Trả lời là ở Nam Úc:
Tín và Trí đang chơi bún đạn.
Hột bẹt trên nằm ở trang 36 của quyển Hà Ngọc Lan, 2013, Em tập đọc 3 - dành cho các lớp 2 (có mấy lớp 2?), Trường Việt Ngữ Cộng Đồng Người Việt Tự Do Nam Úc.
Sách có 39 trang. Mỗi trang có một bức tranh và một câu ngắn để các em học lớp 2 bắt đầu học và tập đọc vần ngược trong tiếng Việt. Chỉ có 19 trang không có lỗi. Các trang kia không lỗi nặng thì lỗi nhẹ, nói chung là không nên đem làm mẫu cho trẻ học:
Bác hai ở Kế nhà Tí là thợ mộc. (tr. 18)
Tú và Tí đang giúp mẹ rữa xe. (tr. 19)
Ba du khách đang cởi voi. (tr. 27)
Thursday 7 September 2017
Saturday 2 September 2017
Thằng đánh máy nào phá hoại sự nghiệp vinh danh cờ vàng ở Nam Úc?
Đọc Lời Kêu Goị (sic) của Ủy Ban Vinh Danh Cờ Vàng Nam Úc mà giật cả mình (xem ảnh chụp trang 20 Adelaite Tuần Báo số 794, ngày 31/8/2017)
Có ai ngờ kiếm hai chục ngàn Úc kim dễ như ăn gỏi? Chữ nghĩa lôm côm mà tự tin quá.
Câu hỏi đặt ra là ai phải chịu trách nhiệm về cái văn bản lôm côm này. Thằng đánh máy? Thằng thuê thằng đánh máy? Hay cái máy? Có lẽ là cái máy. Lô-gích thôi. Người kiếm không ra một tay đánh máy đàng hoàng biết tìm đâu ra người dựng cột cờ cho đàng hoàng?
Có ai ngờ kiếm hai chục ngàn Úc kim dễ như ăn gỏi? Chữ nghĩa lôm côm mà tự tin quá.
Câu hỏi đặt ra là ai phải chịu trách nhiệm về cái văn bản lôm côm này. Thằng đánh máy? Thằng thuê thằng đánh máy? Hay cái máy? Có lẽ là cái máy. Lô-gích thôi. Người kiếm không ra một tay đánh máy đàng hoàng biết tìm đâu ra người dựng cột cờ cho đàng hoàng?
Monday 28 August 2017
Chồng của bà Trưng Trắc: Thi [Sách] (Lê Minh Khải - Lê Minh Khải Việt)
Tác giả: Lê Minh Khải
Người dịch: Hoa Quốc Văn
Tôi có đọc một bài báo của một sử gia Nam Việt là Nguyễn Phương viết ở thập kỉ 1960s về hai bà Trưng. Tôi chưa bao giờ xem xét kĩ các nguồn thông tin về cuộc nổi dậy này, nhưng bài báo của Nguyễn Phương khiến tôi nhận ra rằng chúng có vấn đề.
Điều giờ đây tôi có thể thấy là có hai bản tường thuật về hai bà Trưng và rằng một trong hai bản đó đã dần chi phối truyền thống sử học (mặc dù nó cũng thay đổi theo thời gian), trong khi bản kia thì không. Và trong phạm vi tôi có thể nói, phiên bản không chi phối đó là chính xác hơn.
Phiên bản đầu tiên xuất hiện khoảng năm 445 sau Công lịch trong cuốn Hậu Hán thư (Hou Hanshu 後漢書) của Fan Ye (Phạm Việp), như sau:
“Năm thứ 16, người con gái Giao Chỉ là Trưng Trắc và em gái Trưng Nhị làm phản, tấn công [đầu não của] quận. Trưng Trắc là con gái của một Lạc tướng ở huyện Mê Linh (Mê đọc là Mê, Linh đọc là Linh). Thị lấy Thi Sách ở Chu Diên làm vợ, rất khỏe mạnh và can đảm. Thái thú Giao Chỉ là Tô Định dùng luật để trừng phạt thị. Trắc phẫn nộ vì vậy nổi dậy. Sau đó, các tộc Man ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Bố đều hưởng ứng [lời kêu gọi của chúng] và chiếm 65 thành. Trắc tự xưng là vua” 至十六年,交阯女子徵側及其妹徵貳反,攻郡。徵側者,麊泠縣雒將之女也。(麊音莫支反,泠音零。) 嫁為朱䳒人詩索妻,甚雄勇。交阯太守蘇定以法繩之,側忿,故反。於是九眞、日南、合浦蠻里皆應之,凡略六十五城,自立為王.
