Sunday, 23 September 2012

Nguồn gốc địa danh Sài Gòn (Lê Trung Hoa)

Nguồn gốc địa danh Sài Gòn

Trong “Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị” của ông Huỳnh Tịnh Của thì Sài tức là củi thổi, Gòn: tên loại cây cỏ bông nhẹ xốp, nhẹ hơn bông thường, trong Nam hay dùng để dồn gối, dồn nệm. Về địa danh Sàigòn thì Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị ghi: tên riêng của đất Chợ Lớn, bây giờ lại hiểu là đất Bến Nghé.
Ðịnh nghĩa Sàigòn của quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị cho ta thấy rằng tên Sàigòn trước đây dùng để chỉ vùng Chợ Lớn hiện nay, còn vùng mà ta gọi là Sàigòn hiện nay thì trước đây lại gọi là Bến Nghé. Ðiều này được xác nhận nhờ hai người Anh là Crawford và Finlayson đã đến vùng này năm 1922. Cứ theo lời những người này thuật lại thì Sàigòn và Bến Nghé (mà các tác giả trên đây viết là Bingeh hay Pingeh) là hai thành phố phân biệt nhau và cách xa nhau độ 1 hay 2 dặm, Bến Nghé là nơi đồn binh và đạt cơ quan chánh phủ, còn Sàigòn là trung tâm thương mãi và là nơi cư ngụ của người Hoa kiều và các thương gia (tài liệu của Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises tức là Tập san của Hội Cổ Học Ấn Hoa, năm 1942, tập số 2). Vậy, Sàigòn và Bến Nghé là hai thành phố phân biệt nhau và có hai tên khác nhau đàng hoàng, nhưng đến khi người Pháp chinh phục ba tỉnh phía đông Nam Kỳ năm 1861, họ dùng tên Sàigòn để chỉ đất Bến Nghé cũ, mà họ dùng làm trung tâm hành chánh, vì Bến Nghé là một tiếng khó cho người ngoại quốc phát âm hơn Sàigòn. Người Việt Nam bắt buộc phải theo họ mà gọi Bến Nghé là Sàigòn, còn vùng trước đó gọi là Sàigòn thì được gọi là Chợ Lớn theo một cái tên mà sử gia Phan Khoang trong bộ Việt Sử, Xứ Ðằng Trong, cho là dường như đã có từ đời vua Gia Long.
Cũng theo quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị của ông Huỳnh Tịnh Của thì tên Sàigòn có nghĩa là củi gòn. Nhà học giả Trương Vĩnh Ký đã theo thuyết này mà ông cho biết là dựa vào bộ Gia Ðịnh Thông Chí của ông Trịnh Hoài Ðức. Trong tập Souvenirs historiques, ông Trương Vĩnh Ký lại kể lại rằng người Khmer xưa có trồng cây gòn chung quanh đồn Cây Mai và chính ông còn thấy vài gốc cổ thụ này tại vùng ấy năm 1885.
Sau ông Trương Vĩnh Ký, còn có ông đốc phủ Lê Văn Phát đi xa hơn trong thuyết kể trên đây. Theo ông Lê Văn Phát thì trước đây, vùng Sàigòn Chợ Lớn hãy còn bị rừng bao phủ và tên Sàigòn có lẽ phát xuất từ tên Khmer Prei Kor tức là Rừng Gòn (Forêt des Kapokiers). Prei Kor là tên mà người Khmer dùng để gọi một địa phương mà trọng tâm là Chùa Cây Mai ở Phú Lâm ngày nay. Mặt khác, ông Lê Văn Phát cũng cho biết rằng người Lào (mà ngôn ngữ gần như ngôn ngữ Thái) đã gọi vùng này là Cai Ngon, mà Cai Ngon theo tiếng Thái cũng có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn (Brousse des kapokiers).
Thuyết về  tên Sàigòn của các học giả Việt Nam trên đây sau này đã bị một số học giả khác bác bỏ. ông Vương Hồng Sến trong bộ Sàigòn Năm Xưa cho biết rằng theo tiếng Khmer thì Kor có nghĩa là gòn mà cũng có thể có nghĩa là con bò, và Prei Kor có thể là Rừng Bò chứ chưa ắt hẳn là Rừng Gòn.
Mặt khác, các nhà học giả Pháp nghiên cứu về nước Cam.Bu.Chia đã tìm được trong bộ sử chép tay của nước ấy một dữ kiện quan trọng về vùng này. Theo bộ sử ấy, năm 1623, một sứ bộ của chúa Nguyễn đã đến Cam.Bu.Chia xin vua Cam.Bu.Chia cho đặt một số sở thuế ở vùng Prei Nokor va` Kas Krobey. Vua Cam.Bu.Chia lúc ấy có một hoàng hậu la` con gái chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên). Bởi đó, ông đã chấp nhận lời yêu cầu của chúa Nguyễn.
Theo ông Etienne Aymonier thì Nokor là xứ, quốc gia và Prei Nokor là rừng của vua (forf royale). Nhưng linh mục Tandart lại bảo rằng tiếng Nokor do tiếng nam phạn Nagaram mà ra, và có nghĩa là Thành phố của rừng hay thành phố ở giữa rừng (ville de la forêt). Bởi vậy theo ông, Prei Nokor có nghĩa là thành phố.
Nhà học giả Pháp Louis Malleret khi nêu ra tài liệu về Prei Nokor đã dựa vào ý nghĩa của tiếng Khmer này theo linh mục Tandart để bác bỏ thuyết của các học giả Việt Nam trước đó cho rằng Sàigòn có nghĩa là Củi Gòn. Ông đã theo ý kiến của một người Pháp khác là Maurice Verdeille theo đó tiếng Sàigo`n có lẽ phát xuất từ tiếng Tây ngòn có nghĩa là cống phẩm của phía tây (tribut de l’ouest). Tiếng Hán Việt có nghĩa là cống phẩm của phía tây nếu đọc theo V.N là Tây Cống và Tây Ngòn hẳn là Tây Cống, nhưng phát âm theo giọng Trung Hoa. Sở dĩ ông Malleret theo thuyết này là vì ông đã dựa vào một dữ kiện lịch sử do ông Trịnh Hoài Ðức chép lại, là khi Cam Bu Chia bị phân ra cho hai vua thì cả hai vua nầy đều nạp cống phẩm cho chúa Nguyễn ở Prei Nokor, vốn là thủ đô của vua thứ nhì từ năm 1674 (trong khi vua thứ nhứt đóng đô ở Oudong ở phía bắc Nam Vang).
Một tác giả khác, ông Vương Hồng Sển, nhắc lại trong quyển Sàigòn Năm Xưa rằng người Hoa Kiều đã tập trung vào vùng Chợ Lớn ngày nay để mua bán năm 1778 sau khi Cù Lao Phố (gàn tỉnh lị Biên Hòa ngày nay) là nơi được thành lập để mua bán từ cuối thế kỷ thứ 17 đã bị Tây Sơn phá tan khi họ kéo vào đánh Miền Nam. Sau khi thành phố này đã vững, người Hoa Kiều đã đáp thêm bờ kinh Chợ Lớn, cẩn đá cho cao ráo kiên cố. Và có lẽ để ghi công việc này, họ đặt tên chỗ mới này là Ðề Ngạn, tức là bờ sông cao dốc trên có đe ngăn nước. Ðề Ngạn là tiếng Hán Việt, chớ người Trung Hoa phát âm theo giọng Quảng Ðông thì nói thành Tài Ngon hay Thầy Ngồnn. Ông Vương Hồng Sển cho rằng tiếng Sàigòn chính do Thầy Ngồnn mà ra.
Về đất Bến Nghé thì người Trung Hoa gọi là Xi Cong. Ông Vương Hồng Sển cho rằng đó là họ đọc trại lại tiếng Sàigòn của ta và khi viết ra Hán văn thì họ dùng hai chữ mà ta đọc là Tây Cống.
Vậy, có ba thuyết về nguồn gốc và ý nghĩa của tên Sàigòn:
1. Thuyết của các ông Trương Vĩnh Ký và Lê Văn Phát: Sàigon do tiếng Khmer Prei Kor mà ra, và có nghĩa là củi gòn.
2. Thuyết của ông Louis Malleret: Sàigòn do tiếng Tây Ngòn, tức là Tây Cống phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là cống phẩm của phía tây.
3. Thuyết của ông Vương Hồng Sển: Sàigòn do tiếng Thầy Ngồnn tức là Ðề Ngạn phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là bờ sông cao dốc trên có đê ngăn nước. Còn về tiếng Tây Cống, ông Vương Hồng Sển lại cho rằng nó chỉ được người Trung Hoa dùng sau này để phiên âm lại tên Sàigòn sau khi tên này được dùng đẻ chỉ đất Bến Nghé cũ.
Ba thuyết trên đây cái nào cũng có vẻ có lý phần nào nhưng thật sự, không cái nào có thể làm cho chúng ta hoàn toàn thỏa mãn. Như thế có lẽ vì những người nêu ra các thuyết ấy đã quên để ý đến cách ông bà chúng ta đặt các địa danh ở Nam Kỳ trước đây. Chúng ta có thể nhận thấy rằng trong việc đạt địa danh này, ông bà chúng ta đã theo một số nguyên tắc:
Các cụ có thể phiên âm một địa danh Khmer đã có và bỏ dấu cho thành tiếng Việt Nam. Thí dụ như Psar Deck thiếng Khmer là Chợ Sắt đã được các cụ gọi lại là Sa Ðéc, hay Me So tiếng Khmer là Người Ðàn Bà Ðẹp hay nàng Tiên được các cụ gọi là Mỹ Tho. Trong một bài kỷ niệm ngày 30 tháng tư, đăng trong tờ Việt Báo, ông Phạm Nam Sách khi nói về tỉnh Ba Xuyên đã nhắc đến một địa danh mà ông nói là là Bảy Sào, Bải Sào, Bảy Sau hay Bải Sau chi đó. Thật sự đó là Bải Xào, một tiếng phát xuất từ tiếng Khmer Bai Xao có nghĩa là Cơm Sống. Ðịa danh này sở dĩ có là vì trong trận đánh nhau voói người Việt Nam, người Khmer đã thua chạy về đến đó và ngừng lại nấu cơm ăn, nhưng cơm chưa kịp chín thì quân Việt Nam lại kếo đến và người Khmer phải bỏ chạy. Ðể đánh dấu việc này, họ gọi đất đó là Cơm Sống, tiếng Khmer là Bai Xao và các cụ ta bỏ dấu thêm thành Bải Xào.
