Sunday, 27 October 2013

Một cách nhìn chủ quan, phiến diện (Phùng Kim Lân - Quân Đội Nhân Dân)


Làm thất bại chiến lược "Diễn biến hòa bình"
QĐND - Chủ nhật, 27/01/2013 | 21:25 GMT+7
QĐND - Gần đây, trên một số trang mạng và cơ quan truyền thông ở nước ngoài, trong đó có hãng BBC xuất hiện bài viết dưới nhan đề “So sánh hai biến cố tháng Tám”- so sánh Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam và cuộc chính biến tháng 8-1991 ở Liên Xô dựa vào những cảm nhận của ông Nguyễn Minh Cần - theo bài viết là người đã chứng kiến cả hai sự kiện đó. Đọc bài viết nói trên, những người Việt Nam yêu nước và có lòng tự trọng không khỏi bức xúc, bất bình trước sự so sánh khập khiễng với dụng ý xuyên tạc sự thật và những ý kiến cá nhân mang tính tư biện, suy diễn một cách chủ quan, phiến diện của ông Cần.
Khi được hỏi cảm nhận về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, ông Nguyễn Minh Cần nói rằng: “Chúng tôi tham gia Cách mạng tháng Tám với ý nghĩ chân thành, đất nước được tự do, độc lập với những lời hứa hẹn của Việt Minh lúc bấy giờ là mở rộng dân chủ, tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, hội họp, ngôn luận… Đáng tiếc là khi Đảng Cộng sản lên cầm quyền những điều đó đã không được thực hiện”. Ông Cần càng tỏ rõ sự hồ đồ khi cho rằng: Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam và "cách mạng Dân chủ" (theo cách nghĩ của ông Cần) ở Nga năm 1991, đều thất bại (!), vì đã "không đem lại dân chủ, tự do thực sự cho người dân...". Không hiểu ông Cần lấy tư cách gì mà phán như vậy?      
 
