Wednesday, 7 May 2014

Binh lính đồn trú Điện Biên Phủ giải quyết sinh lý bằng cách nào?


Theo Lịch sử đảng bộ tỉnh Lai Châu (1945-2009), trong vòng một tháng sau khi tái chiếm Điện Biên Phủ lính Pháp đã gây ra 158 vụ hãm hiếp phụ nữ. Cùng với sự hình thành tập đoàn cứ điểm, bộ chỉ huy Pháp phải nghĩ đến chuyện giải quyết nhu cầu sinh lý của hơn một vạn quân trú đóng lâu dài.


Trang Web của VietnamCulture Travel viết không đúng:
The French even went to the extent of flying in an entire brothel of French women to keep the soldiers happy!


Không có gái mại dâm người Pháp trong nhà thổ lưu động ở Điện Biên Phủ. Chỉ có gái Việt và gái Bắc Phi (André Galabru, 2006:42 ; Alain Ruscio, 2006:345-346), tổng cộng 18 người. Toán thứ nhất (gái Việt, do một má mì từ Sài Gòn ra, tên Chính, tên khác là Marie Casse-croûte tuyển mộ và phụ trách) theo máy bay từ Hà Nội lên vào giữa tháng 1-1954, được giao cho sĩ quan quân y lê dương quản lý. Toán thứ hai đến Điện Biên Phủ ngày 27-2.

Từ đầu tháng 2, vì sợ Việt Minh pháo kích, một số lính lê dương xung phong đào hầm cho gái (được miễn công tác tu bổ công sự chiến đấu). Hầm được xây dựng khá kiên cố, có đường đi lối lại, trang bị đầy đủ.

Một công văn được gửi ra, quy định ngày giờ mở cửa nhà thổ và thứ tự  luân phiên các đơn vị, riêng các đơn vị ở xa sẽ có gái đến phục vụ tại chỗ. Ai cũng vui, chỉ có các linh mục tuyên úy phản đối chút đỉnh, đòi điều chỉnh thời gian biểu vui chơi sao cho không trùng với giờ đọc kinh hoặc làm lễ rửa tội.


Khi chiến sự nổ ra ác liệt, không ai còn hồn vía để vui chơi nữa. Các gái điếm vẫn thuộc quyền quản lý của quân y, ngưng làm công việc ủng hộ sinh lý để trở thành các hộ lý chăm sóc thương binh (Alain Ruscio, 2006:345-346).

Jacques Dalloz, tác giả quyển La Guerre d'Indochine (Points Seuil) cho rằng Việt Minh giết sạch số gái điếm bị bắt ở Điện Biên Phủ (http://www.liberation.fr/courrier/2004/05/07/les-prostituees-de-dien-bien-phu_478690). Chuyện này hơi khó tin. Có lẽ là các gái điếm người Việt chỉ phải đi cải tạo (http://www.nytimes.com/2004/04/01/opinion/01iht-edpringle_ed3_.html)

Trong một thời gian dài Geneviève de Galard được xem là người phụ nữ duy nhất (seule femme) có mặt ở Điện Biên Phủ đến phút chót. Gần đây để tôn trọng sự thật lịch sử và để tỏ lòng kính trọng những người phụ nữ vô danh lạc loài giữa bom đạn, người ta nói lại rằng Geneviève de Galard  là người phụ nữ Pháp duy nhất (seule Française) (Alain Ruscio, 1985:335-347), với hàm ý rằng Điện Biên Phủ còn những người phụ nữ khác, không phải người Pháp. Nhưng vẫn còn nhiều người không biết những người phụ nữ ấy đến Điện Biên Phủ làm gì.

Tuesday, 6 May 2014

Geneviève de Gallard là ai?



Geneviève de Gallard là một trong số 35 nữ y tá làm nhiệm vụ trên các máy bay tản thương của quân đội Pháp (convoyeuse de l’Air - CVA). Cô gia nhập lực lượng này năm 1953. Tháng 1/1954 cô được phái ra Hà Nội. Theo kế hoạch mỗi ngày có hai nữ CVA được chỉ định theo máy bay lên Điện Biên Phủ đón thương binh. Trong phiên công tác đêm 26 rạng ngày 27 tháng 3 năm 1954, máy bay của Geneviève không đón được thương binh. Cô tình nguyện trở lại vào đêm sau. Máy bay đến Điện Biên Phủ lúc 4 giờ sáng và kẹt luôn ở đó vì bị cao xạ Việt Minh bắn hỏng. Cô được phân công về đội điều trị trung tâm, phụ trách chăm sóc thương binh nặng sau khi họ ra khỏi phòng hồi sức. Cuối tháng 4-1954, chỉ ít ngày trước khi Điện Biên Phủ thất thủ, Geneviève de Gallard, mệnh danh là nữ thiên thần của Điện Biên Phủ (l’Ange  de Dien Bien Phu), được thưởng Bắc đẩu bội tinh và huân chương quân công (croix de guerre).

Trong một thời gian dài sách báo Pháp xem cô là người nữ tù binh duy nhất ở Điện Biên Phủ khi tập đoàn cứ điểm này thất thủ. Sách báo của ta hiện nay cũng không nói khác.

Hơn hai chục bác sĩ và mấy chục nhân viên quân y Pháp cũng bị đói, thân hình gày guộc, mệt mỏi, phờ phạc. Anh Khánh cho biết có người nữ hộ lý duy nhất, tên là Đờ Gala (Geneviève de Galard), đã được những thương binh Pháp coi là "thiên thần". Tôi nói điều ngay tới một đội điều trị kết hợp với nhân viên y tế của Pháp cứu chữa thương binh, có thể cho phía Pháp xuống lấy thương binh nặng như ta đã làm ở Thất Khê trong chiến dịch Biên Giới. Phải tổ chức ngay việc tẩy uế chiến trường để tránh dịch bệnh, cho chuyển thương binh địch từ dưới hầm lên khỏi mặt đất. Và sớm cho cô hộ lý duy nhất tại đây trở về với gia đình.
(Võ Nguyên Giáp – Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử)

Chiều mùng 07 tháng 05 năm 1954, quân Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ. Hơn 10 nghìn tù binh bị ta bắt sống, trong đó duy nhất có một nữ tù binh, đó là Geneviève de Gallard - cô nữ y tá xinh đẹp chừng hơn 30 tuổi, nguyên là tiếp viên hàng không đến từ Pari, với cái tên “nữ hoàng của mặt trận”.

Là một y tá trong quân đội, cô theo máy bay tải thương lên ĐBP, nhưng do máy bay bị phá hỏng nên kẹt lại khi vòng vây đã bị xiết chặt. Cô bị bắt khi cứ điểm thất thủ trong buổi chiều tháng năm đáng nhớ đó. Cô là người phụ nữ duy nhất trong đám tù binh, vì vậy mà được báo chí của Pháp hồi đó ở Hà Nội làm rùm beng lên. Theo lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cô y tá này được trả sớm cùng với các thương binh ở ĐBP trong những ngày từ 13 đến 28-5.
(http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/tin-tuc-su-kien/item/8249502-.html)

Monday, 5 May 2014

Âu Phi hay Âu Phi Á?



Sách vở của ta thường phân loại quân địch trên chiến trường Đông Dương theo chủng tộc thành lính Âu Phi (từ châu Âu hoặc từ châu Phi đến) và lính ngụy (người bản xứ).

