Thursday, 25 April 2013

CHUYỆN TIẾNG VIỆT: ĐỪNG VỘI VÀNG (Trao đổi với tác giả Hoàng Hồng Minh) (Đào Tiến Thi)


                               CHUYỆN TIẾNG VIỆT:  ĐỪNG VỘI VÀNG
ThS. Đào Tiến Thi
(NXB Giáo dục Việt Nam)
Trong bài Chuyện viết tiếng Việt của tác giả Hoàng Hồng Minh (HHM) trên tạp chí Tia sáng ngày 16-08-2011[i], ngoài việc đặt ra vấn đề nên đưa thêm mấy chữ cái (ký tự) F, J, W, Z vào bảng chữ cái tiếng Việt hay không (điều mà dư luận có ồn lên khoảng tháng nay), tác giả còn bàn thêm hai vấn đề của tiếng Việt: viết tên riêng nước ngoài và viết các từ ghép, từ láy (HHM gọi chung là “từ kép”) trong tiếng Việt.
Tôi xin được trao đổi một số ý kiến với tác giả. Vì không rõ tác giả là ông hay , tuổi tác thế nào nên xin được tạm gọi là bạn, mong tác giả thông cảm.
1. Vấn đề thêm các chữ F, J, W, Z vào bảng chữ cái tiếng Việt
HHM đưa ra một số dẫn chứng về sự có mặt của các chữ cái F, J, W, Z trong văn bản tiếng Việt, ví dụ nóilợn F1; từ A đến Z. Không ai phủ nhận điều đó. Tôi có thể bổ sung thêm hiện tượng trên một cách phong phú hơn nhiều, đó là việc dùng các ký tự F, J, W, Z (và nhiều ký tự khác nữa) để ghi các công thức toán, vật lý, hóa học,… để ghi các đơn vị đo lường, như tính công là J (June), tính công suất là W (Watt),…Và nhất là để ghi tên riêng (gồm địa danh và nhân danh) nước ngoài và các thuật ngữ khoa học có nguồn gốc nước ngoài. Các ký tự đó đã được dùng từ lâu, ngày nay lại càng dùng nhiều hơn. Tuy nhiên việc các ký tự trên có mặt trong văn bản tiếng Việt không có nghĩa là nó đã thuộc về hệ chữ cái tiếng Việt. Dễ nhận thấy điều này khi ngoài những ký tự trên ta còn dùng cả các ký tự khác như  abFegpljm,… để làm các ký hiệu ghi các công thức khoa học, kỹ thuật. Không ai dám nói những ký tự ấy cũng thuộc về chữ cái tiếng Việt. Còn như trường hợp viết tắttrung ương thành TW là viết sai; viết sai nhưng nhiều khi người ta bắt trước nhau mà thành thói quen ở một số người.
Hệ thống chữ cái của chữ Quốc ngữ (QN) là hệ thống chữ cái ghi âm. Nhìn chung mỗi âm tương đương với một chữ cái. (Một số trường hợp không tương đương, như c, k, q cùng ghi âm “cờ”; d, gi cùng ghi âm “dờ” có lý do về nghĩa và về văn hóa). Đưa thêm một chữ cái vào một hệ thống đã có thì nó phải mang chức năng ghi một âm nào đó. Nhưng hệ thống chữ cái của tiếng Việt đã đủ rồi, bây giờ thêm vào hệ thống ấy nó sẽ hoặc là không ăn nhập gì, hoặc là phá vỡ hệ thống. Ví dụ, đã có tổ hợp “ph” để ghi âm “phờ” thì chữ cái “f” sẽ ghi âm gì? Đã có chữ cái “d” và “gi” để ghi âm “dờ” thì chữ cái “z” sẽ ghi âm gì? Còn nếu để thay thế một số chữ cái cũ thì lại hoàn toàn là chuyện khác.
2. Vấn đề viết tên riêng nước ngoài
HHM viết: “Sau những thói quen ban đầu cố gắng mòn mỏi để Hán Việt hóa bằng được các tên riêng trên thế giới cho bùi tai mình, chúng ta đã vượt được dần ra khỏi cái thói quen cố hữu lấy mình làm trung tâm này”(chúng tôi nhấn mạnh).
 Nếu bạn HHM biết rằng trước khi người Pháp vào Việt Nam, người Việt Nam biết đến thế giới Phương Tây chủ yếu qua sách báo Trung Quốc (hay có tiếp xúc trực tiếp thì cũng phải dùng văn tự Hán để ghi lại) thì chắc không kết luận như trên. Trước khi chữ QN được sử dụng rộng rãi, chúng ta sử dụng chữ Hán, mà dùng chữ Hán thì phải đọc theo âm Hán Việt. Ví dụ, Alexandre de Rhodes thì đọc là A Lịch Sơn Đắc LộPigneau de Behaine đọc là Bá Đa Lộc. Đầu thế kỷ XX, trong phong trào vận động duy tân, các chí sỹ cách mạng Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và nhiều chí sỹ khác đều tiếp cận với tư tưởng dân chủ tư sản Âu Mỹ thông qua sách báo của phong trào duy tân ở Trung Quốc, cho nên ngay cả khi dùng chữ QN, các tên riêng Ấn Âu vẫn thường được đọc theo âm Hán Việt: Lư Thoa (Rousseau), Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu), Kha Luân Bố (Christopher Columbus). Một số nhỏ trong cách đọc đó tồn tại đến nay: Anh, Pháp, Mỹ (Hoa Kỳ), Ba Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Thụy Sỹ, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ. Dù bây giờ hầu hết các tên riêng còn lại đều đã đọc theo phiên âm trực tiếp (hoặc như nguyên ngữ) nhưng với các tên riêng trên đã rất quen thuộc nên cũng không cần phải thay đổi. Ai đã biết một chút Anh ngữ thì không khó đồng nhất các tên nước nói trên vớiEngland, France, America, Poland,… Một vài trường hợp phiên âm lại là do sự đề nghị của chính phủ (không chắc là của tất cả người dân) nước ấy, như Úc ® Ô-xtrây-li-a (Australia), Ý ® I-ta-li-a (Italy, Italiana)[ii]. Tuy nhiên trong những trường hợp cụ thể, cách đọc Hán Việt vẫn được dùng: bia Úc, Hội Doanh nhân Việt kiều Úc. Những trường hợp thay bằng phiên âm trực tiếp có cái lý của nó, nhưng những trường hợp vẫn giữ cách đọc Hán Việt cũng có cái lý của nó. Quy luật hàng đầu chi phối ngôn ngữ là tính quy ước (võ đoán). Một khi hình thành thói quen sử dụng của đa số có nghĩa là cộng đồng đã nhất trí như vậy.  
Về các tên riêng Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên), HHM có cách giải thích thật kỳ quặc khi viết:
“Từ bao giờ chúng ta tự cho mình có nghĩa vụ phải chuyển âm Hán Việt các tên riêng Trung Hoa hay Triều Tiên”.
Hay: “Nơi đâu “thân thiện” thì người ta gắng Hán Việt hóa, bằng không thì thôi. Hồng Kông xưa là nhượng địa của Anh nên thôi, không cần gọi là “Hương Cảng”. Các tên riêng ở Đại Hàn cũng khỏi bị cố gắng được Hán Việt hóa nhiều vì “không thân lắm”. Tên riêng của Nhật Bản thì miễn phải Hán Việt hóa (…) Phải học tránh sự thiên vị trong nhận thức”.
Trường hợp các nước Đông Á, ngoài nguyên nhân đã nói trên, còn do lịch sử quan hệ lâu đời của Việt Nam đối với họ. Trung Quốc có nhiều quan hệ nhất do đó hầu như tất cả các tên riêng đều đọc theo âm Hán Việt (sẽ nói rõ hơn ở phần sau). Triều Tiên ít quan hệ hơn cả nên số tên riêng đọc theo âm Hán Việt cũng ít. Còn Nhật Bản thì không phải “miễn phải Hán Việt Hóa” như bạn HHM tưởng đâu. Không ít tên người, tên đất Nhật Bản đọc bằng âm Hán Việt. Lý do là đầu thế kỷ XX, Nhật Bản là tấm gương của Á châu đã giương cao ngọn cờ tự lập tự cường, chơi “ngang ngửa” với Tây Phương. Cụ Phan Bội Châu tìm hiểu nước Nhật qua sách báo Trung Quốc, và rồi chính cụ cùng một số đồng chí của mình đã đưa khoảng 200 thanh niên Việt Nam sang Nhật du học. Do đó chúng ta biết đến một loạt tên người, tên đất Nhật Bản đọc theo âm Hán Việt như Phúc Trạch Dụ Cát(Fukuzawa), Minh Trị (Meiji), Đại Ôi hay Đại Ôi Trọng Tín (Okuma Shigenobu), Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Tsuyoshi), Đông Kinh (Tokyo), Hoành Tân (Yokohama),…
Về tên riêng Trung Quốc, có lẽ chỉ trừ trường hợp Hồng Kông[iii] (Hong Kong) còn thì từ xưa đã đọc theo âm Hán Việt. Nếu bây giờ chuyển cách đọc, xáo trộn hàng ngàn tên người, tên đất là chuyện không đơn giản. Ví dụ:Khổng Tử ® Kongzi , Gia Cát Lượng ® Zhuge Liang, Lý Bạch ® Li Bai, Lỗ Tấn ® Lu xun, Bắc Kinh ® Beijing, Quảng Châu ® Guang Zhou. Các tên người, tên đất Trung Quốc không những có mặt trong các tác phẩm của Trung Quốc đã quen thuộc ở Việt Nam mà trong chính văn chương Việt Nam cũng dùng không ít, như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm,… chẳng hạn.
Ngay cả các tên riêng Trung Quốc hiện đại nếu bây giờ đọc theo phiên âm La tinh cũng là cả một vấn đề phải cân nhắc kĩ. Vì nó vừa khó khăn (cách đọc phiên âm La tinh với tiếng Trung khác nhiều cách đọc trong các ngôn ngữ Ấn Âu), vừa trái với ngữ cảm thông thường. Đặng Tiểu Bình đọc là Dèng Xiǎopíng (Tung Xéo Pình), Hồ Cẩm Đào đọc là Hú Jǐntāo (Khú Chỉn Thao), vừa khó vừa buồn cười nữa. Chúng tôi đi Trung Quốc vẫn gọi các hướng dẫn viên người Trung Quốc theo âm Hán Việt, ví dụ: Tăng Quốc Vân (Zeng Quo Yun), Đặng Chiêu Thanh (Deng Zhao Qing), Tăng Tiêu Quang (Geng Yao Quang) và thấy như thế là ổn nhiều đường. Nếu cố gọi họ bằng âm Trung Quốc mà không chính xác có thể mang lại điều bất nhã, còn gọi theo âm Hán Việt thì đã có quy tắc, họ cũng nắm rất rõ. Nó khác hẳn trường hợp với người Phương Tây, ta phải cố gắng phát âm đúng như tên của họ.
Nói như vậy để thấy vấn đề ở đây chẳng phải do “thói quen cố hữu lấy mình làm trung tâm”, chẳng hề do “cố gắng mòn mỏi để Hán Việt hóa bằng được”, cũng chẳng phải do “thiên vị” hay “thân thiện” với Trung Quốc hay khối Đông Á hơn, mà thực ra nó là truyền thống văn hóa, là ngữ cảm của người bản ngữ, nghĩa là vấn đề của văn hóa – ngôn ngữ, chứ không liên quan gì đến “ý thức hệ” cả. Truyền thống ở đây đã đóng vai trò tích cực, giữ lại những gì phù hợp, chống “hiện đại hóa” một cách máy móc.
3. Vấn đề viết “từ kép”
Theo HHM, các “từ kép” như sinh vật, phải viết liền lại là sinhvật, và từ đấy cho đến hết bài, tác giả làm gương viết liền tất cả các “từ kép”:
hệthống, nốikết, thaotác, tinhthần họcsinhhiểubiết,chủquan,tiếptục, kiểmtra, nghingờ, nướcngoài, đánhvật, vôđịnh, táchrời, chínhxác, câuchữ, khuyếnkhích, thẩmđịnh, tốcđộ, đọchiểu, tốnkém, lưutrữ, giấytờ, vănbản, điệntử, khókhăn, tấtcả, nguyêndo, xưakia, chúngta, xâydựng, quốcngữ, tưởngnhớ, cônglao, đềxuất, giảipháp, hãnhữu, trườnghợp, gạchngang, hyvọng, quyếttâm, ýtưởng, tuyệtvời, tiếnlên, thốngnhất.
Riêng các từ như từ kép, chữ kép thì khi viết liền, khi viết rời; từ bộ nhớ không thấy viết liền, nhưng theo tôi, đó là những từ có cấu tạo “chặt” hơn nhiều so với từ đọchiểu, nướcngoài, tiến lên mà HHM viết liền.
Khái niệm “từ kép” của HHM không được định nghĩa nên có thể hiểu đó là từ ghép theo thuật ngữ ngành ngôn ngữ học, và cả từ láy, vì bạn viết liền cả từ khókhăn.
Hãy thử phân tích “tác hại” của lối viết rời mà bạn HHM chỉ ra:
1. Thứ nhất, bạn HHM cho rằng viết rời “làm tăng tính mất chính xác của câu chữ”, “khuyến khích tính chủ quan thẩm định”, “làm giảm tốc độ đọc hiểu”. HHM lấy ví dụ:
“Khi bạn đọc câu “Học sinh vật cô Na”, bạn phải cố làm một thao tác tinh thần để nối học sinh thành “họcsinh”, rồi kiểm tra xem có được hay không theo hiểu biết chủ quan của bạn. Bạn thấy được, và bạn tiếp tục kiểm tra câu này, và bạn nghi ngờ được, nhưng chắc không phải thế.
Tiếp đến bạn phải cố làm một thao tác tinh thần khác để nối “sinh vật” thành “sinhvật”, rồi kiểm tra xem có được hay không theo hiểu biết chủ quan của bạn. Bạn thấy được, và bạn tiếp tục kiểm tra câu này, và bạn tự bảo được, chắc là thế”.
(Nhấn mạnh trong nguyên văn)
Hỡi bạn HHM, nếu quả thực người Việt Nam đọc chữ Quốc ngữ theo kiểu mỗi “từ kép” lại phải làm “thao tác tinh thần” như trên thì mỗi cuộc đọc người Việt Nam là một cuộc đấu vật chứ không phải là đọc nữa. Đọc vất vả thế thì chắc thiên hạ đọc được 10 trang, ta chưa chắc nổi một trang, và người Việt Nam chắc chắn phải ngu hơn các dân tộc khác nhiều lần!
Xin nói thêm, những trường hợp như câu Học sinh vật cô Na, người ta gọi là “câu mơ hồ”, vì ngắt ở những chỗ khác nhau sẽ tạo nên nghĩa khác nhau. Loại câu này có số lượng rất ít và trong ngôn ngữ của nước nào cũng có, chứ đâu chỉ có ở tiếng Việt.
Và xin hỏi bạn HHM, việc viết liền các “từ kép” trong đoạn văn của bạn nói trên liệu có chính xác hơn được tí nào so với viết rời không? Có chỗ nào do viết rời mà trở nên mơ hồ nghĩa như câu Học sinh vật cô Na không?