Các cụ có thể dịch nghĩa một địa danh Khmer đã có. Thí dụ như tên Bến Nghé phát xuất từ tiếng Khmer Kompong Krabei có nghĩa la Vũng Trâu. Theo sử Khmer mà ông Malleret viện dẫn thì ngoài Prei Nokor, vua Cam.Bu.Chia còn cho chúa Nguyễn đạt sở thuế ở Kas Krobey. Chữ Krobey rất gần Krabei, và có thể Kas Krobey với Kompong Krobei cũng là một và có nghĩa là Vũng Trâu, Bến Trâu gì đó.
Nhưng tên theo hai loại trên đây là do người Việt Nam bình dân đặt ra khi mới đến một địa phương, về sau, khi đã có nhiều người Việt Nam ở và triều đình Việt Nam đặt ra các đơn vị hành chánh, thì triều đình lại dùng tiếng Hán Việt như Trấn Biên, Phiên Trấn, Phước Long, Phước Tuy v.v… Mặt khác, khi viết sử hay viết sách địa lý mà gặp một tên nôm do người bình dân đã đặt, các cụ đã dịch phăng nó ra tiếng Hán Việt chớ ít khi chịu chép tên nôm. Như Ba Giỗng, các cụ dịch là Tam Phụ và Bến Nghé, các cụ dịch lại là Ngưu Chử khi chép vào sách chớ không chịu viết tên nôm là Ba Giồng, Bến Nghé.
Nếu lấy các qui tắc đặt địa danh của các cụ ngày xưa làm tiêu chuẩn dể suy luận thì ta thấy ngay các thuyết trên đây về nguồn gốc và ý nghĩa của Sàigòn không ổn.
Nếu các cụ ta ngày xua muốn dịch tiếng Khmer Prei Kor ra tiếng Việt thì các cụ đã dùng tên Củi Gòn, Cây Gòn hay Rừng Gòn để đạt cho địa phương này, chớ không ghép một tiếng Hán Việt là Sài với một tiếng nôm là Gòn để thành Sàigòn, cũng nhu khi dịch Kompong Krabei ra tiếng Việt, các cụ đã gọi là Bến Nghé chớ không nói Tân Nghé, Chử Nghế hay Ngạn Nghé (Tân, Chử và Ngạn là những tiếng Hán Việt có nghĩa là cái cồn nhỏ, bến sông, bờ sông). Nếu bảo rằng gòn là một loại cây không có tên Hán Việt và các cụ đã dùng tên ấy như tiếng Hán Việt thì các cụ đã theo văn phạm Hán Việt mà gọi Củi Gòn là Gòn Sài chớ không thể gọi là Sài Gòn
Chữ Sài là tiếng Hán Việt có nghĩa là Củi, nhưng cũng chữ ấy mà dùng làm chữ nôm thì lại đọc là Thầy. Vậy, nếu đọc theo tiếng nôm hoàn toàn hai chữ mà ông bà chúng ta dùng để chỉ tên đất ta đang nghiên cứu thì ta có Thầy Gòn. Tên này rất gần với Tây Ngòn hay Thầy Ngồnn là những tiếng Hán Việt Tây Công hay Ðề Ngạn đọc theo giọng Trung Hoa. Nhưng các cụ ngày xua rất sính dùng tiếng Hán Việt. Ðến như tiếng nôm hoàn toàn là Ba Giồng, Bến Nghé mà các cụ còn nhứt định phải dịch ra là Tam Phụ, Ngưu Chử khi viết vào sách vở thì không lý do gì các cụ lại không dùng các tiếng Hán Việt đã sẵn có là Tây Cống hay Ðề Ngạn, mà lại dùng tiếng Thầy Gòn là tiếng phiên âm theo giọng của người Trung Hoa.
Vậy, các thuyết kể trên đây đều không vững cả.
Cuối cùng, chỉ còn một dấu vết nhỏ trong các tài liệu nói về ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn có thể giúp ta một lối thoát: đó là việc ông Lê Văn Phát cho biết rằng người Lào đã gọi vùng Chợ Lớn ngày nay là Cai ngon, mà Cai ngon theo tiếng Thái có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn. Chúng tôi không biết tiếng Lào hay tiếng Thái nên không thể xác nhận được ý nghĩa của Cai Ngon theo tiếng Thái, nhưng nếu quả đúng như ông Lê Văn Phát nói thì tên Sàigòn do ông bà ta phiên âm từ tiếng Thái Cai Ngon và bỏ dấu theo giọng Việt Nam như thông lệ.
Xét về mặt nguyên tắc đạt địa danh của ông bà chúng ta ngày xưa, thì vấn đề này có thể kể là tạm giải quyết. Nhưng nghi vấn còn lại là tại sao lại có tiếng Lào hay tiếng Thái lọt vào đây? Hiện nay, không có nhiều tài liệu lịch sử giúp chúng ta có một sự hiểu biết rộng rãi và chánh xác về thời kỳ người Việt Nam mới vào ở đất Nam Kỳ. Chúng ta chỉ có thể dựa vào một số dữ kiện sau đây để suy luận:
1. Vào đầu thế kỷ 17, nước Cam Bu Chia đã bị người Xiêm (Thái Lan hiện nay) uy hiếp nặng nề, và chính vì muốn dựa vào người Việt Nam để chống lại Xiêm mà vua Chey Chetta II đã đi cưới công chúa Ngọc Vạn (là con gái chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên) về làm hoàng hậu năm 1620, rồi đén năm 1623 lại đẻ cho chúa Nguyễn đạt những cơ sở thâu thuế ở vùng Sàigòn, Chợ Lớn ngày nay.
2. Vùng Chợ Lớn chỉ trở thành một vùng thương mãi thạnh vượng từ năm 1788 với khối người Hoa Kiều tụ tập về đó sau khi Cù Lao Phố bị Tây Sơn phá hủy. Vậy, lúc chúa Nguyễn mới đạt cơ sở thuế hơn 150 năm về trước vùng này chưa có mua bán gì nhiều.
3. Người Việt Nam chỉ vào ở Nam Kỳ nhiều từ khi có lực lượng của ông Trần Thượng Xuyên đóng thường trực để bảo vệ cho họ từ năm 1680. Vậy, lúc chúa Nguyễn đạt sở thuế ở vùng Chợ Lớn ngày nay, hơn 50 năm trước đó, chưa có đông người Việt Nam và chưa có sản xuất nhiều lúa gạo để bán.
4. Như thế, cơ sở thuế của chúa Nguyễn chắc chỉ đánh vào một vài sự buôn bán nhỏ, không quan trọng lắm, và do đó mà vua Cam Bu Chia đã dễ dàng cho chúa Nguyễn thâu lấy nguồn lợi này, chớ nếu có sự mua bán quan trọng và quyền lợi thuế vụ lớn thì vua Cam Bu Chia lúc đó vốn còn hoàn toàn độc lập với chúa Nguyễn, chắc không phải chấp nhận dễ dàng lời yêu cầu của chúa Nguyễn. Vậy, sự mua bán đó dựa vào móng hàng gì? Có thể một trong những món hàng được buôn bán thời đó là gòn, vì vùng này có nhiều cây gòn, có lẽ không nhiều đến thành rừng, nhưng cũng đạt mức quan trọng để có thể gọi là rừng chổi được. Người Xiêm có thể đã đến đó mua gòn để đem về nước dồn gối, dồn nệm. Một ít thương gia Xiêm có thể đã có mặt ở vùng này trước khi chúa Nguyễn đạt sở thuế tại đó, và vì thấy vùng này có nhiều cây gòn, họ gọi nó là Cai Ngon tức là Rừng Chổi Cây Gòn, rồi các viên chức Việt Nam liên lạc với họ để đánh thuế lúc mới đến đã theo họ mà gọi đất này là Sàigòn, thay vì phiên âm hay dịch nghĩa tên Khmer của địa phương này.
5. Về cái tên Khmer này, các học giả đã không đồng ý kiến với nhau, người thì nói là Prei Kor, người thì nói là Prei Nokor. Ông Malleret đã dựa vào sử Khmer mà bảo đó là Prei Nokor và theo linh mục Tandart để dịch Prie Nokor là thành phố của rừng. Vì không biết tiếng Khmer và văn phạm Khmer, chúng tôi không thể đi sâu vào vấn đề này, nhưng vẫn thấy có những chỗ không ổn.
Nếu Prei Kor có nghĩa là Rùng Gòn hay Rừng Bò thì văn phạm Khmer cũng như văn phạm Việt Nam đạt tiếng rừng lên trên, tiếng phụ nghĩa cho rừng ở dưới. Như vậy Prei Nokor dịch ra là rừng của vua như Aymonier thì vẫn hợp với văn phạm đó, còn dịch ra như linh mục Tandart là thành phố giữa rừng thì lại đi ngược với văn phạm đó rồi. Hiểu theo văn phạm như nói trên đây thì Prei Nokor là rừng của thành phố mới phải, nhưng tên Rừng của Thành Phố thì cố nhiên là không có ý nghĩa gì.
Mặt khác, nếu Prei Nokor là thành phố giữa rừng hay rừng của vua thì nó chỉ có thể có từ năm 1674 là năm mà vua thứ nhì của Cam-Bu-Chia chua chúa Nguyễn đến đặt sở thuế tại đó thì đất này hãy còn là một thị xã nhỏ, không có vua ở nên không thể mang tên Prei Nokor là thành giữa rừng hay rừng của vua được.
Do các nghi vấn trên đây, chúng ta thấy rằng thuyết của ông Malleret không vững. Và chúng ta có thể đua ra giả thuyết khác: địa điểm mà vua Cam-Bu-Chia cho chúa Nguyễn đạt sở thuế vẫn tên là Prei Kor vì nơi đó có nhiều gòn và là nơi mua bán gòn, nhưng sau đó, khi vua thứ nhì của Cam-Bu-Chia đến đóng đô tại đó, nó có tên mới là Prei Nokor (hiểu theo nghĩa là rừng của vua hay thành phố giữa rừng đều được cả). Các sử gia Cam-Bu-Chia sau này chép lại việc cho chúa Nguyễn đến địa phương này đặt sở thuế đã chép lại tên Prei Nokor mà họ được biết nhiều hơn mà bỏ tên Prei Kor đi. Với giả thuyết này thì ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn có thể giải quyết được: đó là một tên phiên âm từ tiếng Xiêm Cai Ngon có nghĩa là Rừng Chổi Cây Gòn, và phù hợp vớ tên Khmer nguyên thủy Prei Kor cũng có ý nghĩa tương tự.
Vì không biết ngôn ngữ và văn phạm Khmer và Thái (Xiêm) nên chúng tôi không thể đi sâu vào vấn đề này và chỉ xin nêu ra những nhận xét trên đây. Chúng tôi mong ước rằng có vị nào thông thạo tiếng Khmer hay tiếng Thái lưu tâm đến vấn đề này để làm sáng thêm ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn yêu dấu của chúng ta.
(Nguồn: Tài liệu nghiên cứu địa danh Tp. HCM – TS. Lê Trung Hoa