TRƯỚC khi vào mùa khô 1953-1954, so sánh lực lượng về quân số, địch đã vượt lên ta khá xa. Tổng quân số của địch là 445.000 người, gồm 146.000 quân Âu Phi (33%) và 299.000 quân ngụy (67%). Tổng quân số của ta là 252.000 người. Như vậy, quân địch đông hơn ta: 193.000 người. Riêng quân ngụy cũng đã đông hơn ta: 47.000 người.
(Võ Nguyên Giáp – Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử)

Theo cách phân loại này, Điện Biên Phủ chỉ có vỏn vẹn ba tiểu đoàn người bản xứ:

Trừ 2 tiểu đoàn bộ binh Thái và 1 tiểu đoàn dù ngụy là người bản xứ, do những sĩ quan Pháp chỉ huy, số còn lại đều là những đơn vị Âu Phi được lựa chọn trong các binh đoàn cơ động, gồm 5 tiểu đoàn bộ binh và dù lê dương, 4 tiểu đoàn Bắc Phi. Tất cả đều là những đơn vị. có truyền thống lâu đời hoặc đã được thử thách nhiều trong chiến đấu và có chỉ huy tốt.
(Võ Nguyên Giáp – Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử)

Thực ra thì trong các đơn vị gọi là Âu Phi lúc nào cũng có người Việt làm nhiệm vụ thông ngôn, dẫn đường và nhiều việc linh tinh khác. Số này không nhiều nên các đơn vị được gọi là Âu Phi trông đúng là Âu Phi. Tuy nhiên, từ năm 1949 trở đi, ngoài số lính Việt đỡ đần chân tay đó ra, trong biên chế của các tiểu đoàn tác chiến (gọi là) Âu Phi đều có 1-2 đại đội người Việt.

Ngày 18 tháng 3 năm 1951, tiểu đoàn nhảy dù lê dương số 1 (1er BEP) số 1 được tái lập tại Hà Nội với đủ 3 đại đội tác chiến, trong đó có 1 đại đội Đông Dương gọi là CIP (compagnie indochinoise parachutiste).

Tiểu đoàn nhảy dù thuộc địa số 6 (6e BPC) của Bigeard khi xuống tàu ở Pháp (tháng 7-1952) chỉ có 352 người, chủ yếu là khung cán bộ, chỉ có một đại đội chỉ huy và một đại đội tác chiến hoàn chỉnh. Khi sang đến Đông Dương nhận 318 lính Việt bổ sung mới hình thành tiểu đoàn có khả năng chiến đấu, trong đó có một đại đội CIP (đại đội 6). Tháng 10-1953 thành lập thêm một đại đội CIP nữa (đại đội 26), tức là trong số bốn đại đội tác chiến của tiểu đoàn này đã có hai đại đội người Đông Dương.

Do việc xin tăng viện từ chính quốc có khó khăn, bộ chỉ huy Pháp ở Đông Dương phải tăng tỷ trọng lính bản xứ trong các đơn vị (gọi là Âu Phi). Tháng 5-1953, tiểu đoàn 2 nhảy dù lê dương có biên chế 980 quân thì số lính bản xứ đã là 481 (về lý thuyết, tiểu đoàn này chỉ được phép có 439 lính bản xứ). Bán lữ đoàn lê dương số 13 (13e DBLE) vào năm 1953 phình ra bằng một lữ đoàn nhờ mộ thêm được lính bản xứ. (Michel Bodin, 2003:11-27).
Tất cả các đơn vị vừa kể trên đều có mặt ở Điện Biên Phủ và được tướng Giáp gọi là các tiểu đoàn Âu Phi.

Tiểu đoàn 1 nhảy dù thuộc địa (thiếu một đại đội), đơn vị cuối cùng được ném xuống Điện Biên Phủ vào cuối tháng 4, đầu tháng 5-1954, có thành phần như sau:
-ban tham mưu và đại đội chỉ huy: 48 người (12 Việt);
-đại đội 2: 3 sĩ quan, 17 hạ sĩ quan (1 Việt) và 102 lính (47 Việt);
-đại đội 3: 4 sĩ quan, 16 hạ sĩ quan (2 Việt) và 101 lính (49 Việt);
-đại đội 4: 3 sĩ quan, 11 hạ sĩ quan  và 64 lính (43 Việt);

Các tiểu đoàn (toàn) Phi như Ma-rốc, An-giê-ri, Xê-nê-ga-le... có lẽ vì đặc điểm văn hóa, ban đầu không lập đại đội người bản xứ nhưng rồi vì quân số hao hụt nên đành nhận các đại đội phụ lực. Quân chính quy người bản xứ chỉ dành cho các đơn vị dữ dằn (lê dương, dù...).

Bộ tham mưu liên quân  (EMIFT) đã dự trù đến cuối năm 1953 lực lượng bộ chiến có 158.566 quân (con số thực tế ngày 1/11/1953 là 182.424, chia làm 100 tiểu đoàn bộ binh, 17 pháo đoàn, 40 chi đoàn kỵ binh, 8 tiểu đoàn công binh và một số đại đội binh chủng khác) trong đó số người bản xứ là 53.870  chính quy và 52-58.000 quân phụ lực. Một phần số này là do quân đội quốc gia Việt Nam chuyển qua cho quân liên hiệp Pháp (Lê Văn Dương, 1972:196).


Trong khi đó các đơn vị gọi là ngụy cũng không hoàn toàn là người bản xứ. Cuối năm 1952  (Lê Văn Dương, 1972:226) có 4568 người Pháp (718 sĩ quan) phục vụ trong quân đội quốc gia Việt Nam: 2011 vệ binh cộng hòa (người Pháp) chỉ huy 26.000 vệ binh quốc gia (Việt Nam).  Theo thống kê vào ngày 1/11/1953, trong quân đội quốc gia Việt Nam, (151.020 quân chính quy và 47.025 quân phụ lực người bản xứ) có 3.961 sĩ quan, hạ sĩ quan lục quân Pháp được biệt phái qua làm chỉ huy (Lê Văn Dương, 1972:196).
Tiểu đoàn 5 nhảy dù Việt Nam (5eBPVN) được thành lập ngày 1/9/1953, thực chất chỉ là đổi phiên hiệu của một tiểu đoàn viễn chinh (tiểu đoàn 3 dù thuộc địa - 3e BPC). Tiểu đoàn 3 được giải thể trên giấy tờ trước đó một ngày. Khung cán bộ cùng với hai đại đội CIP số 3 và số 23 được đưa sang cho tiểu đoàn 5 dù Việt Nam. Đây là tiểu đoàn dù ngụy duy nhất có mặt ở Điện Biên Phủ, được tướng Giáp nhắc đến trong đoạn trích hồi ký Điểm Hẹn Lịch Sử đã dẫn ở trên.

Sunday, 4 May 2014

Chiến lược da vàng hóa đã được khởi động như thế nào ?


Theo Michel Bodin (2009):
Do số quân tăng viện từ Pháp sang không đủ đáp ứng yêu cầu của chiến trường, bộ chỉ huy Pháp ở Đông Dương phải nghĩ đến việc tìm kiếm những giải pháp nhiều, nhanh, tốt, rẻ để đối phó với áp lực ngày càng mạnh của Việt Minh và nguy cơ bùng nổ chiến tranh với nước Trung Hoa Đỏ.
.
Năm 1949 các tiểu đoàn biệt kích dù thuộc địa (BCCP) bắt đầu nhận lính chiến đấu người bản xứ, gom vào một đại đội gọi là đại đội Đông Dương (Compagnie Indochinoise Parachutiste), bên cạnh ba đại đội cơ hữu. Ở một số tiểu đoàn biệt kích dù thuộc địa (số 1, số 2, số 3 và số 5) mỗi đại đội chỉ có hai trung đội nên cấp đại đội được lập thêm một trung đội người bản xứ. Người bản xứ chiếm 40% quân số pháo binh, 20 % kỵ binh, 35 % khối cơ quan và tiếp vận. Tỷ lệ người bản xứ tăng nhanh trong bộ binh: 38291 người  (37,6 %) vào tháng 1-1949, 42076 người (tháng 12-1949) với những tiểu đoàn có 60-70% quân số là người bản xứ.

