Tuesday, 16 April 2013

TANG CHẾ CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO VIỆT NAM QUA CUỐN SÁCH AN ỦI KẺ LIỆT - Nguyễn Hồng Dương & Võ Phương Lan

19. Tang chế của người Công giáo Việt Nam qua cuốn sách AN ỦI KẺ LIỆT (TBHNH 2003)
Cập nhật lúc 21h24, ngày 24/04/2007
NGUYỄN HỒNG DƯƠNG
VÕ PHƯƠNG LAN
Viện Nghiên cứu Tôn giáo
Tang chế là một trong những vấn đề mà Công giáo đặc biệt quan tâm.
Trước khi Công giáo truyền vào Việt Nam, người Việt đã có tang chế của mình. Tang chế mà Công giáo thực hiện về cơ bản khác với tang chế của người Việt. Vì vậy, ngay từ buổi đầu truyền giáo vào Việt Nam, một trong những vấn đề mà các thừa sai ngoại quốc quan tâm là vấn đề tang chế. Một số sách được các giáo sĩ soạn ra nhằm hướng dẫn việc thực hành tang chế như: Ưº ưễ ôO Ư³ ưn ³W đẹ (Tử hầu bảo hữu yếu quy thư - sách giúp kẻ liệt và nghi thức mai táng). Nazareth, 130 trang; Á{ âR ăữ (Lâm mệnh quyển - Sách đọc cho người bệnh trong giờ lâm chung); ãP Á âÀ àỹ Cảm tạ niệm từ - Kinh phục dĩ. 26 trang)(1)
Trong số sách về tang chế của người Công giáo đáng kể nhất là sách an ủi kẻ liệt. Sách này không thấy linh mục Nguyễn Hưng đề cập trong cuốn: Sơ thảo thư mục Hán Nôm Công giáo Việt Nam. Sách An ủi kẻ liệt mà chúng tôi hiện có là do một giáo dân xứ Kẻ Sặt cung cấp.
Kẻ Sặt là một giáo xứ lâu đời, trước đây có lúc được đặt làm trị sở Tòa Giám mục địa phận Đông Đàng ngoài và Sở Cha chính địa phận thuộc giáo phận Hải Phòng. Nay thuộc xã Tráng Liệt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Tính đến năm 2000 giáo xứ có 5.157 tín đồ. Sách An ủi kẻ liệt bằng chữ Nôm, mộc bản in trên giấy dó khổ 19x13cm, mỗi trang có 10 dòng. Sách bị mất 2 trang đầu và phần cuối, chỉ còn đến trang 244.
Phần đầu sách là: Thư mục về sách “An ủi kẻ liệt”(2) (từ trang 3 đến trang 6).
Hai trang đầu bị mất nên hiện chỉ đọc được từ trang thứ 3. Nội dung Thư chung nêu lý do của việc Giáo hội Công giáo đặt ra tang chế; dạy tín đồ phải làm gì với người ốm nặng sắp qua đời, qua đời, nghi thức mai táng, lệ cúng giỗ. Để bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi phiên âm toàn văn Thư chung. Đây là Thư chung chuyên về tang chế viết bằng chữ Nôm duy nhất mà chúng tôi hiện có, nên không chỉ có giá trị về văn bản học mà còn có giá trị về nội dung.
Sau Thư chung là phần Lời dẫn (một đôi lời dặn bảo người coi sóc kẻ liệt) từ trang 7 đến trang 16. Chính văn cuốn sách được chia làm hai phần. Phần thứ nhất: Ai ủi kẻ liệt; phần thứ hai: Lễ pháp tống táng kẻ đã qua đời. Trong bản thông báo này chúng tôi dịch toàn bộ các đề mục. Do sách mất phần đầu và phần cuối nên không rõ năm xuất bản, song Thư chung về sách An ủi kẻ liệt in ở đầu sách cho biết thời điểm Thư chung ban hành là ngày 23/12/1895 tại Kẻ Sở(3) do Phêro Maria Vítvồ(4) ký. Như vậy sách được xuất bản nếu sớm nhất cũng chỉ vào thời điểm năm 1895 mà thôi.
Dưới đây là phần phiên âm: Thư Chung về sách An ủi kẻ liệt; Lời dẫn; phần thứ nhất: An ủi kẻ liệt; phần thứ hai: Lễ pháp tống táng kẻ đã qua đời.
SÁCH AN ỦI KẺ LIỆT
Thư chung về An ủi kẻ liệt (sách bị mất 2 trang đầu nên bức Thư chung này bị mất phần đầu). Cuối thư có ghi: Phêro Maria Vítvồ ký. Kẻ Sở ngày 23 tháng Đêxemba (tháng 12) năm 1895. Dưới đây là phiên âm bức thư chung.
“… táng giỗ chạp cung cấp tư văn tư võ phường ống đồng môn vân vân. Nhất là người ta hay tin hay chuộng những việc kẻ ngoại quen làm mà thờ kẻ đã qua đời, vì bề ngoài xem ra giữ nghĩa tôn kính kẻ chết mà thôi. Nhưng mà thực sự là việc dối trá phi lý không nên tin, không nên làm, không nên giúp cách nào. Thầy xét sự thể làm vậy thời ước ao cất dẹp những tội ấy cho hãn, cho nên đã liệu dọn sách này để mà dạy bổn đạo phải làm thế nào cho được khỏi tội làm sự dối trá.
Vậy sách này chẳng những dẫn cách an ủi giúp phao(5) kẻ liệt mà lại dạy bảo kẻ có đạo biết lối phải cứ mà cất xác kẻ chết, cắt nghĩa lễ pháp thành Y kê di da(6) làm khi mai táng kẻ có đạo, chỉ bảo những sự dối trá Tòa Thánh đã cấm… dạy cho biết khi kẻ ngoại đạo chết mà kẻ có đạo phải đi cất xác thời được làm những việc nào mà phải tránh những việc nào, khi nào được ăn cỗ cúng, lúc nào không được ăn. Bao giờ nên cất mả lần nào không nên. Ngày giỗ chạp phải làm thế nào cho phép đạo thánh Đức Chúa Trời và những điều khác làm vậy. Kẻ có đạo phải biết phải giữ thời mới khỏi mắc sự dối trá được. Vì vậy bổn đạo ai nấy nhất là trùm trưởng, người coi sóc kẻ liệt phải năng xem cho thông thuộc những điều đã chép trong sách này. Mà Thầy truyền cho các nơi có đạo về địa phận ta, tự nay mà đi phải lấy sách này làm mẫu mực về sự cất xác kẻ chết và sự làm việc cho kẻ ở đâu không có người coi sóc giúp đỡ kẻ mong sinh thời, thời phải đặt mỗi họ một người đàn ông coi sóc kẻ liệt nam, một người đàn bà coi sóc kẻ liệt nữ. Lại phải sắm sửa mỗi họ 2, 3 bản sách này. Bản phó cho người chăm sóc kẻ liệt. Bản giao cho kẻ đàn anh quen đứng đầu việc hiếu sự. Để cho mỗi người làm các việc y như trong sách này dạy. Việc ấy giao cho các Thầy cả lo liệu thu xếp cho con chiên được nhờ. Vả lại Thầy dặn lại đây mấy điều về sự dối trá bề trên đã cấm xưa nay. Mà Thầy cũng truyền cho mọi nơi phải tuân cứ vì là điều hệ trọng lắm.
Thứ nhất họ nào gián tòng hễ kẻ có đạo đức được đủ người mà liệu việc làm riêng với nhau thời phải biết tống táng ngay. Vì chưng tuy rằng có điều làm thanh được từng người, khi không phải chính việc rối mà kẻ có đạo không thể định được. Vì là anh em đầy tớ vân vân. Nhưng mà vốn sự hai bên lương giáo giúp nhau mà đưa ma chung là dịp trớ trêu cho bổn đạo mặc theo sự dối trá. Cho nên phải bỏ thói quen ấy đi. Mà có người bổn đạo chết thời nguyên kẻ có đạo cất xác. Còn khi có người ngoại đạo chết thời để mặc bên lương đưa ma mà thôi.
