Lê Mạnh Chiến
Thưa quý vị độc giả kính mến,
Ngày 05/6/2014, chúng tôi đã công bố bài Góp phần tìm hiểu sự thực về GS Nguyễn Lân trên blog Quê choa và đã được đông đảo độc giả hưởng ứng. Một số độc giả cho biết rằng, sự bàn tán, trao đổi sôi nổi xung quanh bài Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân đã khiến nhiều người chưa đọc bài ấy muốn biết đó là những “sự thật” gì nhưng họ rất khó tìm đọc vì số bài trên blog Quê choa
tăng lên vùn vụt từng ngày nên nhiều người tìm mãi mà không được. Không
ít người mong tác giả giới thiệu tóm tắt những “sự thật” ấy cho họ đọc
trước đã, sau đó, khi có điều kiện hoặc thấy cần kíp thì mới đọc kỹ toàn
bài. Lại có độc giả nói rằng, bài Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân
tuy là một bài lược thuật nhưng vì phải khảo chứng cặn kẽ, với nhiều
chứng liệu cụ thể nên không thể ngắn gọn, mà thực tế là một bài rất dài.
Theo độc giả này, người viết bài cũng nên đúc kết phần khảo chứng của
mình, nhằm giúp độc giả dễ nắm bắt những ý chính trong bài.
Mới đây, ngày 23/6/2014, chủ Blog Quê choa đã chuyển cho tác gỉả mấy dòng thư của độc giả Yên Duyên Hương (địa chỉ Email: yenduyen...@gmail.com) nêu vài thắc mắc, như sau:
Cảm ơn ông Nguyễn Quang Lập. Qua Quê choa, chúng tôi mới biết được nhiều sự thật về học thuật, về “tên tuổi” của nhiều “học giả “, những Nguyễn Lân, Lê Xuân Đức, Vũ Ngọc Khánh... Vừa qua có bài Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân. Qua Quê choa, chúng tôi xin hỏi: trong bài viết có nói: đợt phong Giáo sư đầu tiên là năm 1956, nhưng theo từ điển mở Wikipedia thì
đợt phong Giáo sư đầu tiên của Việt Nam là năm 1976 (trong đó có Trần
Đức Thảo). Liệu có sự nhầm lẫn nào của ông Lê Mạnh Chiến, dẫn đến việc
bỏ sót tên GS Nguyễn Lân không?
Chúng tôi được biết, sinh thời GS Nguyễn Lân đã có lời xin lỗi ông Trần Đức Thảo. Vậy, thực hư chuyện này là thế nào?
Rất mong ông Nguyễn Quang Lập liên hệ với tác giả giúp chúng tôi.
Xin trân trọng cảm ơn trước.
Tác
giả thấy mình có nghĩa vụ đáp ứng các yêu cầu trên đây của quý vị độc
giả nên phải viết bài giải đáp này và đưa lên mạng Internet để chuyển
đến các độc giả đã gửi lời yêu cầu, cùng tất cả mọi người Việt Nam yêu
chuộng sự thật và quan tâm đến hiện trạng văn hóa - giáo dục của đất
nước.
I. Những ý chính trong bài Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân
Trong
một cuộc gặp gỡ thân mật của một nhóm bạn học cũ nhân dịp tết Canh Ngọ,
đã diễn ra một cuộc mạn đàm nghiêm túc để tìm hiểu sự thật về Nhà giáo
Nguyễn Lân. Nội dung cuộc mạn đàm này đã được lược thuật kèm theo việc
khảo chứng dựa trên những sách vở do Nhà giáo Nguyễn Lân biên soạn và
những tài liệu viết về ông mà hiện nay đang lưu hành, cho nên độc giả
rất dễ kiểm tra. Người lược thuật chịu trách nhiệm hoàn toàn trước công
chúng. Sau đây là những kết quả của cuộc mạn đàm, được tóm tắt theo
trình tự các phần trong bài gốc, với các tiểu mục ♦I, ♦II. ♦III.
♦I. Cuộc mạn đàm ngoài dự kiến: nêu những tiền
đề của cuộc mạn đàm: Trong vài chục năm gần đây, trên các sách báo
chính thống đã lưu hành hàng trăm bàì của nhiều người trong quần thể trí
thức co danh phận ở nước ta ca tụng công lao và tài đức của NGND Nguyễn
Lân. Họ chỉ nhìn thấy lớp trang sức bóng bảy mà không ai biết đến thực
chất những thành tích ảo của ông nên đã viết những lời tán tụng sai sự
thật, tạo nên nhiều điều ngộ nhận rất tai hại. Vì vậy, đã diễn ra một
cuộc mạn đàm để tìm hiểu sự thật về Nhà giáo này, dựa trên những chứng
liệu mà mọi người đều dễ dàng tìm thấy.
♦II. Trả lời một số câu hỏi thiết thực: giải đáp bốn câu hỏi, tìm ra bốn sự thật mà lâu nay hẩu như không ai nghĩ đến:
u
Trong các bài viết về Nhà giáo Nguyễn Lân hiện đang lưu hành trên báo
chí chính thống (hơn 100 bài) các tác giả (hầu hết là những người có
cương vị cao trong giáo giới) đều nhằm một mục đích là ca ngợi hết lời,
chỉ cốt để ca ngợi càng nhiều càng tốt, cho nên có nhiều bài trùng lặp
với nhau cả ý lẫn lời, lại xen nhiều chi tiết khác với lời kể của chính
Nhà giáo Nguyễn Lân, sai sự thật. Tính xác thực của loạt bài này rất
thấp, nhiều dẫn liệu khong đáng tin cậy.
v Hầu
hết mọi người lâu nay vẫn gọi ông Nguyễn Lân là Giáo sư, chính ông cũng
tự xưng là Giáo sư. Một số tài liệu (ví dụ: từ điển Wikipedia tiếng Việt trước ngày24/6/2014, hoặc bài của PGS Lê Khánh Bằng trong Kỷ yếu Hội thảo Nhà giáo Nhân dân Giáo sư Nguyễn Lân – cuộc đời và sự nghiệp)
đã khẳng định rằng, ông Nguyễn Lân thuộc lớp người đầu tiên được phong
học hàm Giáo sư, năm 1956. Sự thực thì ông là Giáo sư tự phong, chưa bao
giờ được Nhà nước phong Giáo sư.
w Ông Nguyễn Lân được gọi là một nhà văn, nhà thơ, nhà biên soạn từ điển mẫu mực, với 42 tác phẩm đồ sộ.
