanh. Ngầm xui làm việc gì».
Đây là một lời giảng hoàn toàn sai: không phải «ngầm» mà hoàn toàn công khai; không phải «xui» mà là cho phép, khuyến khích khi được biết ý định của đương sự. Khi người ta nói «Chính phủ đã bật đèn xanh cho việc mở thị trường chứng khoán ở Việt Nam» chẳng hạn, thì ở đây chẳng làm gì có chuyện «xui», chuyện «ngầm» cả.
32. «Bù chì (Cần phân biệt với bù trì; từ này do tích một người mẹ vì thương người con út nghèo nàn, khi đến lượt nuôi mình sợ con tủi là không bằng các anh chị, nên đeo thêm chì vào người để tỏ rằng con út nuôi mình vẫn chu đáo, nên không sút cân): Người con hiếu thảo không biết là mẹ đã «bù chì».
Tác giả đã cẩn thận căn dặn người đọc cần phân biệt «bù trì» với «bù chì» mà không nghĩ rằng, thực ra, bù chì chỉ là một «biến tướng» của bù trì do từ nguyên dân gian tạo ra mà thôi. Đây không phải là chuyện «do tích nên có từ» mà lại là chuyện «do từ nên có tích». Nhà từ điển có lẽ cũng nên thẩm định kỹ trước khi đưa vào sách của mình chăng?
33. «Bưng mắt bắt chim. Giấu giếm làm sao được».
Thành ngữ này không hề có nghĩa là «giấu giếm làm sao được» như Nguyễn Lân đã giảng. Cách hiểu chung của mọi người là: Làm việc cầu may nên không hy vọng thành công, như đã giảng trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam của Việt Chương.
Trở lên là 33 chỗ sai mà chúng tôi đã sơ bộ thấy được trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân. Ấy là do chỉ mới được lướt qua và cũng chỉ nhận xét về loại lỗi giảng sai chứ chưa kể đến các loại lỗi khác như: ghi chú sai về từ nguyên, ghi không đúng nguyên văn thông dụng hoặc không đủ từ của thành ngữ, v.v... Và ấy là còn do chỉ mới hạn chế sự nhận xét ở 188 trang thuộc bốn chữ cái «a», «ă», «â» và «b» (tr. 15-202) mà thôi chứ không có thời gian để đọc tất cả 2094 trang chính văn từ đầu đến cuối (tr. 15-2108). Dĩ nhiên là chúng tôi không có ý lấy tỉ lệ 33 lỗi trên 188 trang làm tỉ lệ chung cho cả quyển từ điển. Nhưng chúng tôi vẫn có cái cảm giác rằng hình như là người ta có thể bất chợt tìm thấy lỗi này lỗi khác đâu đó trong quyển sách một cách không lấy gì làm khó khăn.
Đương nhiên, Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân là một quyển sách cần thiết và bổ ích. Nhưng như đã thấy không phải là mọi mục từ của nó đều chính xác. Vì thế và vì cả độc giả của nó nữa, nên chúng tôi mới mạo muội viết bài nhận xét cỏn con này.
* Đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn (bộ mới), số 6, tháng 9-2000.

