Đọc Lời Kêu Goị (sic) của Ủy Ban Vinh Danh Cờ Vàng Nam Úc mà giật cả mình (xem ảnh chụp trang 20 Adelaite Tuần Báo số 794, ngày 31/8/2017)
Có ai ngờ kiếm hai chục ngàn Úc kim dễ như ăn gỏi? Chữ nghĩa lôm côm mà tự tin quá.
Câu hỏi đặt ra là ai phải chịu trách nhiệm về cái văn bản lôm côm này. Thằng đánh máy? Thằng thuê thằng đánh máy? Hay cái máy? Có lẽ là cái máy. Lô-gích thôi. Người kiếm không ra một tay đánh máy đàng hoàng biết tìm đâu ra người dựng cột cờ cho đàng hoàng?
Saturday, 2 September 2017
Monday, 28 August 2017
Chồng của bà Trưng Trắc: Thi [Sách] (Lê Minh Khải - Lê Minh Khải Việt)
Tác giả: Lê Minh Khải
Người dịch: Hoa Quốc Văn
Tôi có đọc một bài báo của một sử gia Nam Việt là Nguyễn Phương viết ở thập kỉ 1960s về hai bà Trưng. Tôi chưa bao giờ xem xét kĩ các nguồn thông tin về cuộc nổi dậy này, nhưng bài báo của Nguyễn Phương khiến tôi nhận ra rằng chúng có vấn đề.
Điều giờ đây tôi có thể thấy là có hai bản tường thuật về hai bà Trưng và rằng một trong hai bản đó đã dần chi phối truyền thống sử học (mặc dù nó cũng thay đổi theo thời gian), trong khi bản kia thì không. Và trong phạm vi tôi có thể nói, phiên bản không chi phối đó là chính xác hơn.
Phiên bản đầu tiên xuất hiện khoảng năm 445 sau Công lịch trong cuốn Hậu Hán thư (Hou Hanshu 後漢書) của Fan Ye (Phạm Việp), như sau:
“Năm thứ 16, người con gái Giao Chỉ là Trưng Trắc và em gái Trưng Nhị làm phản, tấn công [đầu não của] quận. Trưng Trắc là con gái của một Lạc tướng ở huyện Mê Linh (Mê đọc là Mê, Linh đọc là Linh). Thị lấy Thi Sách ở Chu Diên làm vợ, rất khỏe mạnh và can đảm. Thái thú Giao Chỉ là Tô Định dùng luật để trừng phạt thị. Trắc phẫn nộ vì vậy nổi dậy. Sau đó, các tộc Man ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Bố đều hưởng ứng [lời kêu gọi của chúng] và chiếm 65 thành. Trắc tự xưng là vua” 至十六年,交阯女子徵側及其妹徵貳反,攻郡。徵側者,麊泠縣雒將之女也。(麊音莫支反,泠音零。) 嫁為朱䳒人詩索妻,甚雄勇。交阯太守蘇定以法繩之,側忿,故反。於是九眞、日南、合浦蠻里皆應之,凡略六十五城,自立為王.
Phiên bản thứ hai xuất hiện sau đó gần một thế kỉ (~515-524) trong cuốn Thủy kinh chú (Shuijing zhu 水經注)của Li Daoyuan (Lịch Đạo Nguyên), như sau:
“Sau con trai của một Lạc tướng ở Chu Diên có tên Thi lấy con gái Lạc tướng Mê Linh là Trưng Trắc làm vợ. Trắc rất can đảm. Thị lôi kéo Thi khởi loạn (chú: gần đây khắc sai “Thi” thành “thê”), tấn công [đầu não của] châu quận và chinh phục các Lạc tướng khác, họ đều tôn Trắc làm vua, đóng đô ở Mê Linh” 後朱䳒雒將子名詩索麊冷雒將女名徵側為妻。側為人有膽勇,將詩起賊 (案近刻訛為妻),攻破州郡,服諸雒將,皆屬徵側為王,治麊泠縣.