Thực ra, trong số hơn 40 tác phẩm có dính tên ông, đa số là những tác
phẩm rất nhỏ (dăm bảy chục trang) và nhỏ (dưới 200 trang), có những
quyển mang tên nhiều tác giả, trong đó ông Nguyễn Lân chỉ có mươi trang,
v.v. không có một tác phẩm nào ra hồn, đến nỗi năm ông tròn 90 tuổi,
Nhà nước muốn trao giải thưởng cho ông nhưng không thể dựa vào một tác
phẩm nào cả. Cuối cùng, ông cố cho ra một quyển khá dày là Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2111
trang, xuất bản năm 2000), trông có vẻ to vì được in bằng giấy dày, chữ
to hơn và thưa hơn so với mọi cuốn từ điển thông thường, nhưng cũng
không thể gọi đó là đại từ điển. Hơn nữa, quyển từ điển này là nơi tập
trung tất cả mọi sai lầm trong “sự nghiệp biên soạn từ điển” của ông, số
lượng sai lẩm có thể lên đến hàng ngàn, ảnh hưởng rất xấu đến việc dạy
và học tiếng Việt của các thế hệ người Việt hiện tại và mai sau.
❹ Mọi người chỉ nhìn thấy bề dày của cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam mà không khảo sát nó, không nhận thấy
vô số sai lầm rất đáng sợ trong đó nên ai nấy đều cho rằng, đó là thành
quả vĩ đại, là công trình sáng tạo tuyệt vời của một bậc đại trí thức
siêu đẳng chỉ biết quên mình vì dân vì nước, miệt mài làm việc năm này
qua tháng khác. Trên thực tế, nó chỉ là sự lắp ráp thô thiển của ba cuốn
từ điển đã có sẵn. Trước hết, soạn giả lấy quyển Từ điển tiếng Việt
dày 1415 trang của nhóm Văn Tân (gồm 13 người, trong đó có Nguyễn Lân)
làm “xương sống”, sau đó ghép thêm hai quyển khác chứa đựng rất nhiều
sai lầm khủng khiếp, đều của Nguyễn Lân, đó là Từ điển từ và ngữ Hán Việt (866 trang) và Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (323
trang), rồi cộng thêm một số từ lấy ở các từ điển khác nhưng được giảng
lại theo cách đoán mò và nói liều vốn là thuộc tính của soạn giả. Vì
vậy, việc “biên soạn” được thực hiện rất dễ dàng.
♦ III. Những sự thực đáng kinh ngạc về Nhà giáo Nguyễn Lân. Phần
này cho thấy những phẩm chất và những hành vi phản sư phạm của Nhà giáo
Nguyễn Lân, thể hiện qua bố sự thật, với những bằng chứng cụ thể rất dễ
tìm thấy:
u NGND Nguyễn Lân – người đã dày công làm tổn hại tiếng Việt
NGND
Nguyễn Lân được coi là người “suốt đời bảo vệ sự trong sáng của Việt”.
Chính ông cũng tự khẳng định vai trò ấy của mình một cách đầy tự tin và
tự hào. Để thể hiện vai trò ấy, ông dốc sức biên soạn các thứ từ điển về
tiếng Việt. Việc “chú giải từ tố” và “giải thích từ nguyên” (của các từ
có gốc Hán) được ông coi là nét đặc sắc nhất, hơn hẳn các từ điển đã có
từ trước. Các Giáo sư Lê Trí Viễn, Vũ Khiêu, cùng vô số Giáo sư, tiến
sĩ, nhà văn, nhà báo khác đều coi đây là cống hiến vô cùng to lớn và đặc
sắc của ông, thể hiện tài năng, trí tuệ kiệt xuất và tâm huyết của một
vị đại trí thức đối với đất nước, đối với tiếng Việt. Nhưng, qua vô số
ví dụ cụ thể, chúng tôi đã chứng minh được rằng, ông phạm quá nhiều sai
lầm nghiêm trọng nhất do thiếu kiến thức cơ bản, do không có năng lực
tra cứu, do không đọc được chữ Hán, v.v. thậm chí, không phân biệt được
từ tố với âm tố và cũng chưa hiểu thế nào là từ nguyên. Ông chỉ quen
đoán mò và nói liều nên đã phạm hết dạng sai lầm này đến dạng sai lầm
khác
v NGND Nguyễn Lân đề ra những yêu cầu
rất khắt khe đối với người thầy giáo, nhưng chính ông lại chưa nắm vững
những kiến thức ở bậc trung học
Được coi là
một nhà sư phạm mẫu mực kiêm học giả thông kim bác cổ, NGND Nguyễn Lân
đòi hỏi người thầy giáo xã hội chủ nghĩa phải học tập, rèn luyện, phấn
đấu không ngừng về mọi phương diện. Theo ông, người thầy giáo xã hội chủ
nghĩa, ngoài việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên định lập trường
cách mạng, quan điểm giai cấp, học tập tác phong, đạo đức của Hồ Chủ
tịch, còn phải không ngừng nâng cao trình độ học vấn của mình. Trong
quyển Người thầy giáo xã hội chủ nghĩa (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960), ông viết: “Nếu
dạy một mà không biết mười thì ít nhất người thầy giáo cũng phải biết
hai, ba chứ dạy bài nào mà chỉ biết bài ấy thì thực là nguy hiểm, vì
không những chẳng giải đáp được thắc mắc của học sinh mà lại còn dễ dàng
nói sai sự thật và phản lại khoa học. Ta nên nhớ rằng mỗi lời thầy giáo
nói ra là bốn, năm chục học sinh chú ý nghe; thầy dạy một điều sai là
bốn năm chục bộ óc bị đầu độc; như thế thì không những đã chẳng dạy được
