Saturday, 14 April 2018

CHỮ NÔM TIẾNG VIỆT VÀ CHỮ HÁN DÙNG ĐỂ MÔ PHỎNG ÂM TRONG TIẾNG PHẠN (Ishii KIminari - Tạp Chí Hán Nôm số 6/2002)



TB

1. Lời mở đầu
Các nước xung quanh Trung Quốc một mặt rất tích cực học Hán văn quy phạm, mặt khác lại muốn thử dùng chữ Hán để ghi lại những từ vốn có của mình vốn khác hẳn với hệ thống âm chữ Hán. ở Triều Tiên nảy sinh Lidoku và cũng dùng cả dạng giản lược của nó. ở Nhật Bản Manyogana được sử dụng, phát triển dạng Hiragana và Katakana trên cơ sở yếu tố gốc là chữ Hán, rồi những chữ Quốc tự như Sakaki , Tsuji , Tooge cũng được tạo ra. ở Việt Nam - một nước cùng nằm trong vành đai văn hóa Hán - chữ Nôm cũng được tạo ra với mục đích là thử biểu đạt vốn từ vựng tiếng Việt bằng cách sử dụng chữ Hán. Về sự hình thành chữ Nôm có thuyết cho là vào khoảng cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV do việc Hàn Thuyên đời Trần Nhân Tông (1278 - 1293), Nguyễn Sĩ Cố thời Anh Tông (1293- 1314) dùng nhiều tiếng Việt để làm thơ phú. Thế nhưng bằng cứ trong sách Đại Việt sử ký chỉ ghi là:
“(Hàn ) Thuyên năng quốc ngữ phú thi. Ngã quốc phú thi, đa dụng quốc ngữ thực tự thử thủy” (Thiệu Phong nguyên niên [1282] thu bát nguyệt điều).
“Mệnh thiên chương học sĩ Nguyễn Sĩ Cố giảng ngũ kinh. Sĩ Cố Đông Phương Sóc chi lưu, thiện khôi hài, năng tác quốc ngữ thi phú. Ngã quốc tác thi phú đa dụng quốc ngữ tự thử thủy” (Hưng Long thập tứ niên [1306] thu cửu nguyệt điều).
Tức là sách Đại Việt sử ký ghi bắt đầu từ Hàn Thuyên thơ phú quốc âm được làm ra nhiều, nhưng ở chỗ khác lại ghi bắt đầu từ thời Nguyễn Sĩ Cố. Chúng ta cũng biết có các ghi chép cho rằng thời Nguyễn Sĩ Cố đã có nhiều người dùng Quốc ngữ để làm thơ rồi như:
“Triều dã văn nhân đa tá Hán Hoàng dĩ Chiêu Quân giá hung nô sự, tác quốc ngữ thi từ phong thích chi” (Hưng Long thập tứ niên [1306] hạ lục nguyệt điều)
Nói rằng thơ Quốc âm bắt đầu từ Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố tôi cho rằng là do tác phẩm của hai ông rất nổi tiếng và có sức ảnh hưởng lớn. Cho dù có thừa nhận cùng với việc xác lập thể thơ phú của dân tộc, cách ghi âm tiếng Việt dựa vào chữ Hán đã hoàn chỉnh trên đại thể vào khoảng cuối thế kỷ XIII cho đến đầu thế kỷ XIV, thì việc làm văn thơ dùng chữ Hán ghi âm tiếng Việt có từ cuối thế kỷ XIII trở về trước cũng là điều tự nhiên. Theo trường hợp Nhật Bản thì có thể suy đoán rằng trước khi các bài thơ như vậy được làm ra cách ghi tên người tên đất bằng chữ Hán, phương thức ghi tiếng Việt căn cứ vào chữ Hán ở mức độ nào đấy là đã phát triển rồi. Không có tư liệu về nguồn gốc của bản thân chữ Nôm thì phải chăng nên cho rằng chữ Nôm đã có một quá trình phát triển lâu dài. Lại như thời Hàn Thuyên và Nguyễn Sĩ Cố dùng cách ghi như thế nào? Chữ Hán của Việt Nam đã được tạo ra hay chưa? Thời nhà Trần trở về trước là như thế nào ? Rất đáng tiếc là tư liệu không đủ nên chúng ta không thể biết rõ được. Điều đó cũng có nghĩa là về quá trình hình thành chữ Nôm chỉ toàn là những điểm không rõ ràng.