Kỳ 2: phần chữ cái «C»
34. «Ca nhạc, tt, có hát và có âm nhạc».
Ca nhạc là danh từ chứ không phải tính từ nên cũng chẳng phải là «có hát và có âm nhạc». Từ điển tiếng Việt 1992 giảng sát hơn: «Nghệ thuật biểu diễn bằng tiếng đàn và giọng hát».
35. «Ca thán. Biến âm của ta thán».
Đây không phải là «biến âm» (thuần túy) mà do loại suy từ thành tố ca trong ca cẩm, kêu ca (nên ta thán mới thành «ca thán»)
36. «Cà ràng. Bếp lò làm bằng đất nung».
Lời giảng này có thể áp dụng cho cả từ tổ hỏa lò, còn cà ràng lại là một thứ lò thấp, hình bầu dục có hai phần; phần trước có ba cái mấu để bắc nồi lên trên mà đun củi bên dưới, phần sau để đựng tro than cời từ phần trước ra.
37. «Cá mè đè cá chép. Câu ca dao của trẻ em (...)».
Đây không phải là ca dao, cũng chẳng phải của trẻ em. Huống chi trẻ em chắc gì đã đủ nhận thức để ứng dụng câu này.
38. «Cả cười. Nói mọi người cười đùa vui vẻ».
Cả cười là cười to chứ không phải là mọi người đều «cười cả».
39. «Cả quyết. Biến âm của quả quyết».
Đây không phải là biến âm của «quả quyết» mà là một cấu trúc có thành tố thứ nhất là cả giống như trong: cả ghen, cả giận, cả nể, cả sợ, v.v...
40. «Các tận sở năng (các: mọi thứ, tận: hết; sở: của người ấy; năng: năng lực) Mọi người đều làm hết sức mình».
Ở đây, các không phải là «mọi» mà là mỗi (S.s «mỗi người vì mọi người») đồng thời cũng không chỉ đồ vật (nên không thể giảng thành «mọi thứ») mà lại nói về người (nên các là mỗi người). Tận ở đây cũng không phải là «hết» mà là phát huy cho đến mức cao nhất. Sở không phải là «của người ấy» mà là cái vốn có, sẵn có, về một phương diện nào đó.
41. «Cách điệu hóa (cách: cách thức; điệu: đưa chỗ này qua chỗ khác... )»
Thực ra, điệu ở đây là điệu thức, nhịp điệu.
42. «Cải cách (cải: thay đổi; cách: cách thức)».
Cách ở đây cũng là thay đổi chứ không phải «cách thức».
43. «Cam lộ (cam: ngọt; lộ: hạt móc đọng trên lá)».
Lộ ở đây không phải là «hạt móc đọng trên lá» mà là rượu ngon.
44. «Cam tuyền (...) suối nước ngọt: Khói cam tuyền mờ mịt thức mây (Chinh phụ ngâm)».
Cam Tuyền trong câu thơ Chinh phụ ngâm trên đây là một địa danh chứ không phải «suối nước ngọt». Đó là tên một ngọn núi ở phía Tây Bắc huyện Thuần Hóa tỉnh Thiểm Tây, trên đó có đài khói để đốt báo hiệu khi có giặc.
45. «Cảm giác luận (luận: bàn bạc)».
Luận ở đây là học thuyết chứ không phải «bàn bạc».
46. «Cảm thương (thương; tổn thất) Động lòng thương xót».
Thương đây là đau đớn, xót xa chứ không phải «tổn thất».
47. «Canh thiếp (Canh: bậc thứ bảy trong hàng can, chỉ tuổi tác (...)».
Thực ra, canh ở đây là tuổi tác (như niên canh) không liên quan gì đến «bậc thứ bảy trong thập can».
48. «Cau già dao sắc lại non. Ý nói: Người tuy có tuổi nhưng biết trang điểm thì vẫn có duyên».
Ý câu này thực ra là dù cau có già, nghĩa là có rắn, chắc (hơn là cau non) đến mấy nhưng nếu có dao sắc thì vẫn có thể bổ được dễ dàng. Nó đã được dùng theo lối tỉ (trong ba lối phú, tỉ, hứng theo cách gọi truyền thống) để dẫn đến câu:
Nạ dòng trang điểm lại giòn hơn xưa.
Chính câu này mới có cái ý mà tác giả đã giảng. Câu sáu của ông Nguyễn Lân và câu tám mà chúng tôi vừa nêu hợp thành một liên lục bát duy nhất (nên mới có thể là một câu ca dao hoàn chỉnh) nhưng tác giả đã ngắt bỏ câu sau rồi lại lấy ý của nó mà gán cho câu trước.
49. «Căn cứ (căn: rễ; cứ: dựa vào)».
Cứ ở đây là bằng chứng, là chỗ dựa chứ không phải «dựa vào» (vì không phải là động từ).
50. «Cầm loan (cầm: đàn; loan: keo gắn dây đàn). Tình nghĩa keo sơn».
Loan là chim loan chứ không phải «keo gắn dây đàn». Keo loan mới là keo gắn dây đàn.
51. Cấm khẩu (cấm: không được; khẩu: miệng)».
Cấm ở đây là câm, là không nói được chứ không phải là «không được». Có lẽ tác giả đã nhầm với chữcấm trong nghiêm cấm, cấm kỵ, v.v... , chăng?
52. «Câu-rút (Pháp: croix) Giá bằng gỗ hình chữ thập, trên đó Chúa Giê-su bị đóng đinh».
Danh từ câu rút đã có mặt trong tiếng Việt muộn nhất là gần cuối thế kỷ XVIII vì nó đã được ghi nhận trong Dictionarium anamitico-latinum (1772-1773) của Pigneaux de Béhaine. Lúc đó, tiếng Pháp không thể có ảnh hưởng đến tiếng Việt nên câu rút không phải do tiếng Pháp croix mà ra. Đó là hai tiếng, phiên âm từ tiếng Bồ Đào Nha cruz, có nghĩa là cây thập giá.
53. «Câu thần: Câu thơ mà thi sĩ cho là có thần linh giúp cho».
Câu thần chẳng qua là câu thơ cực hay chứ chẳng phải là có thần linh nào giúp cho cả. Chính Nguyễn Lân cũng đã giảng ở phần chữ «t» rằng thần là «tinh lắm, tài lắm».
54. «Cây con. Thực vật và động vật dùng làm thực phẩm: Khách sạn đó có sẵn cây con làm những món ăn đặc sản».
Hẳn là tác giả cho rằng ở đây cây chỉ thực vật còn con thì chỉ động vật nên mới giảng và cho thí dụ như thế chăng? Hàng quán có thể thu nhận lối nói này chứ từ điển thì không.
55. «Cây nhang. Từ miền Nam chỉ cây hương».
Tác giả đã giảng từ tổ cây nhang như trên mà cây hương thì được tác giả giảng là «bệ thờ xây ngoài trời». Chúng tôi chưa được biết nơi nào ở Nam Bộ có dùng hai tiếng «cây nhang» để chỉ cái «bệ thờ xây ngoài trời» như thế cả.
56. «Chắc lép. Không tin là người ta sẽ giữ lời hứa: Ông ta không cho anh ấy vay vì chắc lép».
Chắc lép thực ra là «đắn đo, tính toán để mình chắc chắn được phần hơn, không bị thiệt trong quan hệ với người khác». (Từ điển tiếng Việt 1992).
57. «Chấn động (chấn: rung động; động: làm mạnh lên)».
Động không phải là «làm mạnh lên» mà là làm cho di chuyển hoặc rung chuyển.
58. «Chất phác (chất: chân thực; phác: mới hình thành)».
Phác ở đây là mộc mạc, không trau chuốt chứ không phải «mới hình thành».
59. «Châu: Một trong năm phần đất đai lớn của quả đất phân chia theo quy ước».
«Năm phần đất đai lớn» của ông Nguyễn Lân là Âu, Á, Mỹ, Úc, Phi nhưng tác giả còn quên một châu nữa là châu Nam Cực vì từ lâu người ta đã bổ sung «năm châu» thành sáu châu» (Châu Nam Cực trước kia bị nhầm là một đại dương nên gọi là Nam Băng Dương).
59. «Chế xuất. Sản xuất vật phẩm: Thành lập khu chế xuất ở ngoại ô thành phố. Khu chế xuất Tân Thuận ở gần thành phố Hồ Chí Minh».
Chế xuất nói nôm na là chế tạo để xuất khẩu chứ không phải chỉ là «sản xuất vật phẩm» mà thôi.
60. «Chia bài. Phân một cỗ bài ra thành nhiều phần bằng nhau».
Nếu nói như tác giả thì cả bộ bài sẽ được chia hết nhưng thực tế thì thường vẫn còn lại một số lá bài sau khi chia (chẳng hạn khi đánh tứ sắc hoặc đánh cắc tê, v.v... )
61. «Chia uyên rẽ thúy (uyên là chim uyên ương tức chim đực chim cái sống từng cặp; thúy là con chim chả (sic)). Làm cho cặp vợ chồng hoặc người yêu phải xa nhau».
Nếu thúy chỉ là con chim trả (chứ không phải «chả») thì rẽ thúy là chia làm sao? Thực ra, thúy là con chim mái trong cặp phỉ thúy mà phỉ là con trống. Phải có đôi như thế thì mới «rẽ» được chứ.
62. «Chiếc (mạo từ)».
Chiếc là một danh từ chính danh (X. Cao Xuân Hạo, «Sự phân biệt đơn vị / khối trong tiếng Việt và khái niệm «loại từ», Tiếng Việt - mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb Giáo dục, 1998, tr. 305-346; đặc biệt là phần phụ lục tr. 343) còn mạo từ là article.
63. «Chiếc bách sóng đào (đào chữ Hán là nổi sóng)».
Đào là sóng to chứ không phải «nổi sóng». Đây là một danh từ chứ không phải động từ.
64. «Chiêu dân lập ấp (ấp: nơi tập trung người lao động)».
Thực ra, ấp là nơi cư trú của cả nam, phụ, lão, ấu chứ có phải ai ở ấp cũng đều là người có đủ sức lao động cả đâu.
65. «Chiêu đãi sở (sở: nơi làm việc) Nơi tiếp đón và thết đãi: Thân nhân của quân đội được mời đến chiêu đãi sở».
Sở ở đây là nơi chốn, chứ không phải «nơi làm việc». Thân nhân của quân đội đến chiêu đãi sở chỉ ăn kẹo, uống trà, v.v... , và nói chuyện chứ có «làm việc» gì đâu.
66. «Chiêu mộ (chiêu: sáng; mộ: buổi chiều) sáng và chiều».
Tác giả đã viết sai chính tả: đây là triêu chứ không phải «chiêu».
67. «Chiếu thư (chiếu: lệnh vua; thư: viết). Tờ chiếu của vua».
Thư ở đây là văn bản (danh từ) chứ không phải «viết» (động từ).
68. «Chinh phục (phục: chịu theo)».
Phục ở đây là bắt phải theo chứ không phải «chịu theo».
69. «Chính khách (chính: việc nước; khách: người ta)».
Khách ở đây là người (như: du khách, thích khách, v.v... ) chứ không phải «người ta».
70. «Chính quốc (chính: trái với phụ; quốc: nước) Nước đế quốc xâm lược đối với nước bị đô hộ».
Ở đây, chính đối với thuộc trong thuộc quốc chứ không phải «trái với phụ» (như trong vai phụ, vai chính, chẳng hạn).
71. «Chính sử (chính: đúng đắn; sử: lịch sử) Bộ sử do chính quyền phong kiến chủ trương biên soạn, khác với dã sử do tư nhân biên chép».
Chính ở đây là chính thức, chính thống chứ không phải «đúng đắn». Nếu giảng như tác giả thì vô hình trung đã xem dã sử là không đúng đắn.