Ngoài các đơn vị chính quy kể trên, bộ chỉ huy Pháp còn huy động 109640 người bản xứ (riêng Nam Kỳ góp 52290 người) tham gia phụ lực quân và vệ binh các loại (Vệ Binh Nam Việt ở Nam kỳ, Việt Binh Đoàn tức Vệ Binh Trung Việt, Bảo Chính Đoàn (Bắc kỳ), Vệ Binh Sơn Cước, Vệ Binh Quốc Gia từ tháng 4-1949).
Người ngoại quốc trong đội quân lê dương từ 11886 người (tháng 1-1949) tăng lên 16952 người (tháng 12) được tổ chức thành 11 tiểu đoàn bộ binh, 1 trung đoàn kỵ binh (1er REC) và các đơn vị binh chủng (công binh, tiếp vận, quân cụ).

Quân Bắc Phi có 24364 người vào tháng 12 (tổng cộng 23 tiểu đoàn, trong đó Ma rốc các loại 12 tiểu đoàn, An-giê-ri 10 tiểu đoàn, Tuy-ni-di 1 tiểu đoàn). Lính Xê-nê-ga-le (Phi Châu da đen / Tây rạch mặt) có 12090 người (9 tiểu đoàn).

Ngay trong năm 1949 lục quân Pháp ở Viễn Đông (FTEO) đã trở thành một lực lượng hết sức đa dạng về mặt chủng tộc. Lính Pháp chính quốc chỉ chiếm 31,1 % tổng quân số ; số hiện diện trong các đơn vị chiến đấu còn ít hơn vì nhiều quân nhân Pháp phục vụ trong các văn phòng hoặc được biệt phái sang các đơn vị bản xứ. Các thành phần chủng tộc còn lại có tỷ lệ như sau: Âu (không kể Pháp) 11,6 %, Bắc Phi 16,7 %, Phi Châu  (da đen) 8,3 %, bản xứ 32,3 %. Việc quản trị nhân sự và yểm trợ hậu cần do đó trở nên phức tạp hơn trước nhiều.

Lính bản xứ rẻ hơn lính từ chính quốc hoặc từ châu Phi đưa qua, lại thông thạo ngôn ngữ và đường đi lối lại, nhưng không đáng tin cậy. Họ không thích phục vụ xa nhà (hễ đưa đi xa thì thường đào ngũ) và hay trở cờ, vác súng chạy sang Việt Minh. Lính bản xứ thường chỉ được giao nhiệm vụ đóng đồn, trấn giữ các tháp canh dọc trục lộ giao thông quan trọng, hoặc đi biệt kích, hoặc đi theo một đơn vị chính quy.

Saturday, 3 May 2014

Các cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam (Nguyễn Thanh Tâm - Tuyên Giáo)


Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã đi qua chặng đường lịch sử 80 năm. Từ sau Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng (3-2-1930) đến nay, Đảng đã tiến hành 10 Đại hội đại biểu toàn quốc, khoảng 141 cuộc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, nhiều cuộc Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương và Hội nghị Bộ Chính trị. Mỗi Đại hội, hội nghị đã đánh dấu những mốc quan trọng trong lịch sử anh hùng, vẻ vang của Đảng bởi những văn kiện, nghị quyết làm nên chủ trương, đường lối cách mạng Việt Nam. Có nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng mang tính cương lĩnh chiến lược, sách lược cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, nếu xét về tên gọi của mỗi văn kiện và khái niệm "Cương lĩnh chính trị" theo nghĩa là bản trình bày một cách khoa học nhất mục đích, tôn chỉ, phương hướng, nhiệm vụ của một chính đảng cách mạng, cũng như xác định đầy đủ lực lượng, phương thức, phương pháp tiến hành cách mạng để thực hiện mục tiêu trước mắt, và nhằm tới mục đích cuối cùng của cách mạng, thì trong lịch sử 8 thập kỷ ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có 4 Cương lĩnh chính trị quan trọng.
1. Cương lĩnh của Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930)
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được đề ra tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước có ý nghĩa như Đại hội để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì, cùng với sự tham dự chính thức của hai đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929); hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (10-1929) và một số đồng chí Việt Nam hoạt động ngoài nước. Hội nghị họp bí mật ở nhiều địa điểm khác nhau trên bán đảo Cửu Long (Hương Cảng), từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, đã thảo luận quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và nhất trí thông qua 7 tài liệu, văn kiện, trong đó có 4 văn bản: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam hợp thành nội dung Cương lĩnh chính trị của Đảng. Tất cả các tài liệu, văn kiện nói trên đều do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo dựa trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) của Quốc tế Cộng sản; nghiên cứu các Cương lĩnh chính trị của những tổ chức cộng sản trong nước, tình hình cách mạng thế giới và Đông Dương. Dù là vắn tắt, tóm tắt, song nội dung các tài liệu, văn kiện chủ yếu của Hội nghị được sắp xếp theo một lôgic hợp lý của một Cương lĩnh chính trị của Đảng.
Trong Chánh cương của Đảng đã nêu "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" (1). Đó là mục đích lâu dài, cuối cùng của Đảng và cách mạng Việt Nam. Mục tiêu trước mắt về xã hội làm cho nhân dân được tự do hội họp, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục cho dân chúng; về chính trị đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, lập chính phủ, quân đội của nhân dân (công, nông, binh); về kinh tế là xóa bỏ các thứ quốc trái, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc giao chính phủ nhân dân quản lý, thu hết ruộng đất chiếm đoạt của đế quốc làm của công chia cho dân cày nghèo, phát triển công, nông nghiệp và thực hiện lao động 8 giờ. Những mục tiêu đó phù hợp với lợi ích cơ bản của dân tộc, nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta.
Sách lược của Đảng nêu rõ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, thu phục giai cấp, lãnh đạo dân chúng nông dân; liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông; tranh thủ, phân hóa trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc, đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới để hình thành mặt trận thống nhất đánh đuổi đế quốc, đánh đuổi bọn đại địa chủ và phong kiến, thực hiện khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập, người cày có ruộng.
Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng nêu chính xác tên Đảng, tôn chỉ của Đảng, hệ thống tổ chức của Đảng từ chi bộ, huyện bộ, thị bộ hay khu bộ; tỉnh bộ, thành bộ hay đặc biệt bộ và Trung ương.
Toàn bộ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng toát lên tư tưởng lớn là cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp đó là của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng Mác - Lênin.
2. Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930)
Tháng 10-1930, sau 8 tháng Đảng ra đời, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời có ý nghĩa như một Đại hội cũng tổ chức tại Hương Cảng do điều kiện trong nước bị đế quốc đàn áp khủng bố gắt gao phong trào cách mạng. Hội nghị họp từ ngày 14-10 đến 31-10-1930 thảo luận và thông qua bản Luận cương chánh trị, án nghị quyết của Trung ương toàn thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, Điều lệ Đảng, hợp thành nội dung Cương lĩnh thứ hai của Đảng. Hội nghị thông qua 17 văn bản là Nghị quyết, Điều lệ của các tổ chức đoàn thể cách mạng ở nước ta, công tác vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính, lập Hội đồng minh phản đế Đông Dương và bản Thông cáo cho các Xứ ủy bổ sung nội dung của Cương lĩnh. Hội nghị Trung ương quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, bầu đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư, nên Cương lĩnh thứ hai mà bản Luận cương chánh trị là văn kiện quan trọng, mang tên là Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Luận cương chánh trị do đồng chí Trần Phú (1904 - 1931) dự thảo từ mùa hè đến mùa thu 1930, sau khi được Quốc tế Cộng sản và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phái về nước, cử bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, trên cơ sở nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) Quốc tế Cộng sản về Đảng Cộng sản và cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới; các tài liệu, văn kiện Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng (2-1930) và khảo sát các phong trào công nhân, nông dân một số tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, khu mỏ than Hồng Gai - Cẩm Phả...
Từ phân tích tính chất, đặc điểm của xã hội các nước Đông Dương thuộc địa của đế quốc Pháp; những mâu thuẫn kinh tế, giai cấp tạo nên mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân Đông Dương và đế quốc chủ nghĩa Pháp, Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương có những điểm cơ bản giống với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là tính chất cách mạng Đông Dương là cách mạng tư sản dân quyền tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; là độc lập hoàn toàn cho các dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân Đông Dương, lập chính phủ, quân đội nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết với giai cấp vô sản quốc tế, các dân tộc bị áp bức trên thế giới và sử dụng phương pháp cách mạng bạo lực theo phương thức tổng bãi công, bạo động võ trang khi có thời cơ; Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, trung thành và hy sinh hết thảy vì lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và nhân dân lao động...(2).
Tuy vậy, Luận cương chánh trị, Án nghị quyết và Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương có những điểm khác biệt, nhưng không đối lập về tư tưởng chính trị với Chánh cương, Sách lược và Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những điểm khác biệt đó là ở chỗ bỏ tên "Việt Nam Cộng sản Đảng", lấy tên "Đông Dương Cộng sản Đảng"; chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền trong toàn cõi Đông Dương; lực lượng cách mạng chỉ trong công nhân, nông dân, binh lính, chưa thấy hết vai trò của lực lượng yêu nước trong tiểu tư sản, tư sản dân tộc; xác định mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến, giữa độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân tuy biện chứng, sâu sắc nhưng chưa định được xu hướng phát triển nhiệm vụ giải phóng dân tộc có tính quyết định hàng đầu; hệ thống tổ chức của Đảng quy định thêm tổng bộ, xứ bộ, quận bộ, liên khu bộ và Đảng đoàn (3).
Có những nguyên nhân của sự tương đồng và nguyên nhân của sự khác biệt giữa Cương lĩnh đầu tiên và Cương lĩnh thứ hai của Đảng. Nguyên nhân chính là do nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản về lập Đảng Cộng sản, về cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới vào điều kiện nước ta; vai trò của lãnh tụ Đảng, lãnh tụ dân tộc và chính sách phản động đàn áp khủng bố của đế quốc, phong kiến.
3. Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Đại hội lần thứ II của Đảng (2-1951)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 11 đến 19-2-1951 tại xã Vinh Quang (nay xã Kim Bình), huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang). Đại hội đưa ra những văn kiện quan trọng: Diễn văn khai mạc Đại hội do đồng chí Tôn Đức Thắng đọc; Báo cáo hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội, tức là bản Luận cương cách mạng Việt Nam, do đồng chí Trường Chinh trình bày; Chính cương Đảng Lao động Việt Nam; Điều lệ Đảng Lao động Việt Nam; Tuyên ngôn của Đảng Lao động Việt Nam, là những văn kiện chủ yếu về nội dung Cương lĩnh thứ ba của Đảng. Tại Đại hội có 6 báo cáo tham luận về Mặt trận, chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng quân đội, kinh tế tài chính, xây dựng văn nghệ nhân dân và thi đua ái quốc cùng 4 Nghị quyết Đại hội về Báo cáo chính trị, công tác quân sự, công tác mặt trận và dân vận, về tờ báo Nhân dân là cơ quan Trung ương của Đảng, bổ sung cho nội dung Đại hội.
Báo cáo chính trị đã tổng kết khái quát tình hình thế giới trong nửa đầu thế kỷ XX; thắng lợi cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời lãnh đạo qua các thời kỳ cho đến giai đoạn tổng phản công của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đề ra từ năm 1950, đã chứng tỏ đường lối, chính sách của Đảng ta là đúng; thành tích nhiều, khuyết điểm cũng không ít như khuynh hướng hoặc "tả" hoặc "hữu", chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi và bệnh công thần. Từ đó xác định tình hình mới, nhiệm vụ mới của Đảng, nhiệm vụ chính trước mắt là đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và tổ chức xây dựng Đảng Lao động Việt Nam, để lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện tiến đến chủ nghĩa xã hội" (4).
Luận cương cách mạng Việt Nam là bản Cương lĩnh chính trị mới của Đảng. Phân tích tính chất xã hội Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và phần nửa phong kiến; mâu thuẫn chủ yếu giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược diễn ra quyết liệt dưới hình thức chiến tranh; đối tượng của cách mạng Việt Nam là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ cùng bè lũ Việt gian bù nhìn bán nước; xác định nhiệm vụ cơ bản hiện thời của cách mạng là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập thống nhất, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân; gây cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó có nghĩa cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, nhiệm vụ phản đế giải phóng dân tộc là trọng tâm, nhiệm vụ chống phong kiến, giành quyền dân chủ tiến hành đồng thời nhưng phải có kế hoạch tiến hành từng bước, nhiệm vụ giải phóng dân tộc bao gồm cả hai nhiệm vụ phản đế và phản phong; cách mạng dân tộc dân chủ do nhân dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con đường tiến đến chủ nghĩa xã hội trải qua một thời gian dài gồm 3 giai đoạn, kế tục nhau và quan hệ mật thiết: kháng chiến tiêu diệt đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, củng cố Nhà nước dân chủ nhân dân; cải cách ruộng đất triệt để, phát triển nông nghiệp, công nghiệp dưới hình thức hợp tác hóa, kỹ nghệ hóa; đẩy mạnh công nghiệp hóa xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Luận cương cách mạng Việt Nam là sự bổ sung, hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng, soi sáng nhiệm vụ trước mắt và về sau của cách mạng nước ta.
Đại hội lần thứ II quyết định đưa Đảng ra công khai và lấy tên Đảng Lao động Việt Nam. Bổ sung cho Cương lĩnh của Đảng còn có Chính cương, Tuyên ngôn và Điều lệ Đảng xác định mục đích, tôn chỉ, nhiệm vụ lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến thắng lợi và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có hệ thống tổ chức chặt chẽ từ cơ sở đến Trung ương và trong quân đội bao gồm các cấp ủy: Chi ủy, Đảng ủy, quận, huyện ủy, thị ủy, tỉnh ủy, thành ủy, xứ ủy, khu ủy, Trung ương. Trong Đảng đã đặt ra chế độ khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh để tất cả đảng viên, tổ chức đảng thi hành.
4. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (6-1991)
Cùng với Báo cáo chính trị, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng, do Ban Chấp hành Trung ương (Khóa VI) đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 24 đến 27-6-1991 thảo luận và thông qua, là Cương lĩnh thứ tư của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Báo cáo chính trị - nền tảng của Cương lĩnh đã đánh giá 4 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện theo Nghị quyết Đại hội VI (12-1986) của Đảng, với những thành tựu, yếu kém và khó khăn trên các mặt chính trị, kinh tế - xã hội; quyền làm chủ nhân dân, quốc phòng - an ninh và quan hệ quốc tế; đồng thời đúc rút 5 bài học kinh nghiệm chủ yếu; đề ra mục tiêu tổng quát 5 năm (1991 - 1995), 5 mục tiêu cụ thể, 4 phương châm chỉ đạo và một số nhiệm vụ chủ yếu để thực hiện các mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Bản Cương lĩnh đã tổng kết hơn 60 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, từ năm 1930, đúc rút 5 bài học lớn về nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh đặc biệt nêu 6 đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là xã hội "do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới" (5).
Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường vừa xây dựng vừa bảo vệ Tổ quốc, nên phải nắm vững 7 phương hướng cơ bản. Đó là: Xây dựng Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; thực hiện công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại; thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thực hành chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị; kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Xuất phát từ Cương lĩnh đó, chiến lược của Đảng là phải ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng Đảng gắn với xây dựng, thực hiện Cương lĩnh, chiến lược công cuộc đổi mới, xây dựng hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đổi mới và tự chỉnh đốn Đảng ở các cấp từ dưới cơ sở đến Trung ương.
5. Cương lĩnh của Đảng qua những thời kỳ cách mạng nước ta trong thế kỷ XX.
Có 3 Cương lĩnh về cách mạng dân tộc dân chủ, và 1 Cương lĩnh về thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo thời gian và tiến trình lịch sử, mỗi Cương lĩnh của Đảng chứa đựng những giá trị nội dung và ý nghĩa lớn lao riêng. Các Cương lĩnh năm 1930 đã đưa đến ba cao trào cách mạng trong những năm 30, 40 thế kỷ trước và thắng lợi huy hoàng của Cách mạng Tháng Tám 1945; đồng thời là cơ sở cho Đảng ta đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh chống thực dân Pháp xâm lược.
Cương lĩnh năm 1952 định hướng cho quyết tâm đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tạo tiền đề cho Đại hội III (9-1960) của Đảng đề ra đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược tập trung kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam diễn ra suốt từ sau Hiệp định Giơnevơ (7-1954) đến năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội..
Cương lĩnh năm 1991 là bước phát triển, hoàn chỉnh các Cương lĩnh trước đó của Đảng, mở đầu cho quá trình nhận thức đầy đủ hơn, ngày càng rõ ràng hơn về chủ nghĩa xã hội và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Những điểm chung trong các Cương lĩnh đó của Đảng là tư tưởng nhất quán về cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; nhân dân là động lực cách mạng; Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng; Nhà nước, Chính phủ, quân đội của nhân dân; xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các Cương lĩnh đó đều được xây dựng dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiến tới Đại hội lần thứ XI. Cùng với việc chuẩn bị các Văn kiện Đại hội, việc bổ sung hoàn chỉnh Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đang được tiến hành. Với truyền thống kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được nêu trong các Cương lĩnh của Đảng trước đây; với những tổng kết về lý luận và kinh nghiệm công cuộc đổi mới từ Đại hội VIII, Đại hội IX, Đại hội X và nhiều Hội nghị Trung ương qua các kỳ Đại hội toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tin tưởng rằng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xãhội thông qua Đại hội Đảng lần thứ XI là Cương lĩnh cách mạng Việt Nam của Đảng trong thế kỷ XXI, đáp ứng nguyện vọng của dân tộc, nhân dân Việt Nam và mong muốn của nhân dân thế giới về xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, xã hội chủ nghĩa giàu mạnh./.
PGS,TS Nguyễn Thanh Tâm
Viện Lịch sử Đảng- Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
______________________________________