 Ảnh minh họa/Internet.
Nhiều người đặt câu hỏi: Ông Nguyễn Minh Cần là người như thế nào mà cố tình bóp méo lịch sử, ngoảnh mặt, quay lưng lại với đất nước, xúc phạm lòng tự tôn dân tộc như vậy? Được biết, ông Nguyễn Minh Cần sinh ra ở Huế, năm nay 85 tuổi, từng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và là Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội... Đầu những năm 60 của thế kỷ trước, trong khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta dốc lòng, dốc sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc, Nguyễn Minh Cần được Nhà nước ta cử ra nước ngoài học tập để trở về phục vụ đất nước, nhưng với những toan tính cá nhân cơ hội, thực dụng, ông ta đã xin cư trú tại nước ngoài từ đó đến nay. Những tưởng ở tuổi xế chiều, Nguyễn Minh Cần sẽ sống yên phận và nuôi hy vọng có cơ hội trở về quê hương - nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng ông ta đã đăng đàn trên một số trang mạng với giọng điệu hằn học, cay độc, cố tình bôi đen lịch sử và xuyên tạc tình hình ở Việt Nam, phủ nhận những thành quả của cách mạng, bài xích vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đập tan ách thống trị của thực dân và phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam), một nhà nước với thể chế chính trị dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng vượt qua những chặng đường đầy gian khổ, hy sinh, đánh thắng những kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình gấp nhiều lần về tiềm lực kinh tế và tiềm lực quân sự, khẳng định bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước lên CNXH.
Vào giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, dân tộc ta tiếp tục vượt qua “cơn lốc lớn” làm sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, giữ vững chế độ XHCN ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát huy dân chủ XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hơn 25 năm qua, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo được thế và lực mới để xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Những thắng lợi đó đã tạo nên sự tiến bộ rõ nét của con người và xã hội Việt Nam, đưa nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do, ổn định và phát triển theo con đường XHCN; nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện…” và nhấn mạnh: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của phát triển”, "Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước". Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có những cố gắng rất lớn trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Việt Nam đã hoàn thành sớm một số mục tiêu như: Xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực; phổ cập giáo dục tiểu học; cơ bản hoàn thành mục tiêu về bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; bước đầu ngăn chặn được sự lây lan HIV và đang ở “ngưỡng cửa” hoàn thành mục tiêu giảm tử vong ở trẻ em v.v... Mặc dù phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức nhưng với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, năm 2012, nước ta đã đạt được những chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực. Chúng ta đã cơ bản thực hiện được mục tiêu tổng quát đề ra, đặc biệt đã thực hiện được mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý (tăng trưởng hơn 5%); các chính sách an sinh xã hội được quan tâm, bảo đảm (tỷ lệ hộ nghèo giảm được 1,76%); chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững; vai trò và vị thế của đất nước tiếp tục được nâng cao.     
Dù còn không ít khó khăn và hạn chế, song những thành tựu của Việt Nam về phát triển con người, thực thi dân chủ đã và đang được thực tiễn chứng minh và khẳng định, không thể phủ nhận. Không phải ngẫu nhiên, ngày 28-5-2012, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam thường trú tại Mỹ, Thượng nghị sĩ John McCain - người từng là ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng hòa - đã đánh giá cao những thành tựu phát triển của Việt Nam, nhất là những tiến bộ đáng kể trong đời sống của nhân dân. Thượng nghị sĩ John McCain nhấn mạnh: “Với những bước tiến đó đã tạo nên hình ảnh và tầm ảnh hưởng của Việt Nam không chỉ trong khu vực ASEAN, mà còn ở các tổ chức quốc tế khác”. Rồi nữa, ngay tướng Nguyễn Cao Kỳ - người từng được coi là có tư tưởng chống Cộng cực đoan - đã xúc động không cầm nổi nước mắt khi lần đầu tiên được trở về cội nguồn (tháng 1-2004), sau 30 năm ở nơi đất khách quê người. Từ đó, sau nhiều lần về thăm quê hương, cảm nhận trực tiếp những phát triển của đất nước và đời sống của nhân dân, Nguyễn Cao Kỳ bày tỏ niềm tin tưởng: “Các nhà lãnh đạo Việt Nam đủ trí tuệ để chèo chống và đưa đất nước tiến lên” và nguyện vọng của ông ta là sau khi nhắm mắt, xuôi tay được yên nghỉ nơi quê cha đất tổ.
Nếu thực sự còn tỉnh táo thì tại sao ông Nguyễn Minh Cần,  “người được chứng kiến cả hai sự kiện lịch sử” nói trên, lại có thể đánh đồng Cách mạng tháng Tám 1945 - một sự kiện lịch sử hào hùng, thiêng liêng của dân tộc và có ý nghĩa thời đại sâu sắc với cuộc chính biến tháng 8 -1991 ở Liên Xô - một trang sử đau buồn của nhân dân Xô-viết và của nhân loại tiến bộ? Chính những nhận định hồ đồ này cho thấy ông chỉ là người “cưỡi ngựa xem hoa”, đứng ngoài những sự kiện lịch sử trọng đại, thờ ơ, vô cảm với vận mệnh của dân tộc và sự thịnh suy của đất nước. Tuy vậy, ông đã ngộ nhận, lầm tưởng mình là một “vĩ nhân am hiểu thời thế”, lại thêm những bức xúc cá nhân do quá đề cao “cái tôi” mà cố tình tráo trở phương pháp, rắp tâm lợi dụng những khó khăn, hạn chế trong quá trình đi lên của đất nước để phủ nhận sạch trơn những thành tựu mà cách mạng đã mang lại cho đất nước và dân tộc.
Những tiếng nói lạc điệu của ông Nguyễn Minh Cần có thể ít nhiều tác động đến một số người nhẹ dạ, cả tin và sự “trở cờ” của ông càng làm cho chúng ta cảm nhận sâu sắc thêm về cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ không chỉ mang tính cấp thiết, mà còn rất gay go, quyết liệt, lâu dài, liên quan trực tiếp đến sự sống còn của chế độ và sự an nguy của đất nước.
PHÙNG KIM LÂN

Lính lê dương nào đội mũ đỏ?

Lính lê dương chưa bao giờ đội mũ đỏ. Nghe các nhân chứng lịch sử thuật chuyện đánh nhau với bọn lính lê dương mũ đỏ, con cháu đâm ra hoang mang. Thật ra các cụ đã đánh nhau với bọn nào? Vì sợ mang tội bất kính nên không dám hỏi sự thật là các cụ có đánh nhau hay không. Nhưng nhân chứng đã kể như thế thành ra sách báo đời sau cứ ghi như thế. Cứ biết như thế. Chẳng chết thằng Tây nào cả.