gì thêm, lại còn khiến học sinh có những khái niệm không đúng cần phải
gột rửa đi nữa. Ngoài bộ môn mình phụ trách, người thầy giáo
xã hội chủ nghĩa còn phải nắm được các bộ môn khác nữa: tối thiểu, trình
độ văn hóa phổ thông của người thầy giáo, về mọi ngành tri thức, phải
không được thấp hơn trình độ học sinh ở cấp mình giảng dạy. Thí dụ, một
giáo viên về Việt văn ở lớp tám ít ra cũng phải nắm được những bộ môn
khoa học tự nhiên của cấp III; có như thế thì khi giảng dạy Việt văn mới
có thể đưa ra những dẫn chứng cụ thể”. Cứ theo lời ông thì ai cũng nghĩ rằng, kiến thức của ông sâu rộng lắm, cao siêu lắm. Khốn thay, ở quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam
(công trình của ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước), người ta dễ
dàng tìm thấy ngay vài chục từ ngữ thuộc các lĩnh vực toán học, vật lý
học, hóa học, sinh vật học, địa lý, lịch sử, văn học được sử dụng trong
chương trình trung học mà bị soạn giả Nguyễn Lân giải thích sai hết, tỏ
ra không hiểu gì cả. Kiến thức của Nhà giáo Nguyễn Lân về mọi lĩnh
vực khoa học thường thức chưa đạt đến trình độ trung học, vậy thì ông
không thể dạy bất cứ môn nào ở bậc trung học.
w NGND Nguyễn Lân chỉ quen dạy dỗ người khác nhưng không biết chỗ yếu kém của mình nên đã sa đà vào việc “biên soạn” từ điển, đầu độc tiếng Việt.
Nhà giáo Nguyễn Lân có những lời dạy về “đạo làm thầy” rất chí lý. Ông đã từng răn dạy con dâu: “Con làm cô giáo thì phải nhớ là dù một chữ chưa hiểu cũng
phải đọc, phải hỏi cho thật hiểu mới được dạy cho học trò, óc trẻ con
như trang giấy trắng, con vẽ sai lên đó làm sao tẩy sạch được”. Con dâu của ông kể tiếp: “Rồi ba giảng giải, muốn tìm hiểu một vấn đề gì thì phải hiểu cả lịch sử, cả hoàn cảnh cụ thể của nó…”. Một lần khác, ông đã căn dặn con trai (là một phó Giáo sư): “Cái khó nhất trong cách đối xử ở đời là biết mình đang ở vị trí nào.
Con đừng quên rằng, một người giỏi lắm thì cũng đi sâu được một hai
chuyên môn. Vì vậy, phải luôn coi người khác là thầy của mình về những
chuyên ngành khác”. Trong sự nghiệp “trồng người”, hẳn là ông đã
nhiều lần dạy học trò bằng những câu như thế, mà ta có thể quy thành
nguyên tắc: Không được dạy những điều mà mình chưa hiểu rõ; muốn vậy thì phải biết rõ phạm vi kiến thức của mình. Tiếc thay, ông chỉ quen dạy người khác nhưng không biết răn mình, không hề biết mình đang ở vị trí nào.
Bởi vậy, mặc dầu không đọc được chữ Hán, ông vẫn tin rằng, nhờ có kinh
nghiệm lâu năm nên mình thừa sức hiểu hết các từ ngữ tiếng Việt có gốc
Hán, thế là ông biên soạn cuốn Từ điển từ và ngữ Hán Việt (nhưng phải tránh việc thể hiện chữ Hán), xuất bản năm 1989. Tuy dung lượng của nó chỉ bằng một phần ba so với cuốn Hán Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh (lưu hành từ năm 1932) nhưng lại chứa đựng nhiều trăm sai lầm, vậy mà được GS Lê Trí Viễn đánh giá là “một
công cụ tra cứu rất quý không thể thiếu được đối với bất kỳ ai, trước
hết là học sinh, sinh viên, các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu, biên
soạn, khi muốn nắm được nghĩa chính xác của các từ ngữ Hán – Việt trong
tiếng Việt hiện nay”. Lời ca tụng đó đã biến quyển từ điển tồi tệ
này thành của quý, khiến soạn giả ngỡ rằng mình là người duy nhất đủ sức
đảm đương sứ mạng “gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt”. Thế là, liên
tiếp trong mấy năm sau đó, ông sản xuất thêm ba cuốn nữa là Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Từ điển tục ngữ thành ngữ Pháp Việt, Từ điển tục ngữ thành ngữ Việt Pháp.
Càng ngày, “uy tín học thuật” của ông càng lên cao trong đám người có
bằng cấp và chức vị nhưng lười đọc và ít suy nghĩ. Người ta chỉ chú ý
đến tên sách chứ chẳng mấy người đọc sách và hiểu sách nên không ai biết
rằng, tác giả của chúng không những mù tịt về Hán ngữ mà vốn liếng
tiếng Việt cũng rất nghèo, thậm chí, không phân biệt được đâu là thành
ngữ, đâu là tục ngữ. Khi đã ngoài 90 tuổi, ông bèn tập hợp tất cả mọi từ
ngữ tiếng Việt trong cả bốn cuốn, gộp thêm cuốn Từ điển tiếng Việt của nhóm Văn Tân (gồm 13 người, trong đó có ông) để tạo thành cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam,
với hàng ngàn sai lầm thuộc mọi chủng loại: về chú giải từ tố, về giải
thích từ nguyên, về thành ngữ, tục ngữ, về tri thức khoa học, về lỗi
chính tả, v.v.
