Tuesday, 10 July 2018

Từ "Dòng" là của riêng người Công Giáo Việt Nam (Nguyễn Long Thao - Công Giáo)




Từ "Dòng" là của riêng người Công Giáo Việt Nam

1/25/2017 1:50:29 PM 
(http://conggiao.info/tu-dong-la-cua-rieng-nguoi-cong-giao-viet-nam-d-40030) 
Khi nói tới từ “Dòng”, người Công Giáo Việt Nam nào cũng hiểu “dòng” là một tu hội như Dòng Mến Thánh Giá, Dòng Phan Xi Cô, Dòng Đa Minh v.v...

dongtu.jpg
Ảnh minh họa

Tuy nhiên, các bộ tự điển quan trọng của Việt Nam, như Việt Nam Tự Điển của hội Khai Trí Tiến Đức xuất bản năm 1931, hay Đại Từ Điển Tiếng Viết của Trung Tâm Ngôn Ngữ và Văn Hóa Việt Nam xuất bản năm 1999 lại không giải thích dòng là một tu hội? Vậy phải chăng “dòng” là một đặc ngữ của người Công Giáo Việt Nam và đâu là nguyên nhân các vị thừa sai dùng từ này để chỉ một tu hội? Đó là nội dung bài nghiên cứu này.

Dòng là từ Nôm lấy dạng của bộ thủy 氵và dụng 用 trong tiếng Hán để ghép lại. Theo nghĩa thông thường của các từ điển, từ Dòng chỉ ý nghĩa sự gì liên tục như dòng nước, dòng sông, dòng nhạc, dòng dõi. Hai tự điển quan trọng nêu trên giải thích từ Dòng như sau:

(1) Khối chất lòng chảy dọc, dài ra.

(2) Chuỗi dài kế tiếp không đứt đoạn.

(3) Hàng ngang trên giấy như dòng kẻ.

(4) Tập hợp những người cùng một huyết thống kế tục từ đời này sang đời kia.

Như vậy từ “Dòng” hiểu theo nghĩa của người Công Giáo là một tu hội đều không có trong tự điển.

Từ Dòng Là Đặc Ngữ Công Giáo Việt Nam

Từ Dòng xuất hiện rất sớm trong ngôn ngữ của người Công Giáo Việt Nam. Vào năm 1670 khi Đức Cha Lambert De La Motte thành lập tu hội “Mến Thánh Giá Câu Rút Đức Chúa Giêsu”, thì thấy ngài dùng từ Dòng để đặt tên cho tu hội đầu tiên của các phụ nữ tại Việt Nam. Ngài viết như sau:

“Những bổn đạo nữ ở nước Annam đã lâu khấn cùng Đức Chúa Lời giữ mình sạch sẽ. Ta nghe tin này thì muốn tạ ơn Đức Chúa Lời vì Đức Chúa Lời đã mở lòng cho những kẻ ấy sẵn lòng mà khấn những sự trọng làm vậy, lại xin cho được vào dòng ấy mà tìm lẽ nào cho được phó cả và mình làm tôi Đức Chúa Lời cho lọn. Ấy đàng Đức Chúa Lời đã mở ra, cho nên ta lập dòng chị em tu hành nước Annam, mà đặt tên là Dòng Chị Em Mến Câu Rút Đức Chúa Jêsu”.

Từ đó, người Công Giáo Việt Nam bắt đầu dùng từ Dòng để chỉ tu hội. Tự Điển của Đức Cha Taberd xuất bản năm 1838, ngoài nghĩa thông thường như đã nói trên còn có nghĩa Dòng là một tu hội: Ordo Religiosus: Tu Hội Dòng. Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của không ghi từ Dòng theo nghĩa như từ điển của Đức Cha Taberd nhưng ghi hai từ: thầy Dòng: thầy tu, kẻ vào hội tu thân. Vào Dòng: chịu theo phép tu trì cực khổ. Như vậy, người Công Giáo bắt đầu dùng từ Dòng từ năm 1670 tức từ năm thành lập Dòng Mến Thánh Giá. Trong bài viết Tự Vị Taberd Và Di Sản Văn Hóa Việt Nam được in trong phần đầu của Từ Điển Taberd do nhà Xuất Bản Văn Học tái bản năm 2004, giáo sư Trần Văn Toàn cũng cho rằng từ Dòng là từ ngữ chuyên môn của Công Giáo Việt Nam. Như vậy chúng ta có thể kết luận từ Dòng là đặc ngữ của người Công Giáo Việt Nam.

Lý Do Chọn Từ Dòng Để Chỉ Tu Hội

Đến đây chúng ta đặt câu hỏi tại sao các vị thừa sai đã dùng từ dòng để chỉ tu hội? Không có tài liệu nào giúp ta trả lời câu hỏi này. Do vậy chúng ta phải suy luận.

Trước hết chúng ta cần xác định những đặc tính của tu hội xem có phủ hợp với từ Dòng trong tiếng Nôm hay không? Tu hội là một tập thể người, tuy không cùng huyết thống, nhưng sống chung với nhau, có cùng một lý tưởng mà từ chuyên môn gọi là linh đạo. Cơ cấu tổ chức tu hội cũng giống như gia đình, gia tộc là sống theo phẩm trật có trên, có dưới được kế tục từ đời này sang đời kia, tạo thành một cơ cấu giống như cơ cấu xã hội mà ta gọi là dòng tộc.