Thứ hai, nơi nào đã biết tống táng, song hai bên lương giáo quen mời nhau đi cất xác hay là đến ăn cỗ ngày đám ma, giỗ chạp thời Thầy cả cũng phải buộc bổn đạo bỏ thói này, vì cũng là dịp cho người ta mắc sự dối trá.
Thứ ba, nhà nào có đạo còn phải gánh đầu giỗ về bên ngoại đạo thời Thầy cả phải liệu cho nhà ấy mua giỗ hay là bỏ đứt đi không giản góp cũng không đi ăn cỗ cho được giữ phần linh hồn cho thực.
Thứ tư, kẻ có đạo không được cho con cái học Nho, học sách của Thầy ngoại đạo khi chưa được tờ xá việc đồng môn và khi chưa được phép Thầy cả cho làm vậy. Vì chưng bởi sự đi học với Thầy ngoại đạo thời thường sinh mắc rối lâu năm cũng thiệt về phần linh hồn lắm. Vậy các Thầy cả phải năng giảng giải cắt nghĩa cho con chiên chê bỏ các sự dối trá và các sự làm cản trở về phần linh hồn để địa phận ta theo lề lối thánh Y-kê-di-da đã dẫn và giữ các điều trong đạo cho toàn vẹn.
Ấy là bấy nhiêu lời xin Đức Chúa Trời ban ân cho mọi người thêm lòng tin, lòng cậy, lòng kính mến và được soi sáng làm tôi Chúa mình một ngày một hơn. Lại xin nhờ cầu cho Thầy với nữa.
Phê rô Maria Vít vồ ký.
Kẻ Sở ngày 23 tháng Đêxemba (tháng 12 ) năm 1895.
Lời dẫn
Một đôi lời dặn bảo người coi sóc kẻ liệt (trang 7)
MỤC LỤC SÁCH AN ỦI KẺ LIỆT
PHẦN THỨ NHẤT
Đoạn thứ nhất
Về những ích bởi ốm đau bệnh tật mà ra (trang 1).
(Phần này thiếu các trang 3, 4, 6, 7, 8, 9)
Đoạn thứ 2
Khi ốm đau bệnh tật người ta phải ăn ở thế nào và phải giữ những điều gì (trang 17).
Đoạn thứ 3
Lời đức giám mục Xu phong(7) an ủi kẻ liệt (trang 28).
Đoạn thứ 4
Về những lý an ủi kẻ liệt sợ chết (trang 33).
Điều thứ nhất
Kẻ giữ đạo thánh Đức chúa Trời chẳng những là chẳng nên sợ chết mà lại phải ước ao chết
Điều thứ 2
Một hai lý khác làm cho kẻ giữ đạo chẳng những là chẳng nên sợ chết mà lại phải ước ao chết (trang 41).
Đoạn thứ 5
Giúp kẻ liệt dọn mình chịu phép giải tội (trang 45).
Điều thứ nhất
Về cách kẻ liệt phải dọn mình xa (trang 47).
Điều thứ 2
Về cách kẻ liệt phải dọn mình gần (trang 49).
Bản xét mình xưng tội
Điều răn thứ nhất
Nhân đức tin (trang 52)
Nhân đức lòng cậy(trang 53)
Nhân đức kính mến (trang 54)
Nhân đức thờ phụng (trang 55)
Điều răn thứ 2 (trang 59)
Điều răn thứ 3(trang 61)
Điều răn thứ 4(trang 62)
Điều răn thứ 5(trang 65)
Điều răn thứ 6 và thứ 9(trang 67)
Điều răn thứ 7 và thứ 10(trang 70)
Điều răn thứ 8(trang 73)
Sáu lời răn Hội thánh
Điều răn thứ 1 và thứ 2 (trang 75)
Điều răn thứ 3(trang 77)
Điều răn thứ 4
Điều răn thứ 5
Điều răn thứ 6(trang 78)
Bảy mối tội đầu
Tội kiêu ngạo(trang 78)
Tội hà tiện (trang 79)
Tội dâm dục
Tội mê ăn uống(trang 80)
Tội ghen ghét và hờn giận
Tội làm biếng việc lành (trang 81)
Cách giúp kẻ liệt dục lòng ăn năn tội(trang 81)
Những lý phải đòi cho được lòng ăn năn tội(trang 85)
Về sự giúp kẻ liệt xưng tội(trang 103)
Đoạn thứ 6
Về sự giúp kẻ khó chịu lễ như của ăn đàng(trang 110)
Những Kinh dọn mình chịu lễ(trang 116)
Kinh dọn mình chịu lễ tất(trang 120)
Kinh cảm ơn khi chịu lễ đoạn(trang 122)
Cảm ơn Đức chúa…
Cảm ơn tất (trang 123)
Cảm ơn thường dụng (trang 125)
Đoạn thứ 7
Về cách giúp kẻ liệt chịu phép xức dầu thánh(trang 133)
Về những ơn ích bởi phép xức dầu thánh mà ra (trang 134)
Phép xức dầu thánh làm nhiều ích cho kẻ liệt
Về phép thầy cả làm phép xức dầu thánh cho kẻ liệt (trang 137)
Kẻ liệt phải dọn mình chịu phép xức dầu thánh là thế nào (trang 138)
Cách giúp kẻ liệt chịu phép xức dầu lúc khẩn cấp (trang 140)
Lời khuyên kẻ liệt khi vừa mới chịu phép xức dầu thánh đoạn (trang 142)
Đoạn thứ 8
Dạy cách giúp kẻ ngoại đạo rình sinh thì(8) xin trở lại đạo chịu phép rửa tội (trang 143)
Điều thứ nhất
Về cách giúp kẻ ngoại đạo phải bệnh nặng song chưa khẩn cấp lắm (trang 143)
Điều thứ 2
Dạy cách giúp kẻ ngoại đạo rình sinh thì xin trở lại chịu phép rửa tội(trang 149)
Đoạn thứ 9
Về những điều phải đọc cho được giúp kẻ liệt dục lòng tin cậy kính mến, lòng ăn năn tội vân vân(trang 152)
Dục lòng tin (trang 152)
Dục lòng cậy (trang 155)
Dục lòng kính mến (trang 159)
Dục lòng ăn năn tội(trang 162)
Thứ nhất: ăn năn tội cách lọn(trang 162)
Thứ 2: ăn năn tội cách chẳng lọn (trang 163)
Giúp kẻ liệt chịu khổ bằng lòng(trang 166)
Giúp kẻ liệt chịu chết bằng lòng(trang 169)
Về ba điều ma quỷ thường cám dỗ kẻ rình sinh thì (trang 171)
Đoạn thứ 10
Về những kinh bảo đường cùng những lời giúp kẻ liệt khi linh hồn ra khỏi xác (trang 173)
Kinh cầu cho kẻ liệt(trang 175)
Dạy cách lâm mệnh cho kẻ liệt dọn mình sinh thì (trang 190)
Lời khác giúp kẻ liệt khi linh hồn mong ra khỏi xác (trang 191)
Đoạn thứ 11
Về những kinh đọc khi linh hồn đã ra khỏi xác, khi liệm, khi táng xác người lại và khi cất xác trẻ con (trang 192)
Những kinh đọc trước khi liệmxác (trang 194)
Kinh làm phép săng(trang 194)
Kinh đọc khi liệm xác đoạn(trang 195)
Kinh đọc khi táng xác (trang 196)
Kinh đọc khi đã táng xác rồi (trang 196)
Những kinh đọc khi cất xác trẻ con(trang 198)
Kinh cầu cho linh hồn kẻ đã qua đời(trang 201)
PHẦN THỨ 2
Lễ pháp tống táng kẻ đã qua đời
Đoạn thứ nhất
Dạy cách cất xác người đã qua đời(trang 202)
Đoạn thứ 2
Giải nghĩa những lễ pháp làm khi cất xác người chết (trang 211)
Đoạn thứ 3
Về sự cầu cho kẻ chết ngày tết cả cùng ngày giỗ chạp (trang 227)
Đoạn thứ 4
Về ít nhiều điều bản đạo thường lỗi khi làm việc cho kẻ qua đời (trang 231)
Điều thứ nhất
Về những điều dối trá tỏ tường ngôi thánh đã cấm bản đạo không được làm khi làm việc cho người ốm đau kẻ qua đời vì là những điều có tội trọng (trang 231)
Điều thứ 2
Về ít nhiều điều bề trên truyền dạy bổn đạo phải tránh (trang 243)
Sách dừng lại ở trang 244, phần cuối bị mất.
Thông báo Hán Nôm học 2003, tr.162-166