Sự khác biệt đầu tiên mà chúng ta thấy ở đây là trong Thủy kinh chú, tên của chồng Trưng Trắc là Thi chứ không phải Thi Sách. Điều này thực sự hữu lí hơn.
Ở thế kỉ XVIII có một học giả có tên là Zhao Yiqing đã chỉ ra vấn đề này trong một bản chú thích cuốn Thủy kinh chú do ông thực hiện – cuốn Thủy kinh chú thích (Shuijing zhu shi 水經注釋).
Vấn đề liên quan đến chữ mà Phạm Việp hiểu là bộ phận của một cái tên, và Lịch Đạo Nguyên hiểu là một động từ có nghĩa là “tìm lấy”. Zhao Yiqing chú như sau:
“sách thê” (索妻) cũng giống như “thú phụ” (娶婦). Đoạn văn trong Nam Man Tây Nam Di truyện nói “giá vi Chu Diên nhân thi sách thê” hoàn toàn nhầm lẫn” 一清按索妻猶言娶婦。範史南蠻西南夷傳云,嫁為朱鳶人詩索妻,亦謬之甚矣。嫁為朱䳒人詩索妻,甚雄勇。
Điều này là có lí, bởi câu văn trong Hậu Hán thư là rối rắm (“Thị lấy Thi Sách ở Chu Diên làm vợ mình, rất khỏe mạnh và can đảm” – 嫁為朱䳒人詩索妻,甚雄勇), đặc biệt là câu “lấy … làm vợ mình” 嫁為. . . 妻 và sự chuyển mạch giữa “thê” và từ tiếp theo “thậm” 甚 (rất).
Mặc khác, câu văn trong Thủy kinh chú rất thuận “Sau con trai của một Lạc tướng ở Chu Diên có tên Thi lấy con gái Lạc tướng Mê Linh là Trưng Trắc làm vợ. Trắc rất can đảm” 後朱䳒雒將子名詩索麊冷雒將女名徵側為妻。側為人有膽勇.
Rồi ở đầu thế kỉ XX, Yang Shoujing và Xiong Huizhen đã làm một bản chú thích khác về cuốn Thủy kinh chú – tức Thủy kinh chú sớ (Shuijing zhu shu 水經注疏) – trong đó họ chỉ ra rằng có một đoạn văn trong một cuốn loại thư thế kỉ X có tên Thái Bình hoàn vũ kí (Taiping huanyu ji 太平寰宇記) trong đó chứng minh rằng từ được dùng ở khu vực đồng bằng sông hồng (tức Giao Chỉ hoặc Giao Châu) với nghĩa là “tìm lấy (vợ).
Có một đoạn văn nói về phong tục ở Giao Châu, trong đó khẳng định rằng về người đàn ông tìm lấy vợ, trước khi anh ta lấy vợ, anh ta gửi đến một mâm cau. Khi cô gái ăn hết mâm cau đó thì họ trở thành vợ chồng” 索婦之人,未婚前,先送檳榔一盤,女食盡則成親.
Vậy là có vẻ như đối với tôi đã rõ ràng rằng đoạn văn nói về hai bà Trưng trong Thủy kinh chú chính xác hơn ở điểm này. Tuy nhiên, thông tin được người Việt Nam ghi chép rốt cuộc lại theo Hậu Hán thư của Phạm Việp. Các nguồn tư liệu của người Việt cũng theo Hậu Hán thư theo những cách thức khác.
Tôi băn khoăn tại sao lại có chuyện đó? Có phải người ta không nhớ tên chồng bà Trưng Trắc?
Tôi đính kèm bài báo của Nguyễn Phương ở đây (Nguyen Phuong on Trung sisters).
Sunday, 20 August 2017
Làm người Việt thứ thiệt có dễ không?
Người Việt hải ngoại hay ra cái điều yêu nước thương nòi, lại thích lên mặt dạy đời:
Nói chung, người Việt thứ thiệt sống ở hải ngoại, ngoài chuyện "biết người" cũng cần phải "biết ta", biết luân thường đạo lý, văn hóa dân tộc và học tập để xử dụng rành rẻ ngôn ngữ Mẹ đẻ của mình.