Trong lĩnh vực biên soạn từ
diển, NGND Nguyễn Lân thực sự là người yếu kém nhất, với những lỗ hổng
kiến thức không thể khắc phục.
❹ Ví dụ duy nhất về “tầm cao trí tuệ” của Nhà giáo Nguyễn Lân đã góp thêm chứng cứ để khẳng định điều ngược lại.
Trong
hàng trăm bài viết để ca ngợi tài năng và trí tuệ hơn người của Nhà
giáo Nguyễn Lân, chỉ có một bài duy nhất (của một vị PGS TS) nêu ra một
ví dụ để làm bằng chứng về cái “trí tuệ siêu phàm” ấy. Xin kể tóm tắt
câu chuyện sau đây:
Tại khu mộ của Nguyễn Trường Tộ, có hai câu (người ta cho là đôi câu đối) bằng chữ Hán khắc nổi, vốn là: Nhất thất túc thành thiên cổ hận ║ Tái hồi đầu thị bách niên thân (Nghĩa là: Một lần sẩy chân, trở thành mối hận ngàn đời ║ Quay đầu nhìn lại, đã là cái thân trăm năm). Lâu ngày, chữ thân (nghĩa là thể xác, là thân thể) bị sứt mẻ hết nhưng nhiều người dân không biết chữ Hán vẫn còn nhớ đấy là chữ thân. Những người “có học” thì đoán đó là chữ cơ (nghĩa là cơ nghiệp, cơ đồ). Vị PGS TS nọ bèn thỉnh giáo Thầy Nguyễn Lân và đã được Thầy phán truyền: “Vế trên của câu đối là hận (ân hận) – một từ chỉ sự trừu tượng, thì vế dưới đối lại phải là một từ có tính chất cũng trừu tượng, cho nên dùng chữ cơ (cơ đồ) là chuẩn xác và hợp lý hơn là chữ thân (thân thể)”. Rồi ông PGS TS bình luận: Rõ là đầy sức thuyết phục. Tôi nhớ mãi câu nói cảm ơn của tôi khi đó: Thưa thầy! Đúng là “nhất tự thiên kim” vậy.
Người viết bài Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân cho rằng, lý lẽ của Thầy Nguyễn Lân rất khó chấp nhận. Cái chữ bị sứt kia phải là chữ thân mới hợp với ý than thân trách phận ở câu trước đó. Nhất thất túc thành thiên cổ hận ║ Tái hồi đầu, thị bách niên thân. Nghĩa là: Một lần sẩy chân (= một lần cẩu thả, một lần hẫng hụt, một lần sa ngã) thì ôm hận ngàn đời.║ Ngoái đầu nhìn lại thì mình chỉ còn cái thân già yếu. Như thế mới đúng với tâm tư của người có hoài bão lớn nhưng “lỡ thời”.
Nếu thay chữ thân bằng chữ cơ, nghĩa là cơ nghiệp, là sự nghiệp, thì sẽ sự thể sẽ là: Nhất thất túc thành thiên cổ hận.║ Tái hồi đầu, thị bách niên cơ. Nghĩa là: Một lần sẩy chân (= một lần cẩu thả, một lần hẫng hụt, một lần sa ngã) thì phải ôm hận mãi mãi. ║ Ngoái đầu nhìn lại thì mình đã có cơ nghiệp trăm năm. Như vậy thì cái sự “thất túc” kia không gây nên hậu quả gì ghê gớm, chẳng đáng phải mang hận ngàn đời.
Kết quả khảo cứu của chúng tôi đã xác nhận rằng, hai câu ấy phải là: Nhất thất túc thành thiên cổ hận ║ Tái hồi đầu, thị bách niên thân.
Đây là hai câu thơ cuối cùng trong một bài thơ thất ngôn bát cú có xuất
xứ khá ly kỳ, liên quan đến một số học giả nổi tiếng thời nhà Minh và
nhà Thanh.
Chúng ta lại có thêm một bằng chứng xác thực cho thấy trình đô học vấn non kém và thòi quen nói liều của NGND Nguyễn Lân.
¢ Trên đây là bản tóm lược 8 sự thật về NGND Nguyễn Lân mà tác giả đã khảo chứng khá kỹ càng trong bài Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân. Hiện nay, bài này đã được đăng lại ở một số Blog khác ngoài Blog Quê choa.
Quý vị độc giả nào có nhu cầu đọc toàn văn bài này, có thể tìm thấy một
cách dễ dàng theo tiêu đề của bài hoặc theo các địa chỉ sau đây: lemanhchien41.blogspot.com và Lê Mạnh Chiến – Blogger.
●♦●
II. Trả lời thư của độc giả Yên Duyên Hương
Trong bài Góp phần tìm hiểu sự thật về Giáo sư Nguyễn Lân, ở đoạn trả lời câu hỏi 2 (phần II. Trả lời một số câu hỏi thiết thực, hỏi về việc Nhà giáo Nguyễn Lân có được nhà nước Việt Nam phong học hàm Giáo sư hay không), tác giả đã chứng minh: NGND Nguyễn Lân chưa bao giờ được nhà nước phong chức danh Giáo sư như lâu nay mọi người vẫn nhầm lẫn. Mở đầu việc khảo chứng điều này, tác giả viết:
Trong Quyết định 162/CP do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 11 tháng 9 năm 1956
về việc phong chức danh Giáo sư cho 29 Nhà giáo, nhà khoa học tiêu biểu
(trong đó có các ông Tạ quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, v.v.), có tên những
người sau đây:
● Sử học (5): Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Huyên, Phạm Huy Thông, Nguyễn Khánh Toàn. ● Văn học (3): Đặng Thai Mai, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu. ●Triết học (1): Trần Đức Thảo. ● Toán học (2): Tạ Quang Bửu, Lê Văn Thiêm. ● Vật lý (1): Ngụy Như Kon Tum. ● Hóa học (1): Nguyễn Hoán. ● Y học (14): Đặng Văn Chung, Hồ Đắc Di, Vũ Công Hòe, Đỗ Xuân Hợp, Đặng Vũ Hỷ, Nguyễn Xuân Nguyên, Đặng Văn Ngữ, Đặng Văn Nội, Trương Công Quyền, Phạm Ngọc Thạch, Đinh Văn Thắng, Hoàng Tích Trí, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước. ● Nông học (1): Lương Định Của. ● Cơ khí (1): Trần Đại Nghĩa.