Saturday, 22 September 2012

Vắn tắt về nguồn gốc địa danh Sài-Gòn (Trịnh Quốc Thuận)

Vắn tắt về nguồn gốc địa danh Sài-Gòn

Lâu nay tôi vẫn nghĩ rằng nguồn gốc địa danh Sàigòn đã nói rành mach trong quyển "Sài Gòn năm Xưa" 1962, của cụ Vương Hồng Sển (1902-1996). Nếu có ai thắc mắc thì dỡ lại sách cũ, sẽ thấy giải thích thỏa đáng.

Gần đây tôi có đọc bản dịch "Gia Định Thành Thông Chí" 1822 , của Trịnh Hoài Đức (1765-1825). Quá thích thú, tôi xin mạo muội được vắn tắt góp ý về nguồn gốc địa danh Sài Gòn. 


Cù Lao Phố, tiền thân của “Thày-ngòn” Đề-Ngạn 

Bát lộ kỳ binh Mãn Thanh phá tan quân Lý Tự Thành ở Sơn Hải quan, chiếm lấy Bắc Kinh lập ra nhà Thanh năm1644. Nhưng vùng Hoa Nam nước Tàu , nhà Thanh phong đất cho do ba di thần nhà Minh cai trị, Ngô Tam Quế ở Vân Nam vàQuảng Tây, Thượng Khả Hỉ ở  Quảng Đông,  Cảnh Tinh Trung ở Phúc Kiến. Sử gọi đó là Tam Phiên Vương. Thượng Khả Hỉ chết năm 1677, và Ngô Tam Quế 
chết năm 1678, đến năm 1681, nhà Thanh mới dẹp được tàn quân Vân Nam, thống nhất nước Tàu. 

Trần Thượng Xuyên, người Quảng Đông, tổng binh 3 châu, Cao-Lôi-Liêm, cùng với phó tướng Trần An Bình đến Đàng Trong đầu chúa Nguyễn năm 1679. 
Được chúa Nguyễn cho vào lập nghiệp ở miền Nam. Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình mang bản bộ binh mã cùng thê tử , chiến thuyền vào cửa Cần Giờ, đến đóng ở Bàn Lân , cù lao Phố Biên Hòa. 

Trần Thượng Xuyên là một danh tướng giúp chúa Nguyễn mở mang bờ cỏi. Còn là nhà chánh trị, có óc tổ chức, cai trị, và buôn bán  ông đã lập phố xá ở Bàn Lân Biên Hòa, gọi là Nông Nại (農奶) Đại Phố, Nông Nại  phiên âm tiếng ĐồngNai. (phải chăng Cù Lao phố có tên từ Nông Nại Đại Phố, xây dưng trên một cù lao ? Thời buổi đó miền Nam chưa chính thức thuộc quyền Chúa Nguyễn, dân cư thưa thớt, chắc chưa có cái cù lao tên Phố trước khi Trần Thượng  Xuyên đến). 

Trần Thượng Xuyên mất năm 1720. Lúc sống được Chúa ban" Nguyễn vi vương, Trần vi tướng, đại đại công thần bất tuyệt", Sau khi mất được vua Minh Mạng sắc phong "Thượng Đẳng thần". 