72. «Chọc lét, từ miền Nam có nghĩa như chọc nách».
Tác giả viết sai chính tả vì đây là léc, phiên âm từ tiếng Khmer kliêk là cái nách. Vì vậy dân miền Nam còn có một cách nói đầy đủ hơn: chọc cà-léc: Cà-léc là phiên âm từ kliêk.
73. «Chọc trời. Cao lắm: Nhà chọc trời».
Trong câu Kiều «chọc trời khuấy nước mặc dầu» thì chọc trời đâu có nghĩa là cao lắm». Thực ra, hai tiếng «chọc trời» của ông Nguyễn Lân nằm trong từ tổ cố định nhà chọc trời, một hình thức sao phỏng tiếng Pháp gratte-ciel (hoặc tiếng Anh sky-scraper). Vậy không thể tách riêng hai tiếng «chọc trời» ra mà giảng là «cao lắm».
74. Chồm hỗm. Nói ngồi xổm một mình ở trên phản trên giường».
Không phải «một mình» cũng chẳng phải chỉ «ở trên phản trên giường». Thí dụ: Tốp thợ xây đang ngồi chồm hỗm dưới đất để nghe cai thầu phân công. Ngồi chồm hỗm, thực ra, chỉ đơn giản có nghĩa là ngồi xổm.
75. «Chồng chắp vợ nối. Chê cặp vợ chồng không có cưới xin đàng hoàng».
Đây là tình trạng của những cặp vợ chồng mà người chồng đã có một đời vợ trước còn người vợ đã có một đời chồng trước chứ không phải là chuyện «không có cưới xin đàng hoàng». Có khi họ cưới nhau còn đàng hoàng hơn là bao nhiêu đám cưới «tơ» khác ấy chứ.
76. «Chồng chéo (... ). Có mâu thuẫn với nhau: Đó là những vấn đề chồng chéo lên nhau».
Thực ra, đây chỉ là chuyện cái này và (những) cái khác có những phần trùng lẫn với nhau chứ không nhất thiết «có mâu thuẫn với nhau».
77. «Chồng chung vợ chạ. Chê những cặp vợ chồng không chung thủy với nhau».
Đây không phải là chuyện «không chung thủy với nhau» mà là một kiểu «đa phu đa thê», một ông mấy bà một bà hai ông (mà vẫn ở chung nhà. Có thật đấy!). Họ đánh bài ngửa với nhau cả đấy chứ đâu cần đặt ra vấn đề chung thủy hay không chung thủy.
78. «Chơi gáiCó quan hệ sinh lý với phụ nữ».
Cứ như lời giảng trên đây của ông Nguyễn Lân thì, trừ những ông bất lực, có ông chồng nào lại chẳng «chơi gái» (Mỗi lần... với vợ là một lần «có quan hệ sinh lý với phụ nữ»).
79. «Chu chuyển (chu: vòng quanh; chuyển: lay động)».
Chuyển ở đây là lăn, đổi chỗ, vận động chứ không phải «lay động».
80. «Chủ nhân (chủ: tự mình; nhân: người)».
Chủ ở đây là người sở hữu chứ không phải «tự mình».
81. «Chủ nô (chủ: đứng đầu; : nô lệ)».
Ông Nguyễn Lân tưởng rằng chủ nô là một cấu trúc tiếng Hán nhưng thực tế hai tiếng này lại do người Việt Nam đặt ra theo cú pháp tiếng Việt. Còn tiếng Hán lại là nô lệ chủ (núlìzhú) trong đó chủ cũng là người sở hữu chứ không phải là «đứng đầu». Còn nếu chủ nô là tiếng Hán và cách giảng của ông Nguyễn Lân thực sự đúng (chủ: đứng đầu) thì chủ nô tất nhiên sẽ là người nô lệ đứng đầu những người nô lệ khác (chứ không phải chủ của nô lệ).
82. «Chúa đất. Từ miền Nam chỉ bọn địa chủ lớn».
Trong Nam Bộ, không có ai dùng hai tiếng chúa đất để «chỉ bọn địa chủ lớn» cả. Người ta chỉ gọi là đại điền chủ.
83. «Chúng sinh (chúng: số đông; sinh: sống)».
Sinh ở đây là sinh vật chứ không phải là «sống».
84. «Chuyên đề (đề: đưa ra)».
Đề ở đây là đề mục, đề tài chứ không phải «đưa ra».
85. «Chuyên gia (gia: nhà)».
Gia ở đây là người chứ không phải «nhà», còn nhà trong nhà vănnhà báo thì cũng là người chứ không phải chỗ ở.
86. «Chuyên luận (luận: bàn bạc)».
Luận ở đây là luận đề, luận văn chứ không phải «bàn bạc».
87. «Chuyên san (san: in ra)».
San ở đây là tạp chí ra theo định kỳ chứ không phải «in ra».
88. «Chữ đinh (Chữ Hán có nét ngang và nét sổ dọc) (... )».
Thực ra, nét thứ hai của chữ đinh 丁 không phải là «nét sổ dọc» ( | ) mà lại là nét sổ móc 亅. Nếu nét đang xét đúng là «nét sổ dọc» như Nguyễn Lân khẳng định thì ta sẽ có chữ T và đây là cổ văn của chữhạ 下, chứ chẳng có liên quan gì đến chữ đinh 丁 cả.
89. «Chưa chút. Vẫn không được tí gì: Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành».
Ở đây tác giả cứ ngỡ chữ chưa và chữ chút đi đôi với nhau như mặc dù, nhưng mà, tuy nhiên,... chứ không ngờ rằng đó là một sự ghép đôi ngộ nghĩnh vì «chưa chút» không phải là một từ cổ cố định.
90. «Chức sắc (H. sắc: chiếu chỉ của vua)».
Đây là chữ sắc 色 có nghĩa là « thứ», «loại» chứ có phải 敕 đâu mà bảo là «chiếu chỉ của vua».
91. «Chức vị (H. vị: đơn vị)».
Chữ vị ở đây mà giảng là «đơn vị» thì người đọc đành phải... chào thua vì vị ở đây thực ra là «ngôi thứ».
92. «Chứng khoán (H. khoán: bằng cứ)».
Thực ra, khoán không phải là «bằng cứ» mà là tờ giấy dùng để làm bằng chứng.
93. «Có hậu. Nói quyển truyện có phần kết lạc quan, tốt đẹp».
Nếu lời giảng của tác giả mà tuyệt đối đúng thì một vở kịch hoặc một bộ phim «có phần kết lạc quan, tốt đẹp» sẽ không được coi là «có hậu» chăng?
94. «Con én đưa thoi (Cái thoi khung dệt đưa đi đưa lại như chim én bay lượn)».
Tác giả đã giảng hoàn toàn ngược với chữ nghĩa thông thường vì đây là chim én liệng đi liệng lại giống như cái thoi khung dệt đưa đi đưa lại chứ đâu phải «cái thoi khung dệt đưa đi đưa lại như chim én bay lượn.»
95. «Cố đạo. Linh mục của Thiên chúa giáo».
Thực ra đây là linh mục Công giáo; còn Thiên chúa giáo thì rộng hơn và gồm nhiều chi phái khác nhau mà quan trọng nhất là Công giáo, Tin lành và Chính giáo.
96. «Công sứ (sứ: nhận lệnh trên đi làm việc gì)».
Thực ra, sứ là người được phái đi làm công việc được giao.
97. «Công trạng (trạng: hình dáng)».
Thực ra thì trạng ở đây là cái hình ảnh cụ thể bao gồm những chi tiết cụ thể.
98. «Công trình sư (sư: thầy)».
Có phải trong bất cứ cấu trúc nào  cũng có nghĩa là «thầy» đâu. Bỉnh sư chỉ là anh thợ làm bánh mà thôi. Ở đây, sư là người thành thạo về một loại công việc nhất định.
99. «Cộng hòa tư sản (sản: sinh ra)».
Ở đây sản không phải là «sinh ra» mà là của cải.
100. «Cốt cách (cách: cách thức)».
Cách ở đây là bộ xương, khung xương chứ sao lại là «cách thức»?
101. «Cốt cán (cán: tài năng)».
Cán không phải là «tài năng» mà là cái cốt yếu của sự vật.
102. «Cốt tử (tử: con)».
Tử ở đây là một hình vị có tác dụng danh từ hóa chứ không phải là «con».
103. Cơ cầu (H. cơ: khéo léo; cầu: mưu mô)».
Tác giả Nguyễn Lân đã giảng sai hoàn toàn. Sau đây là lời giảng chính xác trong Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh: «Cơ là cái thúng, cầu là áo cầu. Con cháu hay nối nghiệp cha ông gọi là cơ cầu, tỷ như con nhà thợ làm cung giỏi thì tuy không được khéo bằng cha, nhưng cũng suy được ý cha mà bắt chước cách làm cung, để uốn nắn cây tre mà làm thành cái thúng; con nhà thợ hàn giỏi tuy không được khéo bằng cha nhưng tất cũng có thể mô phỏng được ý của cha, mà biết chắp vá loài da để làm áo cầu, ý nói con cháu giòng (sic) không bao giờ không dống (sic) cha ông.»
104. Cơ đốc (H. cơ: gốc; đốc: xem xét)».
Thực ra đây chỉ là hai tiếng hoàn toàn vô nghĩa dùng để phiên âm mà thôi.
105. Cơ hoang (H. cơ: đói; hoang: bỏ không)».
Thực ra, hoang là mất mùa chứ không phải «bỏ không».
106. Cơ quan (H. cơ: trọng yếu; quan: then cửa)».
Thực ra,  ở đây là máy, bộ máy (đối với quan là then, chốt).
107. «Cơm bưng nước rót. Ý nói: Phục vụ chu đáo».
Thực ra, đây là chuyện được phục vụ chu đáo chứ không phải phục vụ chu đáo (cho người khác).
108. «Cua thâm càng nàng thâm môi. Chê một người phụ nữ môi không đỏ».
Cua thâm càng là cua óp, ít gạch; nàng thâm môi là nàng có dấu hiệu bệnh lý gì đó nên chàng phải cẩn thận chứ làm gì có chuyện chê nàng không đỏ môi.
109. «Của đời muôn sự của chung. Ý nói: Cái đáng quý không phải là của cải vật chất».
Thực ra, ở đây ta có một liên lục bát:
Ở đời muôn sự của chung
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi
Chữ đầu của câu lục («ở») đã bị Nguyễn Lân cải biên thành «của» rồi giảng theo ý riêng nên tất nhiên là... chẳng ăn nhập vào đâu cả.
110. «Cục tác. Tiếng gà mái kêu».
Dĩ nhiên là nếu lời giảng trên đây của Nguyễn Lân mà đúng thì gà trống sẽ chẳng bao giờ biết cục tác cả.
111. «Củi. Thứ dùng để đun bếp».
Cứ như lời giảng trên đây thì rơm, mùn cưa, dầu hỏa, than và cả ga (gas) nữa, không thể dùng đun bếp chăng?
112. «Cung cầu (cầu: hỏi xin)».
Cầu là cần dùng chứ không phải «hỏi xin»
113. «Cực khoái. Nói thái độ của những kẻ ham mê sự khoái lạc về xác thịt».
Thực ra thì cực khoái tương ứng với tiếng Anh orgasm và tiếng Pháp orgasme và đó là điểm đỉnh của «sự khoái lạc về xác thịt».
114. «Cục cưng. Đứa trẻ được người mẹ nuông chiều».
Có lẽ tác giả chưa biết chuyện sếp cũng có thể gọi cô nữ thư ký xinh đẹp của mình là «cục cưng» chăng?
115. «Cửa Phật. Nơi thờ Phật».
Cửa Phật là chốn tu hành (theo Phật giáo) chứ đâu chỉ là «nơi thờ Phật».
116. «Cương mục (H. cương: cái chủ yếu; mục: mắt lưới)».
Đối với mắt lưới thì cương là cái giềng lưới.
117. «Cưỡng chế (H. chế: phép định ra)».
Thực ra, chế ở đây là bắt buộc.