(Đoàn Công Chánh Phú Lộc, "Cộng đồng người Việt tự do Nam Úc và ngôn ngữ Việt" Nam Úc Tuần Báo, số 1109, 18.08.2017, tr.11)
Hai lỗi chính tả sơ đẳng ngay trong một câu là bằng chứng cho thấy ông ký giả họ Đoàn sử dụng tiếng mẹ đẻ chưa rành rẽ. Theo định nghĩa của chính ông, ông không phải là người Việt thứ thiệt. Vậy ông lấy tư cách gì để định nghĩa người Việt thứ thiệt?
Nói chung, người Việt thứ thiệt sống ở hải ngoại, ngoài chuyện "biết người" cũng cần phải "biết ta", biết luân thường đạo lý, văn hóa dân tộc và học tập để xử dụng rành rẻ ngôn ngữ Mẹ đẻ của mình.
(Đoàn Công Chánh Phú Lộc, "Cộng đồng người Việt tự do Nam Úc và ngôn ngữ Việt" Nam Úc Tuần Báo, số 1109, 18.08.2017, tr.11)
Hai lỗi chính tả sơ đẳng ngay trong một câu là bằng chứng cho thấy ông ký giả họ Đoàn sử dụng tiếng mẹ đẻ chưa rành rẽ. Theo định nghĩa của chính ông, ông không phải là người Việt thứ thiệt. Vậy ông lấy tư cách gì để định nghĩa người Việt thứ thiệt?
Saturday, 19 August 2017
Biển Đông của ai?
Viết thế này thì người đọc sẽ không rõ biển Đông của ai (Việt Nam, người dám nói mạnh hay Trung Quốc):
Trước mắt, những điều mà VN đưa ra đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là không ai dám nói mạnh về việc xâm chiếm biển Đông của họ.
("Nước cờ nào cho VN?", Adelaide Tuần Báo số 792, 17.6.2017, tr.4)
Sửa lỗi này rất dễ:
Trước mắt, những điều mà VN đưa ra đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là không ai dám nói mạnh về việc TQ xâm chiếm biển Đông.
Viết việc họ xâm chiếm biển Đông thì tránh được chuyện thắc mắc biển Đông của ai, nhưng người đọc lại không rõ ai là người đi xâm chiếm (người dám nói mạnh hay Trung Quốc), thành thử phải chấp nhận lặp từ TQ.
Muốn tránh lặp từ TQ, có thể viết:
Trước mắt, những điều mà VN đưa ra đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là việc họ xâm chiếm biển Đông không bị ai chỉ trích/công kích/phê phán.
Muốn hay hơn nữa, nên viết:
Trước mắt, các đề nghị của VN đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là việc họ xâm chiếm biển Đông không bị ai chỉ trích/công kích/phê phán.
Từ của này không gây hiểu lầm như từ của trong bản gốc, lại giúp loại bớt một từ ra.
Muốn tránh cả của lẫn ra:
Trước mắt, những gì VN đề nghị đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là việc họ xâm chiếm biển Đông không bị ai chỉ trích/công kích/phê phán.
Trước mắt, những điều mà VN đưa ra đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là không ai dám nói mạnh về việc xâm chiếm biển Đông của họ.
("Nước cờ nào cho VN?", Adelaide Tuần Báo số 792, 17.6.2017, tr.4)
Sửa lỗi này rất dễ:
Trước mắt, những điều mà VN đưa ra đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là không ai dám nói mạnh về việc TQ xâm chiếm biển Đông.
Viết việc họ xâm chiếm biển Đông thì tránh được chuyện thắc mắc biển Đông của ai, nhưng người đọc lại không rõ ai là người đi xâm chiếm (người dám nói mạnh hay Trung Quốc), thành thử phải chấp nhận lặp từ TQ.
Muốn tránh lặp từ TQ, có thể viết:
Trước mắt, những điều mà VN đưa ra đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là việc họ xâm chiếm biển Đông không bị ai chỉ trích/công kích/phê phán.