Cho nên tôi cũng lưu ý rằng ở chữ Nôm có rất nhiều chữ Hán dùng trong các tác phẩm dịch kinh điển Phật giáo để mô phỏng âm Phạn và rồi những chữ có hình thức giống với chữ Hán dùng để mô phỏng âm Phạn như vậy liên tiếp được tạo ra; đồng thời cũng muốn chỉ rõ rằng những người có kiến thức về âm Phạn thông qua việc chú giải âm nghĩa trong các kinh điển Phật giáo có khả năng có liên quan đến việc hình thành và hoàn chỉnh của chữ Nôm. Trong số những người đó có các tăng lữ hay không là điều không thể đoán được. Thế nhưng từ sau đời Hán, Việt Nam chịu sự thống trị của Trung Quốc trong một thời gian dài, văn hóa Trung Quốc thâm nhập khá sâu vậy mà số quan lại được học Nho học không nhiều. Như vậy phải chăng Hán tự, Hán văn chỉ thực sự phổ cập trong giới tăng lữ. Có thể thấy rõ do ảnh hưởng của Phật giáo Tùy Đường nhiều tăng lữ xuất hiện và rất giỏi thơ văn; hơn nữa không thể không nói đến bản thân ông Lý Thái Tổ (1010-1028) - người dựng nên nước Đại Việt - cũng là người xuất thân nơi cửa Phật, năm 1018 ông đã mang kinh Đại Tạng từ Trung Quốc về. Về âm chữ Hán của Việt Nam, ông Mine Yatooru suy đoán rằng “Hệ âm quy phạm đời Đường đã được truyền vào Việt Nam có lẽ với tư cách là cách đọc các tác phẩm kinh điển Phật giáo, hệ âm này được đồng hóa và cố định sao cho phù hợp với hệ thống âm vận của tiếng Việt”. Từ việc cho rằng bộ phận cơ bản của âm Hán Việt là âm thời Đường được truyền vào qua con đường Phật giáo cũng có thể nghĩ rằng có nhiều khả năng việc sử dụng chữ Hán thời kỳ đầu ở Việt Nam có liên quan rất chặt chẽ với Phật giáo.
2. Những nét tương đồng với chữ Hán dùng để mô phỏng âm Phạn
Điều đáng lưu ý khi đọc các tác phẩm viết bằng chữ Nôm là chữ có bộ 口 (khẩu) khá nhiều. Ví dụ nếu đem so sánh bản Chinh phụ ngâm tác phẩm thơ chữ Hán kể về nỗi buồn của người phụ nữ có chồng đi chiến đấu xa mà Đặng Trần Côn (1710? – 1745?) làm ra với bản diễn âm của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705 – 1746) tức là bản dịch chữ Nôm Chinh phụ ngâm khúc theo thể song thất lục bát – thể thơ truyền thống của Việt Nam, thì thấy rõ những khác biệt của nó. Theo sách của Yonosuke Takeuchi khảo về hai tác phẩm, ông đã lấy những chữ Hán có bộ khẩu từ nguyên bản ra, thì ở Chinh phụ ngâm chỉ có 10 chữ tương ứng về(), nội dung, đó là:
喧(3), 鳴(2), 啼(2), 吹(2), 咿 喔 嘆(2), 咨(4), 嗟(5), 唱(4), (eo óc 咿 喔 là tiếng gà gáy nghe vọng lại từ khuê phòng lúc nửa đêm), với số lần xuất hiện là 26 lần.
Trong khi đó ở Chinh phụ ngâm khúc có tới 63 chữ với số lần xuất hiện lên tới 102 lần:
(3), 曢 (6) , (2) , 虝 , 唉 (2), 処 (3) , 唏 (5) , , (4), 唯 , 噲 , , 嘹 , 俌 (2), (2) , , , , 坙 , , , 坘 (3), , 凩, , 垬 (5) , , 哢, , , 喔, (6), , 噴, 口斗, 咏, 凩, 吶 (2), , 冨 (2), 唸, 咮 (2), (2), (2), 喑, 寕 , , 叫, 口衣 , , , 俧, 吿, , , , , (2), 吟 (2), 哦, 喂, 嘌, 凒, .