“Thày-ngòn” và Sài-gòn 


Năm 1777 quân Tây Sơn tràn vào Nam truy sát Nguyễn Vương, và tàn phá Cù Lao Phố. Khoảng năm 1778 người Hoa sống xót chạy dọc dòng sông Bến Nghé, dời vô vùng đất Chợ lớn ngày nay, đắp đất bồi đê lập phố buôn bán, đặt tênlà Đề Ngạn 堤岸, nay thuộc khoảng đường Triệu Quang Phục (trước 1975), mà ba má tôi khi xưa thường gọi là đường Quảng Đông- người Tàu gọi là Cửn Tăng 
coi (Tiều), hay Cỏn Túng cái (Quảng), từ bến Hàm Tử chạy đến cầu Chà Và , vùng Bưu điện  Chợ lớn. 
Đề Ngạn堤岸: Đề là đê, ngạn là bờ, nghĩa là trên bờ sông, bờ đê -ở đây chỉ sông Bến Nghé, hay Tân Bình-,下馬步堤岸, 上船拜吾兄 ,xuống ngựa bước trên bờ sông, lên thuyền thăm ngô huynh –Hàn Dũ 
Người Hoa lúc đó và sau nầy chỉ gọi vỏn vẹn là Đề Ngạn, chớ không gọi Đề Ngạn Đại Phố, có phải vì sợ phô trương và chuốt họa diệt vong như Nông Nại Đại Phố chăng?  Nhưng một lần nữa, năm 1782, quân Tây Sơn lại tràn vào cướp bócphố Tàu, giết người gần như sạch sành sanh. 
Đê Ngạn 堤岸, đọc âm Quảng Đông là “Thày ngòn” mà Tây dịch âm : Tai- ngon (từ âm Quảng Đông ), hay TIN-gan (từ âm Quan thoại) . Ông Vương Hồng 
Sển có dẫn trang sách của Francis Garnier@ (1866) nói về Chợ Lớn, tôi chỉ xin trích lại đây đoạn nào liên hệ đến tên Saigon: "... Ceux-ci abandonnèrent Cou-lao- pho, remonterent de fleuve de Tan-Binh, et vinrent choisir la position actuelle de ChoLen. Cette création date d'envinron 1778. Its appelèrent leur nouvelle résidence Tai-Ngon, ou Tin-Gan. Le nom transformé par les Annamites en celui deSaigon fut depuis appliqué à tort, part l'expédition francaise, au Saigon actuel dont la dénomination locale est Ben-Nghe ou Ben-Thanh....” 1 
Trịnh Hoài Đức trong “Gia Định Thành Thông Chí ” 1822 có viết về Sài gòn như sau: 
"Phố chợ Sài Gòn.
...phố xá liền mái nhau, người Việt và người Tàu ở chung lộn dài độ 3 dậm… Đầu phía bắc đường lớn của bổn phố có miễu Quan Đế va 3 hội quán lớn: Phúc Châu, Quảng Đông, và Triều Châu chia đứng 2 bên tã hữu; phía tây ở giữ đườnglớn có miếu Thiên Hậu...."2. 
Rõ ràng đây là tả phố xá Chợ Lớn trong vùng khoảng đường Triệu Quang Phục, Đồng Khánh, Nguyễn Trãi ngày nay (trước 1975) 
Gia định Thành Thông Chí viết xong khoảng năm 1822. Hòa ước Nhâm Tuất 1862, mất 3 tỉnh miền Đông. Trích dẫn sách của Francis Garnier nói về Chợ Lớn xuất bản vào năm 1866.
Căn cứ vào niên biểu thứ tự trên thì Sài-gòn là do người Việt đọc âm tiếng Quảng Đông "Thầy ngòn" của chữ Hán 堤岸 đúng như Francis Garnier nói về 
Chợ Lớn (chớ không phải do Tây đọc âm Thầy-ngòn, ra Tai-Ngon, và Việt theo đó phát âm , sau nầy viết ra quốc ngữ là Sài-Gòn) 

Như vậy theo cụ Vương Hồng Sển thì địa danh Sài-gòn có nguồn gốc từ âm 
tiếng Quảng Đông "Thầy-ngòn", của chữ Hán堤岸 theo tôi thì phải thôi. 

Sài-gòn, Tây-cống, Chợ-lớn 

Sài-gòn thì được Tây và Việt nói và dùng trong văn kiện, giấy tờ. Do vậy theo người Hoa thì Sài-gòn là phố xá người Việt ở. Và người Hoa đọc âm Sài-gòn 
ra Sai-cụn(Tiều) hay Sấy cun (Quảng) và viết 西 貢âm Hán Việt là Tây-Cống. 
Danh từ “Thày-ngòn” phổ biến ở người Hoa, dành cho phố xá mà Tây viết là Cho-Len, và Việt gọi là Chợ Lớn. 
Người Việt không gọi phố người Tàu là Thày-ngòn, mà gọi là Chợ-Lớn. Có lẽ vì trẹo lưỡi, nói không quen tiếng Thày-ngòn vã lại  lúc xưa ở vùng Bưu điên Chợ-Lớn có cái chợ rất lớn vào thời buổi đó. Do đa phần là người Hoa buôn bán, nên người Việt gọi Chợ Lớn là phố xá ngưới Tàu, sau lớn dần, phát triển ra Thành Phố Chợ Lớn. Sau nầy cái chợ đó bị dẹp đi và ông Quách Đàm giúp tiền xây một cái chợ mới trên đó chừng 2 miles trên đường Hậu Giang, gọi đó là Chợ Lớn Mới, hay chợ Bình Tây. Nhưng Chợ Lớn vẩn là địa danh của Thầy-ngòn, mà chúng ta vẫn dùng ngày nay. 

Sài-gòn và Sài-côn (xin đọc thêm ở phần chú thích): 

Không như các địa danh khác như Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, Phiên An ... là từ Hán Việt. Sài-gòn vì là chữ phiên âm, Sài thì coi như có âm chữ Hán, còn Gòn là âm Nôm. Theo Vương Hồng Sển, vì “gòn” không có âm tương tự trong chữ Hán. Nên quan lại miền Nam phải tìm âm na ná để viết trong tấu chương trình lên triều đình Huế. Vì vây mà có danh từ Sài-Côn 柴 崑 hay 柴棍. (cũng như Đồng Nai (nôm)  đã đươc người Hoa ở Cù Lao Phố phiên âm ra Nông Nại 農奶).  Theo thuyết cụ Sển, thì Sài-côn phải ra đời sau Sài-gòn. 
Nhưng Gia Định Thành Thông Chí có đề cập tới Sài-côn khoảng 100 năm trước khi người Hoa lập nghiệp ở “Thầy-ngòn” Đề-ngạn3. Như vậy Sài-côn có trước Sài-gòn trên 100 năm. 
Nói là ông bà ta vì bí quá mà phải dùng chữ Hán có na ná âm Việt đễ dịch âm chữ “Gòn”  ra “Côn” thì không ổn lắm. Khi người Hoa dời vô Đề-ngạn lâp 
phố (1778 - 1788) buôn bán thì chữ Nôm đã trưởng thành, phát triển. Chinh Phụ Ngâm Khúc đã được bà Đoàn Thị Điễm (1705-1748) diễn nôm trước đó khoảng trên 40 năm. Thì không lẽ gì mà quan lại thời bấy giờ không viết được “gòn” là 棍. 
Nhưng đây mới là chổ khúc mắc. Người Việt lấy chữ 棍 (chữ Hán, âm côn, lại có bộ mộc đễ chỉ cây gổ) đễ đọc âm, viết cho chữ “gòn” cây gòn. Khi người 
viết ghép 2 chữ 柴棍 lại, đễ chỉ Sài-Gòn. Thì người đọc hay người dịch có thể nói đó là Sài-Gòn hay Sài-Côn, đều trúng cả. Vì chữ 柴棍 là chữ Hán (âm Hán Việt: Sài-Côn). 


Nguồn gốc đia danh Sài-Gòn đó đây. 

1. Tây Cống. 
Nguồn gốc Tây Cống thì đã giải thích như trên. Nếu ai đó cứ ép nói Tây Cống là nguồn gốc Sài-gòn, thì tui xin nói rằng, anh hãy thử giải thích nguồn gốc 
New York qua lối triết tự, giải thích ý nghĩa 2 chữ Hán Nửu-Ước cho người Mỹ. 


2. Sài-Côn, gốc gác Sài-Gòn là từ Sài-Côn.
Có cơ sở là Gia Định Thành Thông Chí có nhắc đến Sài-Côn (vào năm Giáp Dần, 1674) khoảng 100 năm trước phố xá “Thầy-gòn” được người Hoa thành lập3. Nếu Sài-Côn và Sài-Gòn là cùng một địa danh thì thuyết “Thầy-ngòn” là nguồngốc của Sài-gòn cần phải nghiên cứu lại. 


3. Sai-Gong, Sài-Gòn có nguồn gốc từ âm “Sai-Gong”. 
Tôi có đọc bài "Nguồn gốc địa danh Sàigòn" của nhà văn Bình-Nguyên Lộc. Ông căn cứ trên một quyển sách của người Mỹ ở California, ông cho rằng 
nguồn gốc Sàigòn là từ chữ Sai-gong. Theo ông thì tác giả quyển sách nói đó là tiếng thổ âm của người Quảng Đông. Sai-gong là âm của chữ Tây Giang. Sông Tây Giang ở tỉnh Quảng Đông. Người Quảng Đông ở vùng Saigon vì nhớ quê hương mà đặt tên Sai-gong, sau nầy ra Saigon. 
Thuyết của Bình-Nguyên Lộc có yếu điễm (要點) cần lưu ý: 
Sai-gong là do một người Mỹ ở California phiên âm một thổ âm Quảng Đông, nếu lấy đó giải thích là nguồn gốc tên Saigon ở Việt Nam thì có nhiều kẻ hở về ngữ âm. Người Mỹ hay người Pháp phiên âm tiếng Tàu  khác xa với người Việt phiên âm tiếng Tàu. Tây Giang 西 江, theo giọng Quảng Đông thì người mình viết là "Sấy Cón" chớ không phải "Sai-gong", như người Mỹ đọc. 
Nếu Sài-gòn xuất xứ từ Sai-gong (Tây Giang) thì tại sao trong cộng đồng người Hoa ở Saigon- Chợlớn không có giấy tờ, sách vở hay báo chí đề cập Sai- 
gong, hay Sàigòn là Tây Giang. Nếu là nỗi hoài hương của người Quảng Đông mà đặt tên Sai-gong, thì cộng đồng người Hoa phải nhắc nhiều đến Tây Giang, chớ nào đâu có chữ Tây Cống, với  Đề Ngạn. Nên biết, đia danh Sán Đầu 汕頭 “Soa Tháo” * ở Quảng Đông, có nói tới trong “Saigon năm xưa”, mà hầu hết người Triều Châu ở vùng Đông Nam Á, dù là người  sanh đẻ tại chỗ đều biết đến, và nhắc nhở. Còn Tây Giang "Sấy Cón", hay “Sai-gong” không nghe một ngườiQuảng Đông nào trong Chợ Lớn nhắc đến. 
Như vậy lịch sử và sinh hoạt của cộng đồng người Hoa ở Saigon Chợ lớn đã phủ nhận thuyết Tây Giang của ông Bình-Nguyên Lộc. 
Lúc trước ở Saigon  có người đọc tên đường Võ Tánh ra Vũ Tính (chính tai tôi nghe một ông thầy dạy Anh văn ở trường Bồ Đề Chợ Lớn nói với học trò trong lớp). Không phải người Bắc di cư lúc đó không đánh vần được Võ Tánh, mà vì họquen với vũ, tính, đọc vậy cho rằng mình đúng. Võ Tánh sanh đẻ ở miền Nam, thì cha mẹ đặt tên con phải theo phát âm miền Nam. Nếu người Việt không nên đọc 
tên Võ Tánh ra Vũ Tính thì phải càng nên thận trọng khi dẫn từ Sai-gong, phiên âm của một người Mỹ về âm Quảng Đông, Tây Giang, nói đó nguồn gốc của tên Sài Gòn. 


4. Có người nói Sài Gòn là có nguồn từ Sen và Gòn. 
Sen là bông sen, theo thuyết nầy thì do công chúa Ngọc Vạn mang vào Nam khi bà được chúa Nguyễn Phước Nguyên giá gả cho vua Chân Lập Chey Chetta II, Bà mang sen vào trồng ở vùng Prei Kor (tức vùng Chợ Lớn ngày nay). Còn gòn làcây gòn, đã có ở vùng Pre Kor lâu đời. Khi đọc thuyết nầy, tôi không thấy có trích dẫn, nên không đễ ý nguồn và tên tác giả. Nhưng từ Sen ra Sài thì nó xa vời vợi. 