2. Thứ hai, bạn HHM nêu một số hệ lụy khác như “làm tốn kém lưu trữ trên giấy tờ, văn bản hoặc trên các bộ nhớ điện tử”, “làm khó khăn cho người nước ngoài học tiếng Việt”.
Về việc “tốn kém” giấy, có thể, nhưng không đáng kể. Chỉ cần quan sát các sách luyện dịch Anh – Việt, Pháp – Việt, ta thấy độ dài các bài ở phần tiếng Việt so với tiếng Anh, Pháp là tương đương nhau (chia cột hay đặt trang song song cũng vẫn thấy như vậy, nếu có ép chữ hay giãn chữ cũng là không đáng kể)[iv]. Vả lại theo phương án viết liền để tiết kiệm giấy của bạn HHM thì cứ 2 “từ ghép” mới thu lại được một khoảng trống, mà số lượng “từ kép”, cũng chỉ chiếm một phần trong kho từ vựng (vì ngoài nó còn các từ đơn và các cụm từ), do đó chẳng bớt được bao nhiêu. Có lẽ 100 trang chưa chắc đã tiết kiệm nổi 1 trang. Còn lưu trong bộ nhớ điện tử thì tiếng Việt có nặng hơn vì có thêm dấu phụ, nhưng với bộ nhớ điện tử, phần nặng hơn đó cũng chả có nghĩa lý gì. Với những máy tính thế hệ cũ nhất, dung lượng chỉ vài GB cũng chẳng bao giờ bị đầy vì các tệp văn bản, huống chi các máy tính phổ biến đang dùng hiện giờ đều trên trăm GB.
Về việc “làm khó khăn cho người nước ngoài học tiếng Việt” thì thử hỏi chữ QN (cũng như tiếng Việt nói chung), để trước hết cho người Việt dùng hay là để cho người nước ngoài mà bạn lại lo vấn đề như vậy? Tiếng Anh được loài người khắp hành tinh học, thế mà người Anh chẳng bao giờ làm gì cho nó dễ đi để các dân tộc khác nhờ; trái lại, tất cả các dân tộc học tiếng Anh đều phải “quy phục” tiếng Anh, từ cách phát âm xa lạ cho đến mọi các quy tắc ngữ pháp rắc rối của nó.
Trở lại về cách viết liền từ. Không phải đến bây giờ mới có bạn HHM đưa ra phương án đó. Nhưng phương án đó không bao giờ thành hiện thực bởi những lý do sau:
Thứ nhất, nó trái với bản chất của tiếng Việt. Tiếng Việt là một thứ tiếng đơn âm. Đơn vị phát âm là âm tiết (tiếng). Ví dụ tiếng hiểu (trùng với từ hiểu), nếu phân tích ra thì có 4 âm tố[v]: (chưa kể thanh điệu):
h- i - ê - u
nhưng chỉ phát âm 1 lần. Ranh giới giữa các âm tố h- i - ê - u không thể nào nhận thấy, dù người thính tai đến đâu. Cách đọc “hờ-i-ê-u-iêu-hỏi-hiểu” chỉ dành cho trẻ em bắt đầu học chữ và giai đoạn đó qua đi rất nhanh, sau đó không bao giờ lặp lại nữa.
Trong khi đó, các tiếng châu Âu là tiếng đa âm, đơn vị phát âm là âm tố. Ví dụ từ understand (hiểu) trong tiếng Anh, ta phải phát âm đầy đủ, kể cả cả âm /d/ở cuối:
Ùndəstænd
Và việc đọc nối các âm tố lại là cần thiết, kể cả khi nó là hai từ khác nhau, như Thank you chẳng hạn.
Thứ hai, ranh giới từ trong tiếng Việt không rõ ràng. Trong nhiều trường hợp, hai yếu tố có quan hệ nghĩa ở một mức độ nào đó không đủ chặt để tạo thành một từ nhưng cũng không đủ lỏng để coi là hai từ, tức là tình trạng “lưỡng khả”: nhà xuất bản là 1 hay 2 từ? trường dạy nghề là 1, 2 hay 3 từ? Nếu coi nhà hàng là một từ thìnhà văn hóa, nhà chung cư có là một từ không? Các trường hợp đồng cỏ, sân kho, trại chăn nuôi, đường thủy, đường mòn, đường độc đạo, đường chiến lược,.. lại càng khó.
Thứ ba, nếu viết liền, việc đọc cũng trở nên khó khăn: không biết ngắt ở chỗ nào, nếu từ ấy chưa quen thuộc với một người (nhất là với trẻ em mới học và người nước ngoài học tiếng Việt): hệthống có thể đọc thành hệt hốngđọchiểu thành đọ chiểu, pháthành thành phá thành, phátâm thành phá tâm. Bạn HHM nhắc đến học giả Hoàng Xuân Hãn đã khởi đầu cho cách viết liền, vậy cần hiểu vấn đề này như thế nào?
Thực ra tiền đề của cách viết liền là cách viết dùng gạch nối đã có rải rác từ đầu thế kỷ XX, tuy nhiên nó không tạo ra được quy tắc. Ví dụ bài Mừng năm mới trên báo Nam Phong số Tết năm 1918, viết gạch nối cho các từ ghép và từ láy: Đinh-tị, Mậu-ngọ, cảnh-tượng, phúc-lộc, thời-kỳ, lăng-lắc, dằng-dặc,… Thế nhưng cũng trong bài báo này, nhiều từ ghép, từ láy lại không gạch nối: nhà nước, khai hoang, ghi chép, hưởng thụ, quý báu, mở mang, lẩn thẩn,… Có khi mâu thuẫn không thể chấp nhận, như viết tàu-thủy (gạch nối) nhưng lại viết xe hỏa(không gạch nối).
Cách viết dùng gạch nối hay viết liền của của Hoàng Xuân Hãn cũng vậy. Trong (lời) Tựa cuốn Danh từ khoa học, xuất bản năm 1942, ông dùng gạch nối cho các từ ghép và từ láy nhưng không nhất quán. Viết tự-điển, khoa-học, danh-từ, tương-đương, cựu-học, chu-đáo, hiếm-hoi, lầm-lỗi,… nhưng lại viết quyết định, nước nhà, bó buộc, bắt bẻ, xưa nay, tóm tắt, may mắn, chậm chạp,… Khi tái bản (1946), trong Nguyên tựa, ông bỏ gạch nối, thay bằng viết liền: khoahọc, danhtừ, pháthành, xuấtbản, thuậntiện, rõràng, dodự,… thế nhưng cũng không nhất quán khi viết giải thưởng, mách bảo, sửa soạn, ít nhiều,… Và rất mâu thuẫn khi viết hàmsố (viết liền), mà lại viết số thương (viết rời).
Hoàng Xuân Hãn là nhà khoa học lớn, có nhiều cống hiến, ai cũng biết thế, nhưng không phải tất cả mọi ý kiến của ông đều đúng. Hơn nữa ấn phẩm trên là một trường hợp hiếm hoi, mang tính đề xuất, thử nghiệm, sau này cũng không thấy ông nhắc lại. Nó không được cuộc sống chấp nhận vì cả tính khoa học (không phù hợp với tiếng Việt – ngôn ngữ đơn âm) và cả tính khả thi (khó xác định ranh giới từ) như đã nói trên.
Chúng tôi muốn đưa thêm ý kiến của một số nhà khoa học về quan hệ chữ  tiếng của chữ QN.
Theo học giả Cao Xuân Hạo, việc dùng chữ QN thực ra là không phù hợp với đặc thù của tiếng Việt. Với đặc thù đơn âm, tiếng Việt thích hợp với thứ chữ mang “diện mạo tổng quát” (gestalt), như chữ Hán chẳng hạn, tức mỗi chữ là một “hình ảnh”, chứ không phải mỗi chữ ghi lại cái chuỗi âm tố mà thực ra thính giác con người không thể nhận ra được. Trong khi các tiếng châu Âu, về nguyên tắc, các âm tố trong từ đều hiển hiện khi phát âm.
Tuy vậy, do nắm được cái đặc thù đơn âm ấy của tiếng Việt nên những người chế tác ra chữ Quốc ngữ đã rất sáng tạo, đó là dùng lối viết rời từng âm tiết. GS. Nguyễn Quang Hồng đã chỉ ra hai đặc điểm của chữ QN trong quan hệ với đặc điểm của tiếng Việt[vi], đó là:
– “Nếu như các văn tự Latin khác đều lấy từ làm đơn vị để viết chữ (nghĩa là trong một từ, các chữ cái được viết liền với nhau một mạch), thì ở chữ QN của người Việt Nam đơn vị của một khối chữ tách biệt trong dòng viết là từng âm tiết một, chứ không phải là chỉnh thể từ ngữ”.
– Dùng dấu phụ một cách đậm đặc (vì không liên quan đến vấn đề đang bàn, nên không trình bày ở đây)
Theo Nguyễn Quang Hồng, chữ QN đã kế thừa chữ Hán và chữ Nôm. Chữ QN “tỏ ra rất thuận tiện đối với người bản ngữ”. Và: “Viết rời âm tiết một, chữ QN cất bỏ được một gánh nặng không cần thiết cho người viết chữ vì như thế là khi viết người ta khỏi phải làm cái công việc rắc rối là phân chia lời nói thành các đơn vị từ. Bởi vì đối với tiếng Việt, ranh giới từ ngữ là câu chuyện cực kỳ phức tạp, trong khi đó thì ranh giới âm tiết lại luôn luôn là sự thực hiển nhiên trong lời nói, ai cũng có thể xác định được một cách dễ dàng”.
GS. Nguyễn Quang Hồng viết tiếp: “Viết rời âm tiết và đánh dấu phụ là thành tựu mà những người xây dựng chữ QN đã đạt tới sau một quá trình lựa chọn, sáng tạo cách viết và thâm nhập dần vào bản thân tiếng Việt. Đó quyết không phải là cái gì ấu trĩ, thô vụng, bất cập của chữ Việt Latin so với các hệ thống chữ viết Latin khác. Ngược lại, chính đã không máy móc lặp lại hoàn toàn khuôn mẫu có sẵn, chính sự thoát ly ít nhiều khỏi hình ảnh của chữ viết ghi âm các tiếng châu Âu một cách hợp lý đó (đồng thời kế thừa truyền thống viết rời từng âm tiết một của chữ Nôm  vốn dĩ thích hợp với đặc điểm loại hình của tiếng Việt), đã làm thành một trong những nguyên nhân cơ bản đảm bảo cho công cuộc cải cách chữ viết diễn ra trong quá khứ (từ chữ Nôm kiểu Hán tự chuyển sang chữ QN Latin hoá) dẫn đến thành công một cách vững chắc vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX này”.
Chúng tôi muốn nói thêm tác động ở chiều ngược lại: Theo cảm nhận của chúng tôi, với cách viết rời từng âm tiết, chúng ta đã làm biến đổi phần nào chữ viết La tinh. Vốn từ một thứ chữ hoàn toàn ghi âm, các con chữ La tinh khi dùng làm chữ QN đã trở thành một thứ chữ có tính ghi ý (xin nhắc lại, tôi dùng chữ “có tính ghi ý” chứ không phải “ghi ý”). Bởi ta thấy các hiện tượng  sau:
– Quan hệ âm – chữ viết của chữ QN không phải là quan hệ mỗi âm tố  mỗi ký tự (chữ cái) như các tiếng châu Âu, mà là quan hệ mỗi khối âm (âm tiết, tiếng) – mỗi khối chữ (một chữ), giống phần nào với nguyên tắc của chữ Hán, chữ Nôm. Số chữ do đó tương đương với số lượng âm tiết có trong ngôn ngữ. (Nó khác hẳn các tiếng châu Âu: số chữ phải tương đương với số từ vựng). Điều này rất có ý nghĩa khi học chính tả tiếng Việt: không cần chú ý nhiều vào phát âm, ta vẫn hoàn toàn có thể viết đúng chính tả nhờ vào việc nhớ “mặt chữ”, bởi vì số lượng âm tiết – chữ là có hạn, ít hơn rất nhiều số lượng từ vựng. Thực tế, đa số chúng ta viết đúng chính tả là nhờ nhớ mặt chữ.
– Số ký tự (chữ cái) trong một chữ của chữ QN so với tiếng Anh, tiếng Pháp,… là rất ngắn (dài nhất như chữ nghiêng gồm 7 ký tự, tương đương những từ có số ký tự trung bình của tiếng Anh, trong khi tiếng Anh có những từ dài tới 19 ký tự). Cho nên để đọc chữ QN, ta không qua “ráp vần” mà nhận dạng diện mạo tổng quát(gestalt) chữ đó như một hình ảnh thị giác, tức là đọc thẳng từng chữ một. Cũng có nghĩa khi đọc chữ QN, cơ bản là do nhớ mặt chữ.  
–  Còn có thể thấy tính ghi ý qua việc đọc các chữ viết tắt trong tiếng Việt, đó là đọc như khi viết đầy đủ: BS = bác sỹ,GSTS = giáo sư tiến sỹ, HTX = hợp tác xã, XHCN = xã hội chủ nghĩa (chứ không đọc bê ét, giê ét tê ét, hát tê ích-xì, ích-xì hát xê en-nờ). Tức là những chữ cái ở đây hoàn toàn để ghi ý, không liên quan gì đến phát âm nữa. Nó khác hẳn tiếng Anh, đọc từng chữ cái hoặc ráp vần các chữ cái ấy, tức là hoàn toàn theo nguyên tắc ghi âm: BBC = /bi:bi:si:/ (British Broadcasting Corporation, Tập đoàn Truyền thanh Anh), ASEAN = /æsi:æn/ (Association of Southeast Asia Nations, Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á)
Tóm lại, các ý kiến trong bài viết Chuyện viết tiếng Việt của bạn HHM là quá chủ quan và quá vội vàng. Hai ý đầu tuy nhận định không đúng tình hình nhưng từ đó cũng đặt ra được vấn đề cần tiếp tục giải quyết. Song ý thứ ba –  đề xuất lối viết liền từ thì quả là ấu trĩ. Bạn chưa thấy sự khác nhau cơ bản giữa tiếng Việt và các tiếng châu Âu, cho nên muốn rập khuôn theo cách viết liền từ của các ngôn ngữ châu Âu. Thế nhưng cách viết rời âm tiết trong từ của chữ QN đã là một quá trình tiếp thu có sáng tạo trên cơ sở chữ viết truyền thống và phù hợp với đặc trưng tiếng Việt. Theo tôi, việc dùng chữ cái La tinh nhưng lại ghi rời âm tiết là một sự sáng tạo tuyệt vời của những người chế tác và sử dụng nó, kể từ những người manh nha khởi xướng, như Gaspar do Amiral, Antonio Barbosa, Francesco Buzumi, Francesco de Pina, Cristoforo Borri cho đến người hoàn thiện nó – Giáo sỹ Alexandre de Rhode. Và đặc biệt là công lao của những trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX, những người đã mạnh dạn sử dụng nó, cổ vũ nhiệt tình cho nó, dùng nó thay thế cho chữ Hán (nhập ngoại) và chữ Nôm (chưa hoàn thiện). Cho đến nay, theo tôi, chữ QN đã hoàn thiện, không cần phải thêm bớt, cải tiến gì nữa.  