Lại còn thấy cả những chỗ dùng liên tiếp 4 chữ Hán có bộ khẩu ở bên như: “Khúc nhạc từ réo rắt khong khen”. 曲 樂 詞 冨 . Hơn nữa, trong số 63 chữ này chỉ có các chữ 嘹 叫 喔 令 là sử dụng với ý nghĩa vốn có của chữ Hán thôi. Chữ 吶 nói không chỉ dùng với nghĩa vốn có là “nói lắp” mà còn dùng với nghĩa là “nói”. Chữ 唯 dùng lặp lại là 唯 唯 (dòi dõi). Thế nhưng, bộ 隹 ở bên vì là dạng viết lược nét của 堆 cho nên nó khác với chữ Hán 唯. Tức là bộ khẩu trong hầu hết trường hợp kết hợp với chữ Hán biểu thị phát âm của tiếng Việt; chữ đó biểu thị các động tác có liên quan đến mồm hoặc nếu không thì trở thành phù hiệu dùng để ghi âm mà không có liên quan gì đến ý nghĩa của chữ Hán đó.
Việc bộ khẩu trong chữ Nôm với cách dùng như trên, đặc biệt là được dùng nhiều với mục đích ghi âm đã được Văn Hựu chỉ rõ từ rất sớm. Ông Văn Hựu đưa ra rằng khi dịch các sách kinh Phật, bộ 口 khẩu) bên có tiền lệ là được dùng với tư cách biểu trưng âm tiết như: dùng 囉 để biểu thị phát âm “ra”, dùng để biểu thị phát âm “tha” là những âm không có trong tiếng Trung Quốc. Ông còn giới thiệu báo cáo về Sekitooki thời Cao Ly của ông Zenma Kyosaku như chữ dùng để mô phỏng âm Mek và cho rằng từ sau sách Ryoushi, phương pháp này được dùng nhiều để ghi âm Ural Altail . Ông đưa ra ví dụ từ sau thời Minh Thanh, chữ ghi âm 英 吉 利 (igirisu) 荷 蓮 (oranda) được viết 英 咭 埅, 呵 蓮 ; nó biểu thị các chữ đó khác với ý nghĩa vốn có của 英, 荷, rồi đưa ra kết luận chữ Nôm không thuộc nhóm chữ , 囉 mà lại thuộc vào nhóm sau. Ông Văn Hựu đưa ra các ví dụ để chỉ ra rằng không chỉ trong các chữ Hán dùng để mô phỏng âm Phạn mà cả trong các chữ tục tự thời Minh, các phương ngôn Việt cũng có nhiều chữ Hán dùng bộ khẩu để biểu thị hạn định.
Những điều mà Văn Hựu chỉ ra có thể nói là rất quan trọng. Việc trong chữ Nôm có nhiều bộ khẩu là do người Việt dựa vào việc xác lập phương pháp tạo chữ mới, bằng cách gắn bộ khẩu vào chữ Hán có cách phát âm gần với tiếng Việt hoặc là chuyển dùng toàn bộ chữ Hán có bộ khẩu như một biện pháp ghi tiếng Việt, nhờ đó số lượng chữ Nôm liên tiếp tăng lên, những người đó đã đẩy mạnh chữ Nôm theo xu hướng văn tự biểu âm.
Điều đáng lưu tâm ở đây là những chữ Hán dùng để mô phỏng âm của tiếng Phạn loại như chữ 囉 khác hẳn với tính chất của chữ Nôm thì ông Văn Hựu đã thấy khá nhiều trong chữ Nôm. Cho dù ông đưa ra chữ 埅 khác với chữ 囉 như trên thì thực tế chữ đó lại cũng được dùng nhiều để ghi âm Đa la ni mà trước hết phải kể đến chữ 紇 埅 (hri) (Đại Chính Đại Tạng kinh quyển 8, tr.785 hàng 2) ở trong Bát nhã ba la mật đa lý thú phẩm mà Bất Không dịch từ Đại lạc kim cương bất không chân thực tam ma gia kinh. Hán Hòa đại từ điển của ông Monohashi còn ghi rằng theo sách Tập Vận biên tập đời Tống thì chỉ ghi: “Ly, thanh dã” mà thôi. Đó là vì chỉ do điều tra trong các sách kinh Phật thôi thì không đủ. Nếu nói về chữ có bộ khẩu trong sách Chinh phụ ngâm khúc thì có thể lấy ví dụ chữ là chữ lược nét của 嚧. Thế nhưng chữ 嚧 này lại còn được dùng nhiều để mô phỏng âm Đa la ni trong các sách dịch thời Đường như 3 ví dụ ở Đại thừa lý thú lục ba la mật đa kinh do Đường Bát Nhã Tam Tạng dịch (Đại Chính Đại Tạng kinh quyển 8, tr.873 hàng 27 trên và hàng 24 dưới, tr.874 hàng 13 giữa).