Tôi nguyên sanh đẻ ở đường Frère Louis, nay là đường Nguyễn Trãi. Nhau rún ở vùng Bào Sen, Chợ Quán. Thì Sen và Gòn tôi không có lạ.Tôi còn nhớ khi nhỏ ba má tôi có cất một ngôi nhà ngói ở xóm Bào Sen, sau chánh phủ căn cứ trên khuôn viên nhà ba má tôi, phân lô cất ra nhiều dãy nhà tôm. 
Sau mặt hậu nhà tôi có dãy nhà chánh phủ, sau đó là lò đúc, sau lò đúc là một cái bào. Ba má tôi có nói là bào có nhiều sen. Nhưng khi tôi biết, thì, sen thì ít, mà rau muống thì nhiều. Nhưng dần dần rau muống cũng nhường cho xà bần, thiên hạ lấn đất xây chuồng heo, cất nhà. Tôi còn nhớ có một năm mưa lớn, nước lụt trào ra bào, tội mấy dãy nhà ở mé thấp, nước ngập. Thiên hạ lấy rổ vớt cá, kho tiêu, ăn đượcmấy bữa. 
Xóm sau nhà ba má tôi có khoảng đất trống, có 3, 4 cây gòn già không biết ai trồng từ bao giờ. Hàng năm tới mùa gòn chín vàng, trái gòn nứt dọc, bông gòn theo gió bay phơi phới vui vui. Có năm anh tôi đi mót được vài trái gòn rụng đem về cho má tôi dồn gối (bông gòn đây khác với bông gòn của cây bông vải). Chéo lên khoảng đất trống đó có cây me, có một thầy hù (thợ hớt tóc) lúc đầu ông treo một 
tấm kiếng, bắt  cái ghế đẩu dưới gốc cây, hớt tóc con nít. Sau ông xin phép bà con trong xóm cất lên cái chòi hớt tóc tại gốc me. Ở luôn đó, cu ky một mình không vợ con gì. Nghe nói quê ổng ở miền Trung, nhưng giọng nói như người trong xóm. Có 
lần ông khoe chai rượu  bổ "Tam tinh hải cẩu" của ổng. Đó là chai la de con cọp hiệu trái khớm, chai ngâm chuột con đỏ ói với rượu đế. Ông có giải thích chỉ có ổ chuột nào lứa nhỏ, nhét lọt qua miệng chai la de thì ngâm mới bổ. Con nít nghe sao tin vậy đời nào dám thử thuốc bổ của ổng. 
Qua hai xóm nửa là  thành 72  rồi đại lộ Trần Hưng Đạo. Tôi còn nhớ ở góc đường có cây me keo già, bên đó là dãy nhà gạch mặt tiền ra đường Trần Hưng Đạo. Căn thứ hai là nhà của Út Trà Ôn. 
Tôi nói xa đà dòng do kỷ niệm thơ ấu với sen với gòn. Nhưng tôi không thấy liên hệ gì giữa sen, gòn với nguồn gốc địa danh Sài-gòn. 


Tóm lại 

Tạm nói địa danh Sài-gòn do người Việt đọc lại phát âm tiếng Quảng Đông “Thày-ngòn” của chữ 堤岸, mà âm Hán-việt là Đề-ngạn. Tây nói và viết Sai- 
gon trong  giao dich hàng ngày và giấy tờ hành chánh. Sau nầy người mình viết ra quốc ngữ là Sài-gòn.
Còn Tây cống là người Hoa (Triều Châu) đọc âm Sài-gòn ra  “Sai-cọn” chữ Hán là 西 貢 âm Hán-việt là Tây cống 




Ts Trịnh Quốc Thuận
26 tháng Chạp năm Tân Mão 2011 





Chú thích 
Sài Côn, một phần đất của Chân Lập được Trịnh Hoài Đức nói đến trong Gia Định Thành Thông Chí.  Năm sớm nhất được nhắc đến là Giáp Dần 1674: 
“Tháng 2 mùa xuân năm thứ 27, Giáp Dần (1674) (Lê Gia Tông, niên hiệu Đức Nguyên năm đầu, Đại Thanh Khang Hy thứ 13), Nặc Đài (Neac Ang Dai) 
nước Cao Miên (sách Nam Việt chí của Nguyễn Bảng Trung chép là Nặc Ô Đài, sách Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn chép là Nặc Đài) đánh đuổi vua nước ấy là Nặc Ong Non; Nặc Ong Non chạy sang ta tránh, vua sai tướng Dương Lâmhầu ở dinh Thái Khang (nay là trấn Bình Hòa) làm Thống suất, Tham mưu Diên Phái hầu làm Hiệp lý biên vụ, đưa quân tiến đánh. Mùa hạ tháng 4 phá được ba lũy: Sài Côn (nay là đất trấn Phiên An), Gò Vách và Nam Vang, Nặc Đài thua chạy rồi chết. Nặc Thu xin lạy hàng…4 
…Tháng 6 mùa hạ được tiệp báo, triều đình nghị sự chuẩn cho Nặc Thu là nhánh đích được làm Cao Miên Chính quốc vương, đóng dinh ở thành Vũng 
Luông; Nặc Non làm Phó quốc vương, đóng dinh ở thành Sài Côn,”5 
Và năm gần đây nhất mà Sài Côn được nhắc đến đến trong Gia Định Thành Thông Chí là năm Canh Ngọ 1690: “tháng ba mùa xuân năm thứ 4 Canh 
Ngọ (1690) (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 11, Đại Thanh Khang Hy thứ 29), Hào Lương hầu đánh thắng Cao Miên, bắt vua Cao Miên là Nặc Thu đem về Sài Côn rồi nghỉ quân, Cao Miên từ đó mới bình định.”6 
Sau khi Cao Miên được bình định 1690, địa danh Sài Côn  không còn nhắc đến trong Gia Định Thành Thông Chí.  Như vậy Sài Côn là tên một vùng đất của sứ Cao Miên. 
Khi Trịnh Hoài Đức soạn bộ Gia Định Thanh Thông Chí thì Sài Côn đã được cải tên là trấn Phiên An –“Sài Côn (nay là đất trấn Phiên An)”-, và được tả lại như sau: 
“Trấn Phiên An đất rộng việc nhiều, đường thủy đường bộ thông thương. Phía bắc giáp với trấn Biên Hòa, phía trên từ sông Đức Giang (tục gọi là sông 
Thủ Đức) đến Bình Giang (thuộc huyện Bình Dương, tục gọi là sông Bến Nghé) chuyển rẽ xuống ngã ba cửa Phù Gia (tục gọi là ngã ba sông Nhà Bè) rồi đổ thẳng ra cửa biển Cần Giờ , bờ nam của sông là địa giới trấn Phiên An. Phíanam giáp trấn Định Tường, trên từ Quang Hóa, Quang Phong, về phía tây đến Vàm Dừa, Rạch Cỏ, đến sông Bát Chiên, chuyển xuống đông đến Vũng Gù, qua Tra Giang rồi ra cửa biển Lôi Lạp (Soi Rạp), dùng bờ bắc bắc của sông này làm địa giới trấn Phiên An. Trấn Phiên An phía đông là biển, phía tây giáp đất Cao Miên, ngăn chặn người man núi, gối vào chằm phá đông tây cách nhau 352 dặm, nam bắc cách nhau 107 dặm. Trấn này buổi đầu mới lập gọi là dinh Phiên 
Trấn, trông coi 1 huyện 4 tổng, lỵ sở đóng tại thôn Tân Lân, tổng Bình Trị, huyện Bình Dương ngày nay.”7 
Trịnh Hoài Đức cũng có nói tới sự hình thành của dinh Phiên Trấn vào năm Mậu Dần 1698 như sau: 
“Mùa xuân năm thứ 8, Mậu Dần (1698) thời Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế (Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu), (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 19, Đại 
Thanh Khang Hy thứ 37), triều đình sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu họ Nguyễn (Hữu Cảnh) sang kinh lược đất Cao Miên, ông lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh TrấnBiên (lỵ sở nay là thôn Phước Lư), lấy xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận sở nay gần Tân Đồn).” 8 
Như vậy vùng đất có tên là Sài Côn của Cao Miên đã chính thức được xóa bỏ, và được đổi lại là dinh Phiên Trấn vào năm 1698. 

Thế rồi còn Sài Gòn, địa lý và hình thành như thề nào? Sài Gòn được đề cập trong    Gia Đinh Thành Thông Chí vào năm 1782. Năm(5) năm sau khi người Hoa dọn ra Cù Lao Phố (Đinh Dậu) 1777. Sài Gòn thường được viết liền với chữ phố hay phố chợ. 
“Mùa xuân tháng 3 năm Nhâm Dần, (1782) quân giặc Tây Sơn do Nguyễn Văn Nhạc đem binh thủy bộ vào cướp phá, Gia Định thất thủ. Tháng 4 thì bộ 
binh Tây Sơn từ trấn Biên Hòa do thượng đạo đến trấn Phiên An. Lúc ấy quan binh là Tiết chế Hữu chưởng dinh Dụ Quận công Nguyễn điều biệt tướng ở Bắc Hà là Tự Thuật hầu và tướng quân đạo Hòa Nghĩa là Chương Mỹ hầu Trần Công Chương về toan khôi phục. Khi gặp toán tiền quân giặc Tây Sơn vừa đến vùng Vườn Trầu, bèn phục binh trong rừng đánh úp quân Tây Sơn, hai hầu Tự và Chương giết được đại tướng Tây Sơn là ngụy Hộ giá tên Ngạn, chẳng ngờ lúc ấy đại binh ngụy Tây Sơn kéo đến, quan quân phải rút lui. Ngụy Nhạc được báo tin, 
rất thương tiếc cái chết của Ngạn, mất Ngạn như mất cả hai cánh tay mặt, trái. Sau biết quân Hòa Nghĩa đều là người Tàu, Nhạc bèn giận lây, nên phàm người Tàu không kể mới cũ, binh lính hay thương buôn , đều bị giết tất cả hơn10.000 người, từ Bến Nghé đến Sài Gòn, thây nằm chồng chất ngổn ngang, xác quăng xuống sông làm nước nghẽn không chảy được nữa! Trải qua 2, 3 tháng người ta không dám ăn cá tôm dưới sông này. Còn hàng hóa của Tàu nhưsa, lụa, trà, thuốc, hương, giấy (nói chung bất cứ vật gì của người Tàu), ai có trong nhà cũng đều đem quăng ra đường, mà chẳng ai dám lấy. Qua năm sau, thứ trà xấu một cân giá bán lên đến 8 quan, 1 cây kim bán đến 1 mạch còn các hàng hóa khác cũng đều cao giá, nhân dân đều khổ theo.”9 
Năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung vì đại nghĩa, giải quyết cái họa mất nước phương bắc, tạm hoản việc bình định Đàng Trong, mang đại quân ra Bắc 
Hà phá quân Thanh. Năm 1790 Nguyễn Ánh lợi dụng lúc vua Quang Trung bận việc giao hảo với nhà Thanh, cải cách triều chính, kinh tế… Bắc Hà, mà  xây dưng kinh thành Gia Định ở đất Phiên Trấn đễ lo kế lâu dài đối phó nhà Nguyễn Tây Sơn.  Gia Định Thành Thông Chí có viết như sau: 
“Ngày 4 tháng 2 năm Canh Tuất thứ 13 (1790), tại chỗ gò cao thôn Tân Khai thuộc đất Bình Dương, ngài mới cho đắp thành bát quái như hình hoa sen, mở ra 8 cửa, có 8 con đường ngang dọc, từ đông đến tây là 131 trượng 2 thước ta, từ nam đến bắc cũng như thế, bề cao 13 thước ta,  chân dày 7 trượng 5 thước ta, đắp làm ba cấp, tọa ngôi Càn, trông hướng   Tốn. Trong thành, phía trước bên tả 
dựng Thái miếu…. …Ngoài thành đường sá chợ phố ngang dọc được sắp xếp rất thứ tự, …. đầu từ cửa Tốn Thuận qua chùa Kim Chương, từ phố Sài Gòn đến cầu Bình An qua gò chùa Tuyên đến sông Thuận An. Bến đò Thủ Đoàn đưa qua sông 
Hưng Hòa, trải qua gò Trấn Định rồi đến gò Triệu. Đường rộng 6 tầm, hai bên đều trồng cây mù u và cây mít là những thứ cây thích hợp với đất này. Cầu cống thuyền bến đều luôn được tăng gia việc tu bổ, đường rộng suốt phẳng như đá mài, gọi là đường thiên lý phía nam” 10 
“PHỐ CHỢ SÀI GÒN 
Cách trấn về phía nam 12 dặm ở hai bên tả hữu đường cái quan, là đường phố lớn, thẳng suốt 3 đường, giáp đến bến sông, một đường ngang ở giữa, một đường đi dọc theo sông. Các đường ấy đan xuyên nhau như chữ điền, phố xá liềnmái nhau, người Việt và người Tàu ở chung lộn dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong phố bày bán có: gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu trang sức, hàng sách vở, tiệm thuốc, tiệm trà, tiệm hủ tíu. Hai đầu nam bắc bến sông không gì là không có. Đầu phía bắc đường lớn của bổn phố có miếu Quan Đế và 3 hội quán: Phúc 
Châu, Quảng Đông, và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu; phía tây ở giữa đường lớn có miếu Thiên Hậu, gần phía tây có hội quán Ôn Lăng, đầu phía nam đường phố lớn về phía tây có hội quán Chương Châu. Gặp ngày tốt, đêm trăng, như Tam nguyên, rằm, mùng một thì treo đèn đặt án, tranh đua kỳ xảo trông như là cây lửa, cầu sao, thành gấm, hội quỳnh, kèn trống huyên náo, nam nữ dập dìu, thật là một phố lớn nơi đô hội náo nhiệt. …. Giữa phố về phía đông đường lớn có chợ Bình An bán đủ sản vật quý ở núi biển và thổ sản các nơi, ban đêm còn thắp 
đèn mua bán.”11 