* * *

Bạn đọc nào có tạp chí Văn, số 8 (bộ mới), tháng 11-2000, cũng có thể thấy được ngay phía dưới mục số 87 (tr. 106) có bốn chữ «còn tiếp kỳ sau». Nghĩa là sẽ đăng tiếp nhận xét của chúng tôi từ mục 88 đến mục 117 trên đây. Nhưng sau khi đăng bức thư của tác giả Nguyễn Lân (mắng An Chi) gửi cho Tổng biên tập tạp chí Văn (cũng trên số 8), không biết do lời ra tiếng vào như thế nào mà BBT đã quyết định bỏ, không đăng tiếp. Vì vậy nên lần này, nhân đưa bài đang nói vào sách, chúng tôi xin đưa các mục từ 88 đến 117 vào cho trọn phần chữ cái «c» mà chúng tôi đã bỏ thời gian và công sức ra để nhận xét, và cũng để bạn đọc thấy thêm nhiều chỗ sai khác nữa trong quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam của tác giả Nguyễn Lân. Dĩ nhiên là những chỗ sai của tác giả này không dừng lại ở cuối phần chữ cái «c». Nói có sách, mách có chứng, bước sang chữ cái «d», ta cũng thấy được hàng loạt mục từ có vấn đề: - da màu, - da trắng vỗ bì bạch, - dã sử, - dạ đài, - danh bút, - danh cầm, - danh hài, - danh họa, - danh tác, - danh thiếp, - danh vọng, - danh y, - dày dày, v.v... và v.v... Đó là ta còn chưa bước sang đến các chữ: dă-, dâ-, cho đến du, dư-, và cũng chỉ mới hạn chế ở chữ «d». Và chỉ cần liếc sơ sơ thêm, ta cũng có thể thấy nhiều chỗ ngoạn mục, chẳng hạn:
– «Dắt gáiNói kẻ xấu đưa phụ nữ đến cảnh mại dâm.»
Thực ra, dắt gái là đưa (những) phụ nữ đã cam tâm mại dâm đến với các đấng mày râu «hảo ngọt» muốn đi «dã chiến».
– «Dân túy (H. túy: say sưa)»
Ta khó lòng biết được do phép lạ nào mà tác giả lại nghĩ ra được rằng túy là «say sưa» trong khi đây lại là chữ túy (粹) trong tinh túy, thuần túy v.v...
– «Dối già. Làm việc gì vui vẻ trong tuổi già».
Trước nhất, tác giả đã viết sai chính tả vì đây là giối, biến thể ngữ âm của trối, chứ không phải «dối». Kế đến, tác giả đã giảng hoàn toàn sai. Trối già là «(làm việc gì) nhằm cho thật thỏa mãn lúc tuổi già, coi là lần cuối trong đời» (Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, 1992). v.v... và v.v...
Rõ ràng là Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân đầy rẫy những chỗ sai khó tin nhưng có thật. Chính tác giả cũng đã thừa nhận trong bức thư gửi Tổng biên tập tạp chí Văn:
«Tôi đã 95 tuổi, một mình soạn quyển từ điển dày 2111 trang ấy. Tất nhiên không thể hoàn hảo được nên trong bài Đôi lời tâm sự thay lời tựa tôi có ghi: Vì tuổi cao có thể có những sai sót, dám mong các độc giả dùng sách này vui lòng chỉ bảo cho.» (Văn, số 8-2000, tr. 100-1)
Ông Nguyễn Lân đã viết như thế nhưng khi chúng tôi nêu lên một số trường hợp có lựa chọn trong những chỗ sai đó thì ông lại viết trái hẳn với tinh thần trên đây:
«Sau khi đọc bài «Đọc lướt Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân» do ông Huệ Thiên viết, tôi rất ngạc nhiên trước những nhận xét sai lệch của ông ấy (...) Ông Huệ Thiên nêu lên đến 34 từ (thực ra là 33 – HT) để phê bình tôi, nhưng đại loại từ nào ông ấy cũng mắc sai lầm cả.» (Đã dẫn, tr. 101-2)
Chúng tôi sai lầm ở chỗ nào thì bạn đọc và các chuyên gia có thể nhận thấy được một cách dễ dàng vì chúng tôi đã trình bày rõ ràng trên giấy trắng mực đen. Còn về cái lý do «vì tuổi cao» nên «có thể có sai sót» của Nguyễn Lân thì, sau khi phân tích nhiều trường hợp cụ thể, nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương đã khẳng định như sau:
«Có người nghĩ rằng đây chẳng qua chỉ là những lời giải nghĩa chợt nghĩ ra và chưa được rà soát kỹ nên «(vì tuổi cao) có thể có sai sót» (như lời GS. Lân thường biện minh). Sự thật hoàn toàn chẳng phải vậy! Chứng cớ? Cách đây hơn 10 năm, vào năm 1989, tác giả cũng cho ra mắt công chúng TP. Hồ Chí Minh một công trình biên khảo tuy không đồ sộ lắm nhưng cũng dày tới gần 900 trang, cuốn Từ điển từ và ngữ Hán Việt, trong đó một loạt mục từ đã được ông giải thích chẳng khác chút nào so với những mục từ có trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam mà chúng ta đang bàn. Lời giảng của hai bên giống nhau đến mức ai cũng có thể nhận thấy ngay rằng nội dung của nhiều mục từ trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam chỉ là bản sao của Từ điển từ và ngữ Hán Việt. Nói cách khác, những lời giải thích đó, thực ra, đều là những «tri thức» đã được chắt lọc và nghiền ngẫm kỹ lưỡng trong suốt mười mấy năm ròng
(«Những chỗ chưa ổn trong bộ từ điển mới của GS. Nguyễn Lân», Thông tin Khoa học & Công nghệ, Thừa Thiên - Huế, số 1 (31) - 2001, in lại trong Tìm về linh hồn tiếng Việt, Nxb Trẻ, TP. HCM, 2003, tr. 120)
Đấy, quyển từ điển của ông Nguyễn Lân là một công trình như thế đấy. Thế nhưng khi chúng tôi chỉ ra nhiều chỗ sai của nó bằng những lời phân tích thường là ngắn gọn mà rành mạch thì ông lại phản ứng:
«Những điều mà ông Huệ Thiên nêu lên trong bài «Đọc lướt» của ông ấy đều tỏ rằng sự phê bình như thế là không chính đáng. Rất mong các vị độc giả đã đọc bài «Đọc lướt» của ông ta trên tạp chí Văn ở miền Nam sẽ đánh giá khả năng và tư cách của ông ấy thế nào.» (Đã dẫn, tr. 102)
Vâng, người đọc có thể đánh giá tư cách và khả năng của chúng tôi (Nguyễn Lân và Huệ Thiên) vì chữ nghĩa của hai bên đều rành rành trên giấy trắng mực đen. Nếu Huệ Thiên khen từ điển của tác giả Nguyễn Lân thì câu chuyện có lẽ đã đi theo một cái hướng khác. Còn dưới đây là một lời khen mà Nguyễn Đức Dương đã nhận xét như sau:
«Viết đến đây, tôi bỗng nhớ tới những lời nhà thơ Trần Đăng Khoa khen ngợi cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam của GS. Lân. Tôi không nhớ rõ lắm nhà thơ nổi danh này đưa ra câu đó ở đâu, trong dịp nào. Chỉ biết rằng lời khen này được đăng trên tạp chí Tài hoa trẻ (số 132-133, tháng 11-2000, tr. 5) và nguyên văn như sau:
«Một mình ông làm bằng công việc của cả một viện ngôn ngữ. Công trình đồ sộ ấy ông lại hoàn thành ở cái tuổi 95... Ở ông, điều làm cho tôi kinh ngạc là dường như ông không có tuổi già...»
Đọc những lời tán dương nồng nhiệt đó, óc tôi chợt nảy ra ý nghĩ: trước khi viết ba câu tôi vừa dẫn, hẳn tác giả Góc sân & Khoảng trời và Chân dung & Đối thoại, chỉ mới kịp lật dăm trang đầu và vài trang cuối để biết rõ công trình mình sắp nhận xét dày bao nhiêu trang, thế thôi! Chứ nếu chịu khó đọc một chút, dù chỉ vài chục trang thôi, chắc thế nào người viết cũng phải đỏ bừng mặt, bởi lẽ những gì mà ông viết ra chỉ chứng tỏ được một điều: Chẳng cần có một chút tri thức nào về tiếng mẹ đẻ, người ta vẫn có thể trở thành một nhà thơ, thậm chí một nhà thơ nổi tiếng!» (Bđd, tr. 124-5)
Trở lên là lời đánh giá của nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương mà chúng tôi xin mượn để kết thúc bài nhận xét về quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam của tác giả Nguyễn Lân. ●
(Viết thêm giữa tháng 7-2003)
*Đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn (bộ mới», số 8, tháng 11-2000
* In lại trong NHỮNG TIẾNG TRỐNG QUA CỬA CÁC NHÀ SẤM, Nxb TRẺ, 2004, trang 449-478.
Nguồn Facebook An Chi (Huệ Thiên)

Friday, 14 September 2012

Vì sao không nên dịch từ cardinal của tiếng Pháp thành hồng y giáo chủ?



Từ cardinal trong tiếng Pháp (cardinalis trong tiếng La Tinh) được dùng để chỉ những vị giáo sĩ cao cấp nhất trong giáo hội Công giáo La Mã. Phẩm phục của các vị này có màu đỏ nên người Việt gọi họ là các vị Hồng Y. Có ba bậc Hồng Y: Hồng Y Giám Mục, Hồng Y Linh Mục và Hồng Y Phó tế.
Hồng Y Giám Mục là tước hiệu dành cho bảy giáo phận xung quanh La Mã. Tiếng Pháp là cardinal-évêque, tiếng Anh là cardinal-bishop, tiếng Trung Quốc là主教級樞機 (chủ giáo cấp xu cơ).
Hồng y Linh mục là tước hiệu gắn với một giáo xứ La Mã (tổng giám mục giáo phận Thành Phố Hồ Chí Minh Phạm Minh Mẫn là Hồng Y Linh Mục Thánh Ðường Thánh Justino tại La Mã). Tiếng Pháp gọi Hồng Y Linh Mục là cardinal-prêtre, tiếng Anh là cardinal-priest, tiếng Trung Quốc là 司鐸級樞機 (tư đạc cấp xu cơ)
Bậc cuối cùng là Hồng y Phó tế, tiếng Pháp là cardinal-diacre, tiếng Anh là cardinal-deacon và tiếng Trung Quốc là  和執事級樞機 (hòa chấp sự cấp xu cơ).
Như vậy dịch cardinalhồng y giáo chủ hay chủ giáo đều không chính xác và rất bất tiện khi ta cần dịch các từ ngữ thể hiện thứ bậc của các vị Hồng Y.

Thursday, 13 September 2012

Giáo chủ và “chim giáo chủ” (Năng Lượng Mới số 145 , 10-8-2012) An Chi


Giáo chủ và “chim giáo chủ” (Năng Lượng Mới số 145 , 10-8-2012).