Saturday, 26 October 2013

Lính cô-lô-nhần là lính gì?



Đạo luật ngày 7 tháng 7 năm 1900 chuyển thủy quân lục chiến Pháp (troupes de Marine) khỏi bộ Hải Quân, giao cho bộ Chiến Tranh quản lý và đổi tên thành Quân Thuộc Địa (Troupes Coloniales), với nhiệm vụ (ban đầu) là bảo vệ tất cả các thuộc địa của Pháp trừ khu vực Bắc Phi (thuộc trách nhiệm của Quân Phi Châu (Troupes d’Afrique / Armée d’Afrique). Quân Thuộc Địa sau đó được chia thành  bộ binh thuộc địa (infanterie coloniale) và pháo binh thuộc địa (artillerie coloniale). Khi các thuộc địa của Pháp đều giành được độc lập, Quân Thuộc Địa (bộ binh thuộc địa và pháo binh thuộc địa) lại phải đổi tên thành Quân Hải Ngoại (Troupes d’Outre-Mer ,1958), rồi lại trở thành Thủy Quân Lục Chiến (troupes de Marine) nhưng vẫn nằm trong tổ chức của lục quân.
Quân Thuộc Địa có hai loại đơn vị:
-Bộ binh thuộc địa và pháo binh thuộc địa trong thời gian từ 1900 đến 1958 được gọi là Coloniale blanche » (quân thuộc địa (da) trắng, người Việt gọi là Tây cô-lô-nhần) vì chủ yếu là quân nhân từ mẫu quốc đưa sang. Lính (soldat) Tây được người Việt gọi là lính sơn đá /san đá / săng đá / sang đá.  
-Bộ binh nhẹ (tirailleur) người bản xứ do sĩ quan Pháp chỉ huy. Loại bộ binh này ở Bắc Kỳ được dân chúng gọi là lính tập Bắc Kỳ (tirailleur tonkinois).

Friday, 25 October 2013

Lính lê dương đội mũ gì?



Loại mũ che gáy mà trẻ con đi học đội để che nắng còn được gọi là lê dương.

Lính lê dương đội mũ che gáy để chống nắng khi đi trận ở An-giê-ri và Ma-rốc. Mũ bạc phếch chứng tỏ thâm niên nơi sa mạc nắng lửa. Mảu trắng trở thành màu mũ kê-pi của lính lê dương. Tuy nhiên hiện nay sĩ quan lê dương đội kê-pi đen. Hạ sĩ quan có trên 15 năm phục vụ trong đội quânlê dương cũng được đội kê-pi đen.

Khi hành quân lính lê dương không đội kê-pi mà đội mũ bê-rê xanh lục. Mũ này xuất hiện lần đầu tiên năm 1948 ở tiểu đoàn lê dương nhảy dù số 1 (1er BEP ). Năm 1959 nó trở thành mũ chiến đấu của toàn quân lê dương và kê-pi trắng chỉ được dùng khi hành lễ hoặc xuất trại đi phố...

Thursday, 24 October 2013

Sao có quá đông pháo thủ An-giê-ri ở Điện Biên Phủ trong ngày 20 tháng 12 năm 1953?



Trích Jules Roy, Trận Điện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp (bản dịch của Bùi Trân Phượng, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1994):
Chủ nhật ngày 20 tháng 12 
Tướng Navarre rời Hà Nội.

Việt Minh tiến quân vào sâu hơn với đại đoàn 325 trong khu vực Nà Phao.

LỆNH CHIẾN ĐẤU

Hai tiểu đoàn dù thuộc đội quân của Bigeard đã quay về Hà Nội và, trong khi chờ đợi xây dựng trung tâm đề kháng Hồng Cúm ở phía Nam tạm thời do tiểu đoàn Tabor số 2 chiếm lĩnh, khu căn cứ Điện Biên Phủ gồm có Him Lam ở Đông Bắc, Bản Kéo ở Tây Bắc, do tiểu đoàn 5 lính dù Việt Nam giữ, Claudine ở cạnh đáy phía Tây do tiểu đoàn 1 thuộc bán lữ đoàn 13 lê dương giữ; đồi C ở cạnh đáy phía Đồng, do tiểu đoàn 3 lính Thái giữ; cao điểm 206, ở trung tâm phía Tây, do các đơn vị Thái và lê dương giữ; cuối cùng là đồi D, ở trung tâm phía Đông, do tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 3 pháo thủ Angiêri giữ. Một binh đoàn cơ động gồm tiểu đoàn 8 xung kích và tiểu đoàn 1 lính dù lê dương chuẩn bị đi Sốp Nao. Người ta đợi tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 1 pháo thủ Angiêri và tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 3 lê dương, để hình thành Hồng Cúm.