(1) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1998, t2, tr2
(2) (3) Xem Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1998, t2, tr88- 103, 104- 129
(3) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2001, t2, tr37
(5) Đảng Cộng sản Việt nam: cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, H.1991, tr 8- 9

Friday, 2 May 2014

Cố đại tá Nguyễn Đình Bảo nằm lại Charlie từ ngày nào?



Ngày 7-4-1972 tiểu đoàn 11 nhảy dù được đổ xuống Charlie (còn có các tên gọi Cải Cách / căn cứ C / cao điểm 1020 trong sách vở Việt Nam Cộng Hòa ; sách vở trong nước hiện nay gọi là căn cứ Sạc-Ly / điểm cao 1015).

Các trang mạng của người Việt hải ngoại thống nhất tường thuật về đoạn kết trận Charlie như sau:

Sáng 12-4-1972 trung tá Nguyễn Đình Bảo (tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 11 nhảy dù) trúng đạn pháo kích, chết tại chỗ ; thiếu tá Lê Văn Mễ (tiểu đoàn phó) được cử xử lý thường vụ chức vụ tiểu đoàn trưởng. Ngày 14 tháng 4 Việt Cộng mở đợt tấn công mới, tình hình nguy kịch, thiếu tá Lê Văn Mễ quyết định cho rút quân. Cả tiểu đoàn (còn 167 người) đồng loạt xuống núi lúc 5 giờ chiều để lại Charlie cho phi pháo hủy diệt. Chỉ 37 người về đến phòng tuyến quân bạn.

Sách Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước tập 7 (đại tá, PGS TS Hồ Khang chủ biên, Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, 2007:104-106) cho thấy một diễn biến khác. Theo đó thì loạt pháo đầu tiên mở màn trận đánh ngày 14-4 bắn trúng sở chỉ huy tiểu đoàn 11 nhày dù, làm tiểu đoàn phó bị thương nặng. Đến 5 giờ chiều, bộ đội được lệnh xung phong. Hướng tây bắc đột phá công sự vòng ngoài, phát triển vào bên trong đánh chiếm sở chỉ huy tiểu đoàn, bắn chết tiểu đoàn trưởng.

Thursday, 1 May 2014

THỬ TÌM HIỂU TỪ NGUYÊN MỘT SỐ CẶP TỪ VIỆT HÁN (Phan Zung - Việt Hán Nôm)