Ngoài ra, cho dù sách Đại Hán Hòa từ điển có những chữ biểu thị ý nghĩa và cách dùng chuẩn xác mà chỉ có thể tìm thấy trong Tập vận hoặc các sách vận thư sau đó thì trên thực tế lại còn có những ví dụ 啊, 噁, , , 嘌 được dùng nhiều trong việc mô phỏng âm Phạn thời Đường hoặc trước thời nhà Đường hay là dùng với tư cách là chữ Nôm.
Thế nhưng trong số những chữ không được thu thập trong bộ Đại Hán Hòa từ điển lại thấy có những chữ như sau được dùng với tư cách là chữ Hán để mô phỏng âm trong tiếng Phạn hay là với tư cách là chữ Nôm.
: 部 薩 利 (隋 三 歲 闍 那 崛 多 共 笈 多 “添 品 妙 法 蓮 華 經” 陀 羅 尼 品 第 二 十 一 大 正 大 藏 經 9 卷, 頁 中 段 7 行 )
: 者 娜 野 (唐 不 空 “仁 王 議 國 般 若 波 羅 密 多 經” 卷 下 , 大 正 大 藏 經 8 卷 , 843 頁 下 段 行
: 日 囉 二 合 娜 那 引 囉 引 野 一 句 吽 引 二 合 钵 多 引 計 引 一 句 (宋 法 賢 說 最 上 根 本 大 樂 不 空 三 昧 大 教 王 經” 卷 第 四 , 大 正 大 藏 經 8 卷 , 807 頁 上 14-15 段 行 ).
3. Chữ Nôm ghi tổ hợp phụ âm và dạng ghép hai chữ Hán để mô phỏng âm trong tiếng Phạn
Trong số những chữ Nôm có bộ khẩu như đã thấy cũng bao gồm cả những chữ được tạo thành do giản lược các chữ Hán rồi sau đó cho thêm bộ khẩu vào. Mặt khác nếu phương thức tạo chữ bằng cách cho bộ khẩu vào được xác lập thì những chữ có cấu tạo đơn giản như vậy có thể được tạo ra rất nhiều, cho nên không thể đoán định được đâu là những chữ Hán dùng để mô phỏng âm trong tiếng Phạn đã được đưa vào chữ Nôm. Thế nhưng, trong trường hợp muốn dựa vào chữ Hán để mô phỏng âm của những từ khác với hệ âm của chữ Hán, điều cần tham khảo trước hết là các ví dụ mô phỏng âm qua các ghi chép về các dân tộc xung quanh trong các bộ chính sử Trung Quốc hay các chữ Hán dùng để mô phỏng âm tiếng Phạn. Ta lại thấy có trường hợp dùng liên tục 4 chữ Hán ghi âm có bộ khẩu như trong Tự luân phẩm Đại Nhật kinh (Đại Chính Đại Tạng kinh quyển 18, tr.30).
Ở Nhật Bản, trong Cổ sự ký và các di văn thời Suiko có dùng nhiều chữ “di”, la rất có khả năng đó là các ví dụ dùng trong Phật giáo như Phú lâu na di đa la ni tử, di lặc bồ tát, a di đà, di lâu sơn. Ông Tsuki shima Yutaka so sánh số tự mẫu Đà la ni trong các sách chép tay thời Na ra như Kim quang minh tối thắng vương kinh quyển 4 và Đại tỳ lư giá na kinh quyển 1 với Manyogana và đưa ra kết quả như sau: Số tự mẫu chung ở quyển trước là 44/105 chiếm khoảng hơn 40%; và ở quyển sau là 25/56 cũng chiếm khoảng 40%; ông đoán rằng những loại sách này là cơ sở chính cho Manyogana. Chỉ một ít sách chép tay hiện còn mà có thể thấy những điểm chung như vậy thì trên thực tế những phần chung còn nhiều hơn nữa. Nghĩa là, sự hình thành Manyogana có liên quan đến những người có hiểu biết về tiếng Phạn. Nếu suy nghĩ thêm về lịch sử Việt Nam mà tôi đã nói trên đây thì có thể nghĩ rằng trường hợp Việt Nam phải chăng cũng giống như vậy.