 Các đơn vị mang danh An-giê-ri tham chiến ở Đông Dương đều là bộ binh nhẹ chính quy. Hồng Cúm (tức Isabelle) do một đơn vị như vậy thiết lập ngày 15/12/1953. Đơn vị đó mang phiên hiệu là 2e BM/1er RTA (2e bataillon de marche du 1er régiment des tirailleurs algériens), tức là tiểu đoàn dã chiến số 2 của trung đoàn bộ binh nhẹ (chính quy) An-giê-ri số 1.

Dịch tirailleur thành pháo thủ dễ gây ngộ nhận. Pháo thủ từ hơn một thế kỷ nay đã được xem là cũng nghĩa như pháo binhpháo binhlính chuyên coi về việc bắn đại bác (Hội Khai Trí Tiến Đức (1931:431). Génibrel (1898:596) dịch là artilleur. Vì lý do này, tiểu thuyết Les Trois Mousquetares có thời được dịch là Ba chàng ngự lâm pháo thủ, sau phải đổi lại thành Ba người lính ngự lâm vì mút-kê không phải là súng lớn.

Wednesday, 23 October 2013

Lệnh chiến đấu đâu?



Trích Jules Roy, Trận Điện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp (bản dịch của Bùi Trân Phượng, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1994):

Chủ nhật ngày 20 tháng 12 
Tướng Navarre rời Hà Nội.

Việt Minh tiến quân vào sâu hơn với đại đoàn 325 trong khu vực Nà Phao.

LỆNH CHIẾN ĐẤU

Hai tiểu đoàn dù thuộc đội quân của Bigeard đã quay về Hà Nội và, trong khi chờ đợi xây dựng trung tâm đề kháng Hồng Cúm ở phía Nam tạm thời do tiểu đoàn Tabor số 2 chiếm lĩnh, khu căn cứ Điện Biên Phủ gồm có Him Lam ở Đông Bắc, Bản Kéo ở Tây Bắc, do tiểu đoàn 5 lính dù Việt Nam giữ, Claudine ở cạnh đáy phía Tây do tiểu đoàn 1 thuộc bán lữ đoàn 13 lê dương giữ; đồi C ở cạnh đáy phía Đồng, do tiểu đoàn 3 lính Thái giữ; cao điểm 206, ở trung tâm phía Tây, do các đơn vị Thái và lê dương giữ; cuối cùng là đồi D, ở trung tâm phía Đông, do tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 3 pháo thủ Angiêri giữ. Một binh đoàn cơ động gồm tiểu đoàn 8 xung kích và tiểu đoàn 1 lính dù lê dương chuẩn bị đi Sốp Nao. Người ta đợi tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 1 pháo thủ Angiêri và tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 3 lê dương, để hình thành Hồng Cúm.

Ở Điện Biên Phủ, vị linh mục cũ của Lai Châu trở thành cha tuyên úy của Hồng Cúm tìm cách dùng xe tải phục vụ các nông dân chưa kịp mang lúa đã gặt về nhà. Mỗi buổi chiều, một đại úy quân y chăm sóc dân tản cư.

Phía Đông Bắc Thà Khẹt, lợi dụng thời tiết xấu, quân địch từ rừng núi đổ ra những con đường tồi tệ để tấn công binh lính ta mà không quân không thể yểm trợ.
 

Không thấy cái lệnh chiến đấu nào cả. Cả đoạn văn chỉ nói về tình hình bố trí lực lượng. Nghi bản gốc là ordre de bataille. Có người còn dịch ordre de bataillechiến lệnh.

Từ ordre có mười mấy nghĩa. Lệnh là một. Cái nghĩa căn bản nhất là thứ tự và là nghĩa của ordre trong thuật ngữ ordre de bataille, chỉ sự bố trí lực lượng (rang, position assigné(e) aux différents corps de l'armée pour se présenter au combat). Đào Duy Anh (1950:1185) mượn陣列tiếng Trung Quốc, dịch là trận liệt. Thuật ngữ này được sử dụng trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa (Đỗ Thiếu Liệt, 1957:274).