[ii] Cách dùng I-ta-li-a, Ô-xtrây-li-a phổ biến ở thập kỷ tám mươi, chín mươi, nay có xu hướng quay trở lại dùng Ý, Úc trên các báo và và tạp chí.
[iii] Trước khi trở thành thuộc địa của Anh, Hồng Kông là một bãi đá vô danh, cho nên không có gì lạ khi nó không có trong “bản đồ trí tuệ” của người Việt Nam. Khi thuộc về Anh, Hồng Kông trở thành một trung tâm kinh tế, do đó, tên riêng này đi vào ngôn ngữ các nước theo cách gọi của người Anh là lẽ đương nhiên.
[iv] So với chữ Anh, trên một dòng, chữ Quốc ngữ có nhiều chỗ trống hơn (do viết rời từ) nhưng vì các chữ có độ dài tương đương nhau, không có chữ quá dài hoặc quá ngắn cho nên lại không mất những khoảng trống lớn khi cân dòng như trong chữ Anh. Và do đó tương quan chung lại ngang nhau.
[v] Chúng tôi dùng thuật ngữ âm tố (thể hiện là bộ phận của âm tiết) cho dễ hiểu với đa số bạn đọc, thay vì âm vị, chính xác nhưng khó hiểu hơn.
[vi] Nguyễn Quang Hồng: Đặc điểm của chữ Việt La tinh trong quan hệ với đặc điểm của tiếng Việt, TC Ngôn ngữ số 2-1992.