THỬ TÌM HIỂU TỪ NGUYÊN MỘT SỐ CẶP TỪ VIỆT HÁN


THỬ TÌM HIỂU TỪ NGUYÊN MỘT SỐ CẶP TỪ VIỆT HÁN
0.Đặt vấn đề:
Trước hết thử xác định lại nguồn gốc người “Hán” hay “Hoa Hạ”.
Tham khảo bản đồ thiên di của nhân loại ở châu Á, tài liệu gốc từ Đại học Yale, Hoa Kỳ  [i] :
Theo bản đồ này, người cổ đại đến lục địa Trung Hoa gồm 2 nhánh chính: Một nhánh [I] thiên di sớm từ đồng bằng sông Hồng tới đồng bằng Trường Giang khoảng 1.5 vạn năm trước, rồi đi tiếp đến vùng cửa sông Hoàng Hà khoảng 1 vạn năm trước. Một nhánh [II] muộn hơn, từ Miến Điện băng qua sườn đông Hy Mã Lạp Sơn đến cao nguyên Tây Tạng khoảng 1.5 vạn năm trước, rồi cũng đến lưu vực Hoàng Hà khoảng 8 ngàn năm trước.
Theo một số thông tin thảo luận chưa được kiểm chứng trên mạng[ii] thì Hán tộc vốn là “hòa hợp”của nhiều nhóm tộc, trong đó hai nhóm chính là nhóm thị tộc Hoàng Đế vốn gốc ở Hoàng Hà, theo ngôn ngữ Tạng-Hán nên chắc là bắt nguồn từ nhánh [II], và nhóm kia là thị tộc Thần Nông (Viêm Đế) vốn gốc ở Trường Giang, chắc bắt nguồn từ nhánh [I], ngoài ra còn có các nhóm tộc khác như thị tộc Cửu Lê của Xi Vưu cũng tham gia một phần vào cuộc hòa nhập này, số không chịu hòa nhập thì chạy lên vùng núi thành người Miêu, Dao hiện nay.
Trong bài này người viết muốn đặt vấn đề: phải chăng nhóm Bách Việt chính là nhóm [I] vốn từ đồng bằng sông Hồng thiên di về phía Bắc hơn vạn năm trước đã đem vốn từ gốc phương Nam đóng góp vào Hán ngữ. Dưới đây là một số dữ liệu bước đầu tìm hiểu các vết tích ngôn ngữ phương Nam còn tồn tại trong tiếng Hán và chữ Hán.
1. Bắt đầu từ cặp từ Hà/Giang (河/江)
Nhiều tài liệu ngôn ngữ học đều thống nhất cho rằng từ giang 江 (nghĩa là sông trong tiếng Hán) có nguồn gốc phương Nam.
-Trước hết từ này vốn do nhóm Bách-Việt ở phương Nam (tạm gọi là Hán-Việt để phân biệt với nhóm Hán-Tạng), dùng để gọi sông Trường Giang (hay sông Dương tử), đối lập với các nhóm Hán-Tạng ở phía bắc thường gọi sông là “Hà” (như Hoàng Hà).
-Phần biểu âm của giang 江 vốn là chữ công 工, âm cổ “công” này hiện vẫn còn bảo lưu trong tiếng Quảng Đông [粤语], ghi âm đọc là “gong1” (TQ thường ký âm k- ra g-) như trong link sau : http://tool.httpcn.com/Html/Zi/28/PWMEMEILKOTBCUYF.shtml
-
-Giang vốn thuộc thanh mẫu kiến 見, vận mẫu giang 江, nhị đẳng, thiết âm trung cổ theo Đường Vận, Tập Vận, Vận hội là cổ song thiết (古雙切) tức âm “cong”. Vần ong/ông đã chuyển thành iang/ương muộn nhất cũng từ trước thời Trung nguyên âm vận (Chu Đức Thanh, năm 1324) vì trong sách đó đã chính thức xếp giang vào 1 nhóm chung với từ khương 姜, cương 疆…xem minh họa trong sách đó ở hình bên, (theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đại Cồ Việt thì thực ra quá trình biến âm này xảy ra sớm hơn, khoảng trước đời Đường).
-Gốc của 江theo nhiều nhà nghiên cứu có thể là krong/không/sông trong các ngôn ngữ phươngNam. Các nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Bernhard Karlgren, Vương Lực, William H.Baxter tái lập âm thượng cổ của nó lần lượt là ku ̆ŋ , keoŋ , kroŋ. Hãy chú ý tái lập của Baxter “krông”, các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên Việt Nam hiện nay vẫn gọi sông là krông, có lẽ là bảo lưu từ thời thượng cổ, ví dụ Krông Pha tức thị trấn Sông Pha ở Ninh Thuận, lại còn có các huyện Krông Năng, Krông Ana,Krông Bông… ở Tây Nguyên.
-Con sông lớn Mekong hay “Mè Khỏng” trong ngôn ngữ Thái-Lào vốn có nghĩa là “sông mẹ”. Người Mường hiện vẫn gọi sông là “không”. Tiếng Việt tuy đã biến đổi khá xa thành “sông”, nhưng vẫn còn vết tích trong sách “An Nam dịch ngữ” thời Minh (thế kỷ15) ghi chép rằng “hà 河” tiếng Việt là “không 空”, ngoài ra sách đó lại ghi “giang 江” tiếng Việt là “sanh 生”, có lẽ chính là âm “sông”, vì âm Nôm của “sanh” là “sống”, tư liệu này cho thấy khả năng người Việt thời đó tuy đã đọc với phụ âm đầu “s-” nhưng vẫn còn giữ dạng đọc với phụ âm đầu “kh-” .
2. Xem xét tiếp cặp từ Thổ/Địa (土/地)
Các khảo sát về cặp từ đồng nghĩa Hà/Giang (河/江) đã gợi ý cho người viết bài này phải chăng cặp từ Thổ/Địa (土/地) cũng có nguồn gốc tương tự, nghĩa là Thổ có gốc Hán-Tạng phương Bắc, còn Địa 地 vốn có gốc Hán-Việt ở phương Nam ?
-Trước hết căn cứ vào chữ viết thì thấy chữ thổ phải có trước chữ địa vì chữ địa 地 được ghép từ chữ thổ 土 chỉ nghĩa với chữ dã 也chỉ âm, nên có thể ước đoán “địa” mới phổ biến trong tiếng Hán về sau khi các nhóm Hán-Tạng bành trướng về phía Nam, xâm lấn và “hòa nhập” với các nhóm gốc Hán Việt. Để kiểm tra ước đoán này người viết đã mở sách Kinh Thi ra đếm thử trong các bài thì thấy chỉ có 2 chữ địa, trong khi dùng đến 31 chữ thổ (!)
-Theo đối chiếu Việt – Mon – Khmer trong sách của Nguyễn Ngọc San “Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử”thì chữ ĐAI nghĩa là đất trong Tiếng Việt (có trong từ “đất đai”) vốn có gốc từ tiếng Khmer “đây”.
-Bây giờ xét phục nguyên âm thượng cổ của địa 地 theo các nhà ngôn ngữ học:
oKarlgren là d’ia
oVương Lực là diai
oBaxter là djejs
Chúng ta thấy :
Âm do Baxter phục nguyên “đjêy” khá gần với tiếng Khmer gọi đất là “đây”.
Âm do Vương Lực phục nguyên “đjai” thì gần với tiếng Việt “đai” nghĩa là đất .
- Âm Quảng Đông, TQ gọi là Việt ngữ 粤语, của địa có một dạng là dei6, rõ ràng khá gần với “đây” Khmer và “đai” tiếng Việt[iii].
Nhân tiện xin trích dẫn một bài trong “Quốc Âm Thi Tập” thời Lê (khoảng cuối thế kỷ 15) đã dùng chữ “đai” một cách độc lập, không phải đi theo “đất” :
Giàu chỉnh chện, khó lai dai,
Vần chuyển lưu thông, há của ai ?
Vũng nọ ghe khi làm bãi cát,
Doi kia có thuở lút hòn ĐAI.
Khôn ngoan mới biết thăng thì giáng,
Dại dột nào hay tiểu có đài ?
Đã khuất bao nhiêu thì lại duỗi ?
Đạo trời lồng lộng chẳng hề sai.
3. Xem xét tiếp cặp từ Túc/Chỉ (/)
Người viết cho rằng đây cũng là một cặp đối lập Bắc/Nam, trong đó “chỉ” là một từ gốc phương Nam, cùng nguồn gốc với từ “chân” của tiếng Việt. Xét bảng so sánh âm Thượng cổ phục nguyên của một số chữ Hán sau :
Qua bảng trên người viết nhận thấy có một lớp từ mà Karlgren khôi phục với phụ âm cuối –g có sự đối ứng khá hệ thống với các từ đồng nghĩa của tiếng Việt mang phụ âm cuối –ŋ[iv].
Hình minh họa lấy từ sách của Karlgren [2] :
Hiện tượng ở tiếng Việt một số từ âm cuối –g thời thượng cổ có thể đã biến chuyển ra –ng, là những trường hợp khá “đặc dị” ít người nhận ra.
Như chữ “hỉ” âm cổ có thể là “hửng” (trong từ hí hửng) phù hợp với phục nguyên âm Hán Thượng cổ theo Karlgren là “xi ̯əg” (đọc gần như hưâg=hửng) sau đó -g biến ra -i (“xji” trong hình minh họa trên) nên ta có “hưâi” ứng với chữ “hởi” (trong từ hồ hởi), sau đó lại du nhập thêm âm “hỉ” trong thời Bắc thuộc. Thật may mắn cả 3 âm Hửng, Hởi, Hỉ đều còn tồn tại trong tiếng Việt giúp khẳng định quá trình biến âm mà Karlgren phục nguyên là có thật. Ví dụ khác là chữ “tự ”= “tương tự, dường như”, Karlgren phục nguyên âm thượng cổ “dzi ̯əg” khá gần với chữ “dường” của tiếng Việt, dạng rụng phụ âm cuối “-ng” là “dựa” thì hiện nay không còn lưu, chỉ còn “tựa” (tự như); nhưng “tựa” với nghĩa động từ “tựa vào” thì tiếng Việt vẫn còn giữ âm “dựa”.
Chữ vụ ,Karlgren phục nguyên mi ̯ug , nếu chuyển -g=>-ŋ thì khá gần âm “mồng” tiếngViệt (vân mồng=mây mù), đồng thời tiếng Việt còn giữ cả âm trung gian là “mù”, là âm thông dụng ngày nay.
Đặc biệt, theoKarlgren chữ “chỉ “và “chi “đều được phục nguyên âm thượng cổ là ȶi ̯əg . Âm thượng cổ này giải thích vì sao người Việt lại đọc “chi ” là “chưng”, còn “chỉ ” là “chân”, giọng miền Nam là “chưn” hay “chưng”. Theo tài liệu Giáo trình Lịchsử ngữ âm tiếng Việt của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn thì từ “chân” thời cổ vốn có âm cuối -ŋ, trích trang 199 sách trên:
“… chúng ta chỉ có hai ví dụ là từ chân và lên (và liên quan tới lên là từ trên). Ở hai từ này có lẽ ta phải phục nguyên *-ŋ cho thời Proto Việt Chứt, hay chậm nhất thì cũng cho thời Proto Pọng Chứt chung.”[v]
Cũng theo tài liệu của GS Cẩn thì thời Proto Việt Chứt tức thời Việt-Katu là trên 3.000 năm trước. Vậy khả năng phục nguyên “ȶi ̯əg” của “chỉ 趾”gần với từ cổ Việt “châŋ”, phải ứng với niên đại trên 3000 năm trước, tức ứng với cuối đời Thương của TQ, kết quả cũng giúp chúng ta có ước lượng khái quát về niên đại (mức cổ xưa) của cả nhóm từ liệt kê trong bảng, đó là những từ cổ Việt-Hán chứ không phải từ Hán-Việt du nhập thời Bắc Thuộc.
Chú thêm: Khả năng một số chữ Hán hiện đọc với vần “-i” thời cổ xưa đọc là “-ưng” còn vết tích khá rõ ngay cả trong Hán Ngữ, như chữ nghi 疑có một nghĩa trùng với chữ ngưng 凝, mà lại chung bộ phận biểu âm. Theo Karlgren âm thượng cổ của nghi là ŋi ̯əg còncủa ngưng là ŋi ̯əŋ, như vậy có thể đã tồn tại 1 xu hướng biến âm ở Hán Ngữ (nhưng ít còn lưu tích) là -g thượng cổ về sau chuyển thành -ŋ. Xu hướng này ở tiếng Việt có vẻ rõ rệt hơn, ví dụ chữ “vị 彙”người Việt vẫn quen đọc là “vựng”, mà tra các từ thư Trung Quốc thì không hề thấy ghi âm “vựng” này !
4. Xem xét tiếp cặp từ Xã/Lý (社/里)
Cũng trong thế đối lập trên,người viết dự đoán Lý 里(làng) là từ gốc phương Nam đối lập với Xã, và cùng gốc với cả hai từ “làng” và “chiềng” của tiếng Việt. Trong bảng phục nguyên âm thượng cổ ở trên Karlgren phục nguyên Lý 里là li ̯əg, mà phần trên đã chỉ ra khả năng –g có thể biến chuyển thành –ŋ trong tiếng Việt nên chúng ta có li ̯ə-ŋ đọc gần như lưâng hay lương, từ đó chuyển sang lang/làng không còn xa (so sánh phần vần của các cặp từ đương/đang, nương/nàng, trường/tràng…).
Sách Thuyết văn giải tự chú chữ Lý như sau: 里,[良止切],居也。从田从土。凡里之屬皆从里。Lý, [lương chỉ thiết], cư dã, tòng điền tòng thổ, phàm lý chi thuộc giai tòng lý.
Chú ý chiết tự của chữ Lý “trên điền dưới thổ” và nghĩa gốc là cư trú, thể hiện rõ nguồn gốc nông nghiệp của chữ này, cũng là của thị tộc Thần Nông vốn gốc ở vùng Trường Giang.
Nhân tiện bàn thêm: Âm cổ xưa của “làng” có lẽ chính là “chiềng”. Đi từ phục nguyên âm thời cổ li ̯ə-ŋ ta thấy phần vần vốn gần với “iêng”, còn việc phụ âm đầu l- có thể đọc ra ch- thì chúng ta có khá nhiều ví dụ: lạp/chạp, lang/chàng, lam/chàm, lồng/chuồng .v.v. So sánh xa hơn thì có cặp lải/chài (lải nghĩa là “lưới” trong tiếng Mường) mà phục nguyên âm cổ của chữ la羅 tức là lưới trong tiếng Hán theo Vương Lực là “lai”, nếu không kể dấu thanh thì trùng khớp với tiếng Mường. Để thấy rõ hơn quan hệ giữa L- và CH- xin xem các cứ liệu phục nguyên âm thượng cổ theo Baxter:
臘(lạp/chạp) : c-rap
朗(lang/chàng) : c-raŋʔ
籠(lung/lồng, chuồng): b-rong
藍(lam/chàm) : g-ram
里(lý/làng, chiềng) : c-rjəʔ
(la/lưới, chài): c-raj
Và so sánh thêm tiếng Việt với tiếng Katu (phản ảnh của Proto Việt-Chứt):
Chrum = chồm lên
Chréh = chẻ (củi)
Chraih= chải (tóc)
G-roong= (cái)chuồng
Như vậy có mối tương quan giữa tổ hợp âm đầu C-R- (CHR-) và G-R- của Hán ngữ cổ theo Baxter, với CH- trong tiếng Việt cổ, vì lần ngược tới giai đoạn Việt-Katu thì thấy một số trường hợp CH- Việt vốn là CH-R hay G-R-.
Theo GS Nguyễn Tài Cẩn *R- trong Hán ngữ mới chuyển thành L- khoảng thời Tần-Hán, còn bên phía tiếng Việt thì dựa trên ví dụ về từ “chuồng” trong tiếng Katu người viết phỏng đoán G-R- có xu hướng chuyển thành CH- từ khá sớm, vì phụ âm CH- của tiếng Việt vốn có từ cổ xưa ít ra là thời proto Mon-Khmer[vi], nên khi tiếng Việt xảy ra xu hướng đơn tiết hóa thì tổ hợp G-R nhập vào CH- khá thuận lợi.
5. Về cặp từ Nội/Trung (/)
Trung tức là “trong” tiếng Việt, phục nguyên âm Hán thượng cổ của Baxter cho chữ TRUNG 中 là “k-ljuŋ”.
Bây giờ thử so sánh với từ tương đương trong tiếng Việt là “trong”: chữ Nôm trong sách “Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh” (viết tắt PT) ghi bằng chữ Hán công 工 ứng với âm cổ “cong”, theo giáo sư Nguyễn Tài Cẩn thì bản gốc diễn nôm PT có thể ra đời từ rất sớm, ngay thời Lý, “công/cong” có thể là cách ghi âm Việt cổ của “klong”, gần với phục nguyên của Baxter.
Tiếp tục tìm hiểu thêm một số ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong họ Mon-Khmer: tiếng Vân Kiều thì trong là “klống” (theo “Tiếng Bru-Vân Kiều”, Hoàng Văn Ma, Tạ Văn Thông, NXB KHXH, Hà Nội 1998, trang 322), tiếng Katu thì trong là “kơrloóng” (“Từ điển tiếng Cơ Tu –Việt, Việt – Cơ Tu”, Nguyễn Hữu Hoành, Tạ Văn Thông, Nguyễn Văn Lợi, Sở KHCN Quảng Nam và Viện Ngôn ngữ học 2007, trang 112). Các dạng trên cũng đều khá gần với phục nguyên âm Hán thượng cổ của chữ Trung 中 theo Baxter. Mà chúng ta biết là vùng cư trú của hai nhóm tộc Katu, Vân Kiều từ Quảng Bình trở vào vốn tách khỏi cai trị của TQ từ rất sớm, khoảng thời Khu Liên lập nước Lâm Ấp năm 192. Có thể nói thực sự họ chưa bao giờ ở trong vòng kềm tỏa của phong kiến TQ, vì họ cư trú trên các vùng núi cao hẻo lánh. Ngay cả sau này vào các đời “thịnh trị” của chế độ phong kiến Việt Nam thì các vùng núi cao như Sơn La, Lai Châu… vẫn theo chế độ phụ đạo, các “khun”, “tạo” thủ lĩnh người dân tộc vẫn là “vua” trong lãnh địa của mình, nên ít chịu ảnh hưởng ngôn ngữ văn hóa của người Việt. Còn chính người Việt thì chỉ quen ở đồng bằng, hiện diện rất ít ở các vùng đó, chỉ từ sau 1954 và 1975 mới có chuyện người Việt ồ ạt lên các vùng cao “khai thác”…. Vì vậy rất khó tin là hai nhóm dân tộc thiểu số trên đã vất bỏ một từ rất gần lớp từ cơ bản của mình để dùng từ “trung” của người Hán vào thời Bắc thuộc ngắn ngủi 3 thế kỷ của vùng đất trên, truyền qua trung gian là người Việt. Giải thích hợp lý nhất là cho rằng từ “trung” là một từ gốc phương Nam, vốn là từ rất cổ còn bảo lưu trong tiếng Hán giống như từ Giang=Sông. Xin nhấn mạnh đây chỉ là một giả thuyết mang tính cá nhân, chắc nhiều nhà nghiên cứu sẽ không đồng tình, vì nguồn gốc chữ Trung có vẻ khá phức tạp, giả định đó là một từ cổ khoảng trên 6.000 ngàn năm trước, lúc một dải Trường Giang về phía nam còn nói chung một thứ ngôn ngữ cổ là ngôn ngữ Nam Á (theo“Tìm hiểu tiếng Việt Lịch sử”, Nguyễn Ngọc San, NXB ĐH SP, Hà Nội 2003, trang14), với mức xa xôi như thế thì có thể khi đó hai nhánh ngôn ngữ proto Môn-Khmer với ptoto Miến-Tạng còn chưa tách xa nhau nhiều, nên rất khó để nói về việc “ai mượn của ai”.
6. Sơ kết
Giả thuyết về nguồn gốc phương nam của một số từ Hán ngữ bắt nguồn từ ngôn ngữ Nam Á, chính do các nhóm tộc Bách Việt vốn từ đồng bằng sông Hồng thiên di về phía Bắc đóng góp vào Hán ngữ là một giả thuyết do tác giả bài này đề xuất, hiện chưa có thông tin về ý kiến tương tự của các tác giả khác hay của các nhà nghiên cứu tiền bối [vii]. Bài này bước đầu đã đưa ra được một số cứ liệu ngôn ngữ học so sánh nhằm sáng tỏ giả thuyết đó.
Gần đây có thông tin quan trọng đăng trên các trang mạng của Trung Quốc như sau: Tại khu di chỉ “Xẻng đá lớn” ở huyện Bình Quả, tỉnh Quảng Tây vừa khai quật được hơn chục mảnh đá có khắc hơn ngàn ký tự biểu ý cổ Lạc Việt. Các chuyên gia Trung Quốc nhận định niên đại của các mảnh đá này là vào thời đại đồ đá mới, cách nay 4000-6000 năm tức là vượt xa niên đại của chữ giáp cốt đời Thương ít nhất cũng hơn nghìn năm. Do đó vấn đề xác định ảnh hưởng của các ngôn ngữ phương Nam vào Hán ngữ càng trở lên có căn cứ xác đáng, cần được quan tâm nghiên cứu[viii].