Phiên bản thứ hai xuất hiện sau đó gần một thế kỉ (~515-524) trong cuốn Thủy kinh chú (Shuijing zhu 水經注)của Li Daoyuan (Lịch Đạo Nguyên), như sau:
“Sau con trai của một Lạc tướng ở Chu Diên có tên Thi lấy con gái Lạc tướng Mê Linh là Trưng Trắc làm vợ. Trắc rất can đảm. Thị lôi kéo Thi khởi loạn (chú: gần đây khắc sai “Thi” thành “thê”), tấn công [đầu não của] châu quận và chinh phục các Lạc tướng khác, họ đều tôn Trắc làm vua, đóng đô ở Mê Linh” 後朱䳒雒將子名詩索麊冷雒將女名徵側為妻。側為人有膽勇,將詩起賊 (案近刻訛為妻),攻破州郡,服諸雒將,皆屬徵側為王,治麊泠縣.
Sự khác biệt đầu tiên mà chúng ta thấy ở đây là trong Thủy kinh chú, tên của chồng Trưng Trắc là Thi chứ không phải Thi Sách. Điều này thực sự hữu lí hơn.
Ở thế kỉ XVIII có một học giả có tên là Zhao Yiqing đã chỉ ra vấn đề này trong một bản chú thích cuốn Thủy kinh chú do ông thực hiện – cuốn Thủy kinh chú thích (Shuijing zhu shi 水經注釋).
Vấn đề liên quan đến chữ mà Phạm Việp hiểu là bộ phận của một cái tên, và Lịch Đạo Nguyên hiểu là một động từ có nghĩa là “tìm lấy”. Zhao Yiqing chú như sau:
“sách thê” (索妻) cũng giống như “thú phụ” (娶婦). Đoạn văn trong Nam Man Tây Nam Di truyện nói “giá vi Chu Diên nhân thi sách thê” hoàn toàn nhầm lẫn” 一清按索妻猶言娶婦。範史南蠻西南夷傳云,嫁為朱鳶人詩索妻,亦謬之甚矣。嫁為朱䳒人詩索妻,甚雄勇。
Điều này là có lí, bởi câu văn trong Hậu Hán thư là rối rắm (“Thị lấy Thi Sách ở Chu Diên làm vợ mình, rất khỏe mạnh và can đảm” – 嫁為朱䳒人詩索妻,甚雄勇), đặc biệt là câu “lấy … làm vợ mình” 嫁為. . . 妻 và sự chuyển mạch giữa “thê” và từ tiếp theo “thậm” 甚 (rất).
Mặc khác, câu văn trong Thủy kinh chú rất thuận “Sau con trai của một Lạc tướng ở Chu Diên có tên Thi lấy con gái Lạc tướng Mê Linh là Trưng Trắc làm vợ. Trắc rất can đảm” 後朱䳒雒將子名詩索麊冷雒將女名徵側為妻。側為人有膽勇.
Rồi ở đầu thế kỉ XX, Yang Shoujing và Xiong Huizhen đã làm một bản chú thích khác về cuốn Thủy kinh chú – tức Thủy kinh chú sớ (Shuijing zhu shu 水經注疏) – trong đó họ chỉ ra rằng có một đoạn văn trong một cuốn loại thư thế kỉ X có tên Thái Bình hoàn vũ kí (Taiping huanyu ji 太平寰宇記) trong đó chứng minh rằng từ được dùng ở khu vực đồng bằng sông hồng (tức Giao Chỉ hoặc Giao Châu) với nghĩa là “tìm lấy (vợ).