Chữ và nghĩa: Về hai từ "kinh điển" và "tiêu chí" (Vũ Cao Phan)

Chữ và nghĩa: Về hai từ "kinh điển" và "tiêu chí"

E-mailPrint
There are no translations available.

 
Chữ và nghĩa
 Hiện nay, các từ ngữ gốc ngoại nói chung và các từ ngữ Hán - Việt nói riêng được sử dụng khá phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh những trường hợp nói  đúng, viết đúng cũng còn không ít các trường hợp người nói, người viết đã sử dụng các từ vay mượn này một cách không cần thiết, thậm chí nói sai, viết sai…Dưới đây, chúng tôi xin đăng một bài viết của TS. Vũ Cao Phan về tình trạng lạm dụng hai từ kinh điển và tiêu chí trên một số tờ báo…Rất mong nhận được các ý kiến thảo luận, hưởng ứng của mọi người.

               Về hai từ kinh điển và tiêu chí

 
 
                                                                                                

1. "Siêu kinh điển" là cái gì đây, thưa các bạn phóng viên thể thao. Cách nay không đến dăm năm, lần đầu tiên tôi thấy từ kinh điển xuất hiện trên tờ "Tin tức" trong một trường hợp lạ: nhà bình luận M.T. viết: "Đó sẽ là một trận đấu kinh điển" khi đề cập đến cuộc chạm trán sắp diễn ra giữa hai đội bóng danh tiếng Barcelona và Real Madrid. Và tôi đã cố theo dõi kỹ để xem "cái sự kinh điển ấy" nó diễn ra như thế nào. Không như thế nào cả vì chẳng có gì để có thể gọi là kinh điển.

         Tưởng rằng đó chỉ là trường hợp hy hữu, không ngờ rằng từ dè dặt ban đầu (thảng hoặc mới thấy xuất hiện), cuối cùng thì gần đây cụm từ "trận đấu kinh điển" đã được hầu hết các báo thể thao sử dụng để nói về cuộc đụng độ giữa các đội bóng lớn, ngay cả khi đó chỉ là những trận đấu rời rạc hoặc ẩu đả loạn xì ngầu. "Báo nghe" và "báo xem" vào cuộc chậm hơn (chắc là còn nghe ngóng) nhưng một khi họ đã khoái sử dụng rồi thì kinh điển được "xổng chuồng" thoải mái trong các chương trình phát về bóng đá, thậm chí gần đây còn luôn nghe thấy tiếng gào trên màn hình: "Các bạn hãy mau chóng dự đoán về trận đấu siêu kinh điển này để nhận được....".
            Kinh thật đấy!  Vậy kinh điển nghĩa là gì? 

            
Kinh điển là một từ Hán -Việt. Giải nghĩa về từ này hầu như tất cả các từ điển xuất bản lâu nay tại Việt Nam (và cả Trung Quốc) đều thống nhất: 1- Tác phẩm có giá trị mẫu mực, tiêu biểu; có ảnh hưởng lớn cho một học thuyết, một chủ nghĩa, một tôn giáo. 2- Tác gia của các tác phẩm ấy (nhà kinh điển). 3- Có tính quy chuẩn, bài bản, cổ điển. Chấm hết. Vậy thì tại sao lại có cách hiểu, cách sử dụng như trên? Theo thiển ý của tôi (mà chắc đúng), nguyên do là ban đầu một vài bình luận viên bóng đá - như bạn M.T nói trên - đã dịch từ classic (tiếng Anh - hoặc classique, classico... của các ngôn ngữ Ấn- Âu khác) sang tiếng Việt theo nghĩa “kinh điển” (chỉ không hiểu sao trước kia họ đã không dịch như vậy), rồi dần dà nó được "ăn theo". Thực ra, classic (classique, classico...) trong các ngôn ngữ ấy còn có nghĩa là lớn, là hay, là có chất lượng cao... (từ kinh điển trong tiếng Việt không có nghĩa này). Do đó, "a classic game of football" phải được dịch là "một trận bóng hay"hoặc" một trận đấu lớn" thì mới đúng nghĩa. Gọi là "trận đấu kinh điển" nghe có vẻ sang, có vẻ "chữ nghĩa" nhưng thực là đã làm hỏng tiếng Việt. 
Điều đáng nói nữa là người ta còn thả bút đi xa hơn, đến mức chẳng thể hiểu họ cho phép từ kinh điển còn mang nghĩa gì nữa. Xin dẫn ra ba trường hợp gần, từ ba tờ báo khác nhau: "Như vậy, Barca đã kết thúc tháng kinh điển (?) với những kết quả đáng thất vọng" ("Khăn trắng cho Rijkard", H.NH, trang 21, "Thể thao & Văn hoá" số 31, 13/ 3/ 2007); "Đội tuyển Pháp đã trả nợ Italia bằng chiến thắng 3-1 nhưng họ vẫn cứ tiếc nuối... nếu Zidan không nhận thẻ đỏ rời sân sau cú húc đầu kinh điển (?)" (chắc tác giả này cho rằng kinh điển gần nghĩa với kinh khủng?) ("Les Bleus- bất ngờ xứng đáng" -H.N, trang 20, báo "Bóng đá" số 301, 29/12/2006); "Bình Định sau chiến thắng kinh điển trước Bình Dương đang rất phấn khích" ("Cuộc chiến của những người hàng xóm" -T.V, trang 7, "Tin tức" số 2130, 25/ 3/2006). Thật hết biết!