by An Chi on Friday, August 10, 2012 at 12:55pm ·
BẠN ĐỌC : Mục “Chuyện lạ đó đây” của Tuấn Huy trên Kiến thức Ngày nay số 791 (1-8-2012) có mẩu tin “Chim kỳ quái”, lấy từ báo Daily Hampshire Gazette với lời chú thích ảnh như sau : “Chim giáo chủ còn non có 2 đầu, 1 mỏ nhỏ giữa 2 mỏ lớn, do đột biến gien hoặc tác nhân môi trường tạo thành.” Xin ông An Chi cho biết “chim giáo chủ” là chim gì, tên của con chim này trong bài báo tiếng Anh nói trên là gì và, nhân tiện, xin ông cho hỏi việc dùng hai tiếng “giáo chủ” để chỉ một chức vụ bên Công giáo có chính xác hay không.
                                                                               Nguyễn Huỳnh Lâm, Q.1, TPHCM.
AN CHI : “Chim giáo chủ” là một cách dùng từ không thích hợp mà cách đây hơn 11 năm chúng tôi đã có nhận xét ngay trên Kiến thức Ngày nay số 382 (ngày 20-3-2001, mục “Chuyện Đông chuyện Tây”). Có người, có lẽ vì mặc nhận rằng “giáo chủ” là một cách gọi không đúng (với lối nói bên  Công giáo) nên đã gọi nó là “chim hồng y”, như Minh Long trong bài “Chim hai đầu, ba mỏ” (Vnexpress.net, ngày 1-6-2012). Có người còn gọi nó bằng một cái tên “đầy đủ” hơn, là “chào mào Hồng y giáo chủ ”, như Bảo Châu, trong “10 loại chim đẹp nhất hành tinh” trên m.tin247.com.
Tên con chim này trong bài báo của Daily Hampshire Gazette  là “cardinal”. Từ này nằm trong câu: “Britt said she found the bird near the base of a tree in her yard Monday afternoon and, figuring it wouldn't survive for long on the ground, returned it to its nest and to the pair of cardinals inside.” (“Baby bird with two heads, three beaks found in Northampton”, Gazettenet.com [Daily Hampshire Gazette],  Wednesday, May 30, 2012). Dịch nghĩa: “Bà Britt nói rằng bà đã thấy con chim gần một gốc cây trong sân (nhà) bà vào xế chiều ngày thứ hai và, nghĩ rằng nó sẽ không sống sót được lâu ở dưới đất (nên) đã đặt lại nó vào tổ cho đôi chim cardinal trong đó).”
Cardinal là từ chỉ một chức sắc Công giáo trong tiếng Anh, mượn thẳng từ tiếng Pháp trung đại, mà nguyên từ (etymon) là “cardinalis” trong ngữ đoạn “cardinalis sanctæ romanæ Ecclesiæ” của tiếng La Tinh, có nghĩa là “cốt cán của Toà Thánh La Mã”. Đặc trưng về lễ phục của chức sắc này là màu đỏ thắm nên về sau người ta còn dùng chính từ “cardinal” để chỉ một vài loài động vật hoặc thực vật có màu đó trong tiếng Pháp (có thể hoặc dùng thẳng hoặc làm định ngữ):
– giống chim sẻ lông đỏ (mà ta đang nói đến);
– một  giống cá;
– một giống bướm;
– một giống ốc;
– một giống bọ cánh cứng, còn gọi là pyrochre;
– giống hoa dơn (glaïeul) màu đỏ thắm;
  – giống nho đỏ; v.v..
Cứ như trên thì việc so sánh ở đây tuyệt nhiên không dính dáng gì đến con người hoặc tính cách của các chức sắc cốt cán bên Công giáo vì nó chỉ liên quan đến lễ phục, nói cho rõ ràng hơn, là cái màu đỏ thắm trên lễ phục của họ mà thôi. Vì vậy cho nên dịch “cardinal” của tiếng Pháp hoặc tiếng Anh thành “chim giáo chủ” hoặc “chim hồng y” là đã làm một việc không thích hợp. Diễn đạt thành chim “chào mào Hồng y giáo chủ ” thì lại càng vô lý. Có lẽ do muốn tránh cái sự vô lý này mà dân Tàu mới dịch “cardinal” thành “Bắc Mỹ hồng tước” 北美紅雀 (sẻ đỏ Bắc Mỹ). Tiếc rằng Từ điển Anh-Việt của Viện Ngôn ngữ học (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975), cũng dịch “cardinal” thành “chim giáo chủ” (!). Từ điển Pháp-Việt (Dictionnaire français-vietnamien) của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam do Lê Khả Kế làm tổng biên tập (Agence de Coopération Culturelle et Technique, 1981) đã dịch một cách khá hợp lý thành “chim áo đỏ”. Cách dịch này làm chúng tôi nhớ đến danh ngữ “chim áo già”, chỉ một giống chim có tên khoa học là Lonchura malacca, khá phổ biến ở trong Nam. Riêng cá nhân chúng tôi thì muốn gọi đó là “(chim) sẻ đỏ”; khi nào sợ văn cảnh có thể gây hiểu lầm thì sẽ nói rõ là “sẻ đỏ Bắc Mỹ”. Còn nếu muốn dùng một thuật ngữ thực sự chăt chẽ thì chúng tôi sẽ gọi đó là “hồng tước Bắc Mỹ”.
Trước đây, chức vụ cardinal vẫn được gọi một cách bình thường là “hồng y giáo chủ” trong tiếng Việt. Hồi tháng 4 -1955, khi Francis Spellman – kẻ đã kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ sử dụng bom nguyên tử ở Việt Nam – đến Sài Gòn để chuẩn bị cho Ngô Đình Diệm về hất cẳng Bảo Đại, thì dân chúng và báo chí ngoài Công giáo vẫn gọi tay này một cách bình thường là “hồng y giáo chủ”. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức (Khai Trí, Sài Gòn, 1970), Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, Hà nội, 1967) và Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học (Vietlex) do Hoàng Phê chủ biên (Nxb Đà Nẵng – Vietlex, 2007) đều có ghi nhận mục từ “hồng y giáo chủ”. Đây là một cách gọi hoàn toàn thích hợp. Nhưng nhiều năm gần đây, nhiều tác giả ngoài Công giáo, vì muốn tỏ ra “thức thời” nên đã theo cách nói bên Công giáo mà gọi cardinal là “hồng y” trơn tru và gạt bỏ hai tiếng “giáo chủ”. Họ không biết rằng “hồng y” chỉ là một lối nói mang tính biệt ngữ của Công giáo còn “hồng y giáo chủ” mới là một lối nói của tiếng Việt toàn dân. Cái lý do bên Công giáo mà họ đã nghe theo là: “giáo chủ” cũng là một lối nói để chỉ giáo hoàng (nên không thể gọi “hồng y” thành “giáo chủ”). Nhưng trong tiếng Việt thì hai hình vị “chủ” và “hoàng” khác nhau nhiều lắm.
“Hồng y giáo chủ” thực ra là một lối nói đã cải biên từ mấy tiếng “hồng y chủ giáo” 紅衣主教, mà  dân Tàu đã dùng để dịch “cardinal”. “Chủ giáo” 主教 là hai tiếng mà Tàu đã dùng để dịch “bishop” (giám mục) của tiếng Anh. Trong cái cấu trúc này của tiếng Hán thì “chủ” là định ngữ còn bị định ngữ, tức trung tâm, là danh từ “giáo”. Nhiều người Việt Nam không quen với kiểu chuyển loại từ động từ thành danh từ – như trường hợp của từ “giáo” – nên mới đưa “giáo” lên trước làm định ngữ cho “chủ” thành “giáo chủ” vì, theo họ, chỉ có “chủ” mới là danh từ. Nhưng hai lối nói hữu quan chỉ khác nhau về thành phần cấu tạo, cũng như về sắc thái ngữ nghĩa gốc, chứ lối nói của tiếng Việt thì tuyệt đối không sai ngữ pháp (dĩ nhiên là ngữ pháp của tiếng Tàu). Như vậy thì trong tiếng Việt, “giáo chủ” có đồng nghĩa với “giáo hoàng” hay không? Xin thưa rằng tuyệt đối không. Cái lý do đơn giản nhất mà ta có thể đưa ra ngay tức khắc là tiếng Việt văn học và tiếng Việt toàn dân không bao giờ gọi giáo hoàng là “giáo chủ”. Huống chi, trong tâm thức của người Việt thì “chủ” và “hoàng” là hai hình vị khác hẳn nhau. “Chủ” là biến thể ngữ âm hậu kỳ của  “chúa”  (chúa nhựt = chủ nhật) mà lịch sử Việt Nam thì có một giai đoạn gọi là “vua Lê chúa Trịnh”. Dòng họ Trịnh chỉ kế vị nhau làm “chúa” (chủ); chỉ có người của họ Lê mới làm “hoàng” (đế) mà thôi. Ngôi vị giữa “chủ” (chúa) và “hoàng” cách biệt nhau như thế thì ta tuyệt đối không thể nói rằng “giáo chủ” đồng nghĩa với “giáo hoàng”. Người Công giáo có thể đánh dấu bằng giữa “giáo chủ” và “giáo hoàng”. Đó là chuyện nôi bộ của họ. Nhưng ta không thể buộc tiếng Việt toàn dân cũng phải bắt chước mà làm y như họ. Đây là một điều dứt khoát.

Wednesday, 12 September 2012

“Ăn vóc học hay” (An Chi / Huệ Thiên)