Monday, 15 April 2013

Cách ăn uống của người Hoa (TRẦN PHỎNG DIỀU - Báo Cần Thơ)

Cách ăn uống của người Hoa
Thứ bảy, 15/09/2012 17 giờ 29 GMT+7

Mâm cúng của người Hoa.
Đối với người Hoa ăn uống không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất mà còn mang cả giá trị tinh thần.
Trước hết, bà con người Hoa rất chú trọng đến việc bày biện các món ăn. Tất cả các món ăn đều được bưng lên cùng lúc nhưng phải sắp xếp sao cho gọn gàng, ngăn nắp, trang trí đẹp. Bà con cho rằng, chỉ có như vậy mới làm tăng thêm cái ngon của thức ăn. Trong các bữa ăn của người Hoa, kể cả ngày thường hay ngày lễ, thức ăn đều được sắp xếp, trang trí đẹp mắt, màu sắc hòa hợp trông rất bắt mắt.
Một quan niệm nữa là cùng nhau ăn mới vui. Uống trà có thể ngồi uống một mình, nhưng khi ăn phải cùng nhau ăn. Điều này giải thích tại sao khi những dịp con cháu tụ về đông đủ, người Hoa thường làm những món ngon, lạ để cả nhà cùng ăn. Họ thường dẫn cả nhà đi ăn tiệm.
“Đối với người Hoa, ăn để phòng bệnh, chữa bệnh là một việc, mà nghệ thuật ăn như thế nào cũng là điều được xem trọng. Họ quan niệm uống trà có thể độc ẩm - uống một mình - nhưng uống rượu phải cùng uống với bạn hữu. Trong bữa ăn, dù nghèo, thức ăn cũng phải được bày biện gọn mắt và đẹp mắt thì càng tốt, phải dọn món ăn sao cho thấy thèm ăn, và khi ăn, người Hoa có nhu cầu được ăn cùng với nhau. Họ thích bữa ăn với toàn gia đình cùng quây quần bên nhau hoặc ăn cùng với đông đảo thân hữu, vừa ăn vừa trò chuyện, cười đùa thoải mái. Người ta tin rằng ăn uống trong tâm trạng vui vẻ, thanh thản, trong bầu không khí thân mật, cởi mở, chân tình, hoan hỉ sẽ rất tốt cho cơ thể, vì thức ăn sẽ dễ tiêu hóa không hại cho tỳ vị, và thần kinh của con người sẽ được sảng khoái, dễ chịu.”(1)
Trong quá trình ăn uống phải giữ lễ, phải mực thước. Mâm cơm được dọn lên, trẻ con nhất định phải đến mời những người lớn tuổi như ông bà, cha mẹ, anh chị lên ăn rồi mới được ngồi vào bàn. Trong bàn ăn, người nhỏ tuổi phải ngồi kế nồi cơm để bới cơm cho các thành viên trong gia đình. Sau đó, so đũa đưa cho mọi người, cho đến khi những người lớn gắp miếng thức ăn đầu tiên thì trẻ con mới được chạm đũa vào thức ăn. Trẻ con người Hoa đã được dạy từ nhỏ, và dạy ngay trong mỗi bữa cơm. Không chỉ bữa cơm gia đình, ăn trong đám tiệc trẻ con người Hoa cũng đều được dạy bảo rất cẩn thận. Ví dụ như, trong nhà đông người, hoặc khi có khách cùng ăn cơm, khi bới cơm cho khách phải bới cho đầy để khách ăn được no, tránh bới ít, bới thành nhiều lần khách sẽ ngại. Phải quan sát dĩa thức ăn, miếng nào thích thì thò đũa gắp ngay miếng đó, chứ nhất định không được thọc đũa vào lựa, xới thức ăn lên để tìm miếng mình thích, không được chồm tới gắp thức ăn. Khi gắp thức ăn từ bất kỳ dĩa nào cũng phải gắp ở phía gần với mình. Thức ăn cũng phải được gắp từ trên xuống. Người ta cũng không bao giờ chọn cho mình miếng ngon nhất trong dĩa, mà thường gắp chúng cho những người già nhất trong gia đình hay là gắp cho khách. Khi ăn, không được dùng đũa gõ vào chén nghe cóc cóc, như thế là mất lịch sự. Dùng đũa gõ lên mặt bàn như dùi trống sẽ bị coi là thiếu lễ độ. Không bao giờ được dùng đũa chỉ vào người khác hoặc để làm các cử chỉ khi nói chuyện, sẽ coi là thiếu lễ độ. Muốn uống canh thì phải ăn hết cơm trong chén, rồi sau đó dùng muỗng múc canh từ tô cho vào chén húp, chứ không dùng muỗng của mình mút canh trong tô húp trực tiếp mất vệ sinh.
Người Hoa còn gởi gắm những khát vọng của mình về một tương lai tốt đẹp trong quá trình ăn uống. Biểu hiện rõ nét nhất của vấn đề này là họ thường ăn và uống các thứ mà tên gọi của nó có sự đồng âm đến những vấn đề tốt đẹp trong cuộc sống. Điều này thể hiện rõ nhất trong các món ăn ngày lễ, tết.
Tết Nguyên đán là dịp trọng đại trong đời sống của người Hoa ở Đồng bằng sông Cửu Long để nói lên lòng mong muốn có một năm mới vui tươi, làm ăn phát đạt, khỏe mạnh, gặp mọi sự tốt lành, suôn sẻ. Người Hoa đã gởi gắm khát vọng ấy qua một số món ăn ngày tết. Trong dịp tết, người Hoa thường mua cá lóc sống về rọng dành cho mùng hai tết làm ăn. Cá lóc sống đọc là “sán dùy” chữ “dùy” đồng âm với chữ “dùy” là dư. Từ đó nói thành “nìn nìn dậu dùy” nghĩa là “niên niên hữu dư” (năm nào cũng có dư). Cá lóc là loại cá sống dai, khỏe mạnh cho nên đây còn là dịp mơ ước về sự cường tráng, suốt năm mạnh khỏe, trường thọ.
Người Hoa không bao giờ ăn khổ qua hay bí đao vào ngày tết vì họ sợ năm mới lận đận, ốm đau, chuyện xui xẻo đến.
Trong những dịp năm mới, những khi đoàn tụ gia đình, người Hoa thường hay nấu chè ỉ. Đây là món chè được nấu bằng bột nếp, vò viên tròn xoe, nhỏ cỡ đầu ngón tay cái, bên trong có để một hạt sen. Chè ỉ tiếng Hoa đọc là “thón duyển” đồng âm với “duyền muộn” - biểu thị sự viên mãn, sự đoàn tụ, tốt lành. Trong ngày cưới, cô dâu người Hoa Quảng Đông thường được cho ăn một bát nhỏ với dụng ý để cô gặp được mọi sự đều tròn trịa, tốt đẹp, hạnh phúc lứa đôi được ngọt ngào. Người ta còn có tục mua một cặp gà trống mái thật già và một cặp dừa khô thể hiện ý nghĩa vợ chồng sẽ ăn ở với nhau đến răng long đầu bạc. Đêm trước ngày cưới, người ta cho cô dâu và chú rể ăn một chén mì để thật nhiều đường với mong muốn đôi vợ chồng trẻ ăn ở với nhau sẽ ngọt ngào như đường. Mặc dù rất khó ăn nhưng tân lang và tân giai nhân phải cố ăn cho hết. Người ta còn cho cô dâu uống trà hột sen. Trà hột sen tiếng Hoa kêu là Lìn chỉ sà. Lìn tương tự với chữ nìn là năm. Chỉ đồng âm với chữ chỉ là con, với mong ước sẽ được con đàng cháu đống.
Người Hoa nổi tiếng là nấu ăn ngon, họ còn rất chú ý đến ăn uống sao cho đẹp mắt và gởi gắm những ước vọng ăn lành của mình vào chuyện ẩm thực.
TRẦN PHỎNG DIỀU