Quyết định 162/CP
ra đời khi Nhà nước sắp xếp lại các cơ sở Đại học đã có từ trước và mở
thêm một số trường Đại học mới, ban đầu, có 6 trường vào năm 1956 (gồm
có: Đại học Sư phạm, Đại học Tổng hợp, Đại học Y - Dược, Đại học Nông
Lâm, Đại học Bách khoa, Đại học Kinh tế - Tài chính). Để trao trọng
trách cho các nhà khoa học hàng đầu trong công tác tổ chức và giảng dạy ở
các trường Đại học mới được thành lập, Chính phủ đã phong học hàm Giáo
sư cho 29 người kể trên. Quyết định này được ký và công bố trong tháng 9
năm 1956. Đây là lần phong Giáo sư đầu tiên của Nhà nước ta. Từ năm
1980 trở đi mới có những đợt phong học hàm Giáo sư tiếp theo.
Thế nhưng, một số độc giả tra cứu trên mạng Internet (ví dụ, theo Từ điển Wikipedia tiếng Việt, tại mục từ Giáo sư Việt Nam.) hoặc nguồn tài liệu nào đó, lại cho rằng, Quyết định này được ký ngày 11 tháng 9 năm 1976 (chứ không phải là năm 1956
như tác giả đã viết) và cho rằng, sự khảo chứng của tác giả là “thiếu
chính xác”. Từ đó, họ coi sự “thiếu chính xác” ấy là cơ sở để đặt vần đề
“nghi vấn” mọi kết quả khảo chứng khác của tác giả.
Về vấn đề này, tác giả khẳng định một lần nữa: Quyết
định 162/CP về đợt phong học hàm Giáo sư đầu tiên ở Miền Bắc Việt Nam
được ký ngày 11/9/1956, và chỉ có thể là năm 1956 chứ không thể là 1976.
Tác giả cũng không hề bỏ sót tên NGND Nguyễn Lân trong danh sách những
người được phong học hàm Giáo sư, vì ông chưa bao giờ được phong Giáo
sư.
Về việc các ông Trần Đức Thảo và Trương Tửu
đã được phong học hàm Giáo sư từ trước năm 1958 thì chính Nhà giáo
Nguyễn Lân cũng đã nói đến nhiều lần.
Trong cao
trào đấu tranh chống “bọn phản động Nhân văn - Giai phẩm” hồi giữa năm
1958, Nhà giáo Nguyễn Lân là một người rất hăng hái, kiên định lập
trường của giai cấp vô sản, có thành tích rất nổi bật trong cuộc đấu
tranh quyết liệt này. Lập trường cách mạng của ông đã thể hiện rõ trong bài Trường Đại học Sư phạm đã nhổ được hai cái gai: Trương Tửu và Trần Đức Thảo, đăng trên báo Nhân dân
(trang 3) số ra ngày Chủ nhật, 18/5/1958. Trong bài báo này, ông Nguyễn
Lân đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, các ông Trần Đức Thảo, Trương Tửu lúc
bấy giờ là Giáo sư.
Nhà giáo Nguyễn Lân viết:
Chính
vì Trương Tửu và Trần Đức Thảo có manh tâm chống Đảng, chống chế độ nên
trong hai năm nay, họ đã gây nên ở trường Đại học sư phạm một không khí
nặng nề, khó thở. Họ là Giáo sư, là chủ nhiệm khoa, nghĩa là những người có cương vị trong hội đồng lãnh đạo của nhà trường.
Nhưng thực ra họ luôn luôn tìm cách biến những buổi họp hội đồng lãnh
đạo thành những cuộc cãi vã, thành những dịp để họ công kích ban giám
đốc, công kích các đảng viên. Cho nên trong các buổi họp hội đồng lãnh
đạo, ít khi người ta đi đến đượcnhững kết quả cụ thể về xây dựng chuyên
môn, xây dựng tổ chức, mà phần lớn thời gian chỉ là để giải quyết những
vấn đề tủn mủn, vụn vặt do họ nêu lên hoặc là để họ gây thêm mâu thuẫn
trong nội bộ nhà trường. Có người đã cho rằng Tửu và Thảo luôn luôn dùng
cái thủ đoạn “đảo nghị” mà nghị sĩ Pác-nen đã dùng ở nghị
viện nước Anh hồi cuối thế kỷ thứ 19, để hội đồng lãnh đạo nhà trường
không làm trọn nhiệm vụ mà nhân dân giao phó cho.
Không
những Tửu và Thảo chĩa mũi dùi vào các đảng viên mà họ thường mạt sát
với những lời sống sượng, thô bạo, họ còn tìm cách dèm pha tất cả những
người ngoài Đảng không ăn cánh với họ. Riêng đối với những kẻ nghe theo
họ thì họ đề cao, tâng bốc, đòi cho được hưởng quyền lợi nọ kia. Với cái
óc bè phái ấy, họ đã phá hoại tinh thần đoàn kết rất cần thiết cho việc
xây dựng nhà trường.
Thái độ
hung hăng, phá phách của Tửu và Thảo ở trường Đại học sư phạm có phải là
do sự bất mãn hay không? Chúng tôi thiết nghĩ họ không có lý do gì bất
mãn cả, vì Đảng và Chính phủ đối đãi với họ thật là đã quá hậu.