Muốn hay hơn nữa, nên viết:
Trước mắt, các đề nghị của VN đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là việc họ xâm chiếm biển Đông không bị ai chỉ trích/công kích/phê phán.
Từ của này không gây hiểu lầm như từ của trong bản gốc, lại giúp loại bớt một từ ra.
Muốn tránh cả của lẫn ra:
Trước mắt, những gì VN đề nghị đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là việc họ xâm chiếm biển Đông không bị ai chỉ trích/công kích/phê phán.
Tuesday, 15 August 2017
Mèo khen mèo dài đuôi?
Ông Đoàn Công Chánh Phú Lộc (Nam Úc Tuần Báo số 1108, ngày 11.8.2017) khen bộ sách dạy tiếng Việt ở trường ông như sau:
Bộ sách này rất thích hợp cho các em ở hải ngoại học tiếng Việt, nên nhiều lần được các trường Việt ngữ hỏi mua hay xin in lại những bài trong đó để xử dụng. (tr.10)
Ông hiệu trưởng này không biết phân biệt lấp và lắp:
a) Cho sơn nhà và sắp đặt, tu sửa các phòng ốc để ổn định chỗ làm việc cho tất cả các nhân viên VPPL; Lấp đặt hệ thống máy điều hòa cho tất cả các phòng làm việc. (tr.10)
Khi cần viết sơ lược, ông viết:
Tôi viết sơ lượt về việc điều hành Cộng Đồng. (tr.11)
Có thể thấy, đối với ông, phân biệt t-c cuối âm tiết là việc hết sức khó khăn:
Đã vậy, mà lại còn hãnh diện cho đó là đã có sự "hợp tác chặc chẽ" với nhau, thì cái mức độ ngu xuẩn này còn tệ hại hơn. (tr.11)
Người bị ông chê chớ lấy làm buồn. Người được ông khen cũng đừng vội mừng. Trình độ của người khen chê đã nằm tênh hênh trên trang báo đó. Đây vài hột bẹt nữa của ông hiệu trưởng:
Ông kỹ sư cho biết: cái shed được dùng cho xe truck ra vào cất dỡ hàng, bản vẻ chỉ có 24 m chiều dài. (tr. 10)
Việc quản lý, tiếp liệu, trang bị tủ bàn, máy móc hay tu bổ, sửa chữa, bảo trì cơ sở, phòng ốc, xe cộ , sân bải trong TTSSHCĐ thuộc trách nhiệm của HĐQT chứ không phải của VPPL (tr. 11)
Bộ sách này rất thích hợp cho các em ở hải ngoại học tiếng Việt, nên nhiều lần được các trường Việt ngữ hỏi mua hay xin in lại những bài trong đó để xử dụng. (tr.10)
Ông hiệu trưởng này không biết phân biệt lấp và lắp:
a) Cho sơn nhà và sắp đặt, tu sửa các phòng ốc để ổn định chỗ làm việc cho tất cả các nhân viên VPPL; Lấp đặt hệ thống máy điều hòa cho tất cả các phòng làm việc. (tr.10)
Khi cần viết sơ lược, ông viết:
Tôi viết sơ lượt về việc điều hành Cộng Đồng. (tr.11)
Có thể thấy, đối với ông, phân biệt t-c cuối âm tiết là việc hết sức khó khăn:
Đã vậy, mà lại còn hãnh diện cho đó là đã có sự "hợp tác chặc chẽ" với nhau, thì cái mức độ ngu xuẩn này còn tệ hại hơn. (tr.11)
Người bị ông chê chớ lấy làm buồn. Người được ông khen cũng đừng vội mừng. Trình độ của người khen chê đã nằm tênh hênh trên trang báo đó. Đây vài hột bẹt nữa của ông hiệu trưởng:
Ông kỹ sư cho biết: cái shed được dùng cho xe truck ra vào cất dỡ hàng, bản vẻ chỉ có 24 m chiều dài. (tr. 10)
Việc quản lý, tiếp liệu, trang bị tủ bàn, máy móc hay tu bổ, sửa chữa, bảo trì cơ sở, phòng ốc, xe cộ , sân bải trong TTSSHCĐ thuộc trách nhiệm của HĐQT chứ không phải của VPPL (tr. 11)
Sunday, 13 August 2017
Bánh giầy hay bánh dày?