Yếu tố sex trong ca dao Việt Nam (Nguyễn Ngọc Thanh - Người Hiếu Cổ)


Yếu tố sex trong ca dao Việt Nam



Tình Dục là một khía cạnh văn hóa, một sắc thái rất đặc trưng, một vấn đề rất đời thường và luôn luôn hiện diện trong cuộc sống của con người. Nghiên cứu sâu về Tình Dục thì không thể bỏ qua khía cạnh văn hóa này, vì ở đó nó thể hiện được quan niệm của mỗi dân tộc, mổi sắc dân thậm chí là từng vùng nhỏ địa lý, tình dục dược nói đến trong các tác phẫn văn học nổi tiếng như Truyện Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc, Bích Câu Kỳ Ngộ, Phan Trần, Hoa Tiên... và cũng là một đề tài vô cùng phong phú trong ca dao. Ca dao VN là một loại văn chương bình dân có một sức mô tả rất sinh động tất cả nếp sống, sinh hoạt, phong tục tập quán xã hội của đại đa số dân chúng, nó được thể hiện qua lối nói rất giản dị, thẳng thắng, trung thực không màu mè, chải chuốt,là một kho tàng bất tận để khai thác trong nhiều lãnh vực khác. Khảo sát về mặt tình dục trong ca dao VN mới thấy được những nhận xét thật uyên bác rất tinh tế của người nông dân, mới thấy được sự mô tả tâm tư, tình cảm, sự rung động về tình yêu, sự khao khát và nỗi đam mê về thân xác là rất thật, rất đời thường. Bộ mặt tình dục trong loại văn chương bình dân thể hiện theo đúng nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của mỗi chữ, mỗi câu nói điều đó có thể làm cho một số nhà" đạo đức " lên án là dâm ô, tục tĩu, những chuyện không nên nói nơi chỗ đông ngườị Sự thật là: dù có chỉ trích thế nào đi nữa thì nó vẫn đã tồn tại và sẽ tồn tại vì nó là ý thức châm biếm, óc hài hước của dân tộc, của một lớp người bình dân trong suốt lịch sử tồn tạị




Hình vẽ sự hình thành âm dương
Âm dương thành hình đồ
Hôm qua lên núi hái chè
Gặp thằng phải gió nó đè em ra
Em lạy mà nó chẳng tha
Nó đè nó nhét cái mả cha nó vào!

Lại có câu:


Văn chương chữ nghỉa bề bề

Thần L.. ám ảnh mà mê mẩn đời

Hóa ra Thần L.. chi phối cả cuộc sống, bởi vậy không lạ khi người Champa đem hai "cái ấy" Yoni và Linga đễ thờ phụng. Ngày xưa người Việt cũng như người Tàu đều có khuynh hướng sùng bái tính dục bao gồm sự sùng bái cơ quan sinh dục, sùng bái chuyện sinh nở, sùng bái vấn đề tính giaọ Cho nên trong ca dao người ta nói nhiều đến chuyện nàỵ Ông Đổng, bà Banh có thể xem là biểu tượng về tình dục trong ca dao


Có chồng từ thuở mười lăm.

Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôị
Đến chừng mười chín đôi mươị
Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!

Hết đồng anh lại pha chì

Anh hàn chín tháng cô mình thụ thai
Sinh ra được thằng bé con trai
Về sau, giống bố gặp ai nó cũng hàn.

Tròng trành như nón không quai

Như thuyền không lái như ai không chồng

Thôi thôi, tôi van câu rằng đừng

Tôi lạy cậu rằng đừng
Tuổi tôi còn bé chưa từng nguyệt hoa
Tôi về gọi chị tôi ra
Chi tôi đã lớn nguyệt hoa đã từng

Em đừng khinh quân tử nhỏ nhoi

Con lươn bao lớn nó xoi lủng bờ.

Em ơi đừng thấy nhỏ mà rầu

Con ong bây lớn đốt cái bầu cù queo!

Em ơi đừng thấy nhỏ mà khinh

Con thằn lằn bây lớn ôm cây cột đình tổ cha! Chú ý: Tổ cha: tiếng địa phương có nghĩa là rất lớn

Em đừng chê anh nhỏ mà lầm

Hòn đá đập nằm dưới,
hòn đá cầm nằm trên
Chẳng thà nó nhỏ mà dài
Còn hơn chụp bụp nữa ngoài nữa trong
(Chụp bụp nghĩa là to mà ngắn)

Chẳng thà nó nhỏ mà cong

Còn hơn tổ bố nửa trong nửa ngoài

Cồng cộc bắt cá bầu eo

Chi chê tôi bé, tôi trèo chị coi

Câu đố:

C.. ba chia đút vô l.. ngoáy
Chãy máu ra lè lưởi liếm liền

Câu đố:

Ngất nga ngất ngưỡng tựa cần câu
Tay chân không có miệng trên đầu

Câu đố:

Đi nhai, đứng ngậm ngồi cười.