Tuesday, 22 October 2013

Viên tướng Pháp muốn rắc tàn tro xác mình xuống lòng chảo Điện Biên Phủ (Nguyễn Văn Thọ - An Ninh Thế Giới Cuối Tháng)

Trang nhất > An Ninh Thế Giới Cuối Tháng > Sổ tay
Viên tướng Pháp muốn rắc tàn tro xác mình xuống lòng chảo Điện Biên Phủ
4:07, 27/07/2010

Đại tướng Marcel Bigeard.
Ngày 18/6/2010, Đại tướng Pháp Marcel Bigeard đã qua đời tại nhà riêng. Gia đình ông quyết định tuân theo di chúc của người quá cố: Rắc tro xác của ông xuống lòng chảo Điện Biên Phủ. Vì sao?
Sinh năm 1916 tại vùng Toul, Pháp, sang Việt Nam tham chiến giữa thập niên 40 của thế kỷ trước, Bigeard nguyên khởi đường binh nghiệp từ lính nhảy dù, vốn được coi là lực lượng thiện chiến nhất của quân đội viễn chinh Pháp.
Cuốn Lịch sử cách mạng Yên Bái, không cụ thể chi tiết, ghi nhận: Ngày 18/10/1952, quân Pháp nhảy dù xuống Tú Lệ nhằm ứng cứu cho Nghĩa Lộ bị thất thủ, đội du kích Cao Phạ đã phối hợp với bộ đội chủ lực của ta chốt chặn và chiến đấu quyết liệt với quân địch ở đèo Khau Phạ… Bigeard chính là viên sĩ quan đã thực hiện cuộc nhảy dù xuống vựa lúa nếp nổi tiếng, cánh đồng Tú Lệ, nhằm giải cứu cho lực lượng Pháp còn sót lại, sau thất bại thảm hại của Pháp tại Nghĩa Lộ, Văn Chấn.
Thực sự, số quân Pháp trong chiến dịch này, đã không bị bộ đội Việt Namtiêu diệu hoàn toàn. Bigeard từ chỗ nhảy xuống Tú Lệ nhằm giải cứu, chuyển thành cầm cự rồi tháo lui cứu vãn lực lượng. Cuộc tháo chạy trong trùng điệp vòng vây của địa hình hiểm trở và lực lượng kháng chiến ViệtNam kéo dài hơn 100 cây số. Bigeard vượt qua được phục kích của du kích và quân chủ lực Việt Nam, qua được đèo Cao Phạ đầy nguy hiểm.
Với nhãn quan quân sự thuần tuý, đây là một sở đoản đáng khâm phục của Bigeard khi ở tư cách một sĩ quan chỉ huy phá vây. Điểm nhấn lịch sử cá nhân của ông và quân đội Pháp trong thất bại này, thực sự vừa là bi kịch của chiến tranh, vừa nói lên tính can trường của người lính Bigeard... Tỏ ra là một sĩ quan giàu kinh nghiệm chiến đấu, Bigeard cùng cánh tàn quân làm cuộc hành quân dài hơn 120 cây số.
120 cây số là đơn vị chiều dài không giản đơn, khi ông dẫn một đoàn quân tháo chạy, vừa bị đánh tơi bời, phải lui binh giữa vùng núi non hiểm trở, luôn bị đối phương bao vây bằng sức mạnh tổng hợp của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương là người dân địa phương Yên Bái, những người vốn rất quen thuộc địa hình. Điều đó thực quả không hề dễ dàng thoát hiểm. Song Bigeard đã tổ chức cuộc rút lui khá an toàn tính mạng về phía Tây - Tây Bắc…
Sau cuộc tháo chạy thảm bại này của tiểu đoàn lính dù Pháp do Bigeard cầm quân, về phía kháng chiến quân Việt Nam là sự giải phóng hoàn toàn vùng Yên Bái, lấy đó làm khu hậu cần khổng lồ, đường tiếp vận chủ yếu cho chiến dịch Điện Biên Phủ ngay sau đó 1 năm.
Trên thao trường như trong chiến trận.