           
2."Tiêu chí" ơi, sao em "hoành tráng" vậy? So với từ kinh điển, từ tiêu chí còn có một số phận đáng báo động hơn. Nó cũng được dùng nhiều nhất bởi các phóng viên thể thao (với nghĩa sai lạc). Nhà báo khá nổi tiếng trong các bài bình luận bóng đá N.N liên tục dùng sai từ này. Bây giờ thì từ tiêu chí trở thành đa nghĩa trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn hoá-xã hội, chính trị.... thậm chí ngay cả các "danh nhân" và một số vị lãnh đạo cũng thường dùng, và dùng sai (xem các phát biểu được phát trong chương trình thời sự của VTV1 buổi 19h, các ngày 29 tháng 10 năm 2005, ngày 8 tháng 2 năm 2007 và ngày 24 tháng 3 năm 2007. Ở những phát biểu này, các vị còn dùng sai cả từ nội hàm nữa). Tôi thống kê một cách ngẫu nhiên thì thấy từ tiêu chí  ít nhất cũng có dăm bảy chục trường hợp báo chí dùng sai. Dẫn ra đây một vài ví dụ để xem từ này đã được hiểu với những nghĩa như thế nào:

          
 a. Không rõ hoặc vô nghĩa (khoảng 10%): "Điện Biên Phủ là một tiêu chí quan trọng (?) đối với thế giới thứ ba" (tiêu đề một bài ở trang 6, "Tin tức" số 1519, 26/3/2004); "Tiêu chí cao nhất để đánh giá trình độ khoa học và kỹ thuật của một nước là giải Nobel" ("Một góc nhìn phản biện" (GS. TSKH N.X.H, trang 4, báo Lao động số 250, 10/9/2006); " Tiêu chí để chọn dựa trên 4 tiêu chuẩn mà bắt buộc một sinh viên phải đạt được     (Nguyễn Kiều Liên: người Việt Nam duy nhất..." (Đ.T, trang Hà Nội, báo Lao động số 352, 18/12/2003); "Đâu là tiêu chí chuẩn... các tiêu chí chủ trương(?) không vượt quá điện trường 41V/m..." ( "Cơn ác mộng trạm ăng ten tiếp phát" (H.H, "Khoa học và Công nghệ" số 41, 9/10/ 2003); "Chúng tôi thống nhất một tiêu chí rằng chuyện khi đó, ai làm người ấy phải chịu trách nhiệm" ("Khi nào phải dạy, lúc nào cần dỗ"- T.H, trang 5, báo Lao động số 120, 3/ 5/ 2006); "Vậy tiêu chí hội viên (?) của đằng ấy thế nào? Khi mà càng đọc sách càng trở nên đơn độc" ("Cuộc trò chuyện giữa nhà văn và bạn đọc"- L.T.L.H, trang 42, "Thể thao & Văn hoá" số 34, 29 / 4/ 2005); "Tiêu chí của cuộc thi này sẽ hoàn toàn mới lạ về hình thức, hướng đến việc tuyển chọn, tìm kiếm sự vượt trội về trí tuệ, phẩm chất, nhân cách, hiểu biết bên cạnh nét đẹp hình thể" ( "Sắp có hoa hậu tài năng Việt" - T.P, trang 37 , "Thể thao & Văn hoá" số 27, 3/ 3/ 2007).                                                  
           b. Với nghĩa mục tiêu, mục đích (30%): "Ba điểm là mục tiêu của Real nhưng cũng là tiêu chí hướng đến của Betis" ("Real tiếp tục kém?" P.Q trang 11, "Thể thao" số 255, 29/ 10/ 2005); "ở Liverpool chúng tôi có nhiều tiền đạo giỏi... Tiêu chí của chúng tôi là sử dụng tất cả cho mọi đấu trường" ( "Baros sẽ đầu quân cho Everton? " - H.N, "Sài Gòn giải phóng, Thể thao", trang 7 số 181, 3/ 8/ 2005); "Những nghiên cứu làm người ta bật cười nhưng sau đó buộc phải suy nghĩ đã luôn là tiêu chí của các giải Ig Nobel" ("Cười và suy nghĩ" trang 15, "Tuổi trẻ" số 1233, 8/ 10/ 2005); "Bộ Giáo dục chủ trương triển khai hình thức GDTX theo hai tiêu chí: học lấy văn bằng và học để nâng cao dân trí" ("Học từ xa...", N.D.A, trang 3, "Tin tức" số 296, 3/ 1/ 2000). (Các vị lãnh đạo mà tôi đề cập đến ở trên cùng dùng tiêu chí với nghĩa này).

          
c. Với nghĩa yêu cầu, điều kiện (20%): "Ông Thắng... biến nó thành đội bóng sạch với tiêu chí không sạch thì thà dẹp đi còn hơn" ("Nếu bầu Đức dẹp bóng đá"- N.N, trang 5, "Lao động" số 13, 14/ 1 / 2006 - Nói thêm là tác giả N.N. này còn rất thường dùng tiêu chí với nghĩa là "tiêu chuẩn"); "ăn mặc gọn gàng, phù hợp với hoàn cảnh là tiêu chí cao nhất về thời trang" (bài "Quyến rũ tuổi 40" -T.M, trang 3, "Tin tức" số 1511, 17/ 3/ 2004); "Tiêu chí tổ chức chú trọng phần hội hơn là nghị" ("Hội nghị những người viết văn trẻ"- H.D, trang 15, "Thanh niên" số 126, 6/ 5/ 2006); "Gỗ vẫn chiếm tỷ lệ áp đo với tiêu chí không dùng đinh mà áp dụng kỹ thuật ghép mộng" ("Không lặng Pattaya" -N.T, trang 2, Hành tinh xanh, "Tin tức" số 1978, 22/ 9/ 2005).

         
 d. Với nghĩa tiêu chuẩn (35%):  "Tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 1,4% theo tiêu chí cũ và theo tiêu chí mới là 4,48%" ("Đà Lạt với cơ hội mới"- V.P, trang 4, "Sài Gòn giải phóng", 21/ 9/ 2005); "Theo đó, thông điệp an toàn là tiêu chí số 1 được VNA gửi tới khách hàng" ("Sẽ đình bay những máy bay..." - T.H, trang 3, "Tin tức" số 2397, 6/ 2/2007); "Chúng tôi cho rằng nếu Hội đồng sợ nhiều NSND, NSUT quá thì nên siết chặt các tiêu chí lại" ("Ngạc nhiên và không ít thất vọng" -T.A, trang 5, "Lao động" số 193, 15/ 7/ 2006); "Nhìn chung cả ba tiêu chí về nước sạch của nhà máy chưa đạt yêu cầu" ("Thành phố Thái Bình báo động..."- P.H.Đ, trang 3, "Tin tức" số 2034, 26/ 11/ 2005); "Diễn đàn cũng thông qua điều chỉnh các tiêu chí đối với chủ tịch ARF để nâng cao tính hiệu quả của chức vụ này" (" Bế mạc diễn đàn.." - T.H, trang 4, "Hà Nội mới Tin chiều" số 265, 30/ 7/ 2005).
          
(Trên đây chúng tôi mới chỉ trích dẫn một phần nhỏ, và hầu như chưa dẫn ra sự chẳng hề kém cạnh ở khu vực "báo xem", "báo nghe" - ngay cả đối với các phóng viên khá quen biết trong chương trình Thời sự ).
            
Xin nói ngay, điều đáng tiếc là ở tất cả các trích dẫn trên, tác giả đều dùng không đúng nghĩa của từ tiêu chí. Tiêu chí luôn được định nghĩa là: "Tính chất, dấu hiệu đặc trưng để nhận biết, xem xét, hoặc phân loại một vật, sự vật". Đây là cách dùng đúng: "Chỉ số này được đánh giá qua năm tiêu chí: Thu nhập, chất lượng sống, tăng trưởng kinh tế đất nước, việc làm và thành quả của thị trường chứng khoán" ("1", trang1, "Tuổi trẻ" số 150, 8/ 5/2005). Rất tiếc cách dùng đúng này chỉ chiếm 5% trong các thống kê của chúng tôi. “Tiêu chí” chẳng có liên quan gì đến các từ "mục tiêu", "mục đích" cả nhưng có họ hàng gần với từ "tiêu chuẩn" nên nếu không chú ý dễ nhầm lẫn trong sử dụng. Chúng tôi xin nêu một thí dụ để thấy sự khác biệt: Một cơ quan tuyển nữ nhân viên dựa trên năm tiêu chí: hình thức bên ngoài, chiều cao, cân nặng, tuổi, trình độ học vấn. Từ năm tiêu chí ấy, tiêu chuẩn mà họ muốn đạt được là: xinh xắn nhẹ nhàng, cao từ 1m60 đến 1m65, nặng dưới 50 kg, tuổi từ 22 đến 25, đã tốt nghiệp đại học.
        Có tình trạng thật đáng lo ngại hiện nay là việc dùng sai nghĩa từ Hán - Việt rất phổ biến. Ngoài hai từ kinh điểnvà tiêu chí đã nêu, còn một loạt các từ khác: nội hàm, hội chứng, cứu cánh, hành pháp, ma trận, bn thể, biện minh, động thái, phồn thực, phản biện v.v.. cũng chịu số phận tương tự. Chúng tôi hy vọng sẽ trở lại vấn đề này một cách khái quát hơn, trong một dịp gần./.