L.. này L.. chẳng sợ ai

Sợ thằng say rượu đ... dai đau L...

C .. to lo chi đói

Cơm nhà L..vợ
Sờ L..béo, đéo l... gầy
Vú nẫy L.. sưng
Ví phấn với vôi
Ví L.. con đĩ với môi thợ kèn

Bà ba đi chợ đường quai

Vừa đi vừa tỉa lá khoai bưng L..

Bà ba đi chợ đường cồn

Vừa đi vừa tỉa lông L.. bán trăm

Trên trời có ông sao Rua 

L.. em tua tủa có thua chi nào.

Lông tơ lún phún mép L..

Lăn tăng con cá diếc lòn vào lòn ra
Cây trời có cái chỉa ba
Thương em thì hãy đem tra nó vào
Trèo lên cây khế giữa ngày
Váy thì trụt mất, lưỡi cày thò ra
Lưỡi cày ba góc chẻ ba
Muốn đem đòn gánh mà tra lưỡi cày

Trời mưa trời gió đùng đùng

Cả bầy C.. lọ mang tơi đi tìm

Cơm ăn mỗi bửa mỗi niêu

Tội gì bắt ốc cho rêu bám L..

Ví ví von von

Anh cho một cái, cỏng con về nhà

Thấy L.. lạ như quạ quạ thấy gà con

Trong nhà đã có đồ chơi
Song le còn muốn của người thêm xinh

Kim mà đâm thịt thì đau

Thịt mà đâm thịt nhớ nhau suốt đời

C.. vạy thì ngoáy L.. già

Ngoáy lui ngoáy tới chết cha L.. già

C.. vạy thì ngoáy l.. già

Ngoáy lui ngoáy tới nó ra nước nhờn

Gió nam non thổi lòn hang chuột

Đ.. em rồi, đ.. nữa được không em

Nhiều phân tốt lúa

Nhiều lụa tốt L..

L... đẹp vì lụa Lúa tốt vì phân.


Vú em như quả mướp hương

Tay anh phật thủ đôi đường gặp nhau

Hơn nhau tấm áo manh quần

Cởi ra bóc trần ai cũng như ai

Lở khi ăn miếng trầu xanh

Đêm lo ngày sợ mặt xanh như chàm

L.. vàng, bẹn ngọc, đóc san hô

Chóc ngóc như đóc mồ côi

Con gái mười bảy mười ba

Đêm nằm với mẹ, khóc la đòi chồng
mẹ giận mẹ phát ngang hông:
"Đồ con chết chủ đòi chồng thâu đêm"! Chú ý: Đồ chết chủ, địa phương ngữ, có nghĩa là mất
dạy. Phát: đánh vào người bằng bàn tay xòe (phách)

Đêm bảy ngày ba vô ra không kể

Bán dạ tam bôi tửu
Bình minh sổ trản trà
Nhất nguyệt dâm nhất độ
Lương y bất đáo gia.
(Đêm tối uống vài ba chén rượu
Sáng ra lót dạ mấy chung trà
Một lần một tháng e vừa đủ
Chắc chắn lương y khỏi tới nhà)

Bảy lượt mổi ngày đòi má nó

Đương nhiên y sĩ phải xông nhà ???

Cha chết không lo, lo trâu méo L...


Áo xông hơi của chàng vắt mắc

Đêm em nằm em đắp lấy hơi
Trời mưa gió rét kìn kìn
Đắp đôi dãi yếm hơn nghìn chăn bông

Chuột kêu chút chít trong rương

Anh đi cho khéo đụng giường mẹ la
Chú ý: Ngày xưa cái giường của người đàn bà nhà quê là loại giường chỏng đóng bằng tre già, lâu ngày thành xiu lỏng, đụng vào đó kêu cót két, giống như tiếng chuột kêu chút chít. Có lẽ bà mẹ của cô gái kia đã một lần chợt thức giấc vì nghe tiếng chuột kêu, hoặc nghe tiếng giường kêu

Mẹ ơi con muốn lấy chồng

Con ơi mẹ cũng một lòng như con

Cô Ba, cô Bốn lấy chồng

Cô Năm ở lại giật mồng tăng tăng

Xót lòng mẹ góa con côi

Kiếm ăn lần hồi L.. lớn bằng mo

Áo dài chẳng nệ quần thưa

Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm

Em ham giàu em lấy thằng bé tí ti

Làng trên xã dưới thiếu gì trai tơ

Ngó lên gò mả, Ngó xuống gò găng

Gặp chị bẻ măng, Trật quần bắt kiến
Thấy tôi hay liếng, Chị bảo bắt giùm
Tôi bắt một đổi, Thấy cái đùm đen thui!

Gió nam non thổi lòn hang cóc

Phận em nghèo nên mồng đóc khô rang

Gió nam tốc dải yếm đào

Sao anh trông thấy oán anh không vào thắp hương

Anh về sương gió lạnh lùng

Ở đây chung gối chung mùng với em

Anh về để áo lại đây

Đêm khuya em đắp, kẻo gió tây lạnh lùng

Đêm đông trời lạnh như đồng

Mượn chi thì cho mượn, mượn chồng thì không
Làm thân con gái phải lo
Mùa đông rét mướt ai cho mượn chồng

Thương em đút C. qua rào

Không thương rút lại gai quào rách dạ
Thương em đút C. qua rào
Tai nghe chó sủa, rút lại nên bị gai cào xướt dạ

Trăng lên đỉnh núi mu rùa

Cho anh đ. chịu đến mùa anh trả khoai

Vú em như cái chủm cau

Cho anh bóp cái có đau anh đền

Vú em đang giá một tiền

Cho anh bóp cái anh đền năm quan

Nứng L ... mà cạ cây vông

Cạ lên cạ xuống gai châm đầy l...

Vân Tiên ngồi dựa gốc môn

Chờ cho trăng lặn sờ L. Nguyệt Nga
Nguyện Nga biết ý không la
Vân Tiên thấy vậy sờ ba bốn lần

Mười ba mười bốn lum săng

Mười lăm mưới sáu lông quăm mép L.
Mười bảy mười tám thẹn thùng
Hai mươi mười chín như khùng như điên

Ra đường con mắt ngó nghiêng

Về nhà chui chốn buồng riêng vê mồng

Dậm chân xuống đất cái đùng

Vỗ L ...cái phạch chào anh hùng đến đây!

Dậm chân xuống đất kêu bon

Vọc C. cho cứng chào con nứng L.
Bà Đội cho chí bà Cai
Bà nào hay đố chữ cũng váy ngoài L.. trong

Nứng l... đỏ mặt Nứng C... đỏ lổ tai


Sướng lỗ khu su con mắt (lỗ khu tiếng Huế là hậu môn)

Cực chi da diếc diếc da

Áo em hai vạc trải ra anh nằm

Nứng C. máu Cái L. què


Trăng lên khuất bóng cây dừa

Làm thân con gái phải chừa đi đêm!