Song về phía Pháp, lại là cơ hội để giới chính trị sa-lon ở chính quốc và giới quân sự Đông Dương Pháp, lên dây cót cho tinh thần quân đội Pháp và lính đánh thuê Lê Dương đang hết sức lúng túng và bị động trước sự điều binh khiển tướng chiến lược của Việt Minh trên toàn chiến trường Đông Dương nói chung và trên mặt trận chính là miền Bắc Việt Nam. Bigeard lập tức được báo giới chính quốc bấy giờ thổi phồng, tuyên truyền, coi như việc tháo chạy khỏi Yên Bái như hành vi anh hùng của quân đội Pháp tại Đông Dương…
Nhưng quá khứ quan trọng nhất, có lẽ thực sự gây ám ảnh suốt đời Bigeard sau này, để ông về cuối đời đã 7 lần qua lại Việt Nam và xác lập nguyện vọng đốt xác, rắc nắm tro của ông xuống cánh đồng, lòng chảo Điện Biên Phủ, chính là nơi ông thực hiện cuộc nhảy dù cuối cùng trong chiến tranh tại Việt Nam, khi bộ đội Việt Nam đã khép chặt vòng vây và Điện Biên Phủ đang ở thời điểm giao tranh khốc liệt nhất trong chiến tranh Pháp - Việt và Bộ chỉ huy quân đội Pháp do Nava chỉ huy hết sức lúng túng, bị nhiều bất ngờ khi đối phó với các lực lượng quân sự chính quy của Việt Nam ở điểm trọng yếu này.
Phía Pháp phải ném vào lòng chảo đang ngun ngút khói lửa vị sĩ quan tài ba nhất của họ tại Đông Dương. Thiếu tá là cấp bậc của Bigeard trước khi ông nhảy dù xuống Điện Biên.
Hồi kí của nhiều nhân chứng Pháp và Việt, kể cả người của chính quyền bù nhìn Bảo Đại, hồi kí của chính Bigeard đều mô phỏng hết sức chi tiết và không khác nhau lắm về giai đoạn này. Đặc biệt ở lịch sử Yên Bái, tuy không ghi chi tiết về cá nhân sĩ quan Bigeard, song hồi kí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại ghi nhận rõ từng thời kì, nhiều điểm cuộc đời binh nghiệp Bigeard.
Giai đoạn Bigeard chiến đấu tại Điện Biên, thực hiện cuộc nhảy dù với hai khẩu pháo 105 li và sau đó lập tức chiến đấu hết sức liều lĩnh, cùng lính dù Pháp và Thái do ông ta chỉ huy ngày 16-3-1954, để tăng cường và khích lệ lực lượng phòng thủ đã suy yếu, gần như tuyệt vọng. Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghi nhận sự xuất hiện của Bigeard đã mang lại một chút phấn chấn cho quân đồn trú...
Bigeard ngay sau khi nhảy dù được thăng cấp trung tá, lập tức chỉ huy lực lượng phản kích, gồm năm tiểu đoàn với sự yểm trợ của tối đa không quân và pháo binh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng ghi nhận ở hồi ký của ông về trận phản kích của Bigeard được quân viễn chinh coi là thắng lợi, một chiến thắng hầu như duy nhất tại Điện Biên Phủ trong suốt thời gian này.
Các nhà chiến lược quân sự Pháp hẳn có nhiều dụng tâm khi ở giai đoạn gay cấn nhất trên trận Điện Biên Phủ, lại thả con xe điều xuống Điện Biên, lò lửa Đông Dương này. Và đáng buồn thay, sự kiện trên - theo tài liệu của chính Lịch sử quân lực của chính quyền Sài Gòn ghi rằng: Đêm hôm 15 tháng 3 đã có một số binh sĩ Thái trốn khỏi cứ điểm, và vào ngày 17 tháng 3 đại bộ phận của Tiểu đoàn 3 Thái, một phần đào ngũ theo Việt Minh, một phần bỏ ngũ về với gia đình.
Mặc dù đã có Tiểu đoàn Dù thuộc địa số 6 dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Marcel Bigeard, một sĩ quan thuộc loại cừ khôi vào bậc nhất của Pháp ở Đông Dương. Như vậy dù Bigeard có mặt, cũng không lên được dây cót cho một đội quân ở Điện Biên lâm vào cái thế không thể thay đổi, đã hoảng sợ trước sức mạnh như bão táp của các sư đoàn quân Việt Nam.