Có một đoạn văn nói về phong tục ở Giao Châu, trong đó khẳng định rằng về người đàn ông tìm lấy vợ, trước khi anh ta lấy vợ, anh ta gửi đến một mâm cau. Khi cô gái ăn hết mâm cau đó thì họ trở thành vợ chồng” 索婦之人,未婚前,先送檳榔一盤,女食盡則成親.
Vậy là có vẻ như đối với tôi đã rõ ràng rằng đoạn văn nói về hai bà Trưng trong Thủy kinh chú chính xác hơn ở điểm này. Tuy nhiên, thông tin được người Việt Nam ghi chép rốt cuộc lại theo Hậu Hán thư của Phạm Việp. Các nguồn tư liệu của người Việt cũng theo Hậu Hán thư theo những cách thức khác.
Tôi băn khoăn tại sao lại có chuyện đó? Có phải người ta không nhớ tên chồng bà Trưng Trắc?
Tôi đính kèm bài báo của Nguyễn Phương ở đây (Nguyen Phuong on Trung sisters).
Sunday 20 August 2017
Làm người Việt thứ thiệt có dễ không?
Người Việt hải ngoại hay ra cái điều yêu nước thương nòi, lại thích lên mặt dạy đời:
Nói chung, người Việt thứ thiệt sống ở hải ngoại, ngoài chuyện "biết người" cũng cần phải "biết ta", biết luân thường đạo lý, văn hóa dân tộc và học tập để xử dụng rành rẻ ngôn ngữ Mẹ đẻ của mình.
(Đoàn Công Chánh Phú Lộc, "Cộng đồng người Việt tự do Nam Úc và ngôn ngữ Việt" Nam Úc Tuần Báo, số 1109, 18.08.2017, tr.11)
Hai lỗi chính tả sơ đẳng ngay trong một câu là bằng chứng cho thấy ông ký giả họ Đoàn sử dụng tiếng mẹ đẻ chưa rành rẽ. Theo định nghĩa của chính ông, ông không phải là người Việt thứ thiệt. Vậy ông lấy tư cách gì để định nghĩa người Việt thứ thiệt?
Nói chung, người Việt thứ thiệt sống ở hải ngoại, ngoài chuyện "biết người" cũng cần phải "biết ta", biết luân thường đạo lý, văn hóa dân tộc và học tập để xử dụng rành rẻ ngôn ngữ Mẹ đẻ của mình.
(Đoàn Công Chánh Phú Lộc, "Cộng đồng người Việt tự do Nam Úc và ngôn ngữ Việt" Nam Úc Tuần Báo, số 1109, 18.08.2017, tr.11)
Hai lỗi chính tả sơ đẳng ngay trong một câu là bằng chứng cho thấy ông ký giả họ Đoàn sử dụng tiếng mẹ đẻ chưa rành rẽ. Theo định nghĩa của chính ông, ông không phải là người Việt thứ thiệt. Vậy ông lấy tư cách gì để định nghĩa người Việt thứ thiệt?
Saturday 19 August 2017
Biển Đông của ai?
Viết thế này thì người đọc sẽ không rõ biển Đông của ai (Việt Nam, người dám nói mạnh hay Trung Quốc):
Trước mắt, những điều mà VN đưa ra đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là không ai dám nói mạnh về việc xâm chiếm biển Đông của họ.
("Nước cờ nào cho VN?", Adelaide Tuần Báo số 792, 17.6.2017, tr.4)
Sửa lỗi này rất dễ:
Trước mắt, những điều mà VN đưa ra đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là không ai dám nói mạnh về việc TQ xâm chiếm biển Đông.
Viết việc họ xâm chiếm biển Đông thì tránh được chuyện thắc mắc biển Đông của ai, nhưng người đọc lại không rõ ai là người đi xâm chiếm (người dám nói mạnh hay Trung Quốc), thành thử phải chấp nhận lặp từ TQ.