Nhiều người đã ngạc nhiên không hiểu vì sao Trương Tửu mà có thể là Giáo sư đại học được.
Không những y có cái quá khứ chẳng hay ho gì, mà ngay đến cái vốn tri
thức của y cũng rất là nông cạn, như người ta đã phân tích nhiều lần
trên báo chí. Ấy thế mà Tửu vẫn được làm Giáo sư trường Đại học sư phạm thì còn bất mãn nỗi gì?
[...]
Phải
chờ đến khi đã học tập, anh em các tổ được giác ngộ, yêu cầu Tửu và
Thảo phải kiểm thảo, rồi anh em góp thêm nhiều hiện tượng, chúng tôi mới
hiểu được rằng Trương Tửu và Trần Đức Thảo không phải chỉ là những
người trí thức bất mãn mà rõ ràng là những kẻ có mưu đồ xấu xa về chính
trị. Trước những hiện tượng cụ thể anh em nêu lên mà Tửu và Thảo không
thể chối cãi được, chúng tôi mới thấy được những tư tưởng phản động có
thể hạ phẩm giá con người đến mức độ nào. Một số sự việc đã khiến chúng
tôi phải sửng sốt không ngờ những người vẫn mệnh danh là đại trí thức
như Tửu và Thảo mà có thể ti tiện, đê hèn như thế.
Quả
đợt học tập hai văn kiện là một cơn gió lành mạnh đã thổi bạt được
những rác rưởi của chủ nghĩa xét lại, đã lật được mặt nạ một số người
trước đây người ta vẫn cho là thượng lưu trí thức, và riêng đối với
trường Đại học sư phạm, đã nhổ được hai cái gai gây ra bao nhiêu vướng
víu trong việc xây dựng nhà trường.
Gai
đã nhổ rồi, không khí trường Đại học sư phạm trở nên khác hẳn: mọi
người, mọi thành phần, sau đợt học tập, đã cùng đứng trên một lập
trường, cùng thống nhất một ý chí, nên tình đoàn kết càng ngày càng chặt
chẽ. Trên cơ sở của mối đoàn kết đó, mọi công tác của nhà trường như tổ
chức, giảng dạy, học tập, lao động... đều tiến hành được đều đặn, với
một đà phấn khởi chưa từng có.
Từ
nay nhà trường như một thân thể đã cắt được cái ung thư trở nên lành
mạnh, khỏe khoắn. Nhất định trong một tương lai ngắn, trường Đại học sư
phạm của chúng ta sẽ xứng đáng là một trường Đại học xã hội chủ nghĩa,
xứng đáng với nhiệm vụ đào tạo những người giáo viên tốt cho nền giáo
dục phổ thông đương một ngày một vươn lên mạnh mẽ.
Sau
cuộc đấu tranh sôi sục, thực chất là những đợt đấu tố khốc liệt mà
những ngưởi bị đấu tố không được mở miệng, kết cục là, các Giáo sư Trần
Đức Thảo, Trương Tửu, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường đều phải vĩnh viễn
rời khỏi bục giảng các trường Đại học và sống tiếp vài chục năm cho đến hết đời trong cảnh cùng quẫn và tủi nhục, luôn luôn bị theo dõi, rình rập.
Năm
1976, các ông Trần Đức Thảo và Trương Tửu vẫn còn bị theo dõi, giám sát
nghiêm ngặt. Tình trạng đó còn kéo dài thêm hơn mười năm nữa mới chấm
dứt. Câu chuyện sau đây do Giáo sư Trương Tửu (1913-1999) kể lại cho
chúng tôi đã chứng tỏ điều đó.
Khi công cuộc
“Đổi mới” diễn ra đi đôi với việc “cởi trói”, sự đối xử với các “phần tử
Nhân văn Giai phẩm” bắt đầu bớt nghiệt ngã. Trước đó, đại đa số học trò
cũ và những người quen biết đều không dám liên hệ với họ vì ai cũng sợ
mang tai họa vào thân. Năm 1987, khi thấy việc tiếp xúc với các “thầy
giáo Nhân văn Giai phẩm” không còn nguy hiểm như trước nữa, Giáo sư
Nguyễn Đình Chú (là học trò cũ của các thầy Trương Tửu, Trần Đức Thảo)
bèn đứng ra tổ chức cuộc họp đồng môn để kỷ niệm 30 năm ngày ra trường
(1957-1987) và kính mời các thầy đến dự, trong số đó, không thể thiếu
các Giáo sư từng mắc đại nạn trong cuộc “đấu tranh chống Nhân văn Giai
phẩm”. Thế nhưng vẫn có một học trò cũ lúc bấy giờ (năm 1987)
cũng là Giáo sư về Văn học Việt Nam hiện đại đã vội vã đi báo cáo với
công an, đòi ngăn chặn cuộc gặp gỡ này. Tuy nhiên, tình hình bấy giờ
không còn căng thẳng như trước, công an không để ý đến “nguồn tin” mật
báo này nữa. Cuộc họp đã diễn ra một cách tốt đẹp, đầy xúc động. Đương
nhiên là vắng mặt ông Giáo sư kia.
Việc các ông
Trần Đức Thảo và Trương Tửu đã được Nhà nước phong chức danh Giáo sư đại
học hẳn là không có gì phải nghi ngờ. Sau khi cả hai ông bị đuổi khỏi
trường Đại học từ giữa năm 1958 cho đến ngày qua đời, chưa có một chỉ
thị nào xóa bỏ bản án quá nghiệt ngã và oan trái đối với họ. Cả hai ông
Trấn Đức Thảo và Trương Tửu bị coi là những tên tội phạm nguy hiểm. Cho
đến những ngày diễn ra công cuộc “Đổi mới” kèm theo việc “cởi trói” ở
nước ta, tình trạng đó mới được nới lỏng. Vậy, không có lý do gì để tin
rằng các vị Trương Tửu, Trần Đức Thảo được Nhà nước Việt Nam phong học
chức danh Giáo sư vào năm 1976. Quyển sách GIÁO SƯ VIỆT NAM của Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước
(Nxb Khoa học Xã hội ấn hành năm 2004) đã ghi nhận rằng, trước năm 1980
việc phong chức danh Giáo sư chỉ được thực hiện một lần duy nhất, có 29
người được phong Giáo sư trong lần này. Bởi vậy, nếu căn cứ theo Từ điển Wikipedia tiếng Việt hoặc một tài liệu nào đó để tin rằng đợt phong Giáo sư đầu tiên diễn ra năm 1976 là hoàn toàn sai lầm.