Thứ bánh làm bằng
gạo nếp giã nhuyễn, nắn thành hình tròn dẹt trong truyện Lang Liêu là bánh giầy.
Từ điển chỉ ghi nhận bánh giầy (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:29), Văn Tân, 1994:47, Hoàng Phê et al. 2006:35…), không có bánh dày, bánh dầy, bánh giày…
Từ điển chỉ ghi nhận bánh giầy (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:29), Văn Tân, 1994:47, Hoàng Phê et al. 2006:35…), không có bánh dày, bánh dầy, bánh giày…
Các nhà nghiên cứu
(Trần Quốc Vượng, An Chi, Nguyễn Dư...) chưa có cách lý giải đủ sức thuyết phục
vì sao phải là giầy mà không là dày, dầy hay giày. Người lười
tra từ điển thường viết tùy thích:
Bánh giầy (còn được viết là bánh giày, bánh dầy hay bánh dày) là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở.
(http://langxuancau.blogspot.com.au/2010/07/banh-giay-lang-gau.html)
Ta thử hình dung hậu quả của thói tùy tiện này khi nó đi vào lớp học. Đầu sách mình dạy:
Bánh giầy (còn được viết là bánh giày, bánh dầy hay bánh dày) là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở.
Bánh giầy Gầu
(http://langxuancau.blogspot.com.au/2010/07/banh-giay-lang-gau.html)
Ta thử hình dung hậu quả của thói tùy tiện này khi nó đi vào lớp học. Đầu sách mình dạy:
Bánh
giầy hình tròn, tượng trưng cho mặt trời.
(Trần Đắc Trí
& Huỳnh Thu Thủy, 2013:21)
Cuối sách mình ra
đề thi:
Hãy
thuật lại sự tích bánh dày bánh chưng.
(Trần Đắc Trí
& Huỳnh Thu Thủy, 2013:107)
Học sinh phải viết về cái bánh nào?
Thursday, 10 August 2017
Sự thật ở Truông Bồn, lịch sử không thể làm giả được (Thanh Hà - Phụ Nữ Thành Phố Hồ Chí Minh 31/07/2017)
Lại bốn cuộc họp liên tiếp, đều triệu tập cô. Họ xem cô như người đang phá không để yên cho họ làm việc.
(http://phunuonline.com.vn/gia-dinh/su-that-o-truong-bon-lich-su-khong-the-lam-gia-duoc-106321/)
1. Từ nhà lên xã. Xã lên huyện. Tập trung hai đêm
lại đi. Đường đi thăm thẳm, cây cối lút mặt người. Cứ tưởng đi đâu hóa
ra là lên Tân Kỳ. Dọc đường, các anh không xưng tên mà cứ một hai gọi cô
là “con o”. Bảy thanh niên của xã cùng đi đợt này chỉ mình cô là nữ. Mẹ
không cho cô đi. Mẹ khóc. Con là chị cả, sau còn bốn đứa em ngơ ngơ. Cô
bảo, con là đoàn viên, phải gương mẫu. Xã mình chưa có ai là nữ xung
phong đi cả.
Cha ra cửa hàng nhờ may cho cô
chiếc túi xách màu nâu để mang bên người, đựng hai bộ quần áo. Thanh
niên cộng sản không được khóc. Khóc là yếu đuối. Cha chúc cô lên đường
khỏe mạnh. Mẹ của anh cũng sang khuyên cô ở lại. Con đi lỡ nó về thì
sao? Anh đã chết một năm rồi. Chưa có giấy báo tử nên gia đình vẫn nuôi
hy vọng.
Cô
Trần Thị Thông, tiểu đội trưởng đội 2 - đại đội 317, là người nhất duy
nhất sống sót trong trận bom dội xuống cung đường 15A sáng 31/10/1968
tại Truông Bồn, xã Sơn Mỹ, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Trận bom đã vùi
lấp 13 thanh niên xung phong đang làm nhiệm vụ, trong đó có 11 cô gái
và 2 chàng trai. Hiện cô đang sống tại thành phố Vinh.