Giúp cho các suy đoán trên là những chữ Nôm có tổ hợp phụ âm trong các văn bản trước thế kỷ XVII. H.Maspero cho rằng giáo sĩ người Pháp A.De Rhodes căn cứ vào cách phát âm trong từ điển Đông Kinh tiếng Việt ấn hành năm 1651 trên cơ sở tham khảo từ điển của giáo sĩ Bồ Đào Nha và cách phát âm của các dân tộc xung quanh Việt Nam; ông đã giải thích như sau: “Trong tiếng Việt trước đây tồn tại tổ hợp phụ âm đầu bl, kl, tl, những phụ âm này chuyển thành phụ âm đơn trong tiếng Việt hiện nay”. Song những chữ Nôm có tổ hợp phụ âm trong các văn bản thế kỷ XVII về trước có những chữ không đẹp với tư cách là chữ Hán. Ví dụ mà ông Nguyễn Phú Phong đưa ra dưới đây biểu thị sự thay đổi ít nhiều: (a) Chữ Nôm, (b) Cấu tạo chữ, (c) âm đương thời, (d) âm thay đổi, (e) cách ghi của A. De Rhodes và (f) cách ghi tiếng Việt hiện đại.

(a)(b) : (c) (d) (e) (f)
= 巴 ba + 賴 lại : blai trai
疩 = 巴 ba + 陵 lăng : # # blang trăng
= 古 cổ + 弄 lộng : + klong tlong trống
巨 = 巨 cự + 侖 luân : + klon tlon tròn
= 巨 cự + 僚 liêu : + kleo tleo treo
禥 = 巨 cự + 郎 lang : + klang + krang sang
= 巨 cự + 立 lập : + klap + krap sắp
= 巨 cự + 稟 lẫm : + klam + kram

Giống như chữ giêng 喆, đặc trưng của những chữ loại này là được tạo thành chỉ bằng sự kết hợp âm thanh, khác hẳn với những chữ Nôm được tạo thành bởi sự kết hợp các chữ Hán có ý nghĩa. Cũng cần chú ý rằng đó là sự kết hợp giữa phụ âm đầu của một chữ với toàn thể âm của một chữ khác có phụ âm đầu. Tức là trong trường hợp biểu thị âm “đông”, khác với cách phiên thiết ghi bằng “đức hồng thiết”; đây là sự kết hợp giữa phụ âm đầu của chữ trên (thanh mẫu) và bộ phận không phải phụ âm đầu của chữ dưới (vận mẫu); đó là việc làm công phu để ghi tổ hợp phụ âm. Về nguồn gốc của phiên thiết vẫn đang còn nhiều giả thuyết khác nhau: Là do ảnh hưởng của âm Phạn học Ấn Độ hay là vốn có của Trung Quốc ? Cũng có thuyết lại cho đó là vốn có của Trung Quốc, nhưng dưới ảnh hưởng của âm Phạn học mà hoàn chỉnh lên ? Thế nhưng phương thức ghi tổ hợp phụ âm như đã nói ở trên không còn nghi ngờ gì nữa nó bắt nguồn từ ngoài Trung Quốc, từ cách mô phỏng âm trong tiếng Phạn như vajra 金 剛 (kim cương) được ghi 日 囉 二 合. Bản thân tự mẫu trong âm tiết, mọi người đều biết đến cách chọn ghép phụ âm hai chữ liên tiếp giống như sva 婆 thấy trong 42 tự môn của Nhập pháp giới phẩm trong Hoa Nghiêm Kinh. Trong khi tìm ra cách cấu tạo cơ bản cho phát âm tiếng Việt, việc tham khảo những điều trên là điều đương nhiên.
Lại nữa những người sống trong khu vực văn hóa Hán mà không thạo chữ Nôm khi xem những chữ trên thì sẽ nghi ngờ tại sao có nhiều chữ trong đó các bộ phận được xếp theo hình chữ nhật đứng, khác hẳn với những chữ “trống” và “sắp” như vậy. Vì không phải là một vài chữ, phải chăng nên chọn những chữ có số nét ít và khó lẫn với những chữ Hán thông thường; hơn nữa lại có thể cố định chúng trong trường hợp đặt chồng các bộ phận của chữ lên nhau. Điều cần xem xét ở đây là phải chăng những chữ này vốn là những chữ khác nhau được viết theo hàng dọc, nhưng quen tay viết liền nhau mà thành.