                                                                                                                                                                                                       
V.C.P


VỀ Ý ĐỊNH ĐƯA MẤY KÝ TỰ F, J, Z, W VÀO BẢNG CHỮ CÁI TIẾNG VIỆT (Đào Tiến Thi)


Đào Tiến Thi
(Nhà xuất bản Giáo dục)
Đầu tháng 8 năm 2011, cư dân mạng bỗng xôn xao sau khi có tin Cục Công nghệ thông tin, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ trình dự thảo “Quy định về sử dụng tiếng Việt” (gọi tắt là Dự thảo), trong đó bổ sung vào bảng chữ cái tiếng Việt bốn kí tự f, j, z, w.
Thực ra ngay từ đầu vấn đề này đã không được đặt ra một cách rõ ràng, cho nên việc bàn cãi nhiều khi không trúng vấn đề. Có nhiều người cho rằng thời hội nhập, những chữ ấy “Tây” có thì hà cớ gì mình không có. Lại có ý kiến tỏ ra bức xúc như là xưa nay mấy chữ ấy bị “cấm”. Trong khi điều đầu tiên và cốt yếu lẽ ra phải là: mỗi chữ ấy nếu đưa vào bảng chữ cái thì để “gánh” nhiệm vụ gì? Đưa thêm vào để ghi những âm mới phát sinh trong hệ thống ngữ âm tiếng Việt hay để thay thế một số chữ cái (hay tổ hợp chữ cái) trong bảng chữ cái hiện hành, thì cuộc tranh luận chí ít cũng tránh được chuyện “ông nói gà, bà nói vịt”.
Một số bản tin của báo chí dẫn lời TS. Quách Tuấn Ngọc nói rằng mấy ký tự trên sẽ thêm vào bảng chữ cái. Trong cuộc tọa đàm ngày 7-9-2011 về chủ đề Công nghệ thông tin và tiếng Việt”, ông cũng khẳng định như vậy. Ông lấy ví dụ tiếng dzô” (tức “vô”, nhưng âm “vờ” đã biến thành “dờ”, tiếng mời “cạn chén” trong phương ngữ Nam Bộ) để thấy hệ thống chữ cái hiện thời chưa thể hiện hết các âm vị tiếng Việt. Như vậy, ý định của người soạn Dự thảo là thêm vào bảng chữ cái mấy ký tự  trên, chứ không phải thay thế một số ký tự cũ. Tuy nhiên, nhiều ý kiến trên mạng lại bàn theo xu hướng thay thế, ví dụ f thay cho ph, còn z cả thay cho cả d và gi (hoặc là j thay gi, cònz thay cho d),... Điều này cũng dễ hiểu, vì ý kiến đề nghị thay thế như trên thực ra đã có từ lâu, từ thời có phong trào cải tiến chữ Quốc ngữ (QN) những năm sáu mươi của thế kỷ trước, thậm chí từ đầu thế kỉ XX và hiện nay vẫn tiếp tục, được đề cập ngay cả trên một số giáo trình Việt ngữ học.
Cho nên trong bài này chúng tôi xin bàn theo cả hai hướng, hướng định thêm vào, cũng như hướng định thay thế.
Theo chúng tôi, vấn đề này cần xét ít nhất trên bốn phương diện:  
– Phương diện ngôn ngữ: Có đem lại sự tiến bộ gì cho tiếng Việt, cụ thể là chữ Quốc ngữ (QN) hiện thời không? Và từ đó tác động đến các khoa học liên quan như thế nào?
– Phương diện văn hóa: Có hài hòa giữa truyền thống và hiện tại không?
– Phương diện xã hội: Có gây xáo trộn không? Xã hội có chấp nhận không?
– Phương diện kinh tế: Có tiết kiệm hơn trong viết tay, in ấn, lưu trữ không?
Bốn phương diện trên sẽ được đề cập ở hai vấn đề dưới đây. Tùy từng trường hợp mà mỗi phương diện bị tác động nhiều ít khác nhau, cho nên cũng tùy từng trường hợp mà chúng tôi bàn thiên về một, hai phương diện nào đó là cơ bản, còn các phương diện khác thì lướt qua.
1. Thêm vào (hay thay thế) bốn kí tự f, j, z, w để giải quyết vấn đề gì?
Như chúng ta đều biết chữ QN được xây dựng chủ yếu (xin lưu ý chủ yếu chứ không phải tất cả) trênnguyên tắc ghi âm. Tức là mỗi ký tự (hay tổ hợp ký tự) trong bảng chữ cái chữ QN dùng để ghi một âm (và mỗi âm, về nguyên tắc chỉ được ghi bằng một chữ). Ví dụ:
- Chữ “a” (a) dùng để ghi âm // như trong tiếng chata.
- Chữ “b” (bê) để ghi âm // (bờ) như trong tiếng bi.
- Chữ “c” (xê) để ghi âm // (cờ) như trong tiếng còcon.
Bên cạnh đó, chữ QN cũng áp dụng nguyên tắc lịch sử. Ví dụ chữ g và gh đều ghi âm // (gờ), chữ ng vàngh đều ghi âm đầu /N/ (ngờ). Cách viết ng/ngh xét theo nguyên tắc ghi âm là “vô lý” nhưng nó là thói quen từ lâu, đã trở thành một hình ảnh thị giác quen thuộc, và cũng không gây khó khăn gì, nên không cần thiết phải thay đổi. Và cũng không nên thay đổi, vì nếu thay đổi sẽ dẫn đến những xáo trộn bất lợi.
Bên cạnh đó, chữ QN cũng chứa cả nguyên tắc ghi ý. Điều này nói ra chắc nhiều người cảm thấy rất “nghịch tai”, vì từ trước cho đến nay nó bị bỏ qua, không ai để ý. Nhưng theo chúng tôi điều này là có thật. Đó là giá trị khu biệt nghĩa của một số từ và tiếng đồng âm. Ví dụ các trường hợp như và gi: cùng ghi âm // nhưng viếtquốc gia để phân biệt với da thịti và y: cùng ghi âm // nhưng viết công ty để phân biệt với ti trônc và q cùng ghi âm // nhưng viết tổ quốc để phân biệt với con cuốc.
Bây giờ chúng tôi dùng các nguyên tắc trên để xem xét việc đưa thêm hay thay thế các chữ f, j, z, w vào bảng chữ cái tiếng Việt đưa đến hệ quả gì.
a) Đưa thêm f, j, z, w
Theo nguyên tắc chữ ghi âm, các ký tự trên đưa thêm vào phải có lý do để ghi những âm vị nào đó. Như chúng ta đều biết, 14 nguyên âm, 22 phụ âm của tiếng Việt đều đã có các ký tự (hoặc tổ hợp ký tự) tương ứng để biểu thị. 6 thanh điệu cũng đã có các dấu thanh ghi lại (riêng tiếng chứa thanh ngang không ghi dấu gì, nhưng bản thân hình thức không dấu cũng là một cách biểu thị).
Đây là một hệ thống chặt chẽ. Nếu thêm vào một yếu tố nào đó thì yếu tố ấy phải không được trùng với yếu tố đã có, tức là yếu tố đó phải mới. Nếu bớt đi, phải do một yếu tố đã hoàn toàn mất vai trò, hoặc là hai yếu tố giống hệt nhau đang cùng tồn tại dẫn đến bất hợp lý. Chẳng hạn hiện tượng d/gi là một dạng song tồn hai ký hiệu cùng ghi một âm, xét về mặt ngữ âm, lẽ ra phải bỏ một, nhưng ở đây do chúng dùng để khu biệt nghĩa như trên đã nói, nên lại có lý do tồn tại.
Bây giờ ví dụ thêm ký tự “f” vào bảng chữ cái của chữ QN. Ký tự này vốn dùng để ghi âm // (phờ) theo thông lệ của nhiều chữ viết hệ La tinh, bây giờ đưa vào bảng chữ cái tiếng Việt cũng để ghi âm //thì không thể được, vì đã có tổ hợp “ph” để ghi âm // rồi([i]). Tương tự, nếu dùng z ghi âm // (dờ) thì tiếng Việt đã có d và giđể biểu thị. Còn các ký tự j và w không rõ những người chủ trương định ghi âm gì? Thực ra chỉ cần một, hai trường hợp như trên thôi, ta đã thấy nó vô lý rồi. Và thực tế tiếng Việt hiện nay mỗi âm vị đã có một ký tự (hoặc tổ hợp ký tự) để ghi, thêm j và w không biết để biểu thị âm vị nào nữa?
Xin dừng lại để bàn thêm một chút. Cho đến nay, theo chúng tôi, tiếng Việt không phát sinh một âm nào mới để phải tìm cách ghi lại bằng ký tự mới. Trường hợp tiếng “dzô” (Nam Bộ) mà TS. Quách Tuấn Ngọc nêu, nếu xét thuần về ngữ âm học, đúng là âm đầu của nó chưa có chữ cái riêng để biểu thị. Nhưng chúng ta cần thấy đây chỉ là dạng biến thể phương ngữ. Hiện nay âm đầu // (dờ) của phương ngữ Nam Bộ khác khá xa ở phương ngữBắc Bộ. Nếu chính xác thì âm // của Nam Bộ đã biến sang âm /j/ (đọc gần như từ “yes” của tiếng Anh). Ví dụ, cùng là tiếng dạ”, theo cách phát âm của Bắc Bộ, thì âm đầu là âm //, một âm xát (khi phát âm, không khí đi qua khe hở giữa mặt lưỡi và ngạc) trong khi đó, người Nam Bộ phát âm thành /j/, một âm nửa xát (khe hở cho hơi đi qua lớn hơn âm xát). Nói nôm na, những tiếng mang phụ âm đầu // như dạ, danh dự, dung dăng dung dẻcủa Nam Bộ nghe nhẹ hơn hẳn Bắc Bộ. Tuy nhiên, nếu đi theo hướng ấy thì còn hàng loạt biến thể phương ngữ khác không sao kể xiết. Và nếu cứ theo nguyên tắc trung thành với phát âm một cách tuyệt đối như thế thì chữ QN thống nhất của chúng ta hiện nay sẽ chia ra thành chữ Bắc Bộ, chữ Nam Bộ, chữ Trung Bộ,... Cũng có nghĩa là tiếng Việt sẽ vỡ ra làm nhiều mảng, tiền đề để ra đời những ngôn ngữ riêng! Mà trước hết sẽ hỗn loạn về chính tả, mà hỗn loạn thì cũng có nghĩa văn tự ấy sẽ không còn tồn tại. Ví dụ chữ danh dự, nếu để thể hiện sự chính xác về phát âm, phương ngữ Bắc Bộ sẽ viết là danh dự, còn Nam Bộ, Trung Bộ sẽ viết là janh jự. Nhưng sẽ không ai dại dột viết như thế, mặc dù không phải không có ý kiến đã từng đề nghị([ii]) như vậy. Làm như vậy, chữ QN hiện thời và tiếng Việt nói chung sẽ tan vỡ. Chúng ta thấy ngày nay tiếng Anh có sự khác nhau về phát âm giữa các tiếng Anh – Anh, Anh – Mỹ, Anh – Úc,... một sự khác nhau ở cấp quốc gia mà người ta cũng vẫn duy trì thống nhất ở dạng chữ viết, nếu không tiếng Anh sẽ vỡ ra làm nhiều thứ tiếng khác nhau.
b) Dùng f, j, z, w thay thế
Ví dụ f thay cho ph, z thay cho d và gi,…Theo nguyên tắc ghi âm và xét một cách cục bộ thì được. Về mặt kinh tế cũng có tiết kiệm chút ít ở trường hợp f và (1 ký tự thay vì 2 ký tự). Tuy nhiên sự tiết kiệm đó không được là bao, nhất là khi bây giờ cả viết lẫn in ấn, lưu trữ đã có phần mềm máy vi tính trợ giúp.
Nhưng ngay cả nguyên tắc ghi âm, nếu xét toàn cục thì phải thay cả các trường hợp khác đang tồn tại còn “vô lý” hơn. Trong Dự thảo cải tiến chữ QN năm 1960 của Viện Văn học([iii])mới chỉ “cải tiến bước 1”,ngoài các trường hợp trên, chỉ nhất loạt c/k/q thành ki/y thành iđ thành d, âm đệm u thành w và các từ phức được viết liền, thì chữ Việt đã “đổi hình dong” đến lạ mắt rồi. Đây là bản viết thử Tuyên ngôn độc lập do Tiểu ban Ngôn ngữ Viện của Văn học đề xuất, xin trích một câu:
Tấtcả các zântộc trên thếzới dều sinh ra bìnhdẳng; zântộc nào cũng có cwiền sống, cwiền sungsướng và cwiền tựzo.
Cũng hồi đó, cụ Nguyễn Công Tiễu (1892  1976) đề nghị rút gọn thêm các trường hợp ch, tr, kh, nh, th, gh, ngh như bảng dưới đây([iv]):
Chữ cũ
Chữ mới
Ví dụ
Chữ cũ
Chữ mới
Ví dụ
ch
ĉ
ĉa (cha)
th
§
§ơ (thơ)
kh
k
ku (khu)
tr
ç
çi (tri)
ng/ngh
j
jủ (ngủ)
nh
n̈ a (nhà)