Ngoài ra, các nhà thừa sai cũng thấy 3 từ Ordo Religiosus, Ordre Religieuse, Religious Order của ba ngôn ngữ Latin, Anh Pháp vừa có nghiã phậm trật thứ tự, vừa có nghiã là một tu hội. Nên các Ngài đã dịch Ordo là Dòng để chỉ một tu hội

Tất cả những đặc tính nêu trên của tu hội phù hợp với ý nghiã của dân gian Việt Nam hiểu từ Dòng là tập hợp những người cùng một huyết thống kế tục từ đời này sang đời kia, cũng phù hợp với ý nghiã của từ Ordo Religiosus, hay Ordre Religieuse, hay Religious Order nên các nhà thừa sau ban đầu đã dùng từ Dong để chỉ một tu hội.

Đến đây chúng ta có thêm bằng chứng để kết luận rằng các nhà thừa sai ban đầu đã chú ý đến vấn đề hội nhập văn hóa Việt vào Kitô giáo. Các ngài đã không phiên âm từ Ordo trong tiếng Latin như kiểu phiên âm Đức Thánh Pha Pha do tiếng Papa trong La ngữ để chỉ Đức Giáo Hoàng hay đã không dùng từ Tu Hội của người Công Giáo Tầu để đặt tên cho một tổ chức mà Giáo Hội Công Giáo Việt Nam gọi là dòng.

(Nguyễn Long Thao, VCN 24.01.2017)

Monday, 9 July 2018

VƯƠNG ĐẠI (WANG-TAI) VÀ ĐỜI SỐNG SÀI GÒN CUỐI TK. XIX (Nguyễn Đức Hiệp - Văn Hóa Học)


TS. Nguyễn Đức Hiệp

Gần đây năm 2004, tin tức báo chí Việt Nam cho biết khi một số ngói bị hư tháo xuống ở Nhà thờ Đức Bà (thành phố Hồ Chí Minh), thì thấy có chữ đề xuất xứ “Wang-Tai Saigon” trên mặt các viên ngói [Trần Nhật Vy 2004]. Tác giả các bài báo cho rằng có thể các viên ngói này được sản xuất sau chiến tranh thế giới thứ hai ở Sài Gòn để thay thế các viên ngói đưa từ Pháp sang đã bị hư hại. Thật ra không phải như vậy, mà là các viên ngói này đã được sản xuất ở Sài Gòn trong khi xây dựng nhà thờ từ năm 1877 đến 1880. Kí hiệu Wang-Tai nghĩa là gì? Để hiểu được điều này, ta hãy đi về quá khứ để tìm hiểu một phần của lịch sử Sài Gòn.
Bài khảo cứu này (với tiêu đề “Wang-Tai (Vương Đại), ông là ai?”) do TS. Nguyễn Đức Hiệp thực hiện trích từ một bài khá dài về Lịch sử Sài Gòn mà anh đang viết. Tác giả đã ưu ái gửi trước phần thú vị này cho vanhoahoc.edu.vn.