 ĐỘC GIẢ: Xin giải thích câu “Ăn vóc học hay”. “Vóc” là gì?
AN CHI: Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (Hà Nội, 1989) giảng:vóc “là từ cũ có nghĩa là ít” và “ăn vóc học hay” là “ăn ít nhưng học giỏi” (X. tr.19). Việt-Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ giảng: “Ăn cho nên vai nên vóc thì học cũng phải cho nên người”. Kể chuyện thành ngữ tục ngữ của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Văn Hành chủ biên (Hà Nội, 1994) giảng: “Trong câu tục ngữ này các từ vóc và hay là những từ khó hiểu, cần được làm sáng rõ. Trước hết, hay trong học hay có nghĩa là giỏi (...). Vìhay là một tính từ nên vóc, từ đối ứng với nó cũng phải là một tính từ. Tuy vậy, trong văn học dân gian và các truyện Nôm, vóc thường xuất hiện với nghĩa danh từ để chỉ thân thể, dáng hình của con người, chẳng hạn, vóc ngọc mình vànglớn người to vóc,vóc sươngvóc bồ liễu... Với ý nghĩa này, vóc không tương ứng với hay trong học hay. Nhưng có lẽ trong tiếng Việt, vóc đã được chuyển nghĩa từ chỗ chỉ thân thể sang chỉ đặc tính khỏe mạnh của con người, chẳng hạn, có vóc được dùng để chỉ “sự cao lớn chắc chắn”, vóc dạc chỉ hình tích cao lớn. Do đó, câu tục ngữ ăn vóc học hay được hiểu là ăn khỏe, học hành giỏi giang” (Sđd, tr.62). Đặc biệt, trong bài viết “Câu đối, nội dung của nó” (trong: Phan Ngọc, Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Trẻ, TP.HCM, 1995, tr.75-99), Phan Ngọc phân tích: “Bây giờ thử áp dụng ngữ pháp đối xứng để giải mã các thành ngữ, tục ngữ (có hai vế song song và có số tiếng ngang nhau – AC). Một khi đã theo ngữ pháp đối xứng thì kiến trúc vế này sẽ in hệt như kiến trúc của cái vế đối xứng với nó. Thí dụ, ta muốn giải mã thành ngữ “Ăn vóc học hay”. Kiến trúc “Ăn vóc” sẽ có quan hệ ngữ pháp hệt như “học hay”. Nhưng kiến trúc “Vị-Bổ” chỉ áp dụng cho “Ăn vóc” mà không thể nào áp dụng cho “Học hay” được. Kiến trúc “Vị-Trạng” có thể áp dụng cho “Học hay” nhưng lại không thể nào áp dụng cho “Ăn vóc” được. Cứ như thế, cuối cùng ta phải đến kiến trúc “Vị-Vị”. Nói khác đi, trong thành ngữ này cả bốn chữ đều là vị ngữ cả, một điều không thể thấy ở trong ngữ pháp của ngôn ngữ thông thường. Mà khi đã giải mã ngữ pháp này rồi thì câu này có nghĩa như sau: Phải ăn thì mới có vóc (thân hình to lớn), phải học thì mới tài giỏi được (...) Kiến trúc vị ngữ - vị ngữ là rất khó hiểu, nhưng chính vì khó hiểu mà làm bá chủ trong thành ngữ để cấp cho thành ngữ sắc thái ngôn ngữ của thần linh. Chả lẽ thần linh lại nói năng bình thường như dân trần tục chúng ta sao?” (Bđd, tr.90-91). Chúng tôi không tin rằng cá nhân hoặc cộng đồng đã lựa chọn – nhiều thành ngữ vốn là những cụm từ tự do rồi về sau mới được cố định hóa trong từ vựng theo lựa chọn – hoặc sáng tác những thành ngữ bốn tiếng mà Phan Ngọc cho là có cấu trúc “Vị-Vị // Vị-Vị” lại muốn tự biến mình thành những thầy phù thủy bằng cách cấp cho chúng sắc thái ngôn ngữ của thần linh. Họ càng không muốn làm chúng trở nên khó hiểu bằng cách biến chúng thành những giáo điều của một thứ học thuyết hoặc tôn giáo bí truyền. Tục ngữ, thành ngữ có chức năng truyền tải những nguyên tắc và phương châm ứng xử, những kinh nghiệm sống và sản xuất hoặc – đối với thành ngữ – những nhận định có giá trị phổ biến về tính cách của con người và thế giới chung quanh qua các thế hệ. Chẳng ai dại gì “nhiễu sự văn chương” để biến chúng thành những câu thần chú bí hiểm vì một lý do đơn giản là nếu không ai hiểu thì cũng chẳng ai làm theo.Vậy những thành ngữ hữu quan không phải là khó hiểu ngay từ đầu mà chỉ trở nên khó hiểu theo thời gian. Chỗ khó hiểu của chúng: một là với thời gian, một số trong những tiếng cấu thành chúng đã trở thành những từ cổ; hai là chúng đã bị tách khỏi hoàn cảnh lịch sử - xã hội trong đó chúng ra đời và ba là chúng đã bị từ nguyên dân gian làm cho méo mó.Phan Ngọc đã mặc nhận rằng vóc là danh từ (nên mới có khả năng làm bổ ngữ cho động từ ăn) và rằng đó là một thành tố của các từ ghép đẳng lập: sức vócvóc dáng,tầm vóc, v.v.. Ông đã chú nghĩa cho nó ở đây là “thân hình to lớn”. Chúng tôi thì cho rằngvóc là tính từ và đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một nguyên từ ghi bằng chữ 郁 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là úc nhưng âm chính thống lại là vúc vì thiết âm của nó là “vu cúc thiết”. Úc (vúc) là thơm, ngon; úc (vúc) liệt là thơm nức (X. thêm các từ ghép uất úcúc phứcphân úc, v.v. trong từ điển); vậy vóc có nghĩa là thơm, ngon. Còn về mặt tương ứng âm vị thì úc (vúc) ~ vóc là hoàn toàn bình thường vì uc ~ oc còn được tìm thấy qua nhiều cặp khác nữa, chẳng hạn: - (uẩn) khúc ~ (hiểm) hóc; (Nhân)Mục (địa danh) ~ (làng) Mọc; (cực) nhục ~ (cực) nhọctúc 粟 (hạt lúa) ~ thóc (gạo);trục 躅 (không dứt đi được) ~ (trằn) trọc, v.v..Tóm lại, vóc có nghĩa là thơm, ngon và “ăn vóc học hay” chỉ đơn giản có nghĩa là ăn ngon học giỏi. Cấu trúc cú pháp của thành ngữ này giống hệt của các thành ngữ: ăn ngon mặc đẹp, ăn ngon ngủ yênăn không ngồi rồi,ăn gian nói dốiăn thật làm dối ,v.v.. Nghĩa là nó gồm hai từ tổ động từ sóng đôi mà mỗi từ tổ gồm một động từ và một tính từ làm trạng ngữ cho nó. Nếu quan niệm vóc là danh từ như Phan Ngọc đã hiểu thì thế đối sẽ tức khắc trở thành chệch choạc và hiện tượng này cũng xung khắc với lý thuyết của chính ông. Thật vậy, Phan Ngọc đã cho rằng thành ngữ ăn vóc học hay “là tế bào của mọi hình thức nghệ thuật cổ xưa” với ba đặc điểm quan trọng: một là sự đối lập bằng trắc; hai là hiện tượng vần lưng mà ông gọi là vần chuỗi và ba là sự ăn khớp nhau theo nguyên lý nặng nhẹ (X. bđd, tr. 91-92). Về đặc điểm sau cùng này, Phan Ngọc giải thích:“Cha ông ta không phân biệt từ loại như chúng ta, nhưng chia từ thành nặng, nhẹ (...) Đối xứng theo nặng nhẹ tức là nặng đối với nặng chứ không đối với nhẹ (mà cũng không đối với hơi nặng – AC).Thực hay nặng tương đương với danh từ và đại từ nhân xưng. Hư hay nhẹ tương đương với thán từ (ru, nhỉ, nhé...), với những từ chỉ liên hệ (thì, và, với...) và những từ bổ nghĩa cho động từ (đã, sẽ, chẳng...).Bán thực hay hơi nặng tương đương với động từ và tính từ. Bán hư hay hơi nhẹ tương đương với từ chỉ trạng thái và những từ láy âm. (...) Cha ông ta phân biệt rành mạch danh từ với động từ, nhưng lại không phân biệt động từ với tính từ đơn tiết” (Bđd, tr.93).Từ sự giải thích của Phan Ngọc mà suy ra thì động từ và tính từ hợp thành lớp bán thực từ, phân biệt hẳn với danh từ thuộc lớp thực từ. Hai lớp này không thể đối với nhau. Điều này đúng với truyền thống nghệ thuật đối xưa nay là chưa từng có câu đối chỉnh nào, càng không có câu đối hay nào, mà danh từ của câu này lại đối với tính từ của câu kia. Vậy làm thế nào mà vóc trong “ăn vóc học hay” có thể là danh từ trong khi, đối lại với nó, hay lại là một tính từ? Chính vì thấy chỗ bất hợp lý của việc xem vóc là danh từ cho nên KCTNTN của VNNH mới khẳng định rằng đó là một tính từ (nhưng lại không thỏa đáng trong việc “đoán nghĩa” của nó). Còn Nguyễn Lân thì cũng mặc nhận rằng vóclà tính từ (nên mới giảng nghĩa là “ít”) Tóm lại, theo chúng tôi, vóc là tính từ; đó là một từ cổ, có nghĩa là thơmngon. Và ăn vóc học hay có nghĩa là ăn ngon học giỏi (cùng một kiểu cấu trúc với ăn ngon mặc đẹp, ăn ngon ngủ yên, v.v.).

TRÌNH ĐỘ CHỮ QUỐC NGỮ CỦA LM. ĐẮC LỘ TỪ NĂM 1625 ĐẾN 1644 (Đỗ Quang Chính - Dũng Lạc)