Kết hợp cả phương án của Viện Văn học với phương án của cụ Nguyễn Công Tiễu thì ta viết câu trên như sau:
Tấtcả các zântộc çên §ếzới dều sinh ra bìdẳng; zântộc nào cũj có cwiền sốj, cwiền suj sướj và cwiền tựzo.
Nếu không thuộc sẵn Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đố ai đọc được! Như vậy cái lý do “hợp lý hóa” cho đạt nguyên tắc ghi âm (và để “tiết kiệm giấy”), nếu chỉ làm với f và z thì nửa vời, còn làm triệt để thì có lẽ tất cả chúng ta phải học lại lớp 1. Và sách báo từ nay trở về trước, đời sau phải có người phiên dịch. Sự xáo trộn khủng khiếp này chắc sẽ không được xã hội đồng tình.
Riêng d/gi nhập thành còn làm mất hết những chỗ phân biệt nghĩa và cội nguồn của các từ đồng âm như davà gia đã nói trên, tức là nếu chữ QN đạt được thuần túy nguyên tắc ghi âm thì lại gạt bỏ mất chỗ ưu việt của nguyên tắc ghi ý. Cái chỗ “bất hợp lý” mà nhiều người chê nhưng học giả Cao Xuân Hạo cho là rất đáng quý ấy, là “có ít còn hơn không có”, cũng mất nốt.
2. Hệ thống chữ cái tiếng Việt hiện nay có cản trở gì cho công nghệ thông tin và sự hội nhập không?
Đọc nhiều ý kiến trên mạng cũng như theo dõi cuộc tọa đàm “Công nghệ thông tin và tiếng Việt” đã nói, tôi thấy một số người vẫn nghĩ rằng đưa bốn ký tự f, j, z, w vào bảng chữ cái sẽ thuận lợi hơn cho ngành công nghệ thông tin (CNTT) và sự hội nhập của đất nước nói chung. Tôi cho đó là những ý kiến rất cảm tính và ở đây có cả những sự nhầm lẫn về khái niệm.
2.1.Quan hệ với ngành CNTT
Tôi chưa thấy chuyên gia CNTT nào nêu ý kiến rằng cần thiết phải có f, j, z, w trong bảng chữ cái. Ý kiến cần đưa f, j, z,w vào bảng chữ cái lại là của những người “ngoại đạo”. Có người nghĩ rất “hồn nhiên” là thấy trên bàn phím máy tính có các ký tự đó, mà bàn phím thuộc về CNTT thì ắt các chữ ấy cũng cần cho CNTT! Một điều hiển nhiên khác dễ thấy là: từ trước đến nay, không có các chữ ấy trong bảng chữ cái thì những chuyên gia CNTT vẫn làm việc bình thường. Thậm chí họ vẫn dùng các ký tự f, j, z, w mà chẳng cần biết nó có trong bảng chữ cái tiếng Việt hay không. Vậy thì việc công nhận hay không công nhận nó trong bảng chữ cái chẳng có ích gì hơn, cũng chẳng có hại gì hơn đối với công việc của họ. Còn việc bảo nó ngắn gọn, đánh máy dễ hơn, nhanh hơn thì đấy là việc của chung mọi người sử dụng CNTT, chứ không phải của ngành khoa học CNTT. Và đấy lại là chuyện của ngôn ngữ, như trên kia đã nói.
Theo sự hiểu của tôi, về nguyên lý, CNTT sử dụng các ký tự a, b, c, của hệ chữ La tinh cũng như các ký tựabcdefg,.. của hệ chữ phi La tinh, cũng như các ký hiệu <=>~,… của chung toàn thế giới, về bản chất là như nhau cả. Dùng cái nào nào cũng đối xử với nó như những ký hiệu, gán cho nó thuộc tính nào, chức năng nào thì nó mang thuộc tính đó, chức năng đó, tùy thuộc người lập trình. Ví dụ trong cách gõ Telex, lấy phím chữ s chỉ dấu sắc, f – huyền, r – hỏi, j – nặng,… còn cách gõ Vni lại lấy phím số 1 chỉ dấu sắc, 2 – huyền, 3 – hỏi, 4 – ngã, 5 – nặng.
Hoặc giả sử bộ chữ viết của chúng ta nói riêng và tiếng Việt nói chung hiện thời gây khó khăn cho CNTT trong việc mã hóa, tạo ra các bộ gõ, trong dịch tự động,… thì nhiệm vụ của CNTT là bằng mọi cách tìm ra các quy luật của chữ Việt, tiếng Việt để xử lý, chứ không phải “nắn” tiếng Việt sao cho “vừa tầm” CNTT. Vì sao vậy? Vì tiếng Việt, chữ Việt là cái có trước, cái đã ổn định, là cái tồn tại khách quan, và là tài sản chung của toàn dân tộc, không ai có thể tự ý thay đổi được. (Tất nhiên tiếng Việt vẫn biến đổi, nhưng là sự biến đổi từ từ theo quy luật nội tại chứ không phải theo ý muốn của riêng ai). Tiếng Việt là cái chân, CNTT là cái giày, giày phải làm theo chân, chứ không thể gọt chân cho vừa giày. Việc “làm giày” thiết nghĩ không phải quá khó đối với các chuyên gia CNTT. Rắc rối như chữ Hán, chữ Hàn, chữ Nhật, chữ Khmer,… mà người ta cũng làm được kia mà.
2.2. Vấn đề hội nhập
Mấy ký tự f, j, z, w thực ra đã được sử dụng từ rất lâu (sớm nhất thấy trong cuốn Sổ sách sang chép các việc của Philip Bỉnh, đầu thế kỷ XIX). Ở đây chắc là nhiều người nhầm lẫn, thấy các ký tự f, j, z, w có trong văn bản tiếng Việt thì cũng nghĩ nó đã (hoặc cần phải) nằm trong bảng chữ cái tiếng Việt. Không phải vậy. Việc sử dụng nó trong văn bản tiếng Việt khác hẳn việc sử dụng nó trong bảng chữ cái tiếng Việt, tuy rằng hai việc có liên quan với nhau.
Khi chúng ta sử dụng các ký tự f, j, z, w để viết các công thức khoa học như Fe2O3, F = p.S,… thì đó là cách biểu thị có tính quy ước quốc tế, giống như các con số 1, 2, 3,…, giống như các ký hiệu @, #, $, &,… tức là các ký tự f, j, z, w chỉ mang chức năng làm ký hiệu chứ không phải chức năng chữ cái (để ghi âm, ráp vần). Ngoài các ký tự đó ra, còn sử dụng hàng loạt ký tự khác, như abcdefg,... Các ký tự này do “lạ mắt” với chữ cái Việt hơn nên không ai lầm lẫn là chữ cái tiếng Việt, chứ bản chất vẫn hệt như f, j, z, w.
Còn khi viết các thuật ngữ và tên riêng nước ngoài bằng nguyên ngữ, thì các ký tự f, j, z, w, trở thành các chữ cái, tức là có giá trị biểu âm, nhưng không phải âm tiếng Việt (chúng tôi nhấn mạnh). Dễ nhận thấy điều này vì ta thấy nó không được đọc theo quy tắc chính tả tiếng Việt (nếu đọc thì hỏng). Mỗi người, theo trực cảm bản ngữ, khi gặp một tên riêng hay thuật ngữ nước ngoài, nếu viết phiên âm (có gạch nối, có dấu phụ), ta đọc theo chính tả Việt, còn nếu viết nguyên dạng (viết liền, không có gạch nối, không có dấu phụ), ta đọc theo kiểu khác (đọc theo ngoại ngữ mà mình biết hoặc đọc theo thói quen đã phổ biến). Ví dụ, “sh” sẽ đọc như “s”, còn “s” lại đọc như “x”, “d” đọc như “đ” của tiếng Việt: Shakespeare (Sếch-xpia), Scotland (Xcốt-len)), Dickens (Đích-ken),... Các chữ cái “Tây” rõ ràng có một giá trị phát âm khác các chữ cái Việt, tuy rằng đứng trong cùng một văn bản.
Chỉ riêng điều đó thôi đã đủ chứng tỏ các ký tự f, j, z, w tuy có trong văn bản tiếng Việt nhưng không thuộc hệ thống chữ cái tiếng Việt. Và không thể nào đưa thêm vào bảng chữ cái hiện nay nếu vẫn giữ nguyên hệ thống chữ cái hiện thời. Các ký tự f, j, z, w chỉ được dùng vào 3 chức năng như từ trước đến nay vẫn dùng: viết công thức khoa học, thuật ngữ nước ngoài và tên riêng nước ngoài (ở hình thức viết nguyên dạng).
Nhiều người lại nghĩ rằng, tuy trên thực tế các ký tự f, j, z, w đã dùng (vào 3 chức năng trên) từ lâu nhưng chưa được thừa nhận chính thức, nên công việc bây giờ là phải “chính thức hóa” nó vào bảng chữ cái tiếng Việt. Sự thực không phải thế. Văn bản gần đây nhất, quyết định số 240/QĐ Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt ban hành ngày 5-3-1984 do Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thị Bình ký (đến nay vẫn còn giá trị) mục 2a “Về các tên riêng không phải tiếng Việt” ghi rõ:
“Nếu chữ cái của nguyên ngữ dùng chữ cái La tinh thì giữ đúng nguyên hình trên chữ viết của nguyên ngữ, kể cả những chữ cái f, j, w, z như trong nguyên ngữ”.
Như vậy, các ký tự f, j, w, z được thừa nhận sử dụng cả trên thực tế lẫn mặt pháp lý.
Thay lời kết luận, chúng tôi muốn nói rằng, đối với tiếng Việt hiện nay, có rất nhiều vấn đề thiết thực mà lẽ ra phải làm, như việc chuẩn hóa chính tả (nhất là cách viết i ngắn y dài), chuẩn hoá viết hoa (nhất là viết hoa danh hiệu, chức tước, tên cơ quan, tổ chức), chuẩn hoá cách viết tên riêng và thuật ngữ nước ngoài,… thì lại không được quan tâm. Cái việc bàn thảo đưa thêm mấy chữ f, j, w, z, nói thật, là việc chẳng đâu vào đâu, tuy rằng bàn về nó cũng vỡ ra được thêm nhiều vấn đề. Sẽ chắc chắn không có chuyện đưa thêm vào cũng như thay thế. Vì nếu đưa thêm vào sẽ “không có chỗ”, hoặc cố tạo cho nó một chỗ thì sẽ chồng chéo lên chỗ của các thành viên cũ, dẫn đến rối loạn về chính tả. Còn nếu thay thế thì đó là một cuộc thay đổi đại quy mô, tức là một cuộc cải cách chữ viết của dân tộc. Nhưng cái dự án cải cách tương tự như thế đã từng được phát động cách đây hơn nửa thế kỷ, nhưng (lại nhưng) càng có độ lùi thời gian thì càng thấy cái dự án ấy thật ấu trĩ, nếu không nói thẳng là ngớ ngẩn.
Thư mục tham khảo
1.     Cao Xuân Hạo: Tiếng Việt, văn Việt, người Việt. Nxb Trẻ, 2001
2.     Đào Tiến Thi: Chuyện tiếng Việt: Đừng vội vàng quá! TC Ngôn ngữ và Đời sống số 10-2011.
3.     Hoàng Hồng Minh: Chuyện tiếng Việt. TC (mạng) Tia sáng, tháng 8-2011 (http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=113&CategoryID=6&News=4277).
4.     Hoàng Tiến: Chữ Quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỷ XX. Nxb Lao động, 1994.
5.     Nguyễn Ngọc San: Tìm hiểu về lịch sử tiếng Việt. Nxb Giáo dục, 1993.
6.     Nguyễn Quang Hồng: Đặc điểm của chữ Việt La tinh trong quan hệ với đặc điểm của tiếng Việt, TC Ngôn ngữ số 2-1992.
7.     Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt (Quyết định 240/QĐ ngày 5-3-19984), in trongChuẩn hóa chính tả và thuật ngữ tiếng Việt. Nxb Giáo dục 1984.
8.     Trần Trí Dõi: Chữ Quốc ngữ trong lịch sử tiếng Việt, trong sách Giáo trình lịch sử tiếng Việt. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.
9.     Trần Trí Dõi, Nguyễn Ái Việt,…: Thêm 4 ký tự F, J, W, Z lại "nóng" trên bàn nghị sự. Trả lời phỏng vấnICTnews ngày 28-8-2011 (http://ictnews.vn/home/ArticlePrinter.aspx?PublishID=89364).
(Bài đã đăng trên tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư số 1-2012; tác giả có sửa lại cách diễn đạt ở một số chỗ và bổ sung phần Thư mục tham khảo)
ĐTT