Trong các tư liệu viết chữ Hán bên cạnh chữ Phạn để biểu thị phát âm được ghi như sau:
阿 引 哩 野 引 二 合 路 引
以 諦
ā ryā va lo ki te
二 合 嚕 引
śva lo
Các chữ gồm hai chữ như 哩 野 và 滋 lại được gắn chặt nhau (viết liền nhau) (xem hình chụp ở cuối bài). Viết nhầm chăng ? qua ví dụ cách ghi 日 囉 thành 囉 二 合 trong Phật thuyết đế thích bát nhã ba la mật đa tâm kinh (Đại chính Đại Tạng kinh quyển 8, tr.847 hàng 11 giữa) mà Tống Thi Hộ dịch có thể nghĩ đến khả năng dạng chữ gồm hai chữ viết gắn chặt nhau là dạng chữ ghép. Cho dù không có dạng chữ viết gắn chặt nhau như trên, nhưng ở Việt Nam không phải là không có thời kỳ tổ hợp phụ âm đầu “Blai” được ghi bằng dạng viết rời hai chữ “ba” 巴 và “lại” 賴 theo chiều dọc.
ở đây chỉ là suy đoán thôi. Thế nhưng dù có cách ghi như vậy, dù chữ ghép đột nhiên được tạo ra để ghi tổ hợp phụ âm kép; thì vẫn có thể thấy rõ những người dày công tìm ra cách ghi như trên chắc chắn rất am tường về chữ Hán dùng để mô phỏng âm trong tiếng Phạn.

Lã Minh Hằng dịch
(Bài đăng trên Kỷ yếu nghiên cứu Đại học Kadazawa, số 26, tháng 3/1998)
CHÚ THÍCH
(1). Mineya Tooru, Chuuko Kango to Betonamu Kanjion, Kyuuko shoin, 1993, tr.201, tr385-6.
(2). Sđd, tr.388.
(3). Takeuchi Yonosuke, Chinh phụ ngâm khúc, Daigaku shorin, 1984.
(4). Văn Hựu, Luận chữ Nôm chi tổ chức cập kỳ dữ Hán tự chi giao thiệp, Yên Kinh học báo, số 14, 1933, tr.232- 234.
(5). Vẫn biết văn bản dịch Hán các tác phẩm kinh Phật không chỉ giới hạn ở cái gọi là tiếng Phạn hay tiếng Pa ri mà còn gồm cả các sách Phật giáo có lẫn với tiếng Phạn hay tiếng vùng Tây Vực, và các phương ngôn ấn Độ, thế nhưng ở đây để cho tiện xin được ghi bằng từ “mô phỏng âm tiếng Phạn”
(6). Kanda Hydeo, Kojiki no buntai ni kansuru- shi ron, các vấn đề “ Về manh nha của dạng văn Kojiki trong các di văn thời Suiko” “Quốc ngữ và Quốc văn học”, số tháng 8 năm Chiêu Hòa 25.
(7). Tsukishima Hiroshi, Kodai no moji; Nakada Norio, Kooza Kokugoshi 2 oninshi, mojishi, Taishuukan shoten, 1972, tr. 370- 371. Về Manyogana cần nghĩ đến mối quan hệ với Lidoku, xin xem Lidoku to Manyogana no kenkyuu, Izumi shoin, 1982.
(8). Henri Maspero: Etude sur la phonetique de la langue annamite, BEFEO XII, Hanoi, 1912.
(9). A PROPOS DU NÔM, ECRITURE DEMOTIQUE VIETNAMIENNE: Cahier de linguistique asie orientale, No. 4, 1978.
(10). Về các thuyết xin xem Ooshima Shouji, Trung Quốc Ngôn ngữ học sử, Kuuko shoin, 1997, tr. 142- 147.
(11). Về các loại tự mẫu xin lấy ví dụ Mabuchi Kazuo, Nihon ingakushi no kenkyuu 1, chương 1: Phạm ngữ học ở ấn Độ và Trung Quốc( Ringawa shoten, 1984); Yoshitani Toshinobu, Xoay quanh tên gọi Tự mẫu (Nhật Bản Trung Quốc học hội báo, tập 33, số tháng 10 năm 1981.
(12). Pelliot 4577. Hukui Humio, H nnyashinkei no Rekishiteki kenkyuu, Shunjuu sha1987, tr 104.
(13). Kausika - prajnaparamita, Mahayanasutrasamgraha pt.1, Buddhist Sansrit, Texts, No. 17, The Mithila Institute, Darbhanga, 1961, tr. 96.
Hình chụp chữ Phạn
(Pelliot, số 4577)