TRÌNH ĐỘ CHỮ QUỐC NGỮ CỦA LM. ĐẮC LỘ TỪ NĂM 1625 ĐẾN 1644


Linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) là người đã góp nhiều công lao trong việc xuất bản hai cuốn sách chữ quốc ngữ mới [1] đầu tiên [2], điều đó các nhà trí thức Việt Nam ai ai cũng biết; ngay các học sinh Trung học cũng được hiểu qua sự kiện này. Dựa vào hai cuốn sách trên đây, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam cũng như ngoại quốc, đã đề cao công trình sáng lập chữ quốc ngữ mới của linh mục Đắc Lộ. Tuy những nhà nghiên cứu đó đều biết rằng, linh mục Đắc Lộ chỉ là một trong những người sáng lập ra thứ chữ này, nhưng xem ra phần đông lại đề cao quá mức sự nghiệp của ông, và đã không nêu bằng chứng đích xác của một số người khác vừa giỏi hơn, vừa có công hơn linh mục Đắc Lộ trong việc thành lập chữ viết của Việt Nam hiện nay.
Trong bài này, chúng tôi muốn trình bày với bạn đọc trình độ chữ quốc ngữ mới của linh mục Đắc Lộ từ 1625-1644, dựa vào chính những tài liệu viết tay của ông, hầu giúp chúng ta nhận định đúng hơn vai trò của ông trong công cuộc sáng tác chữ quốc ngữ mới. Cũng nên xác định rằng, chúng tôi không đứng về phương diện khoa ngữ học để trình bày vấn đề, nhưng là đứng sang phương diện lịch sử. Làm công việc này, chúng tôi chỉ muốn góp phần với các nhà nghiên cứu sử học phơi bày sự thật ra ánh sáng.
Tuy nhiên, trước khi đi vào chính vấn đề, tưởng cần nhắc lại mấy dòng tiểu sử của linh mục Đắc Lộ.
Đắc Lộ tức Alexandre de Rhodes, sinh tại Avignon ngày 15-3-1593 [3] trong một gia đình gốc Do Thái và có quốc tịch Tòa thánh La Mã. Vì muốn đi Đông Á truyền giáo, nên đl đã vào nhà Tập dòng Tên tại La Mã ngày 14-4-1612, tức là gia nhập Tỉnh dòng Tên La Mã, thay vì vào nhà Tập ở Avignon thuộc tỉnh dòng Tên Lyon. Sau khi thụ phong linh mục, đl rời La Mã năm 1618 để đi Lisbõa hầu đáp tàu đi Đông Á. Vì gặp nhiều ngãng trở, nên mãi tới ngày 29-5-1623, linh mục Đắc Lộ mới tới Áo Môn. Ý định của ông là sẽ từ Áo Môn đi Nhật truyền giáo, song không đạt được ý nguyện. Do đó, cấp trên muốn cho ông đi truyền giáo tại Việt Nam. Linh mục Đắc Lộ tới Đàng Trong lần thứ nhất vào cuối năm 1621, đến đầu năm 1627, ông đi Đàng Ngoài. Từ năm 1630-1640, linh mục Đắc Lộ dạy học tại Áo Môn, từ năm 1640-1645 ông lại đến hoạt động ở Đàng Trong. Cuối năm 1645, đl bắt đầu cuộc hành trình trở về Âu Châu, nhưng mãi đến năm 1649 mới về tới Âu Châu. Sau cùng, đl qua đời tại Isfahan (Ba Tư) ngày 5-11-1660. [4]
Sau khi sơ lược tiểu sử của linh mục Đắc Lộ, bây giờ chúng tôi xin đề cập tới trình độ chữ quốc ngữ mới của ông, căn cứ trên những tài liệu viết tay của ông mà chúng tôi tìm được tại các Văn khố ở La Mã, Madrid v.v…
I. THƯ CỦA ĐẮC LỘ VIẾT NĂM 1625
Chúng ta biết linh mục Đắc Lộ tới Đàng Trong lần thứ nhất vào tháng 12-1624. Từ đó đến tháng 7-1626, đl cùng sống với mấy linh mục bạn tại Thanh Chiêm cũng gọi là Kẻ Chàm ở phía tây Hội An ngày nay [5]. Tại đây đl được linh mục Bề trên của ông là Francisco de Pina [6], người Bồ Đào Nha, dạy tiếng Việt và cũng được một em nhỏ 13 tuổi giúp ông học thêm. Sau này em nhỏ đó mang tên là Raphael Rhodes, để tỏ lòng yêu kính linh mục Đắc Lộ. [7]
Sau khi linh mục Đắc Lộ bị chúa Trịnh trục xuất hoàn toàn khỏi Đàng Ngoài vào tháng 5-1630, ông trở về Ao Môn dạy thầy học tại học viện “Madre de Deus” (Mẹ Đức Chúa Trời) của dòng Tên. Ngày 16-1-1631, Đắc Lộ viết một thư dài bằng chữ Bồ Đào Nha, gửi cho linh mục Nuno Mascarenhas ở Lisbõa [19]. Thư dài trên ba trang rưỡi, viết đầy chi chít trong khổ 20cm*30cm. Nội dung bức thư trình bày hoạt động truyền giáo của linh mục Nhật Pedro Marques và nhất là của ông trong ba năm trời ở Đàng Ngoài (3-1627 đến 5-1630). Bức thư dàai như vậy, chỉ thấy một danh từ Việt là Thinhuã (Thanh Hóa) được ghi trong thư.[20]
Bản văn này Đắc Lộ soạn bằng La ngữ. Tác giả không ghi rõ niên hiệu cũng như nơi soạn thảo, tuy nhiên nội dung cho ta biết được là viết vào khoảng tháng 5-1631, lúc ông đã rời Đàng Ngoài về Ao Môn được một năm. Tài liệu viết tay này hiện lưu trữ tại Văn khố của Real Academia de la Historia de Madrid [21], khác với mấy tài liệu trên được giữ tại Archivum Romanum Societatis Iesu. Tài liệu thuật lại việc từ lúc Đắc Lộ đến Cửa Bạng (Thanh Hóa) ngày 19-3-1627 tới lúc linh mục Antonio F.Cardim đến Thăng Long ngày 15-3-1631. Tài liệu dài hai trang rưỡi, viết nhỏ li ti trong khổ 16cm*23cm. Bản văn này cũng chỉ có mấy chữ Việt sau đây: [22]
Cũng may chúng tôi còn tìm được một tài liệu viết tay rất dài của Đắc Lộ, tức là bản thảo cuốn Tunchinensis Historiae libri duo mà phần lớn đã được Đắc Lộ soạn vào năm 1636. Chính bản viết tay quý giá này còn giữ tại Văn khố dòng Tên La Mã [25], sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn trình độ chữ quốc ngữ mới của Đắc Lộ.
Sau đây chúng tôi tìm được một tài liệu khác cũng do linh mục Đắc Lộ sau khi Anrê Phú Yên tử đạo ngày 26-7-1644 tại Thanh Chiêm mà chính linh mục Đắc Lộ được chứng kiến. Tác giả viết bằng chữ Bồ Đào Nha, thuật lại cuộc tử đạo của Anrê với nhan đề: Relação do glorioso Martirio de Andre Catheauista Protomartir de Cochinchina alanceado, e degolado em Cachão nos 26 de Julho de 1644 tendo de Idade dezanove annos [28](Tường thuật cuộc tử đạo vinh hiển của thầy giảng Anrê, vị tử đạo tiên khởi ở Đàng Trong đã bị đâm chém tại Kẻ Chàm ngày 26-7-1644, tử đạo lúc 19 tuổi).
Chú thích
[1] Khi dùng danh từ chữ quốc ngữ mới, chúng tôi muốn phân biệt với chữ Nôm là chữ viết của Việt Nam đã xuất hiện trước

Ngày 16-6-1625, linh mục Đắc Lộ viết một bức thư bằng chữ Bồ Đào Nha gửi cho linh mục Nuno Mascarenhas, Phụ tá tổng quản dòng Tên vùng Bồ Đào Nha [8], trình bày việc ông từ Ao Môn đến Đàng Trong, về sự tiến triển cuộc truyền giáo ở đây, về việc ông học tiếng Việt, về vấn đề mở cuộc truyền giáo ở Đàng Ngoài và ông xin được thực hiện công việc này. Bức thư dài trên hai trang giấy, viết trong khổ 15cm50*23cm. Trong thư, tác giả phiên âm hai chữ Hải Nam và Đông Kinh là Ainão và Tunquim, ngoài ra không còn chữ nào có dáng vẻ là chữ quốc ngữ mới như hai chữ trên đây. Nên nhớ rằng vào tháng 6-1625, Đắc Lộ đã tạm nói được tiếng Việt. [9]
Nếu đem so sánh bức thư trên đây với các phúc trình của các linh mục khác như Gaspar Luis, Antonio de Fontes v.v… về tình hình truyền giáo ở Đàng Trong cùng thời gian đó, ta thấy những linh mục này đã ghi một số danh từ địa dư Việt Nam.
Trong phúc trình của G.Luis người Bồ Đào Nha viết tại Nước Mặn ngày 1-1-1626 bằng La ngữ, gửi cho linh mục Tổng quản dòng Tên Mutio Vitelleschi ở La Mã, chúng ta có thể kể mấy danh từ trong nhiều danh từ khác:
Dinh Cham, Cacham: Dinh Chàm, Kẻ Chàm, “Residentia Dinh Cham vulgô Cacham” (Cư sở Dinh Chàm bình dân gọi là Ca Chàm Kẻ Chàm).[10]
Nuocman, Quanghia, Quinhin: Nước Mặn, Quảng Nghĩa, Qui Nhơn.[11]
Bôdê: Bồ Đề.[12]
Unghe chieu: Ông Nghè Chiêu, “Alius hoc anno mandarinus ad Ecclesiam ascriptus est, patrio nomine Unghe chieu, christiano Ignatius” (Năm nay một viên quan tên là Ông Nghè Chiêu đã gia nhập Giáo hội có tên thánh là Y Nhã) [13].
Tiếp đến một phúc trình bằng chữ Bồ Đào Nha do linh mục Antonio de Fontes viết tại Hải Phố ngày 1-1-1626, mà người nhận thư cũng là linh mục M.Vitelleschi. Chúng ta thử trích ra mấy chữ Việt trong tài liệu này:
Dĩgcham: Dinh Chàm.[14]
Sinua: Xứ Hóa (Thuận Hóa), “No principio de Janro foi o Pe Visitor a corte de Smua visitar a Rei” (Đầu tháng giêng, cha Giám sát. G.de Mattos đến chầu vua chúa Sãi ở thủ đô Thuận Hóa). [15]
Bendá: Bến Đá (xã)[16]
Onghe Chiêu: Ông Nghè Chiêu [17]
Nhít la Khấu, Khấu la nhít: Nhất là không, không là nhất. [18]
Qua hai tài liệu viết tay trên đây, xem ra hai tác giả đã chú ý đến việc ghi tiếng Việt sang mẫu tự abc, khác với thái độ có vẻ “hững hờ” của linh mục Đắc Lộ trong thư 1625. Thực ra, bởi vì bức thư của ông vắn, hơn nữa ông mới tới Việt Nam được sáu tháng, còn hai linh mục kia đã ở đây được một năm, tính đến ngày các ông viết mấy phúc trình trên.
II. THƯ CỦA ĐẮC LỘ VIẾT THÁNG 1-1631
III. TÀI LIỆU CỦA ĐẮC LỘ VIẾT THÁNG 5-1631
Sinoa :Xứ Hóa (Thanh Hóa)
Anná: An Nam
Sai: Sãi
Miá: Mía (?) “Miá domũ vocabant” (Họ gọi là nhà mía). Về chữ miá chúng tôi không rõ bây giờ phải viết thế nào? Chỉ biết rằng, theo văn mạch thì hiểu được chữ đó có nghĩa là nhà tạm trú.[23]
Ngoài ra hai chữ Bố Chính và Nghệ An cũng được viết ở đây, nhưng tác giả đã biến nó sang La ngữ: Bochinũ, Gueanũ.[24]
Tất cả ba tài liệu viết tay trên đây của linh mục Đắc Lộ đều có quá ít chữ quốc ngữ mới. Vậy nếu chỉ dựa vào mấy lá thư đó để nhận xét sự tiến triển và trình độ chữ quốc ngữ mới nơi ông, thì khó mà có được một nhận định chính xác, vì thế cần phải tìm thêm tài liệu khác.
IV. TÀI LIỆU CỦA ĐẮC LỘ VIẾT NĂM 1636
Chúng tôi biết rằng, 10 năm trời linh mục Đắc Lộ bị cầm chân ở Áo Môn thật là đau khổ đối với ông, vì ông muốn trở lại Đàng Ngoài hoạt động như trước; hay ít ra cũng được trở lại Đàng Trong, nhưng không được Bề trên chấp thuận. Sở dĩ ông phải vắng mặt ở Việt Nam từ 1630-1640, là vì một số tu sĩ ở Áo Môn không đồng ý với Đắc Lộ về ít nhiều thích nghi của ông ở Việt Nam, ví dụ: vấn đề danh từ Kitô giáo, vấn đề lập “Dòng tu” thầy giảng, việc thích nghi tập tục Việt Nam vào phụng vụ v.v… Dầu không hy vọng được trở lại Đàng Ngoài hoạt động, nhưng nhà truyền giáo của chúng ta vẫn luôn luôn muốn hiến đời sống mình cho Giáo hội Đàng Ngoài. Để tỏ lòng tha thiết với Đàng Ngoài, Đắc Lộ đã soạn thảo bản tài liệu quý giá này sau đó được xuất bản tại La Mã năm 1650 và tại Lyon năm 1651, 1652 bằng ba thứ tiếng Ý, Pháp và La ngữ.[26]
Nhờ có niên hiệu ghi trên bản thảo, chúng ta biết được linh mục Đắc Lộ đã soạn tập này vào năm 1636. Nhưng cuối bản thảo còn có mấy chương viết về tình hình truyền giáo ở Đàng Ngoài đến năm 1646; do đấy, có thể hiểu được rằng, sau năm 1646, Đắc Lộ đã viết thêm mấy chương đó và nơi soạn thảo mấy chương này có lẽ là sau khi tác giả đã về tới La Mã (27-6-1649).
Đây là bản thảo bằng La ngữ gồm 62 tờ, mỗi tờ viết trên hai mặt, tức 124 trang, phần có chữ rộng 14cm*24cm, mỗi trang trung bình gồm 43 dòng chữ viết nhỏ li ti và dầy đặc. Bản thảo chia ra 2 quyển: Quyển I: Thuật lại lịch sử tổng quát của Đàng Ngoài về phương diện địa dư, chính trị, hành chính, kinh tế, tiền tệ, thuế má, tôn giáo, văn học, phong tục v.v… Quyển II: Lịch sử truyền bá Tin Mừng ở Đàng Ngoài từ 1627-1646.
Trong bản viết tay này, lối viết các chữ Việt Nam (chữ quốc ngữ mới) cũng giống trong cuốn Tunchinensis Historiao libri duo được xuất bản năm 1652, mặc dầu đôi chỗ có khác, vì lý do nhà in không có đủ dấu, hoặc hai chữ ghép làm một, hoặc in sai.
Ví dụ: Bản thảo Bản in
cu hồn : cu hon
dạu : dau
vũ : vu
Che bich : Chebich
Tin phan : Timphan
Thinh hoa : Thin hoa
Sau đây chúng tôi xin ghi lại nhiều chữ quốc ngữ mới trong bản thảo của linh mục Đắc Lộ: [27]
Chúa oũ: Chúa ông. Chúa bàng: Chúa bằng (Trịnh Tráng). Min: Minh, Thuam: Thuận, thanh do vuan: Thanh đô vương, gna huyen: nhà huyện, Sin do: Sinh đồ, huan com: hương cống, dau thich: đạo Thích, Thicca: Thích Ca, Tin phan: Tịnh Phàn, Lautu: Lão tử, Giô: giỗ, cu hồn: cô hôn, ba hôn: ba hồn, bai via: bảy vía, cua bang: Cửa Bạng, dang: đàng, Ciua Sai: Chúa Sãi, Thinh hoa: Thanh Hóa, thai: thầy, Che Bích: Kẻ Vích, Che no: Kẻ nộ, Ghe an: Nghệ An, Bochin: Bố Chính, cà: cà, cã: cả, cá: cá, tiẽ: trẻ, tle: tre.
Tài liệu này tuy dài như thế và bàn về rất nhiều vấn đề của Đàng Ngoài, nhưng tiếc rằng tác giả đã ghi quá ít những chữ quốc ngữ mới, hơn nữa lối ghi còn luộm thuộm.
V. TÀI LIỆU CỦA ĐẮC LỘ VIẾT NĂM 1644
Linh mục Đắc Lộ viết bài này tại Thanh Chiêm ngày 1-8-1644. Tài liệu gồm 16 trang viết chưa thưa trong khổ 11cm*21cm, mỗi trang trung bình có 16 dòng chữ viết, nhưng chỉ có mấy chữ quốc ngữ sau đây:
Oũngoebo: Ông Nghè Bộ[29]
Giũ nghĩa cũ đ Chúa Jesu cho đen het hoy, cho đen blon đoy: giữ nghĩa cùng Đức Chúa Jêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời.[30]
Tài liệu này vừa vắn, vừa có ít chữ quốc ngữ mới nên khó mà so sánh được với bản văn năm 1636 để thấy mức độ tiến triển của tác giả. Tuy nhiên, chúng tôi xin đưa ra một nhận xét sau đây có tính cách tổng quát là, vào năm 1644, linh mục Đắc Lộ đã viết chữ quốc ngữ mới khá hơn 8 năm trước, vì từ năm 1640 ông trở lại truyền giáo ở Đàng Trong, nên có dịp thực hành hằng ngày; ngoài ra, nếu cứ nhìn vào câu “giũ nghĩa cũ đ Chúa Jesu…” cũng thấy được phần nào mức tiến của tác giả.
Sau khi dựa vào các tài liệu viết tay của linh mục Đắc Lộ từ năm 1625-1644, nhất là nếu chỉ hạn định đến năm 1636, chúng ta biết được trong thời gian trên, ông ghi chữ quốc ngữ mới khác nhiều với hai cuốn sách của ông được ấn hành năm 1651. Nếu chỉ căn cứ vào hai cuốn sách trên đây, người ta sẽ lầm linh mục Đắc Lộ là người có công nhiều nhất trong việc sáng tác chữ quốc ngữ mới. Nhưng nhờ vào những tài liệu viết tay của Đắc Lộ, chúng ta đoán được trình độ chữ quốc ngữ mới của ông. Hơn nữa, nếu đem so sánh với linh mục Gaspar d’Amaral, vào năm 1632, chắc chắn linh mục này giỏi hơn Đắc Lộ nhiều.[31]