([i]Có người lý luận: Hồi mới ra đời chữ QN, // trong tiếng Việt phát âm “bật hơi” nên được viết “ph”, ngày nay sự bật hơi đó đã mất, // của tiếng Việt giống như // các tiếng châu Âu, cho nên phải đổi sang ký tự “f” mới đúng. Thiết nghĩ đó là một kiểu tư duy “dĩ Âu vi trung” thô thiển. Giả sử // ngày nay khác // ngày xưa đúng như thế thì dùng “ph” có hại gì đâu? Về nguyên tắc ngữ âm học, có thể dùng bất kỳ ký tự nào để ghi lại âm //, miễn là không trùng với ký tự khác trong hệ thống. 
([ii])Xem Vai trò của “F, J, W, Z” đối với việc phiên chuyển địa danh (TC Ngôn ngữ số 3-2007). GS. Hoàng Thị Châu đề nghị thêm các con chữ f, j, z, w để ghi những âm mới xuất hiện trong tiếng Việt. Ví dụ thêm chữ “j” để ghi âm /y/ trong tiếng Trung và Nam Bộ. Nếu theo nguyên tắc đó, từ “dép da”, để đọc đúng âm Bắc thì viết “dép da” (phiên âm /zEf za/) còn đọc đúng âm Trung và Nam, viết “jép ja” (phiên âm /yEf ya/). Hàng loạt chữ nữa sẽ có hai, cách viết. Và tiếng Việt sẽ không còn là một tiếng thống nhất từ Bắc chí Nam.
([iii]) http://vietpali.sourceforge.net/binh/DuThaoPhuongAnCaiTienChuQuocNgu.htm.