Đến
đây, chúng tôi đã trả lời xong hai điều thắc mắc trong thư của độc giả
Yên Duyên Hương, cụ thể là: uĐợt phong học hàm Giáo sư đầu tiên diễn ra
năm 1956 chứ không phải năm 1976 như một số tài liệu đã viết sai. v
Chúng tôi cũng không “bỏ sót tên ông Nguyễn Lân” khỏi danh sách những
người được phong học hàm Giáo sư, vì ông chưa bao giờ được phong Giáo sư
mà chỉ là Giáo sư tự phong.
Độc giả Yên Duyên Hương còn đặt cho chúng tôi một câu hỏi khác nữa: Chúng tôi được biết, sinh thời GS Nguyễn Lân đã có lời xin lỗi Trần Đức Thảo. Vậy, thực hư chuyện này là thế nào?
Tác
giả xin phép mượn một bài của nhà báo Phú Cường, trong đó nói về điều
“ân hận” của Nguyễn Lân đối với Trần Đức Thảo để trả lời câu hỏi này của
quý vị.
Trong bài Chuyện giờ mới kể về GS NGND Nguyễn Lân (trên báo điện tử Vietnamnet, tại địa chỉ http://vnn.vietnamnet.vn/vanhoa/2003/9/30157/) của nhà báo Phú Cường viết nhân 49 ngày mất của GS NGND Nguyễn Lân, có đoạn cuối cùng mang tiêu đề là Tôi có hai điều ân hận, như sau:
Sống một cuộc đời trong sáng, không màng công danh, phú quý, dồn hết tâm trí vào việc ”trồng người”,
GS NGND Nguyễn Lân được Nhà nước trao tặng nhiều danh hiệu cao quý,
hàng năm nhân dịp Tết cổ truyền, ngày Nhà giáo Việt Nam, các vị lãnh đạo
cấp cao Đảng và Nhà nước đều đến thăm và tặng quà cụ. Cụ có lần tâm sự:
“Cả đời tôi sống thanh bạch, không làm điều gì để trái với lương tâm, chỉ có hai điều tôi cứ ân hận mãi. Một là
tôi được các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước đến tận nhà thăm
hỏi, nhưng do tuổi cao, đi lại không thuận tiện nên chưa lần nào đến nhà
đáp lễ được. Điều thứ hai là, năm 1957, hồi tôi là Chủ tịch Công
đoàn ngành giáo dục, được tổ chức phân công cuộc họp phê phán ông Trần
Đức Thảo, một nhà triết học rất uyên bác. Là nhiệm vụ trên giao, tôi
không thể không thực hiện, mà trong lòng thấy ân hận vô cùng. Rất mừng,
năm 2000 các công trình nghiên cứu của GS Trần Đức Thảo được Đảng và Nhà
nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh”.
Bây
giờ hai cụ đều ở cõi vĩnh hằng, chắc rằng hai nhà trí thức lớn của nước
nhà đều cười vui, thông cảm trong niềm kính trọng nhau.
Đọc
những lời “gan ruột” của Nhà giáo Nguyễn Lân, thoạt tiên chúng ta tưởng
như đó là biểu hiện tấm lòng trung thực của một người “trót vì tay đã
nhúng chàm”, nay lương tâm cắn rứt nên đã dũng cảm, thẳng thắn thừa nhận
những lỗi lầm mà trước đây mình đã phạm phải. Thế nhưng, tinh ý một
chút thì sẽ thấy rằng, trong sự ân hận quá muộn màng này vẫn lấp ló sự
thiếu chân thành nên ông vẫn cố đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan. Hơn
nữa, trong hai điều “ân hận mãi” ấy, điều “ân hận” thứ nhất là ở chỗ, do tuổi cao, đi lại không thuận tiện nên chưa lần nào đến nhà đáp lễ các vị lãnh đạo Nhà nước từng đến nhà thăm hỏi ông;
rồi sau đó mới đến điều “ân hận” thứ hai, do phải hết lòng “phục tùng
tổ chức” (phải dùng lời lẽ đao búa để xỉa xói, nhục mạ người bị đấu tố)
nên phải lập thành tích xuất sắc trong việc kể tội và luận tội các ông
bạn đồng nghiệp vốn có địa vị cao hơn mình. Điều “ân hận” thứ nhất thực
ra chỉ nên gọi là sự áy náy, băn khoăn về tình cảm, nhưng đã được ông
nâng lên thành điều “ân hận” cao hơn hẳn sự dày vò, cắn rứt và hổ thẹn
mà mọi người có lương tâm đều không thể tránh khỏi khi nghĩ đến thành
tích đổ dầu vào lửa trong cuộc hãm hại đày đọa những người lương thiện.
Về thực chất và sức tác động, những lời buộc tội của chứng nhân kiêm
quan tòa Nguyễn Lân chẳng khác gì những nhát gươm hay những mũi tên tẩm
thuốc độc để hạ gục nạn nhân. Vậy mà trong hai đồng nghiệp vô tội từng
bị ông coi là kẻ thù phải trừng trị đích đáng, sau khi họ đã mất hết tất
cả mọi chỗ bấu víu về tinh thần và vật chất, phải nếm đủ mùi đắng cay,
tủi hận suốt 30-40 năm rồi ngậm ngùi về nơi chín suối, chỉ có một người
vừa được tuyên dương (coi như được minh oan) thì được ông nghĩ lại rồi
lặng lẽ nói riêng với một nhà báo, tỏ ý “ân hận” sau khi người đó qua
đời gần một chục năm. Còn đối với người đồng nghiệp vô tội nhưng không
(hay chưa) được tuyên dương thì ông không hề “ân hận”.