Đi
thanh niên xung phong là đi làm đường. Mở đường, san lấp đường cho xe
vào Nam đánh giặc. Công việc có lẽ bình yên vì không phải vào trong Nam.
Cô lên được ít hôm thì một bữa chợt có người nhắn ra gặp mẹ. Sao mẹ
biết con ở đây mà thăm? Thì nghe mấy người đi buôn nói trên Tân Kỳ có
đoàn thanh niên xung phong, toàn người Yên Thành, mẹ đoán có con nên đi
thử xem có gặp không.
Lên mà thấy có con thì về,
sao đâu. Thấy con sống và công tác thế này, mẹ yên tâm rồi. Mẹ vừa lên
đã về ngay. Gần hai tháng nấu ăn thì được chuyển lên tổ làm đường. Nghe
mà phấn khởi. Nấu ăn mãi thì chán chết, cứ có cảm giác tù túng. Anh em
lại mỗi người mỗi ý, không biết nấu thế nào cho vừa.
2.
Chiến tranh không chỉ ác liệt ở trong Nam. Cô nhận ra điều đó khi lần
đầu chứng kiến cảnh máy bay ném bom hàng loạt xuống ven rừng vào một
buổi chiều. Truông Bồn chiều hè. Gió lào khô khốc. Mùi khét của bom.
không một tiếng chim. Sáng đi làm, thấy một dãy dài xe chở hàng cháy
khét, lửa vẫn còn âm ỉ.
Chỉ thấy những hình
người lái. không thể nhận ra các anh là ai. Nhìn rồi đi tiếp. Lại thấy
hai chị em. Con chị độ mười tuổi, bế con em chắc chưa đầy tuổi, cánh tay
sắp đứt lìa khỏi cơ thể vì mảnh đạn. Đứa em không khóc. Con chị mặt
không chút cảm xúc. Sao mọi người cũng chỉ nhìn mà chẳng ai làm gì, nói
gì?
Tiểu đội mười bốn người. Mười hai nữ, hai
nam. Đang bữa cơm, con Vinh khuỳnh tay chỉ hướng sang mâm bên kia. Khuy
quần anh Hạp bị tuột. Anh vẫn tỉnh bơ ăn, không biết bốn đứa con gái bên
này đang không nhịn được cười. Thương anh quần đùi cũng không có mà
mặc. Con Đang đẹp nhất đội. Có nụ cười rất tươi.
Một
anh cùng đơn vị yêu thầm, dù biết nó đã có người yêu ở nhà. Vác xẻng ra
san đường, nó kể, hôm qua anh ấy lại gửi trộm thư cho em. Đã đọc chưa?
Dài lắm, mới đọc sơ sơ. Tối về ta cùng đọc. Tối về đã rất khuya. Vừa rửa
tay rửa chân, thay quần áo xong lại có lệnh ra làm tiếp. Chờ đoàn xe đi
qua thì cào đất lấp dấu bánh xe. Đi làm còn cố chọn quần chọn áo cho
vừa, cho đẹp.
3. Tỉnh dậy trong trạng thái mơ
màng. Lại thiếp đi suốt hai ngày nữa. Ngày thứ ba cô mới ngồi dậy được.
Chuyện gì vậy? O may mắn lắm. Bọn nớ chết cả rồi. Người mẹ - người cả
tiểu đội đang ở nhờ trong nhà kể. Có hai anh bộ đội đưa o về. Một anh
mang xách y tá, một anh mang xách cán bộ. Họ hô hấp nhân tạo rồi mần đủ
mọi chuyện cho o tỉnh lại. Lần mò ba lô từng đứa. Cái giường này bốn đứa
nằm chung. Cô, con Nhung, con Vinh, con Đang. Giờ chỉ còn mình cô.