Tóm lại, trích dẫn từ Gia Định Thành Thông Chí cho thấy Sài Côn và Sài Gòn khác xa nhau trên hai phương diện. Một là thời gian, hai là địa lý đất đai. 
Địa danh Sài Côn là một vùng đất rộng mênh mông của Chân Lạp(Cao Miên) từ năm 1690 trở về trước, được Nguyễn Hữu Cảnh đặt là dinh Phiên Trấn năm 
1698, sau nầy  Nguyễn Ánh  đổi lại là trấn Phiên An năm 1802 (?) 
Địa danh Sài Gòn là tên một phố chợ thành lập sau năm 1777, do người Hoa chạy từ Cù Lao Phố, dời lên bờ sông Tân Bình ở vùng Chợ Lớn ngày nay, và gọi đó là "Thày Ngòn", âm tiếng Quảng Đông chữ Đê Ngạn. Sài Gòn là tiếng Việt phiên âm của Thày Ngòn theo như  cụ Vương Hồng Sển viết trong “Sài Gòn Năm Xưa”. 






1 Saigon năm xưa, 1962, Vương Hồng Sển 

@ Francis Garnier, một nhà du khảo, thám hiểm kỳ cựu, có nhiều uy tính ở thời 
buổi đó 

2, 11 Gia Định Thành Thông Chí 1822 , Trịnh Hoài Đức. 
Hậu học Lý Việt Dũng dịch, 2004, bản internet 
Quyển 6, Thành Trì Chí, trang 11 


3, 4 Quyển 3, Cương Vực Chí, trang 2 : 
Năm Giáp Dần, 1674,…  Mùa hạ tháng tư phá được 3 lũy: Sài-Côn (nay là trấn 
Phiên An), Gò vách và Nam Vang… 
Không biết Sài-Côn ở đây dịch từ chữ  柴崑 hay chữ 柴棍 
Không thấy trong chú thích của bản dịch. 

5 Quyển 3, Cương Vực Chí, trang 3 

6,8 Quyển 3, Cương Vực Chí, trang 4 

7 Quyển 3, Cương Vực Chí, trang 20 

9 Gia Định Thành Thông Chí 1822 , phần 1 
Hậu học Lý Việt Dũng dịch, 2004, bản internet, Trang 48 

10 Quyển 6, Thành Trì Chí, trang 1 


* “Hán Việt Từ Điển” 1966, tái bản lần 2, Thiều Chửu. 
Nhà in Hưng Long, Sài-Còn 
Các nguồn tham khảo khác trên internet: 
“Việt Nam Sử Lược,” Lệ Thần Trần Trọng Kim, bản internet. 
“Hán Việt Tự Điển Trích Giảng” , Hội Khai Trí Tiến Đức, bản internet 
Copyright: Đặng Thế Kiệt, Paris 2006-20012. 
Vikipedia…và đây đó… 

Friday, 21 September 2012

Âm và nghĩa của hai chữ "song viết"双曰. (An Chi / Huệ Thiên)

Âm và nghĩa của hai chữ "song viết"双曰.

by An Chi on Saturday, July 7, 2012 at 10:28pm ·
 AN CHI

Chúng tôi cho rằng trong các câu thơ cổ, âm của hai chữ "song viết" 双曰 là sông vát. Đây là âm xưa của hai chữ 生活 mà âm Hán Việt hiện đại là sinh hoạt.
Chữ  đọc thành sông là điều đã được thừa nhận về mặt lý thuyết tại mục 2.a trong bài Thử tìm cách đọc Nôm hai chữ «song viết» của Nguyễn Tài Cẩn (Tạp chí Văn học, số 2-1974, tr.77-93). Còn chữ thì đã được chính Nguyễn Tài Cẩn đọc thành vát (nhưng hiểu theo nghĩa khác). Vả lại, viết  đọc thành vát là chuyện bình thường (Ss: niết bàn = nát bàn; kiết hung = cát hung, v.v.).
Trở lên là nói về cách đọc. Bây giờ xin nói về mối quan hệ sông vát ~ sinh hoạt.
Về trường hợp sông ~ sinh, xin lưu ý rằng sinh chỉ là âm hậu khởi vì 生 vốn là một chữ thuộc vận bộcanh 庚 nên âm Hán Việt gốc của nó phải là sanh. Vậy sông ~ sinh ở đây thực chất là sông ~ sanh. sông ~ sanh thì cũng giống như:
– bộng (một loại nồi đất, miệng to) ~ bạnh 甏 (bình to bằng sành);
– bộng (chỗ rỗng trong lòng gỗ) ~ bạnh 窉 (cái lỗ);
– mồng (trong mồng một, mồng năm, v.v.) ~ mạnh 孟 (trong mạnh xuân, mạnh nguyệt, v.v.);
– mống (trong không còn một mống) ~ manh 氓 (trong manh dân);
– mống (trong mầm mống) ~ manh 萌 (mầm);
– mống (trong khôn sống mống chết) ~ manh 盲 (ngu tối);
– phồng (trong căng phồng) ~ bành 澎 (trong bành trướng); v.v.
Sông trong sông vát đã trở thành một từ cổ nhưng nó có một điệp thức rất thông dụng hiện nay làsống. Sự tồn tại của hai điệp thức sông và sống ở đây không phải là điều khó giải thích vì trong vận thư thì chính chữ 生 cũng có hai hình thức thiết âm với hai thanh điệu tương ứng. Trong Quảng vận, ở phần bình thanh, thiết âm của nó là «sở canh thiết» (= sanh) còn ở phần khứ thanh thì thiết âm của nó là «sở cánh (→ kính) thiết» (= sánh).
Về trường hợp vát ~ hoạt thì trước hết xin nói rằng vát trong sông vát cũng chính là vát trong tháo vát, đều có liên quan về từ nguyên với chữ hoạt 活 mà nghĩa gốc là sống, rồi nghĩa phái sinh là nhanh nhẹn, sinh động, v.v.. vát ~ hoạt thì cũng giống như:
– và (kết từ) ~ hoà 和;
– vạ (trong tai vạ) ~ hoạ 禍;
–  (trong chó vá) ~ hoa 花 ( là cái đốm, giống như «đoá» hoa);
– vả (trong nhờ vả) ~ hoá 化 (đi ăn xin);
– van (trong van nài) ~ hoán 喚 (trong hô hoán);
– vàng ~ hoàng 黄;
– vạch (trong vạch ngang) ~ hoạch 劃 ; v.v..
Tóm lại, âm của hai chữ Nôm 双曰 là sông vát và đây là âm xưa của hai chữ Hán 生活 , mà âm Hán Việt hiện đại là sinh hoạt (cũng như goá bụa là âm xưa của quả phụ; thiêng liêng, của tinh linh 精靈;thơ ngây, của si ngai 癡獃, v.v.).
Vì là âm xưa của hai tiếng sinh hoạt nên nghĩa của sông vát tất nhiên cũng là nghĩa của hai tiếng trên đây. Đó là: sự hoạt động; đời sống, cuộc sống; cuộc đời; cảnh ngộ, hoàn cảnh; kế sinh nhai, nghề mưu sinh (Xin x. các nghĩa này tại mục «sinh hoạt» và các mục hữu quan trong Từ nguyên, Từ hải,v.v.). Các nghĩa này thực sự phù hợp từng nghĩa một với từng câu thơ tương ứng có hai chữ 双曰 và với chủ đề của từng bài thơ hữu quan trong Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi), Hồng Đức quốc âm thi tập(đời Lê Thánh Tông), Bạch Vân am quốc ngữ thi tập (Nguyễn Bỉnh Khiêm) và trong một số câu lẻ tẻ khác. Nếu muốn «hiện đại hoá» mà thay sông vát bằng sinh hoạt thì những câu thơ đó tất nhiên vẫn thông nghĩa, thậm chí có khi còn... dễ hiểu hơn. Ngay cả đối với 4 trường hợp mà Nguyễn Tài Cẩn cho là «xem ra cần phải có cân nhắc biện luận» (ông đọc 双曰 ở đây thành rông vát và hiểu là «dong chơi thơ thẩn, ung dung nhàn tản, phóng túng»), nếu thay «rông vát» bằng «sinh hoạt» thì ý thơ, theo chúng tôi, xem ra vẫn thông hơn:
– Sinh hoạt chớ rằng đã ngặt
Đến đâu thời cũng có xuân phong.
– Mựa hiềm sinh hoạt nhà còn ngặt
Tích đức cho con ấy mới mầu.
– Con cháu chớ hiềm sinh hoạt tiện
Thi thư thực ấy báu nghìn đời.
– Con cháu mựa hiềm sinh hoạt ngặt
Nghìn đầu cam quít ấy là tôi.
Dĩ nhiên là để phục hồi âm xưa, nhất là để đọc đúng âm của hai chữ 双曰 thì hai tiếng «sinh hoạt» trong 4 trường hợp trên đây phải được thay bằng hai tiếng «sông vát» (Và dĩ nhiên là cũng không thể không kể đến các trường hợp mà hai chữ này phải được đọc khác và hiểu khác).
Tuy hai tiếng sông vát chưa hề được ghi nhận ở bất cứ nơi nào và ở tác giả nào nhưng ta hoàn toàn có thể kiểm chứng các nghĩa của nó với âm Hán Việt hiện đại là sinh hoạt và ta có:
– Sông vát1 = sinh hoạt1 = (ngữ danh từ) I. 1. sự hoạt động; 2. đời sống, cuộc sống, cuộc đời, sinh hoạt; 3. nếp sống; 4. cảnh ngộ, hoàn cảnh; 5. kế sinh nhai, nghề mưu sinh. II. 1. sản phẩm, vật dụng; 2. của cải, tài sản, vốn liếng.
– Sông vát2 = sinh hoạt2 = (ngữ vị từ) 1. hoạt động; 2. sinh sống; 3. ăn ở, cư xử.
Về nghĩa II của sông vát1, xin nói rõ rằng sinh hoạt (sông vát) còn có một nghĩa đặc biệt đáng chú ý nữa là: «sản phẩm», «vật dụng», như có thể thấy, chẳng hạn, trong Nguyên điển chương, Thuỷ hử,v.v. (x. Cổ đại Hán ngữ từ điển của Tổ biên tập Cổ đại Hán ngữ từ điển, Bắc Kinh, 1998, tr.1393, hoặcTừ hải, bản tu đính 1989, in lần thứ 4, Thượng Hải, 1997, tr.1944; v.v.) Nghĩa này, kết hợp với các nghĩa trên kia dễ dàng cho phép ta suy ra cái nghĩa của «của cải/tư nghiệp», vốn chỉ là một cái nghĩa phái sinh hoàn toàn tự nhiên; của cải/tư nghiệp, suy đến cùng, chẳng qua là những «sản phẩm», «vật dụng» mà người ta tích luỹ được trong quá trình «hoạt động mưu sinh» (kể cả hành động chiếm đoạt và lừa đảo).
Bây giờ chúng tôi thử ứng dụng cách đọc, và nhất là cách hiểu của chúng tôi vào bốn câu trong bốn bài số 59, 60, 61, 62 của «Phong cảnh môn» trong Hồng Đức quốc âm thi tập. Trong bốn câu đó thì đây là sông vát1 dùng với nghĩa I.2.. Thay vì sông vát, dưới đây chúng tôi sẽ điền cái nghĩa đó (= cuộc sống) vào cho dễ thấy vấn đề và dễ thẩm định đúng sai:
– Cuộc sống ai bằng cuộc sống ngư;
– Cuộc sống ai bằng cuộc sống tiều;
– Cuộc sống ai bằng cuộc sống canh;
– Cuộc sống ai bằng cuộc sống mục;
Liên quan đến bốn câu trên, tác giả của thuyết rông vát cho rằng ở đây các nhân vật ngư, tiều, canh, mục «tự hào là tự hào về cái ‘vui thú’ trong cuộc sống của các vị». Lý do của ông là:
– Đề mục chung cho cả loạt bài được gọi là đề mục tứ thú (bốn thú).
– Khi các vị kể cho nhau nghe về mỗi người thì bài thơ đặt tên là Tứ thú tương thoại (= Bốn thú cùng nhau trò chuyện).
– Trong các bài xướng hoạ, nhiều dị bản có chữ thú trong hai câu mở đầu, nhất là ở câu 2.
– Nhưng, gút lại lạc thú của bốn vị dật dân, cao sĩ thường gắn bó với thiên nhiên này là gì? Đó là thú nhàn cư. (Xin x. Nguyễn Tài Cẩn, «Lại bàn thêm về hai chữ song viết», Ngôn ngữ, số 1 (164) – 2003, tr.5).
Khi gút lại vấn đề, tác giả đã tạo cho chúng tôi một chỗ dựa quan trọng. Cuối lập luận của mình, ông đã đưa chữ thú xuống hàng thứ yếu mà đài hai chữ nhàn cư lên. Thú thì có nhiều thứ thú nhưng ở đây lại là thú nhàn cư. Mà trong hai tiếng nhàn cư thì chính chữ cư mới là trung tâm. Nhàn thì có nhiều thứnhànnhàn bộ, nhàn du, nhàn đàm, nhàn sự, v.v. Còn ở đây thì lại là nhàn cư. Nhàn cư là sống rảnh rang, rỗi việc, là sống một mình, là sống trong cảnh hưu trí; tóm lại, có thể nói đó là cuộc sống «tự do, phóng khoáng, hoàn toàn thoát khỏi mọi vòng câu thúc», đúng như Nguyễn Tài Cẩn đã viết (Bđd, tr.1). Một cuộc sống như thế, thử hỏi có cuộc sống của hạng người nào khác có thể sánh được?
Sông vát ai bằng sông vát ngư ?
Sông vát ai bằng sông vát tiều? 
Sông vát ai bằng sông vát canh? 
Sông vát ai bằng sông vát mục?
Rõ ràng «song viết» trong bốn câu thơ đang xét có nghĩa là «cuộc sống», «đời sống», «sinh hoạt», v.v., mà chúng tôi đã đọc thành sông vát. Ưu thế của cách đọc và cách hiểu này là ở chỗ ngữ danh từsong vát còn có thể chuyển đổi từ loại thành ngữ vị từ và các nghĩa trong chuỗi ngữ nghĩa của hai cấu trúc, một danh từ tính và một vị từ tính này, có thể thay thế cho nhau để lấp đầy một cách đủ sức thuyết phục những khoảng trống ngữ nghĩa do hai chữ «song viết» đảm nhiệm.
Hai tiếng rong vát cùng với chuỗi ngữ nghĩa mà Nguyễn Tài Cẩn đã nêu thì không đủ sức thuyết phục nhưng cách đọc «song viết» cùng với nghĩa «tài sản/tư nghiệp» thì lại không thể ứng vào mọi trường hợp mà không trở thành gượng ép, chẳng hạn trong hai câu đề của bài 58 trong QÂTT. Huống chi ngay cả cách đọc thành «song viết», như đã nói, vẫn đang còn là một điều nghi vấn. Chúng tôi mạo muội cho rằng ở đây mà đọc thành sông vát1 với nghĩa I.3 thì sẽ thích hợp hơn:
Buồng văn khép cửa lọn ngày thu,
Đèn sách nhàn làm nếp sống nhu (nho).
Hai chữ «song viết» được «đóng khung» trong cái cảnh «suốt ngày thu nhà thơ đóng cửa để hưởng nhàn bằng thú đèn sách» có lẽ phải là để nói lên chuyện nếp sống thì mới đúng hơn là chuyện «của cải».
Ngay cả ở hai câu luận của bài «Phong cảnh môn» số 54 trong HĐQÂTT mà có ý kiến cho là «trường hợp đầu tiên cho thấy giả thiết rông vát thắng thế» thì «sông vát» có vẻ như cũng có thể được điền vào để góp phần «xử lý» cách hiểu hợp lý cho hai chữ «song viết»:
«Ngư hà sông vát2 ngày hằng đủ,
Bạng duật đôi co thế ngại dòm.»
có thể được hiểu là:
(Ngư ông cho rằng mình) sinh sống hằng ngày bằng con cá con tôm đánh bắt được đã là đủ lắm rối;
Còn chuyện trai cò đôi co thì lại là cái «thế» (nghĩa là cái nếp sống tranh giành) mà ngư ông không quan tâm («ngại dòm»).
***
Với tất cả các nghĩa trên đây, ta có thể kiểm chứng và thấy rằng sông vát là:
– gia cảnh trong các bài 10, 13, 49 của Quốc âm thi tập và bài 122 của Bạch Vân quốc ngữ thi;
– cuộc sống trong các bài 18, 59 của QÂTT, bài 113 của BVQNT, các bài 54, 59, 60, 61, 62, 63 thuộc «Phong cảnh môn» của Hồng Đức quốc âm thi tập;
– của cải trong các bài 113, 156, 164 của QÂTT, các bài 35, 47 của BVQNT, bài 32 thuộc «Thiên địa môn» và bài 64 thuộc «Phong cảnh môn» của HĐQÂTT.
Nhưng dù là nghĩa nào thì cái nghĩa này cũng nằm trong cùng một hệ nghĩa của một đơn vị từ vựng duy nhất là sông vát. Đơn vị này có thể chuyển loại thành vị từ với các nghĩa: hoạt động; sinh sống; ăn ở; cư xử; v.v. (sinh hoạt trong tiếng Hán cổ đại và hiện đại cũng chuyển loại như thế).
Nguồn Facebook của An Chi (Huệ Thiên)