Thương em không dám vô nhà

Đi qua đi lại hỏi: "gà bán không?"

Em là con gái đêm hôm

Anh đừng lui tới mà nam nồm tội em!

Chú ý: Nam, nồm: gió nam, gió nồm, đây ý nói tiếng đồn xấu, tiếng chì tiếng bấc.


Thương nhau nào ngại sang giàu

Tối lửa tắt đèn nhà ngói như nhà tranh

Chị kia lớn mổng cao mu

Lại đây cho tôi gởi con cu trọc đầu
Cu tôi vừa mới đâm lông
Cho mượn cái lồng nhốt đỡ vài đêm

Cu tui ăn đậu ăn mè

Ăn chi của chị mà chị đè cu tui
Tui chưa trách chị mà chị lại trách tui
Con chị đi lên đi xuống nên con tui mang bầu

Con chị mang chín tháng không rầu

Con tui mang hai hòn dái nặng đầu quanh năm

Ôi O bán cồm hai lu

Đi mô tui gởi con cu về cùng
Cu tui tui ấp tui bồng
Chớ bỏ vào lồng mà ốm cu tui
(Tiếng Huế goi O là cô )

Thấy đua, thì cũng đua đòi

Thấy tỉa lông nách cũng xoi lông L..

Tham giàu lấy phải thằng Ngô

Đêm nằm như thể cành khô đâm vào

Tiếc thay con gái mười ba

Liều thân mà lấy ông già tám mươi
Tiếc thay con ngựa bạch mà thắt cái dây cương thừng
Tiếc thay con người ấy thế ma đi ôm lưng cái lão già

Tiếc thay cây mía ngọt lại sâu

Tiếc con gái tốt mà cái bím bầu không lông

Hởi cô mặc yếm hoa tầm

Chồng cô đi lính cô nằm với ai
Cô nằm cô đẻ thằng bé con trai
Chồng cô về hỏi: Con ai thế này ?
Con tôi đi kiếm về đây
Có cho nó gọi bằng thầy thì cho

Hởi cô cô yếm thắm bùa đeo

Chồng cô cô bỏ cô theo chồng người

Hỡi nàng má đỏ hồng hồng

Cổ cao, miệng rộng, lông L. vắt vai

Hát cho chó cắn, bò lồng

Hát cho con gái bỏ chồng mà theo

Rung rinh nước chãy trên đèo

Bà già lật đật mua heo cưới chồng

Ở đây có đứa lấy trai

Cho nên trời hạn nắng hoài không mưa

Ông già ông đội nón cời

Ông ve con nít ông trời đánh ông
Ông ơi tôi chẳng lấy đâu
Ông đừng cạo mặt nhỗ râu tốn tiền

Tiện đây mận hỏi thăm đào

Vườn hồng đã có kẻ vào hay chưả
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào

Khứ nhật ngã đề xuân nhất tự

Hà nhân lai đáo phá thành thung
Lang quân bất thức lang quân hận
Tọa tất xuân đề ngọa tất thung

Ngày ấy ta đề "xuân" một chữ

Cớ sao ai lại phá thành "thung"
Bởi chàng không rõ nên chàng giận
Ngồi ắt là "xuân", nằm ắt "thung"

Ngó vô đám bắp khô bao

Muốn vô mà bẻ người ta rào tứ tung
Một mai trống thủng còn vành
Lấy da trâu bịt lại cũng lành như xưa

Đau bụng, lấy bụng mà chườm

Nhược bằng không khỏi, hắc hương với gừng

Em ơi! Trống lũng khó hàn

Dây dùng khó đứt,
người khôn khó tìm

Nước chãy hòn đá lăn cù

Con chị đã vậy thì bèn con em!

Rộng đồng thì gió thổi luôn

Khi vui cô chị khi buồn cô em

Mít ngon anh đánh cả xơ

Chị đẹp em đẹp anh sờ cả đôi

Gió đưa bụi chuối sau hè

Đã ve con chị lại tò vè con em!

Trông chồng mà chẳng thấy chồng

Để em vắng lạnh phòng không một mình

Buồn tình cha chả buồn tình

Biết ai lẻ bạn cho mình kết đôi

Quét nhà long mốt long hai

Cha mẹ đi vắng dẫn trai vô nhà
Chú ý: long mốt long hai: làm dối, quét một chổi sót một chổị Đây ý nói làm thì vụng về, chỉ giỏi đường trai gáị

Chàng vông mà đậm lúa lép

Rựa lụt mà cắt dép da
Trai tơ mà lấy vợ già
Nhai cơm mà sú thưa:"bà nuốt đi"!
Chú ý: chàng vông: chàng bằng gỗ vông, nhe..

Mèo hoang thì chó cũng hoang

Một chàng ăn trộm gặp nàng nhổ môn
Chú ý: nên hiểu theo nghĩa bóng (gian phu dâm phụ)

Cầm chài mà vải bụi tre

Con gái mười bảy đi ve ông già!

Một vợ mà xử không xong

Còn đòi hai vợ cho cong ... cái xương suờn
Từ nay sống cũng bằng không
Thôi rồi cái kiếp làm chồng làm cha

Cho dù có sống đến già

Cho dù béo tốt cũng là phí toi
Bây giờ pháo đả tịt ngòi
Gia tài còn lại ... một vòi nước trong

Củ lang nấu lộn củ mì

Cháu lấy chồng dì kêu dượng bằng anh

Xứ tôi có núi "Xách Quần"

Lấy ai thì lấy xin đừng lanh chanh
Yêu anh thì giữ lấy anh
Xin đừng ăn tỏi chê hành là hôi

Xách quần chạy ngược chạy xuôi

Chạy mỏi cẳng rồi đứng lại bơ vơ ...

Con gái chơi với con trai

Coi chừng cặp vú như hai sọ dừa

Có chồng thì mặc có chồng

Tôi đi ngủ dạo kiếm ít đồng mua rau!

Một hai họ nói rằng không

Dấu chân ai đứng bờ sông hai người

Mẹ ơi mẹ bạc như gà

Con chưa lẻ mẹ, mẹ đà lẻ con

Ai về nhắn với ông câu

Cá ăn không giật để lâu mất mồi

Cam đường bóc vỏ còn the

Thấy em còn nhỏ anh ve để giành
Chú ý: cam đường: loại cam dại trái nhỏ, thường mọc dưới chân núi, mùi thơm như mùi cam, lá giống lá chanh, cây có gai như gai quít, trái chín ăn rất ngọt, trái xanh thì đắng và hơi chua

Thằn lằn tặc lưỡi mái tranh

Đôi ta còn nhỏ để giành mai sau
Bông thơm nở cạnh bìa rừng
Ong ve chưa dám đậu, lũ bướm đừng lau chau!