Máy
bay nha, tất cả chui vô hầm nha. Mọi lần máy bay dạo một vòng rồi mới
thả bom. Lần này phát hiện máy bay là đã thấy bom rơi. Mười ba người
cùng chết. Không biết lúc đó họ có kịp cảm nhận cái chết không? Họ có
đau đớn không? Chiến tranh không chỉ ác liệt ở trong B. Đi thanh niên
xung phong cũng có thể không trở về.
Đó là những
điều bốn năm trước cô không thể ngờ tới, không tưởng tượng ra. Tiểu đội
chỉ còn mình cô. Được gom về đội thu dung. Lý do sức khỏe yếu. Cô không
muốn về đó. Về đó là nhận mình có tư tưởng buông xuôi. Cô không buông
xuôi. Vậy là được ghép vào một tiểu đội khác.
4.
Chẳng ai biết đến cô cho đến 29 năm sau. Hôm đó, cô bế thằng con út đi
xem ké ti vi nhà hàng xóm. Đang phát chương trình thời sự. Cô nhìn lên
thấy dòng chữ “Hướng về Truông Bồn”, nói về một đơn vị anh hùng, một
tiểu đội có 10 cô gái đã hy sinh.
Một phụ nữ
được giới thiệu là người sống sót duy nhất, là tiểu đội trưởng. Cô ấy
mặc bộ quần áo thanh niên xung phong, đội mũ tai bèo, tay cầm một nắm
hương to, thắp cho từng ngôi mộ có tên từng người, đến mộ nào cũng khóc
nức nở, nước mắt đầm đìa. Cô phát hoảng, bật kêu to “Ôi trời ơi!”. Những
người cùng ngồi xem giật mình, quay nhìn cô. Chuyện gì vậy? Không,
không có gì. Cô bế con về. Cô kể với chồng đoạn phim vừa xem. Chú sửng
sốt. Hỏi đi hỏi lại xem có thật vậy không? Sao lại vậy?
Chồng
cô chiến đấu trong chiến trường Quảng Trị. Một lần, xe qua chỗ bọn cô
thì bị lầy. Trong khi chờ dọn đường cho xe qua, chợt có tiếng hỏi thăm ở
đây có ai đồng hương Hưng Nguyên không, cho gửi nhờ lá thư về nhà. Cô
gọi con Hoài lại. Rồi Hoài cầm thư nhờ người chuyển về giúp. Hết nhiệm
kỳ thanh niên xung phong, đầu năm 1970 cô về làm việc ở một nhà máy,
được phân ở nhờ nhà một người dân Hưng Nguyên.
Con
trai nhà ấy từ chiến trường về thăm bố ốm nặng. Thấy có cô gái ở nhờ
nhà mình thì hỏi chuyện. Hóa ra, hai người từng gặp nhau năm 1968. Anh
chính là người hôm ấy nhờ đưa thư về cho bố mẹ. Mấy mươi phút ngắn ngủi
trong bóng tối nhập nhòe nên chẳng rõ mặt nhau. Chú hỏi thăm cô gái đồng
hương. Cô kể lại chuyện đã xảy ra với tiểu đội mình.
Sao
em thoát được khi cả mười ba người đều chết? Em là tiểu đội trưởng.
Tiểu đội trưởng được mang súng trường. Khi anh Hạp hô to máy bay nha, em
quay lại nhặt súng khoác vào người rồi mới nhảy xuống hầm. Em nhảy
xuống cuối cùng. Có lẽ nhờ đầu ruồi súng nhô lên mặt đất, người ta phát
hiện đến lay lay thì nghe tiếng rên.
Có lẽ nòng
súng đã tạo kẽ hở cho chút không khí lọt vào nên em không chết. Người ta
đã moi em lên, đầy bùn đất. Giấy tờ ngày đó cô còn giữ. Phòng sau này
chưa già mà đã ốm yếu thì có cái để chứng minh cho con cháu biết vì sao
sức khỏe mẹ như thế. Mẹ tham gia chiến tranh, mẹ bị sức ép của bom.