[i]Bản đồ này lấy từ trang mạng http://www.tianyabook.com/qita/zhongguorencongnalilai/4.html, có ghi chú nguồn gốc “耶鲁大学李辉供图” tức là của Lý Huy Cung ở Đại học Yale, Hoa Kỳ. Như vậy có độ tin cậy hơn các tài liệu của Trung Quốc
[iv] Người viết tạm dùng tên “Cổ Việt” cho các từ tiếng Việt dẫn trong bảng trên, hiện chưa có đủ căn cứ để xác định chính xác chúng là từ Việt cổ hay phần lớn chúng là từ của tiếng Việt hiện đại, tuy nhiên nếu để ý có thể thấy ngữ âm của các từ này gần với âm Hán thượng cổ hơn Hán Trung cổ (Đườngâm)
.[v]Về nhận định của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cho “chân” thời proto Việt Chứt vốn có phụ âm cuối “-ng”, có thể dẫn thêm tư liệu về tiếng Katu ở miền Tây Thừa Thiên: chân là “jung”, tức phụ âm cuối đúng là “-ng”.
[vi]Theo Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt của GS Nguyễn Tài Cẩn, trang46-48, mục “Lai nguyên của CH-” thì CH- là một phụ âm cực cổ của tiếng Việt, có từ thời Proto Môn-Khmer với các từ như chó (*cuə), chấy, chết(*kacɛt), chín, chim (*cɨm) (theo G.Difflot)…
[vii]Xin tham khảo thêm loạt bài viết của tác giả Nguyễn Cung Thông về nguồn gốc của 12 con giáp và các bài sưu tầm giới thiệu các từ có thể có gốc phương Nam đã bị đào thải trong tiếng Hán trên trang http://www.viethoc.org/phorum.
====
Tài liệu tham khảo:
  1. 汉文典、高本汉、上海辭書出本社。1997。
  2. 中上古汉语音的纲要、高本汉、齐鲁书社、济南。1987
  3. The Austroasiatics in Ancient South China, 梅祖麟言语学论文集。商务印书馆出本。2000。
  4. 王力. 漢語字典.VươngLực “Cổ Hán ngữ tự điển”.
  5. A Handbook of Old Chinese Phonology, William H. Baxter, Mouton de GruyterBerlin – New York 1992.
  6. Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt. Nguyễn Tài Cẩn, NXB Giáo Dục, Hà Nội.1995
  7. Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nguyễn Tài Cẩn. NXB Đạihọc Quốc gia , Hà Nội. 2000
  8. Về dấu vết chữ nôm kỵ húy trong sách “Phật thuyết”, Nguyễn Tài Cẩn, T/c Văn hóa Nghệ An, Số 7, 2010.
  9. An Nam Dịch Ngữ, Vương Lộc dịch và chú giải, nhà Xuất bản Đà Nẵng, Trung Tâm Từ Điển Học. 1995.
  10. Báo cáo tổng kết đề tài Nghiên cứu Khoa học “Giáo trình dạy chữ Katu cho cán bộ người dân tộc”, Hoàng Huy Lập, Nguyễn Thị Sửu, Sở Giáo dục Thừa Thiên Huế, 2003.
  11. Từ điển Mường Việt, Nguyễn Văn Khang, Bùi Chỉ, Hoàng Văn Hành, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội 2002.
  12. Tiếng Bru-Vân Kiều, Hoàng Văn Ma, Tạ Văn Thông, NXB KHXH, Hà Nội 1998.
  13. “Từ điển tiếng Cơ Tu –Việt, Việt – Cơ Tu”, Nguyễn Hữu Hoành, Tạ Văn Thông, Nguyễn Văn Lợi, Sở KHCN Quảng Nam và Viện Ngôn ngữ học 2007.
  14. “Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử”, Nguyễn Ngọc San, NXB ĐHSP, Hà Nội 2003.
  15. Các bài viết của tác giả Nguyễn Cung Thông trên http://www.viethoc.org/phorum