Wednesday, 19 September 2012

SAI LẦM CĂN BẢN CỦA A.-G. HAUDRICOURT VỀ PHỔ HỆ CỦA TIẾNG VIỆT _ AN CHI (Kiến Thức Ngày Nay số 143, ngày 15-7-1994).

Hai kiến giải về quan hệ tộc thuộc của tiếng Việt là của hai người Pháp: H. Maspéro và A.-G. Haudricourt. Trong Etudes sur la phonétique historique de la langue annamite (1), một công trình nghiên cứu nghiêm túc và sâu sắc, Maspéro đã dè dặt cho rằng tiếng Việt có thể là một ngôn ngữ Thái còn Haudricourt, trong một bài viết ngắn nhan đề La place du vietnamien dans les langues austroasiatiques (2), thì cả quyết rằng nó là một ngôn ngữ Nam Á. Theo nhận xét của S.E. Jakhontov thì kiến giải của Maspéro hình như phổ biến hơn nhưng kiến giải của Haudricourt lại được xem là thuyết phục hơn (3). Còn Hoàng Tuệ thì cho biết rằng “luận điểm của Haudricourt (...) là một đóng góp hết sức quan trọng”, rằng “hiện nay trong các sách sử học, dân tộc học và ngôn ngữ học xuất bản trên thế giới và ở Việt Nam, các tác giả đều nhất trí trong quan niệm dựa trên luận điểm của Haudricourt, quan niệm cho tiếng Việt thuộc họ Nam Á, nhánh Mon-Khmer, chi Việt-Mường (4).
Luận điểm căn bản trong kiến giải của Haudricourt là: chỉ có thể dựa vào từ vựng cơ bản để phân loại tiếng Việt về mặt phổ hệ mà thôi: “Cái có tính chất quyết định, đó là từ vựng cơ bản” (5). Trong một bài khác, vì buộc lòng phải thừa nhận rằng nguồn gốc của thanh điệu trong tiếng Việt hoàn toàn “không chứng minh được điều gì chống lại quan hệ tộc thuộc (của nó) với tiếng Thái” (6), Haudricourt lại võ đoán kết luận: “Vậy quan hệ tộc thuộc của tiếng Việt phải được truy tầm bằng từ vựng cơ bản” (7). Ở một chỗ khác nữa, khi đề cập đến các ngôn ngữ đơn lập có thanh điệu, ông cũng khẳng định: “Quan hệ tộc thuộc trong loại hình ngôn ngữ này chỉ có thể căn cứ trên từ vựng” (8). Luận điểm trên đây là một luận điểm sai lầm.
Từ vựng cơ bản là bộ phận từ vựng bao gồm những từ diễn đạt các khái niệm thông thường nhất hoặc cổ xưa nhất mà loài người đã có thể biết được, đồng thời cũng thường có tần số xuất hiện cao trong sự giao tiếp của cộng đồng. Do những đặc điểm này mà những từ đó vẫn được nhiều người – trong đó tất nhiên có Haudricourt – quan niệm là những đơn vị sẵn có trong các ngôn ngữ đồng tộc khi chúng tách ra khỏi nguồn gốc chung chứ không phải là kết quả của những sự vay mượn ở các ngôn ngữ khác tộc, cũng không phải là kết quả của những sự vay mượn lẫn nhau giữa các ngôn ngữ đồng tộc sau khi chúng đã tách ra khỏi ngôn ngữ gốc để trở thành những ngôn ngữ riêng biệt và độc lập. Đây là một quan niệm không đúng.
S.E. Jakhontov đã lưu ý rằng “về nguyên tắc, bất cứ từ nào cũng có thể được vay mượn” (9). Nhưng sau đó, tác giả lại phát biểu thêm rằng “những từ liên quan đến văn hóa thường dễ được vay mượn hơn cả; những lĩnh vực khác của từ vựng (ví dụ những tên gọi bộ phận cơ thể, hay trạng thái thời tiết) thì hầu như không có yếu tố vay mượn” (10). Đến đây thì chính Jakhontov đã nói sai, ít nhất cũng là sai đối với tiếng Việt. Ngôn ngữ này có rất nhiều từ chỉ bộ phận cơ thể bắt nguồn ở tiếng Hán, từ đầu,ức, sọ ~ lô, hàm, họng ~ hạng, thân, eo ~ yêu, vế ~ bễ, (cùi) chỏ ~ trửu  (cũng đọc chửu), cho đến tim ~ tâm, gan ~ can, tỳ, phổi ~ phế, thận..., rồi gân ~ cân, não, thịt ~ thoát , xương ~ xoang  v.v ( Những chữ in đậm tự nó đã là âm Hán Việt). Tiếng Khmer cũng vay mượn không ít từ chỉ bộ phận cơ thể của tiếng Sanskrit và tiếng Pali mà sau đây chỉ là mấy trường hợp tiêu biểu: kbal (đầu) < Sk.kapala; kui (dương vật) < Sk.guhya, P.guyha; kđo (dương vật) < P.kàta; kai (thân thể) < Sk.,P.kàya; kut (mông đít) < Sk.,P.guda (hậu môn); chơng (chân) < Sk.,P.jangha, v.v. Rõ ràng là đối với các từ chỉ bộ phận cơ thể, không phải là “hầu như không có các yếu tố vay mượn”, mà ngược lại, rất nhiều.
Những thí dụ trên đây trong tiếng Việt và tiếng Khmer đã góp phần khẳng định ý kiến của L. Hjelmslev: “Người ta không chỉ mượn một từ vì cái vật mà nó biểu hiện không có tên gọi trong ngôn ngữ đi mượn. Người ta vay mượn vì óc bắt chước, và những từ vay mượn thì phục tùng tất cả những sự thay đổi thất thường của thị hiếu. Người ta vay mượn vì cái từ của tiếng nước ngoài tao nhã hơn, hoặc ngộ nghĩnh hơn, hoặc vui tếu hơn, hoặc thú vị hơn và chỉ có tính võ đoán mới quyết định – không một sự tính toán nào dự kiến được nó – cái gì được xem là tao nhã, ngộ nghĩnh, vui tếu và thú vị” (11). Rõ ràng là sai lầm ý kiến cho rằng những từ thuộc từ vựng cơ bản không thể là những yếu tố vay mượn. Vậy không thể dựa vào từ vựng cơ bản đề kết luận về phổ hệ của một ngôn ngữ. Đó là một điều dứt khoát. Liên quan đến vấn đề này, sau đây là ý kiến xác đáng và rành mạch của A. Meillet mà chính R. Jakobson cũng hoàn toàn tán thành nên đã dẫn lại trong bài viết của mình: “Người ta không bao giờ có thể thiết lập quan hệ tộc thuộc của các ngôn ngữ bằng sự khác biệt hoặc sự trùng hợp về từ vựng” (12).
Lấy từ vựng cơ bản làm nền tảng để xây dựng kiến giải của mình về phổ hệ của tiếng Việt, rõ ràng là Haudricourt đã làm một công việc phiêu lưu và ... vô ích. Như lời cảnh báo của J. Vendryes, đây là “một phương thức nguy hiểm” (13). Huống chi phương pháp so sánh của ông lại còn có nhiều điểm hoàn toàn không ổn. Để phản bác Maspéro, Haudricourt đã đưa ra 12 từ chỉ bộ phận cơ thể của tiếng Việt (trốc (= đầu), tóc, mặt, tai, mũi, miệng, răng, lưỡi, cổ, môi, cằm, tay) để so sánh với những từ tương ứng trong 10 ngôn ngữ được xem là Nam Á: Bahnar, Khasi, Khmer, Khmu, Kuy, Mnong, Môn, Mường, Phong và Samrê. Công việc so sánh của ông đã bộc lộ những khuyết điểm sau đây về mặt phương pháp:
1/ Tiếng Kuy là một ngôn ngữ hãy còn được biết đến quá ít. Theo lời P. Lévy, tác giả của bảng từ vựng mà chính Haudricourt đã sử dụng, thì đây là một ngôn ngữ riêng biệt của một sắc dân đã từng bị người Khmer thống trị (14). Vậy hoàn toàn có khả năng là các yếu tố nguyên thủy của nó đã dần dần bị thay thế bằng những yếu tố vay mượn của tiếng Khmer. Trong trường hợp này, những từ “tương ứng” của tiếng Kuy không thể có giá trị để so sánh về phổ hệ. Huống chi trong bảng từ vựng ít ỏi của Lévy người ta còn thấy lẫn lộn cả những từ Kuy gốc Sanskrit (hẳn là mượn qua tiếng Khmer) như tévda (trời, thần) < Sk.devata–  ; dak (nước) < Sk.udaka, P.daka; phal (cày) < Sk.phàla, v.v.. thậm chí gốc Việt như dao (cây đao – d đọc như đ của tiếng Việt) < V.đao. Cả tiếng Samrê cũng chưa được biết đến mức có thể tin tưởng.
 2/ Tiếng Mường và tiếng Phong đã được khẳng định là những ngôn ngữ trong nhóm Việt - Mường. Bản thân chúng cũng cần được chứng minh là những ngôn ngữ Nam Á. Vậy đưa từ của tiếng Mường và tiếng Phong vào bảng so sánh để khẳng định nguồn gốc Nam Á của các từ Việt tương ứng là đã làm một việc làm hoàn toàn nghịch lý. Haudricourt đã làm chuyện nghịch lý ở nhiều chỗ. Trong một bài khác liên quan chặt chẽ đến bài đang xét vì cũng liên quan đến vấn đề phổ hệ của tiếng Việt, do không tìm được một cứ liệu nào của các ngôn ngữ Nam Á để chứng minh rằng thanh sắc trong từ bốn (quatre) của tiếng Việt là một hậu quả gây ra bởi sự tiêu vong của hiện tượng tắc thanh quản (occlusion glottale), Haudricourt đã giải quyết tùy tiện như sau: “Nhưng sự phối hợp không phải là không thể xảy ra vì người ta đã nhận thấy nó trong một ngôn ngữ Tạng-Miến là tiếng Lushai” (15). Ông quên rằng một sự chuyển biến ngữ âm rất có thể đã xảy ra ở một ngôn ngữ mà lại không hề hoặc không thể xảy ra ở những ngôn ngữ khác đồng tộc với nó. Nguyên âm [u] của tiếng Latin đã trở thành [y] trong tiếng Pháp nhưng vẫn tiếp tục được phát âm là [u] cho đến nay trong tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Romania (Ru-ma-ni), cũng là những ngôn ngữ Roman (langues romanes) như tiếng Pháp. Trong nội bộ các ngôn ngữ đồng tộc mà còn như thế, huống chi Haudricourt lại lấy cứ liệu trong tiếng Lushai là một ngôn ngữ Tạng-Miến để chứng minh cho hiện tượng đoán già đoán non là đã xảy ra trong một ngôn ngữ Nam Á. Cách làm tùy tiện đó rất xa lạ với một phương pháp so sánh nghiêm túc.
3/ Nhiều từ trong bảng so sánh của Haudricourt đã không vượt qua được một sự thẩm định từ nguyên học chặt chẽ. Trốc, chẳng hạn, đã được ông xem là Nam Á, đối với đầu là gốc Hán. Thực ra, đó cũng là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ  mà âm Hán-Việt hiện đại là độc. Về ngữ nghĩa, chữ này đã được Mathews’ Chinese-English Dictionary giảng là “the bones on the top of the head; a skull” và Hán-Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng giảng là “xương đầu, xương sọ”. Còn về ngữ âm thì tr ~ đ là một cặp tương ứng mà người ta có nhan nhản những thí dụ. Hơn nữa, trốc ~ độc thì cũng gần giống như trường hợp (Thiên) Trúc = (Thân) Độc, đều là những hình thức phiên âm từ tiếng Sanskrit Sindhu để chỉ nước Ấn Độ. Vậy trốc cũng là một từ Việt gốc Hán.
Cần nói rõ rằng Haudricourt đã mặc nhiên thừa nhận 92 từ Việt được xem là có gốc Môn-Khmer (Nam Á) do Maspéro đưa ra trong công trình năm 1912. Nhưng thực tế thì ít nhất 2/3 của số đó là những từ Việt gốc Hán trong khi không ít từ tương ứng của tiếng Khmer (mà Maspéro đưa ra) lại có gốc Sanskrit hoặc Pali. Một số khác là những từ Việt đã được tiếng Khmer vay mượn nhưng lại bị gán cho một nguồn gốc Môn-Khmer. Số từ tiếng Việt bị xem là có nguồn gốc Nam Á rốt cuộc chỉ còn lại rất ít.
Những từ Nam Á ít ỏi đó có vị trí như thế nào trong từ vựng của tiếng Việt hiện đại? Đó là một cơ tằng (substrat). Mà cơ tằng thì chẳng can dự gì đến việc sắp xếp phổ hệ của một ngôn ngữ. Tiếng Pháp hiện đại có một cơ tằng gồm khoảng 60 từ Gaulois. Đây là tàn tích của tiếng Gaulois, một ngôn ngữ Celtic mà tổ tiên người Pháp đã nói cách đây từ 2000 năm trở về trước. Nhưng không có bất cứ nhà ngữ học có uy tín nào lại nói rằng tiếng Pháp là một ngôn ngữ Celtic chỉ vì nó còn giữ lại được 60 từ Gaulois. Tất cả đều khẳng định rằng nó là một ngôn ngữ Roman, thoát thai từ tiếng La Tinh thông tục và đồng tộc với tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Romania (Ru-ma-ni) cũng là những ngôn ngữ Roman như nó. Vậy cũng sẽ là hoàn toàn phi lý nếu cho rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ Nam Á chỉ vì nó còn giữ lại được vài chục từ Nam Á ít ỏi. Chỉ khi nào chính Haudricourt chấp nhận rằng tiếng Pháp là một ngôn ngữ Celtic thì tiếng Việt mới là một ngôn ngữ Nam Á mà thôi. Ra đời từ năm 1953, kiến giải của Haudricourt đã lên ngôi trong Việt ngữ học Việt Nam và đã thống trị ngữ tộc học về tiếng Việt trong suốt bốn thập kỷ qua.
Vì kiến giải của Haudricourt bất ổn như thế cho nên cũng đã có người thử điều chỉnh nó. Phạm Đức Dương, chẳng hạn, đã dung hòa nó với thuyết của Maspéro mà cho rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ “hòa hợp” có cơ tằng Nam Á và có cơ chế Đồng Thái (16). Chúng tôi sẵn sàng đồng ý với tác giả rằng tiếng Việt có thể có một cơ tằng Nam Á nếu nói về lịch sử của nó. Nhưng khi nói về phổ hệ thì cái cơ tằng đó lại chẳng có vai trò gì. Lịch sử của một ngôn ngữ và phổ hệ của nó là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Xin lại lấy tiếng Pháp làm thí dụ cho dễ thấy vấn đề. Khi viết về lịch sử của ngôn ngữ này, người ta luôn luôn nhắc đến cái cơ tằng của nó là tiếng Gaulois vì đây chính là tiếng nói của tổ tiên người Pháp về sau đã bị tiếng La Tinh thông tục thay thế. Nhưng khi viết về phổ hệ của nó, người ta phải nói rằng tiếng Pháp là một ngôn ngữ Roman thoát thai từ tiếng La Tinh thông tục. Chẳng có ai gán ghép nó vào tiếng Gaulois. Ngôn ngữ không phải là một thực thể sinh vật học cho nên không thể xét phổ hệ của nó theo kiểu sinh vật. Do đó, tiếng Pháp cũng không phải là một ngôn ngữ “hòa hợp”, nghĩa là một thứ tiếng lai, có cơ tằng Gaulois và có cơ chế Roman. Chính Haudricourt cũng bác bỏ thuyết ngôn ngữ hòa hợp. Cách diễn đạt của Phạm Đức Dương, suy đến cùng, chẳng qua cũng chỉ là một cách thừa nhận rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ Thái.
Quả thật như thế, theo chúng tôi, cứ vào các dữ kiện được biết cho đến nay thì tiếng Việt là một ngôn ngữ Thái vì cấu trúc và cơ chế của nó là Thái như chính Phạm Đức Dương đã khẳng định. Cái bản sắc cùng với tính phổ hệ của một ngôn ngữ được bộc lộ không phải thông qua từ vựng mà thông qua cấu trúc và cơ chế của nó. Đây là một luận điểm thông thường và hoàn toàn xác đáng. Chính là xuất phát từ luận điểm này mà J. Vendryes đã viết: “Từ vựng có thể biến đổi, thậm chí từ đầu đến cuối mà ngôn ngữ không hề bị làm cho biến chất một cách có thể cảm nhận được trong cấu trúc ngữ âm hoặc ngữ pháp của nó” (17). Còn Jacques Chaurand thì viết: “Một ngôn ngữ được đặc trưng bằng sự tập hợp của những nét căn bản về ngữ âm và về hình thái mà sự gắn bó trong nội bộ của một hệ thống là một sự bảo đảm để nó chống lại các cuộc đảo lộn có thể là sâu sắc và thô bạo” (18). Cuối cùng, E. Sapir thì viết: “Chúng ta không có quyền giả định rằng một ngôn ngữ có thể nhào nặn lại một ngôn ngữ khác một cách quá dễ dàng bằng ảnh hưởng hình thái học của nó” (19). Vì vậy nên không thể chấp nhận ý kiến của Phạm Đức Dương cho rằng cơ chế của tiếng Việt là một cơ chế “mô phỏng” theo một ngôn ngữ Đồng Thái do kết quả của sự giao thoa trong quá trình tiếp xúc (20). Đó chỉ có thể là một cơ chế Thái tự thân nó mà thôi. Vậy, theo chúng tôi:
Tiếng Việt vốn là một ngôn ngữ Môn-Khmer đã bị một ngôn ngữ Thái thay thế. Điều này phù hợp với giả thuyết của Vương Hoàng Tuyên cho rằng “trên đồng bằng Bắc bộ, xưa kia là nơi cư trú của một giống người nói tiếng Môn-Khơme thì có một sự di cư to lớn của một lớp người nói tiếng Thái ở Tây nam Trung quốc tràn qua” (21). Chính ngôn ngữ Thái này đã thay thế cho ngôn ngữ Môn-Khmer kia để trở thành tiếng Việt ngày nay.