Cũng không khó nhận ra trò ngụy biện của ông Nguyễn Lân. Bởi vì, với tư cách “Chủ
tịch Công đoàn ngành giáo dục, được tổ chức phân công cuộc họp phê phán
ông Trần Đức Thảo [...] Là nhiệm vụ trên giao, tôi không thể không thực
hiện” nếu ông Nguyễn Lân thực sự là một con người nhân hậu và hiểu biết lẽ phải thì ông sẽ làm nhiệm vụ “trên giao”
đó một cách “cầm chừng” chứ không thể hăng hái “toàn tâm toàn ý” đấu tố
đồng nghiệp với những lời chửi rủa, nhục mạ nặng nề như vậy. Trên thực
tế, hồi bấy giờ không phải chỉ có một mình ông Nguyễn Lân phê phán các
ông Trương Tửu và Trần Đức Thảo. Nhưng có lẽ chỉ những lời lẽ đấu tố cay
độc của Nguyễn Lân mới trở thành “áng văn bất hủ” mà đến đến tận bây
giờ đọc lại, ai nấy đều rùng mình ghê rợn.
Nếu
quả thật ông Nguyễn Lân thấy lương tâm cắn rứt, ân hận thì hẳn là ông
phải viết bài công khai nói lên điều đó hoặc chính thức xin lỗi trước
mặt Trần Đức Thảo chứ không phải đợi đến khi ông này qua đời gần muời
năm và được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Cho nên chúng ta không
lấy gì làm lạ khi Nhà giáo Nguyễn Lân không hề ‘ân hận’ về việc đấu tồ,
nhục mạ ông Trương Tửu. Khi ông Trần Đức Thảo còn sống vả còn mang thân
phận một công dân hạng bét thì NGND Nguyễn Lân không có gì ân hận về
việc làm thất đức và tàn nhẫn của mình. Chỉ sau khi ông Trần Đức Thảo
qua đời gần 10 năm và trở thành người có địa vị cao hơn hẳn (là Giáo sư
thật, được trao giải thưởng cao nhất, còn ông Nguyễn Lân thì vẫn là Giáo
sư tự phong và được trao giải thưởng thấp hơn) thì ông Nguyễn Lân mới
“ân hận”. Còn ông Trương Tửu thì chỉ mới thoát khỏi thân phận công dân
hạng bét để gia nhập đội ngũ “phó thường dân” nên ông Nguyễn Lân không
cần phải bận tâm về việc làm độc ác năm xưa. Nếu cùng lúc, cả Trần Đức
Thảo lẫn Trương Tửu đều được Nhà nước trao giải thưởng hoặc được tôn
xưng thì cái điều “ân hận” thứ hai của Nhà giáo Nguyễn Lân hẳn sẽ khác
hơn.
Ông Nguyễn Lân không “ân hận” đối với ông
Trương Tửu mà chỉ “ân hận” đối với ông Trần Đức Thảo vì về sau ông Trần
Đức Thảo trở lại địa vị cao hơn mình, chứ không phải vì kính trọng người
tài cao học rộng. Mà địa vị hay “trọng lượng” của ông Trần Đức Thảo
(nếu ông còn sống) thì chẳng thấm vào đâu so với các quan chức từ thứ
trưởng trở lên. Bởi thế, đối với ông Nguyễn Lân, cái “lỗi” xúc phạm, chà
đạp danh dự và nhân phẩm của ông Trần Đức Thảo còn nhẹ hơn nhiều so với
cái “lỗi” chưa đi thăm đáp lễ các vị lãnh đạo cấp cao.
Trở lại câu hỏi của độc giả Yên Duyên Hương: Chúng tôi được biết, sinh thời GS Nguyễn Lân đã có lời xin lỗi ông Trần Đức Thảo. Vậy, thực hư chuyện này là thế nào?,
tác giả coi việc lý giải hai điều “ân hận” của NGND Nguyễn Lân đã là
lời giải đáp cho câu hỏi của quý vị: Ông Nguyễn Lân chỉ “ân hận” vì sự
“thất lễ” đối với những người bề trên, những người có ngôi vị cao hơn
mình. Bởi vậy, sinh thời, GS Nguyễn Lân không bao giờ có lời xin lỗi ông Trần Đức Thảo, cũng như ông đã không hề “ân hận” đối với ông Trương Tửu. Đó là một sự thật hiển nhiên.
●♦●
“Trải
qua một cuộc bể dâu”, nhân cách và tài năng của các Giáo sư Trần Đức
Thảo và Trương Tửu tuy bị chà đạp và vấy bẩn suốt ba chục năm nhưng đến
nay vẫn được người đời trân trọng và biểu dương. Họ vẫn để lại hình ảnh
đẹp trong lòng mọi người Việt Nam có hiểu biết, có lương tri. Còn NGND
Nguyễn Lân – người luôn luôn hãnh diện với cái hư danh Giáo sư tiếm
xưng và đắc ý tự hào về những cuốn từ điển từng làm lóa mắt hàng loạt
trí thức lười học và ít suy nghĩ, nhưng lại đầy rẫy những sai sót “để
đời”, làm méo mó tiếng Việt, rất độc hại đối với tiếng Việt – nay đã bắt
đầu được người đời phán xét với đầy đủ tang chứng cụ thể để cảnh cáo và
tẩy độc nhằm trả lại vẻ đẹp hồn nhiên cho tiếng Việt và ghi nhớ một
giai đoạn suy đồi của nền văn hóa - giáo dục Việt Nam.
Lê Mạnh Chiến
Tác giả gửi BVN