o0o


[2] A.De Rhodes, Dictionarium annamiticum, lusitanum, et latinum, Rome 1651 – A.De Rhodes, Cathechismus pro iis, qui volunt suscipere Baptismum, in Octo dies divisus. Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội, mà beao đạo thánh đức Chúa blời, Roma, 1651.
[3] Primeiro Cataloço das Informações commuas das Pes e Irmãos da Provincia de Japão feilo em dezembro de 1623, trong Archivum Romanum Socielatis Jesu, Jap-Sin 25 (viết tắt: ARSL, JS f.130v)
[4] Thư của linh mục Aimé Chézaud viết ngày 11-11-1660 tại Isfahan, báo tin buồn linh mục Đắc Lộ vừa qua đời (Archives des Jésuites de la Provinces de Paris, Fonds, Rybeyrète, số 29)
[5] “Ao presente temos ja tres residencias, as duas estavão formadas (Hải Phố, Nước Mặn_; a 3a eu agora na Corte do principe (Thanh Chiêm) onde ficão tre Pes dassento o Pe F.de Pina que sabe muito bem a lingua por superior, e mestre, e os Pes A.de Rhodes e A.de Fontes par subditos, e discipulos” (Thư của linh mục G.de Mattos viết tại Đàng Trong ngày 5-7-1625, gửi linh mục Tổng quản dòng Tên ở La Mã, trong ARSL, JS, 68, f.17).
[6] F. De Pina (1585-1625) là linh mục dòng Tên ở Việt Nam đầu tiên nói thạo tiếng Việt. Ông chết đuối ở hải phận Quảng Nam ngày 15-12-1625 (A.de Fontes, Annua de Missam de Annam, viết tại Hải Phố ngày 1-1-1626, ARSL, JS 72, f.79r).
[7] Tên Việt Nam của em nhỏ là gì lịch sử không ghi lại. Em nhỏ này về sau theo linh mục J.M.de Leria (1597-1665) đi truyền giáo tại Lào quốc và đã tới Vạn Tượng ngày 15-7-1612. Khi Leria bỏ Lào vào năm 1647, thì Raphael Rhodes ra Đàng Ngoài buôn bán, trở thành người giàu có, và hầu như trở thành người trung gian giữa nhà cầm quyền Đàng Ngoài với các thương gia Bồ Đào Nha và Hòa Lan.
[8] ARSL, JS, 68, f.13rv
[9] A.De Rhodes, Divers voyages et missions, Paris 1653 tr.72.
[10] Gaspar Luis, Cocincine Missionis annuae Litterae, anni 1625, ARSL, JS 71 f.61r.
[11] Ibid, f 64v-65r
[12] Ibid, f 66r
[13] Ibid, f 67r
[14] Antonio de Fontes, Annua da Missam de Annam, a que vulgarmente chamão Cochinchia, ARSL, JS 72, f. 69r, 74v, 76r
[15] Ibid, f. 70r
[16] Ibid, f. 80v
[17] Ibid, f. 81v
[18] Ibid, f. 85r
[19] ARSL, JS, 80 f. 15r-16
[20] Ibid, f. 15r
[21] A.De Rhodes, Initium Missionis Tunquinensis a 1627, trong Real Academia de la Historia de Madrid, Jesuitas, Legajo 21, Fasc.6, f.702-703v
[22] Ibid, f. 702r
[23] Ibid, f. 702v
[24] Ibid, f. 702v
[25] ARSL, JS 83 ct 84, f.1-63v
[26] A.De Rhodes, Relazione de felici successi della Santa Fede Predicata da Padri della Compagnia di Giesu nel regno di Tunchino, Roma, 1650 – A. De Rhodes, Histoire du Royaume de Tunquin et des grands progrez que la predication de l’Evangile y a faits en la conversion des Infidelles, Lyon 1651 – A.De Rhodes, Tunchinensis Historiae libri duo, quorum altero status temporalis hujus Regni, altero mirabiles evangelicae praedicationis progressus referuntur, Lyon 1652.
[27] ARSL, JS, 83 et 84, f 1r, 2r, 6v, 7rv, 8r, 12r, 13rv, 16v, 18rv, 23v, 24r, 25v, 26r, 30v, 40v, 41rv, 62rv,
[28] Real Acedemia de la Historia de Madrid, Jesuitas, Legejo 21 bis, Fasc.17, f 228-234v.
[29] Ibid, f. 228r, 229, 230r.
[30] Ibid, f. 231v
[31] Căn cứ vào tập tài liệu viết tay của G.d’Amaral soạn ngày 31-12-1632 tại Thăng Long.
Tác giả: Đỗ Quang Chính, sj.