(1) BEFEO, 1912, t.XII, no 1, pp.1-124.
(2) BSLP, 1953, t.49, fasc:1, no 138, pp.122-8.
(3) X. Về sự phân loại các ngôn ngữ ở Đông Nam châu Á, Ngôn ngữ, s.1, 1991, tr.74.
(4) André-Georges Haudricourt, Kiến thức ngày nay, s.68, tr.4.
(5) Bđd, tr.125.
(6), (7) De l’origine des tons en vietnamien, JA, 1954, t. CCXLLII, fasc.1, p.82.
(8) Comment reconstruire le chinois archaðque, Linguistics Today, New York, 1954, p.231.
(9), (10) Bđd, tr.73.
(11) Le langage, trad. par Michel Olsen, les Editions de Minuit, 1969, p.90.
(12) Sur la théorie des affinités phonologiques entre les langues, in N.S. Troubetzkoy, Principes de phonologie, trad. par J. Cantineau, Paris, 1967, p.353.
(13) X. Le langage, Paris, 1921, p.364.
(14) X. Recherches préhistoriques dans la région de Mlu Prei (Cambodge), Hanoi, 1943, p.3.
(15) Như (6), (7), tr.81.
(16) X. Vấn đề proto - Việt Mường trong lịch sử Việt Nam và Đông Nam Á thời cổ đại, Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông, Hà Nội, 1986, tr.289.
(17) Sđd, tr.360.
(18) Histoire de la langue française, Paris, 1972, p.6.
(19) Le langage, trad. par S.M. Guillemin, Paris, 1953, p.192.
(20) Bđd, tr.289.
(21) Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở miền Bắc Việt Nam, Hà Nội, 1963, tr.193.

Monday, 17 September 2012

Vì sao có cái tên "Sài Gòn"? (Đăng Văn - Người Đưa Tin)


Vì sao có cái tên "Sài Gòn"?

03-08-2012 | 11:00
Thuyết Đề Ngạn: Là thuyết được đưa ra bởi 2 người Pháp là Aubaret và Francis Garnier. Theo Aubaret, năm 1778 người Hoa ở Cù lao Phố (Biên Hòa) vì giúp đỡ nhà Nguyễn nên bị quân nhà Tây Sơn tàn sát, phải rút lui theo con sông Tân Bình (Bến Nghé). Họ chọn vùng đất ở giữa đường Mỹ Tho đi Cù lao Phố mà xây dựng tân sở, ngày sau là phố Chợ Lớn. Năm 1782, họ lại bị quân nhà Tây Sơn tàn sát một lần nữa. Ít lâu sau, họ xây dựng lại, đắp đê cao nên đặt tên chỗ mới là "Tai-Ngon", hoặc "Tin-Gan", phát âm theo giọng Quảng Đông là "Thầy Ngồn" hay "Thì Ngòn", đọc theo âm Hán-Việt là "Đề Ngạn". Họ dùng danh từ "Tây Cống" hoặc "Xây cóon", "Xi cóon" để ám chỉ vùng người Việt ở, tức chợ Bến Thành ngày nay. Thuyết này được hai học giả là Vương Hồng Sển và Thái Văn Kiểm đồng ý.
Thực tế, trên phương diện ngữ âm, thì "Thầy Ngòn", "Xi Coón" rất giống "Sài Gòn". Nhưng theo lịch sử thì không phải, vì lịch sử chứng minh rằng Sài Gòn có trước, rồi người Tàu mới đọc theo và đọc chại ra thành Thầy Ngòn, Xi Coón.
Quanh cảnh trước chợ Bến Thành những năm đầu Pháp xâm lược An Nam
Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ "Luỹ Sài Gòn" (theo Hán Nho viết là "Sài Côn"). Đây là lần đầu tiên chữ "Sài Gòn" xuất hiện trong tài liệu Việt Nam. Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán - "Côn" - được dùng thế cho "Gòn". Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa danh Sài Gòn, không phải đợi đến năm 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị quân Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cống.
Thuyết Củi và bông gòn thì "Sài Gòn" bắt nguồn từ chữ "Sài" theo chữ Hán là củi và "Gòn" và là chữ Nôm chỉ cây bông gòn. "Sài” là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ, “Gòn” là tiếng Nam chỉ bông gòn. Người ta nói rằng, cái tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bông gòn do người Cao Miên đã trồng quanh đồn đất xưa của họ. Dấu vết nay vẫn còn ở chùa Cây Mai và các vùng lân cận… Song, cho tới nay thì các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm ra được nguồn gốc đích thực để chứng minh sự tồn tại của thuyết này.
Tương tự như vậy, có nhiều thuyết cho rằng "Sài Gòn" xuất phát từ chữ "Prey Kor" (Rừng Gòn) hay "Kai Gon" (Cây Gòn) mà ra. Nói chung, các thuyết này đều dựa vào cây bông gòn. Nhưng thuyết này phần lớn đã bị bác bỏ vì lý do đơn giản là không ai tìm được dấu tích của một thứ "rừng gòn" ở vùng Sài Gòn, hay sự đắc dụng của củi gòn ở miền Nam. Thêm nữa, cây gòn thời đó dùng làm hàng rào chứ không làm củi. Và theo nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa trong Địa Danh thì "sài" chỉ xuất hiện trong các từ ghép Hán-Việt như "Sài Tân" chứ chưa bao giờ được dùng như một từ đơn. Vì thế không thể nói "củi" được, là "sài" được, hay là "củi gòn" là "Sài Gòn" được. Vậy, thuyết Sài Gòn là "củi gòn" đã bị bác bỏ bởi thực tế địa lý và ngữ học.
Thuyết Prei Nokor thì dựa theo lịch sử và phát âm thuyết này cho "Sài Gòn" là được phiên âm từ "Prei Nokor" hay từ "Thầy Ngồn" mà ra. Prei Nokor nguyên là dinh của phó vương Chân Lạp thuộc vùng Chợ Lớn tới chùa Cây Mai, là dấu vết của một "thành phố" có từ thời Tiền Angkor (theo nhà sử học Pháp - Louis Malleret). Tuy nhiên, không có tài liệu nào khẳng định rằng nơi đây từng tồn tại khu dân cư trước thế kỷ XVI . Ông Petrus Trương Vĩnh Ký là người đưa ra thuyết này.
Theo sử Cao Miên được dịch lại bởi Louis Malleret (người Pháp), vào năm 1623, một sứ thần của chúa Nguyễn đem quốc thư tới vua Cao Miên và ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor và Kras Krabei của Cao Miên để đặt phòng thu thuế. Tới năm 1674, Cao Miên có biến, chúa Nguyễn sai Nguyễn Dương Lâm đánh và phá lũy Sài Gòn. Như vậy, từ 1623 tới 1674, vùng Prei Nokor hay Sài Gòn đã được phát triển. Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Launay, Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi "Rai Gon Thong" (Sài Gòn Thượng) và "Rai Gon Hạ" (Sài Gòn Hạ). Đó la theo sử sách, còn theo tiếng nói thì Prei Nokor (hay Brai Nagara theo tiếng Phạn mà người Miên mượn) có nghĩa là "thị trấn ở trong rừng", "Prei" hay "Brai" đều là "rừng", "Nokor" hay "Nagara" là "thị trấn". Đây là vùng mà chúa Nguyễn đã mượn làm nơi thu thuế. Theo tiến trình của ngôn ngữ, Prei hay Brai biến thành Rai, thành "Sài", Nokor bị bỏ "no" thành "kor", và từ "kor" thành "gòn".
Thuyết Bến Củi lại cho rằng: Dọc theo con đường Nam tiến của dân tộc Việt Nam có nhiều bến bên các dòng sông: Bến Vân đồn, Bến Thủy, Bến Hải, Bến Quan, Bến Ván, Bến Thóc, Bến Đình, Bến Tranh, Bến Tre, Bến Súc, Bến Tắm Ngựa, Bến Thành, Bến Củi… Bến Ván đã được đổi ra Bản Tân, Bến Thóc đã đổi ra Mễ Tân. Bến Thành nay vẫn lưu tên ở chợ Bến Thành. Bến Củi theo nhiều nhà nghiên cứu về Sài Gòn thì có thể đã được đổi ra thành Sài Tân, Sài Ngạn do người Quảng Đông sống ở khu vực này gọi chữ bến (bờ) là ngạn. Chữ Sài Ngạn có lẽ sau này được đọc thành Sài Gòn.
Dù ý nghĩa cái tên “Sài Gòn” là gì thì hiện thực lịch sử đã chứng minh nó từng là một thành phố phát triển và năng động bậc nhất Đông Dương lúc bấy giờ. Ngày nay, Sài Gòn là một trong những thành phố công nghiệp và hiện đại nhất Việt Nam…
Đăng Văn

Sunday, 16 September 2012

Địa danh Sài Gòn - Lê Văn Đức





Lớn lên ở Sài Gòn, ra bờ sông Sài Gòn mua mía ghim ăn hoài, mà giờ mới biết sông nằm ở phía đông của “Hòn ngọc Viễn Ðông”!

Cái tên Sài Gòn “dầu do tiếng nào phiên âm ra” thì bây giờ cũng đã ra khỏi địa để đi vào... cổ sử rồi.
(Thu Tứ)


Địa danh Sài Gòn


(...) gồm hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn nhập một từ năm 1956; đông giáp sông Bến Nghé (tức sông Sài Gòn), tây giáp rạch Lò Gốm, nam giáp kinh Bến Nghé và kinh Tàu Hủ, bắc giáp rạch Thị Nghè; diện tích: 52 cây số vuông; dân số: trên hai triệu người. Có nhiều giả thuyết về nguồn gốc địa danh này: (1) Trước tiên, có tên là Sài Côn, tiếng phiên âm của tiếng Prei-kor (rừng cây bông gòn) hoặc của tiếng Prei-Nokor (đô lâm, thành lâm hay hoàng lâm), nguyên là tư dinh của Phó vương Cao Mên, thuộc vùng Chợ Lớn, lối chùa Cây Mai. (2) Nơi đây, năm 1778, người Minh hương từ Cù lao Phố (Biên Hòa) rút về, xây bờ gạch cao dọc theo kinh Tàu Hủ để ngăn nước, nên được người Tàu gọi là Thày Ngòn (tức Ðê Ngạn); do tiếng Thày Ngòn nầy, người Pháp phiên âm ra Saigon, lại gọi cách sát nhập cả phía Gia Ðịnh thành; còn chỗ có tên Sài Côn hay Thày Ngòn (Ðê Ngạn) lại gọi là Chợ Lớn. (3) Thuyết này cho Sài Côn hay Sài Gòn là tiếng phiên âm của chữ Tây Cung là vòng thành của Phó vương Cao Mên, đối chiếu với Ðông Phố là tư dinh của quan kinh lược Việt Nam. (4) Sài Côn hay Sài Gòn cũng đều là tiếng phiên âm của hai chữ Tây Cống, có nghĩa là nơi nhận cống lễ của các đời vua Cao Mên dâng cho vua Việt Nam. Như vậy, dầu do tiếng nào phiên âm ra, Sài Gòn khi xưa là Chợ Lớn ngày nay. Còn Sài Gòn (ý nói chỗ sau này là Sài Gòn) từ năm 1789 tới 1861 là Gia Ðịnh thành (...) Tên Sài Gòn có từ năm 1861 là năm Pháp đặt nền hành chánh tại đó để khống chế cả miền Nam. Ðến năm 1931, Pháp mới nhập thành phố Chợ Lớn về Sài Gòn và gọi chung là Ðịa phương Sài Gòn - Chợ Lớn; năm 1954, do dụ Bảo Ðại ngày 30 tháng 5, Ðịa phương Sài Gòn - Chợ Lớn đổi raÐô thành Sài Gòn - Chợ Lớn; từ năm 1956, do sắc lịnh ngày 22 tháng 10 của Tổng thống (Ngô Ðình Diệm), Ðô thành Sài Gòn - Chợ Lớn được đổi lại là Thủ đô Sài Gòn (...)

(
Việt Nam tự điển, Lê Văn Ðức cùng một nhóm văn hữu soạn, Lê Ngọc Trụ hiệu đính, nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1970)