Cô tú kẽo kẹt cậu cai

Vợ chồng thuyền chài kẽo kẹt dưới sông

Con chim điểu nó biểu con chim huỳnh

Biểu tổ chức, biểu nhỏ, biểu mình ưng ta
Chim chuyền bụi ớt líu lo
Líu lo bụi ớt đừng cho con chim chuyền

Liệu bề dát được thì đau

Đừng gầy rồi bỏ thế gian họ đào

Trời sinh cái cửa ra vào Sao em lại khoe sắc tài

Độc bình để trống nhành mai anh cắm vào!
Chú ý: đào (đào bới): chưởi rủa

Em ơi anh bịnh nhức dầu

Hay đi đái rát lại đau ngọc hành
Thuốc gì đỏ đỏ xanh xanh
Thì em đi lấy cho anh một liều

Sáng trăng tôi được chồng ai

Tôi cột gốc xoài ai chuộc cho tôi
Ba quan tiền điếu bó mo
Con heo đóng cũi tôi cho chuộc chồng
Chú ý: Đại ý: một gã chuyên "hai hoa" bị gái ngoan bắt được trói lại rồi đánh tiếng. Quan tiền điếu bó mo: tiền đúc bằng đồng điếu, tức loại đồng tiền thau. 1 quan = 10 tiền; 1 tiền = 60 đồng. Đem những đồng tiền bó vào mo cau cho dễ mang.

Những mạng thích chí ngao du

Dạo chơi cho biết xuân thu thế nào
Nhất lê, nhì lựu, ba đào
Nhìn xem thấy cảnh muốn vào bẻ bông. 

Thương cha nhớ mẹ có hồi

Thương anh lúc đứng lúc ngồi không an
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dãi yếm cho chàng sang chơi
Ước gì dãi yếm em dài
Để em buột lấy những hai anh chàng

Ai ơi chơi lấy kẻo già

Măng mọc có lứa người ta có thì
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già xồng xộc nó thì theo sau

Chẳng ăn chẳng mặc chẳng chơi

Bo bo giử lấy của trời làm chi

Bà già đã tám mươi tư

Ngồi bên cửa sổ viết thư tìm chồng

Trai tơ lấy gái nạ dòng

Cầm bằng uống máu làng trong làng ngoài

Cô kia má đỏ hồng hồng

Cô chửa có chồng, còn đợi chờ ai

Buồng không lần lữa hôm mai

Đầu xanh mấy lúc da mồi tóc sương

Cô kia cắt cỏ bên sông

Cái váy thì cộc, cái lông thì dài
Thuyền chài nó trả quan hai
Thưa rằng chẳng bán để dài quét sân

Cổ tay em trắng lại vừa tròn

Để cho ai gối đến mòn một bên

Nghiêng tai hỏi nhỏ ông Phật rằng:

Trai thanh lấy gái có chồng được không?

Chơi cho thủng trống long bồng

Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiêm
Chơi cho thủng trống long chiêng
Rồi ra ta sẽ lập nghiêm lấy chồng

Tính quen chừa chẳng được đâu

Vạ làng, làng bắt mấy trâu mặc làng

Không chồng mà chửa mới ngoan

Có chồng mà chửa thế gian thường tình

Em mất chồng em chẳng có lo

Anh đây mất vợ nằm co một mình

Em đây là gái năm con

Chồng em rộng lượng em còn chơi xuân

Có chồng càng dể chơi ngang

Đẻ ra con thiếp con chàng con ai

Hai tay cầm lấy quả hồng

Quả chát phần chồng, quả chín phần trai

Vú sửa mà bửa làm đôi

Nữa cho con bú, nữa cho trai đem về

Đêm nằm vuốt bụng thở dài

Thương chồng thì ít thương trai thì nhiều

Mày ăn cơm hay ăn khoai

Một bài thơ ấy ngâm hai ba lần

Chử tình đáng giá ngàn vàng

Từ anh chồng củ đến chàng là năm
Còn như yêu trộm nhớ thầm
Họp chợ trên bụng đến trăm con người

Đánh tôi thì tôi chịu đau

Tánh tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu

Lẳng lơ chết cũng ra ma

Chính chuyên chết cũng chôn ra ngoài đồng
Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để dành

Cau khô mà bỏ hộp đồng

Mặt mi không xứng làm chồng tau mô

Chưa quen đi lại cho quen

Tuy rằng cửa đóng mà then không gài

Em đang bắc nước sôi sôi

Nghe anh có vợ, quăng nồi đá vung

Gặp nhau từ bến Đại Đồng

Quên nhau hay đã có chồng mà quên

Đêm đêm ngồi dưới bóng trăng

Thương cha nhớ mẹ không bằng thương anh
Đêm nằm lưng chẳng bén giường
Mong cho mau sáng ra đường gặp anh

Thương anh chẳng dám nói ra

Chiều chiều đi dạo vườn hoa khóc ràn
Đêm nằm khô héo lá gan
Mong cho mau sáng ra đàng gặp anh

Ngó lên trăng chúc sao nghiêng

Vui chung với bạn sầu riêng một mình

Ngồi buồn nghĩ càng thấm

Hột cơm tấm cắn làm hai
Rau lang đỡ bữa liễu với mai đừng lìa
Em với anh như khóa với chìa
Đừng để cho ống liệt, khóa với chìa lìa nhau
Chú ý: bụng ống khóa bị hư

Bóng trăng ngã lộn bóng tre

Xin chàng đứng lại mà nghe thiếp thề

Vườn đào, vườn lựu vườn lê

Bởi người lấy nhụy buớm xê ra ngoài

Nghĩ mình lại giận lấy mình

Ao chưa đậu sống rập rình tra khuy
Chú ý: Đậu sống: Ao chưa may đường sống lưng

Đèn hết dầu đèn tắt

Nhang hết vị hết thơm
Anh đừng lên xuống đêm hôm
Để thế gian đàm tiếu tiếng bấc tiếng nồm tội em

Tay cầm cọng lạc bẻ cò

Lòng thương da diết, giả đò làm lơ
Thương sao thương dại thương khờ
Trong nhà không dám khóc, ra bụi bờ khóc than

Hai tay vin lầy đòn rồng

Tội trời con chịu theo chồng con cứ theo
Ra đi cha mắng mẹ rầy
Không đi thì sợ ngoài này anh trông

Con cu bay bổng qua sông

Hỏi thăm cô đó có chồng hay chưả
Có chồng năm ngoái ngày xưa
Năm nay chồng để như chưa có chồng

Đói lòng ăn trái khổ qua

Nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười
Bạn cười thì mặc bạn cười
Tháng năm đi cưới tháng muời có con

Có con nên phải thua người

Mắc cho con bú, mắc cười với con.

Đang khi lửa tắt cơm sôi

Lợn kêu con khóc chồng đòi tòm tem
Bây giờ lửa đã cháy lên
Lợn no con nín, tòm tem thì tòm * Tục ngữ phong dao (trích "Tục Ngữ Phong Dao" của Nguyễn văn Ngọc) Ca dao

Ba bà đi chợ đường quai,

Vừa đi, vừa tỉa lá khoai bưng L.
Ba bà đi chợ đường cồn
Vừa đi vừa tỉa lông L. bán trăm.