Bigeard đã bị bắt làm tù binh và sau năm 1954, đã được chính phủ Việt Nam trao trả cho chính phủ Pháp. Paris mặc dầu vậy vẫn đánh giá cao, thừa nhận, coi ông là sĩ quan có tài, nên lại tiếp tục ném Bigeard vào cuộc chiến mới tại Algeria, để ông tiếp tục bảo vệ quyền lợi của nhà nước thực dân Pháp.
Nhưng chính ông, ở hồi ký của mình, đã nhận ra rằng, mọi cố gắng khi đó, của ông và quân đội đồn trú ở Điện Biên chả có tính anh hùng ca bất tử. Sự hồi tưởng ám ảnh của Bigeard trên cánh đồng Mường Thanh năm đó, là sự thức tỉnh có tính giác ngộ, khi chính người anh hùng Bigeard đã coi chiến công này chỉ là: Ngọn lửa rơm (Bigeard, 1975, tr. 167).
Chỉ ba từ Ngọn lửa rơm, Bigeard đã nhìn ra sự thật, cái tất yếu của chiến cuộc, mà phần thắng không gì cưỡng nổi thuộc về người Việt. Chi tiết tự nhận ra bản chất thật ý nghĩa đời sống binh nghiệp này của Bigeard, phần nào lí giải cho ý nguyện của ông, khi năm 1988 quyết định ở di chúc: sau khi chết, tro bụi xác thân được rải xuống Điện Biên Phủ. Về nghĩa đen, tức là ông muốn xác ông quay lại nơi ông từng tham chiến.
Nếu theo như truyền thống văn hoá Pháp và luật Pháp nước Pháp: là Đại tướng, Bigeard phải được danh dự tang lễ và chôn xác ở tổ quốc. Việc mong ước mang chính tro xác mình ra đi, ở hẳn nơi xứ người, có nghĩa là ông không chỉ trở về với nơi đã rút lui, bỏ lại hơn 100 xác chết mà còn là việc ông từ chối sự vinh danh mà nước Pháp dành cho ông, tức là chối bỏ điều ông tin tưởng ngày xưa.
Sự quay trở lại nơi ông đã từng đồng cam cộng khổ với đồng đội - theo cá nhân tôi, cũng là một người lính - còn là sự tự đánh giá hành vi cá nhân ở mỗi giai đoạn lịch sử mang tính ngộ (chữ theo ý nghĩa nhà Phật) thừa nhận một lần nữa, một cách khách quan nhất, tài năng địch thủ của ông, những người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam.
Có câu “Con người sinh ra từ cát bụi lại trở về cát bụi”. Nhưng sự kiện Đại tướng bốn sao Marcel Bigeard, từng là cựu Thứ trưởng Quốc phòng (1975), với sở nguyện cuối cùng của mình (mà chính phủ Pháp ở quá khứ không muốn như ông di chúc - Tổng Thống Pháp Giscard d'Estaing trước kia khi được báo giới hỏi ý kiến về di chúc "rải tro" đã trả lời là không đồng ý).
Và, hôm nay, sau khi viên Đại tướng Marcel Bigeard qua đời, chính phủ đương nhiệm Pháp lại yên lặng trước quyết định của gia đình ông. Như vậy, hẳn thời đại, lịch sử thế giới đã và đang sang trang rất mới, trong đó con người ta, tuy không thể làm lại lịch sử, song có thể hàn gắn nó, những vết thương cũ của lịch sử còn lại, để cho các dân tộc tiến bộ trên địa cầu này có thể hiểu nhau mà xích lại gần nhau hơn nữa.
Nó cũng là lời cảnh báo cho các lực lượng hiếu chiến rằng, ở một thời điểm nào đó, ai có thể lừa bịp được dân chúng, đẩy họ đi vào các cuộc chiến trên thế mạnh về vật chất, song sự thật của lịch sử, thì không thể nào lừa bịp được các dân tộc, khi những chứng nhân có danh dự, lương tri sẽ có một ngày cất tiếng…
Sở cầu của viên Đại tướng Pháp hẳn trùng với câu ngạn ngữ của người Việt: Tiếng chim hót trước khi chết là tiếng chim khôn
  Nguyễn Văn Thọ