Muốn tránh lặp từ TQ, có thể viết:
Trước mắt, những điều mà VN đưa ra đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là việc họ xâm chiếm biển Đông không bị ai chỉ trích/công kích/phê phán.
Muốn hay hơn nữa, nên viết:
Trước mắt, các đề nghị của VN đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là việc họ xâm chiếm biển Đông không bị ai chỉ trích/công kích/phê phán.
Từ của này không gây hiểu lầm như từ của trong bản gốc, lại giúp loại bớt một từ ra.
Muốn tránh cả của lẫn ra:
Trước mắt, những gì VN đề nghị đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là việc họ xâm chiếm biển Đông không bị ai chỉ trích/công kích/phê phán.
Trước mắt, những điều mà VN đưa ra đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là không ai dám nói mạnh về việc xâm chiếm biển Đông của họ.
("Nước cờ nào cho VN?", Adelaide Tuần Báo số 792, 17.6.2017, tr.4)
Sửa lỗi này rất dễ:
Trước mắt, những điều mà VN đưa ra đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là không ai dám nói mạnh về việc TQ xâm chiếm biển Đông.
Viết việc họ xâm chiếm biển Đông thì tránh được chuyện thắc mắc biển Đông của ai, nhưng người đọc lại không rõ ai là người đi xâm chiếm (người dám nói mạnh hay Trung Quốc), thành thử phải chấp nhận lặp từ TQ.
Muốn tránh lặp từ TQ, có thể viết:
Trước mắt, những điều mà VN đưa ra đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là việc họ xâm chiếm biển Đông không bị ai chỉ trích/công kích/phê phán.
Muốn hay hơn nữa, nên viết:
Trước mắt, các đề nghị của VN đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là việc họ xâm chiếm biển Đông không bị ai chỉ trích/công kích/phê phán.
Từ của này không gây hiểu lầm như từ của trong bản gốc, lại giúp loại bớt một từ ra.
Muốn tránh cả của lẫn ra:
Trước mắt, những gì VN đề nghị đều bị gạt ra ngoài và TQ đã đạt được mục tiêu là việc họ xâm chiếm biển Đông không bị ai chỉ trích/công kích/phê phán.
Tuesday 15 August 2017
Mèo khen mèo dài đuôi?
Ông Đoàn Công Chánh Phú Lộc (Nam Úc Tuần Báo số 1108, ngày 11.8.2017) khen bộ sách dạy tiếng Việt ở trường ông như sau:
Bộ sách này rất thích hợp cho các em ở hải ngoại học tiếng Việt, nên nhiều lần được các trường Việt ngữ hỏi mua hay xin in lại những bài trong đó để xử dụng. (tr.10)
Ông hiệu trưởng này không biết phân biệt lấp và lắp:
a) Cho sơn nhà và sắp đặt, tu sửa các phòng ốc để ổn định chỗ làm việc cho tất cả các nhân viên VPPL; Lấp đặt hệ thống máy điều hòa cho tất cả các phòng làm việc. (tr.10)
Khi cần viết sơ lược, ông viết:
Tôi viết sơ lượt về việc điều hành Cộng Đồng. (tr.11)
Có thể thấy, đối với ông, phân biệt t-c cuối âm tiết là việc hết sức khó khăn:
Đã vậy, mà lại còn hãnh diện cho đó là đã có sự "hợp tác chặc chẽ" với nhau, thì cái mức độ ngu xuẩn này còn tệ hại hơn. (tr.11)
Người bị ông chê chớ lấy làm buồn. Người được ông khen cũng đừng vội mừng. Trình độ của người khen chê đã nằm tênh hênh trên trang báo đó. Đây vài hột bẹt nữa của ông hiệu trưởng:
Ông kỹ sư cho biết: cái shed được dùng cho xe truck ra vào cất dỡ hàng, bản vẻ chỉ có 24 m chiều dài. (tr. 10)
Việc quản lý, tiếp liệu, trang bị tủ bàn, máy móc hay tu bổ, sửa chữa, bảo trì cơ sở, phòng ốc, xe cộ , sân bải trong TTSSHCĐ thuộc trách nhiệm của HĐQT chứ không phải của VPPL (tr. 11)
Bộ sách này rất thích hợp cho các em ở hải ngoại học tiếng Việt, nên nhiều lần được các trường Việt ngữ hỏi mua hay xin in lại những bài trong đó để xử dụng. (tr.10)
Ông hiệu trưởng này không biết phân biệt lấp và lắp:
a) Cho sơn nhà và sắp đặt, tu sửa các phòng ốc để ổn định chỗ làm việc cho tất cả các nhân viên VPPL; Lấp đặt hệ thống máy điều hòa cho tất cả các phòng làm việc. (tr.10)
Khi cần viết sơ lược, ông viết:
Tôi viết sơ lượt về việc điều hành Cộng Đồng. (tr.11)
Có thể thấy, đối với ông, phân biệt t-c cuối âm tiết là việc hết sức khó khăn:
Đã vậy, mà lại còn hãnh diện cho đó là đã có sự "hợp tác chặc chẽ" với nhau, thì cái mức độ ngu xuẩn này còn tệ hại hơn. (tr.11)
Người bị ông chê chớ lấy làm buồn. Người được ông khen cũng đừng vội mừng. Trình độ của người khen chê đã nằm tênh hênh trên trang báo đó. Đây vài hột bẹt nữa của ông hiệu trưởng:
Ông kỹ sư cho biết: cái shed được dùng cho xe truck ra vào cất dỡ hàng, bản vẻ chỉ có 24 m chiều dài. (tr. 10)
Việc quản lý, tiếp liệu, trang bị tủ bàn, máy móc hay tu bổ, sửa chữa, bảo trì cơ sở, phòng ốc, xe cộ , sân bải trong TTSSHCĐ thuộc trách nhiệm của HĐQT chứ không phải của VPPL (tr. 11)
Sunday 13 August 2017
Bánh giầy hay bánh dày?
Thứ bánh làm bằng
gạo nếp giã nhuyễn, nắn thành hình tròn dẹt trong truyện Lang Liêu là bánh giầy.
Từ điển chỉ ghi nhận bánh giầy (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:29), Văn Tân, 1994:47, Hoàng Phê et al. 2006:35…), không có bánh dày, bánh dầy, bánh giày…
Từ điển chỉ ghi nhận bánh giầy (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:29), Văn Tân, 1994:47, Hoàng Phê et al. 2006:35…), không có bánh dày, bánh dầy, bánh giày…
Các nhà nghiên cứu
(Trần Quốc Vượng, An Chi, Nguyễn Dư...) chưa có cách lý giải đủ sức thuyết phục
vì sao phải là giầy mà không là dày, dầy hay giày. Người lười
tra từ điển thường viết tùy thích:
Bánh giầy (còn được viết là bánh giày, bánh dầy hay bánh dày) là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở.
(http://langxuancau.blogspot.com.au/2010/07/banh-giay-lang-gau.html)
Ta thử hình dung hậu quả của thói tùy tiện này khi nó đi vào lớp học. Đầu sách mình dạy:
Bánh giầy (còn được viết là bánh giày, bánh dầy hay bánh dày) là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở.
Bánh giầy Gầu
(http://langxuancau.blogspot.com.au/2010/07/banh-giay-lang-gau.html)
Ta thử hình dung hậu quả của thói tùy tiện này khi nó đi vào lớp học. Đầu sách mình dạy:
Bánh
giầy hình tròn, tượng trưng cho mặt trời.
(Trần Đắc Trí
& Huỳnh Thu Thủy, 2013:21)
Cuối sách mình ra
đề thi:
Hãy
thuật lại sự tích bánh dày bánh chưng.
(Trần Đắc Trí
& Huỳnh Thu Thủy, 2013:107)
Học sinh phải viết về cái bánh nào?
Subscribe to:
Posts (Atom)