Giờ
mình phải viết cái đơn. Chú nói sau vài ngày nghĩ ngợi. Cô không ngờ
chuyện đó lại khiến chú mất ngủ suốt mấy đêm. Viết đơn gửi cho ai, viết
thế nào? Nếu họ muốn lấy Truông Bồn làm di tích lịch sử thì phải làm cho
đúng. Mình phải viết đơn xin trình bày rõ sự thật.
Thứ
nhất, số người hy sinh trong trận bom đó không phải 10 người, mà chính
xác là 13 người, 2 nam và 11 nữ. Thứ nhì, nhân chứng sống không phải là
người đã lên ti vi. Một cái đơn chép tay thành bốn bản. Gửi Tỉnh đoàn,
Ty Văn hóa, cơ quan thương binh xã hội và nghĩa trang Truông Bồn. Tên
các cơ quan là chỉ ghi áng chừng, chứ chẳng biết xưng chính xác thế nào.
Một
cuộc họp được tổ chức. Vợ chồng cô cùng có mặt. Khi cô bước vào, hai
người đàn ông đứng đón khách nói nhỏ với nhau “hắn đang còn”. Cô nghe
nhưng làm ngơ. Cuộc họp nêu vấn đề cô chú trình bày trong thư. Mọi người
tranh cãi. Chỉ vậy rồi thôi. Chẳng ai nhắc gì nữa. Phải rất lâu sau,
vào chiều hai chín tết, có người đàn ông tìm đến nhà cô.
Ông
ta đưa một phong bì ba trăm nghìn đồng nói là thăm ốm, tiền của cơ quan
nào đó trong Nam gửi cho Tỉnh đoàn làm từ thiện. Ông dặn cô: Từ nay về
sau o đừng nói chi về Truông Bồn nữa. O không đứng tên ở Truông Bồn thì
rồi sẽ về đứng tên ở Hoàng Mai, Cầu Cấm hoặc Bến Thủy gì đó. Tỉnh đang
làm địa điểm để lấy thành tích, làm mô hình cho thế hệ sau học tập.
Cô
nghe mà không chịu được. Ngứa tai! Cô nói: Bác ạ, tôi là thanh niên
xung phong ở Truông Bồn thì tôi nhận là ở Truông Bồn, tôi ở tiểu đội nào
thì tôi nói ở tiểu đội đó thôi. Ông nói tiếp: Thôi thì có chuyện gì o
cứ trình bày lên Tỉnh, khoan ra Trung ương. Cô nói: Sự việc chưa rõ
ràng, tôi còn phải gửi đơn nữa. Đây là vấn đề lịch sử. Người này không
biết thì người khác biết. Người này không viết thì người người khác
viết.
Lại bốn cuộc họp liên tiếp, đều triệu tập
cô. Họ xem cô như người đang phá không để yên cho họ làm việc. Cô cùng
53 người được mời đi nhận kỷ niệm chương Thanh niên xung phong. Đến nơi,
ai cũng được nhận, cô thì không. Có cái kỷ niệm chương chứng nhận mình
từng là thanh niên xung phong thì cũng vui; mà không có cũng chẳng sao.
Nhưng cô phải hỏi cho biết lý do. Họ nói: “Em còn thắc mắc chi nữa.
Trước sau gì em cũng là tiểu đội trưởng rồi. Bữa nào họ gửi giấy mời làm
lễ đón nhận đơn vị anh hùng thì đi thôi. Thứ Năm này có đợt đi an dưỡng
ở Cửa Lò đấy, em có muốn đi thì sắp xếp luôn”.
Nào cô có đòi hỏi gì đâu. Cô chỉ muốn nói cho đúng sự thật. Đồng đội chết hết cả rồi, mình phải nói thay họ.
Ngày
23/9/2008, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân cho tập thể 14 chiến sĩ TNXP Truông Bồn
thuộc Đại đội 317, Đội 65, Tổng đội TNXP chống Mỹ cứu nước, tỉnh Nghệ
An. Trong đó, 11 chiến sĩ nữ và 2 chiến sĩ nam đã anh dũng hy sinh. Chỉ
mình cô Trần Thị Thông còn sống.
Thanh Hà
Subscribe to:
Posts (Atom)