Nước nóng đổ lọ bình vôi

Tôi ngồi tôi nghĩ bố tôi, tôi buồn
Bố tôi dở dại dở khôn,
Say mê cái L. bỏ mẹ con tôị

Câu đố:

Ba bà mà giang chân ra
Một ông đứng giữa mà tra C. vàọ
(ba ông đầu rau và nồi cơm)

Ba ông ngồi ghế

Một ông cậy thế,
Một ông cậy thần
Một ông tần ngần đút C. vào bếp.
(Bể thổi lửa)

Bì bà, bí bạch chân cò

Bí ba bí bách, nằm co giữa giường
Đoạn rồi sờ vú sờ sườn
Sờ sao cho nó đỡ buồn mà thôị
(Bánh dầy)

Bốn chân chong chóng, hai bụng kề nhau

Cắn giữa phau câu, nghiến đi nghiến lại.
(cối xay)

Bốn chân mà lại có đuôi

Đầu như đầu c., lưng lại gù lưng.
(con chuột)

Cái gì vừa quả vừa hoa,

Con nít cũng thích ông già cũng mê
Ra đường dù thấy tràn trề
Ngắm nhìn thì được, mân mê thì đừng
(hai "quả đào tiên").

Cái hoa tim tím, cái nhị điều đều,

Đàn ông đâm nhiều, đàn bà đâm ít.
(cái máy khâu)

Canh một thì trải chiếu ra,

Canh hai bóp vú, canh ba sờ l.
Canh tư thì lắc om sòm
Canh năm cuộn chiếu ẳm con ra về.
(Người kéo vó)

Chấm chấm mút mút đút vào lỗ trôn,

Hai cái lông l. cái dài cái ngắn.
(xỏ kim)

Chưa chết đã đem đi chôn

Chưa ra đầu ngõ, vạch lồn xem ghe.
(Người cầm bó rơm xin lửa)

Chưa hỏi đã cưới liền tay

Bức chí ta nên phải lấy mày
Đêm nằm tơ tưởng sờ cùng mó
Mó đến mày, lại sướng đến ta.
(cái quạt)

Gầy gò có bốn cái xương

Cái giải thòng thơng vướng anh c. dàị
(Quả nhãn)

Già thì đặc bí bì bì

Con gái đương thì rỗng toách toành toanh.
(cau lúc già và lúc là cau hoa)

Lồm xồm hai mép những lông

Ở giữa có lỗ đàn ông chui vào
Chui vào rồi lại chui ra
Năm thì mười họa đàn bà mới chui.
(Cái áo tơi)

Già ăn với cà kheo

Lại thêm c. lõ, lại đèo nắm lông.
(Miếng giầu thuốc)

L. già da dính tận xương

Váy xanh mỏng mảnh lại thương c. dài.
(Cối giã gạo)

Lù lù như mu l. chị

Lị xị như đầu c. tôi
Ngày n_ đi khắp mọi nơi
Đến đêm lại chui vao mu l. chi..
(Con rùa)

Lưng tròn đít lại bảnh bao

Mân mân mó mó đút n_ vào
Thủy hỏa âm dương sôi sình sịch
Âm dương nhị khí sướng làm saọ
(điếu thuốc lào)

Mình bằng quả chuối tiêu

L. bằng vỏ trấu, lổ bằng niêụ
(Con chuột)

Mình tròn, da lại trắng tinh

Hể nóng đến mình thì ưỡn vú ra
Ăn phải thịt gà lại tịt vú đị
(bánh đa sát-kê)

Mình tròn trùng trục, đầu toét toè loe

Đút vào con gái, cô con gái nghe,
Đút vào bà lão, bà lão lắc.
(đôi hoa tai)

Người thì cao lớn trượng phu

Đóng mười lần khố, trật cu ra ngoàị
(cây chuối có hoa)

Rành rành ba góc, giữa con cóc ngồi

Hai bên thiên lôi, hai bên địa võng.
(hai cái vú)

Rau âm phủ nấu với mủ l. tiên

Ngựa cửa quyền nấu với ả l. tranh.
(Măng nấu với rươi, cua nấu với khế)

Thoạt vào thì vén váy lên

Cái dưới mấp máy, cái trên gật gù
(dệt cửi)

Trên lông dưới lông,

tối lồng làm một
(con mắt)

Vừa bằng cổ tay đâm n_ vô l.

Gặp ông quan ôn, bỏ l. mà chạỵ
(Con chuột và con mèo)

Tục ngữ phong dao


Anh em bất nghĩa chi tồn

Anh đánh miếng l. em đánh miếng gh.
Anh em bất nghĩa chi khoèo
Anh thì đ. mèo, em lại cầm đuôị

Bủng người tươi đ.

Ba chiếc sóng cồn, mấy cái lông l. rụng sa.ch.

Bà cốt đánh trống long tong

Nhảy lên nhãy xuống con ong đốt l.

Bà đội cho chí bà cai

Bà nào hay đố chữ cũng l. ngoài, váy trong.

C. ai vừa mũi người ấy.


Của l., l. đòi, của c., c. quên.


Có l. thì giữ,

C. ông hay chữ đi đêm.

Con mày con nuôi chẳng bằng con c. làm ra


Chơi no bỏ gio vào đ.

Chồng chết còn chửa hết tang
L. đà ngấm ngáp như mang cá mè.

Đánh đĩ gặp năm toi c.

Đĩ có tông, ai giồng nên đĩ
Đủn đỡn như đĩ được cái đanh.
Đẻ con khôn mát l. rời rợi
Đẻ con dại thảm hại cái l.

Đi sau ăn rau bà đẻ,

Ăn giẻ chùi trôn, ăn l. chấm muốị

Đĩ xơ, đĩ xác, đĩ xạc, đĩ xờ

Đĩ ở trên bờ, đĩ lặn xuống aọ

Gà Tò, lợn Tó, vó Vạn Đồn,

l. Cổ Am, c. Hành Thiện.

Gái đâu có gái lạ đời,

Chỉ còn thiếu một ông trời không chim.

Giữ được đằng trôn, đằng l. quạ mổ.

Trai thấy l. lạ như quạ thấy gà con.

Già thì già tóc, già tai,

Già răng già lợi, đồ chơi không già.

L. rằng l. chẳng sợ ai,

Sợ thằng say rượu, đ. dai đau l.

Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo

l. không cạp, l. méo làm ba

Mưu con đĩ, trí học trò.

May hơn khôn, lớn l. hơn đẹp.
Nuôi con chẳng biết tính con
Hể vú gai gạo thì l. chớp đông.

Nứng c. thì vặc đến nhà

L. còn đau mắt không ra đến ngoài

No cơm ấm cật dậm dật mọi nơi

Quần áo tả tơi mọi nơi chẳng dật.

Nằm đất hàng hương còn hơn nằm hàng cá

L. cô hàng cá còn nhẵn hơn má anh chàng hương.

Nhăn nhở như l. lở sơn.

Quang không lành, mắng giành không trơn
L. không lành, mắng quanh hàng xóm.
Rền rĩ như đĩ phải tim lạ

Ra đường ai nói thế nào

Về nhà lấy thớt lấy dao băm l.
Thấy đua thì cũng đua đòi
Thấy tỉa lông nách, cũng xoi lông l.

Trân trân như l. trần không đáỵ

Uống rượu ngồi dai, dái mài xuống đất.

Văn chương chữ nghĩa bề bề,

Thần l. ám ảnh cũng mê mẫn nguờị
Xót lòng mẹ góa con côi
Kiếm ăn lần hồi, l. lớn bằng mo.
(Sưu tầm)


Nguồn http://nguoihieuco.blogspot.com/2013/01/yeu-to-sex-trong-ca-dao-viet-nam.html#ixzz2QUgsMe6L