 
Pháp chiếm thành Sài Gòn 1859

Qua các tài liệu cuối thế kỷ 19 có ở Thư viện quốc gia Pháp (Bibliotheque national) thì ta biết được Wang-Tai là một nhân vật người Hoa kiều sống ở Sài Gòn trong những năm đầu Pháp chiếm các tỉnh miền Nam sau khi đánh thành Sài Gòn vào năm 1859. Wang-Tai (Vương Đại) nổi tiếng trong các tác phẩm viết về Sài Gòn trong các thập niên 1880-1890 của các tác giả người Pháp qua ngôi nhà lớn và đẹp nhất Sài Gòn nằm ngay tại bờ sông ở cảng Sài Gòn (nay là bến Bạch Đằng). Maison Wang-Tai đồ sộ xây bằng gạch lớn hơn cả dinh thống đốc lúc bấy giờ vốn chỉ là một ngôi nhà gỗ (cây) mua ở Singapore chở sang Sài Gòn rồi ráp lại.
Từ nhà của ông Vương Đại về hướng cảng thương mại Sài Gòn, dọc theo rạch Bến Nghé (Arroyo chinois) là các xưởng làm gạch và ngói do ông Vương Đại quản lý. Trong các viên ngói đỏ hơn trăm năm trên nóc Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn, một số viên làm từ các xưởng gạch này của ông, số còn lại là nhập từ Pháp.
Vậy ông Vương Đại là ai?
Chi tiết về cuộc đời của ông Vương Đại không để lại trong sử sách hay tư liệu nào của người Việt, chỉ có một số sự kiện rải rác được ghi trong các tài liệu tiếng Pháp. Điều này cũng dễ hiểu vì ông Vương Đại là người Hoa sống trong thời kỳ từ năm 1827 đến cuối thế kỷ 19 ở miền Nam, một thời kỳ có nhiều thay đổi lớn khi Pháp đánh chiếm 6 tỉnh Nam kỳ. Trí thức, sĩ phu, triều đình người Việt lúc ấy không để ý đến những vấn đề doanh nghiệp, kinh tế, thương mại... và v lại không nhiều người biết chữ Hán-Nôm, còn chữ quốc ngữ thì chưa được phổ biến trong quần chúng nên không ai viết và biết về con người ông Vương Đại.
Ông Vương Đại là thương gia người Hoa, bang trưởng Bang Quảng Đông, rất giàu có và có thế lực trong thời kỳ đầu khi Pháp chiếm Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Chỉ trong vòng hơn 10 năm khi Pháp thiết lập chính quyền và mở cửa tự do kinh doanh cảng, khuyến khích thương mại, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, các doanh nhân người Hoa ở vùng Sài Gòn - Chợ Lớn đã phát tài vượt bực nhờ truyền thống kinh doanh nhạy bén và mạo hiểm trên thương trường. Họ đã trở nên giàu có nhanh chóng, tạo sự khâm phục và ấn tượng đối với người Pháp. Trong số hội viên của Phòng Thương mại (chambre de commerce) vào lúc sơ khai, năm 1886,  ở Sài Gòn, bên cạnh đa số người Pháp, hai hội viên người Hoa giàu có ông Vương Đại và ông Ban-Hap, và một hội viên người Việt duy nhất là ông Nguyễn Trọng Tạo [Annuaire 1888]. Ông Vương Đại có các xưởng làm ngói, làm đồ gốm, ruộng lúa và nhiều nhà cửa, văn phòng ở Sài Gòn - Chợ Lớn đến ni chính quyền Pháp phải mướn nhiều nhà của ông để làm trụ sở hành chính.
Qua sự vận động của ông Vương Đại, năm 1880 Toàn quyền Pháp đã đề nghị với giám đốc trường Chasseloup-Laubat (tức Trường PTTH Lê Quí Đôn ngày nay) mở khóa dạy tiếng Quảng ở trường này. Ông đòi hỏi Hội đồng Quản hạt trong phiên họp năm 1883 phải bãi bỏ thuế đất 5 chùa người Hoa trong Chợ Lớn vì đó những cơ sở tôn giáo, phải được đối xử như các đền thờ tôn giáo khác như Ấn, Hồi, Công Giáo là không phải trả thuế [E. Laffont, J.-B. Fonssagrives 1890].
Năm 1880, ông muốn bán ngôi nhà ông đang tại bến Sài Gòn cho chính quyền với giá 45.000 piastres (đồng) tương đương với 225.000 francs. Sau khi xem xét kinh phí mà chính quyền lúc đó đang mướn và tiền quản lý bảo trì căn nhà đó, cùng với số tiền còn đang nợ chưa trả, Hội đồng Quản hạt đã đồng ý bỏ ra 254.000 francs để mua lại căn nhà của ông Vương Đại [X. Gaultier de Claubry 1882]. Các xưởng gạch của ông Vương Đại sản xuất ra những viên gạch tốt được dùng ở Sài Gòn và ở nhiều nơi trong Nam kỳ. Trong cuộc trin lãm công nghiệp và nông nghiệp năm 1880, các sản phẩm gạch của ông giành được huy chương bạc [Excursions 1880]. Ông có đưa các sản phẩm đồ gốm sản xuất ở Chợ Lớn đi tham dự Trin lãm Quốc tế năm 1878 ở Paris [Catalogue 1878].
Ngoài các cơ sở làm gạch đồ gốm, ông Vương Đại còn có những khu ruộng lúa lớn ở Phước Lộc mới khai hoang để trồng lúa gạo [Hte-. Frédéric-Thomas Caraman 1871]. Theo tư liệu ngân sách do chính phủ Pháp ở Sài Gòn in năm 1876 [Budget 1876] thì ông có 3 nhà cho chính quyền Pháp ở Sài Gòn mướn: 1 nhà 3 tầng ngay cảng thương mại (quai de commerce) Sài Gòn (tiền mướn: 6.866 franc/1 năm), 1 nhà ở rue de Canton (đường Triệu Quang Phục) Chợ Lớn làm văn phòng điện tín (1.694 francs), 1 nhà ở Bình Tây (Chợ Lớn) làm trạm cảnh sát (2471.75 francs). 
Tờ tuần báo “Les tablettes colonials” xuất bản tại Paris ngày 19/12/1888 có đăng một mu tin nhỏ về ngày lễ sinh nhật của ông Vương Đại như sau [Les Tablettes 1888]:
“Một ngày lễ rất thành công với ấn tượng rất lý thú vừa xảy ra ở Sài Gòn, để mừng sinh nhật thứ 61 và kỷ niệm 30 năm ngày ông thương gia người Hoa tên là Vương Đại đến Sài Gòn. Những người con trai của ông Vương Đại và gia đình của họ, những đồng hương và bạn bè của ông trong dịp lễ này đã mời “quí bà, quí ông người Pháp và người Âu ở Sài Gòn, Chợ Lớn và các tỉnh”. Cộng đồng người Âu đã đáp lại lời mời ân cần này. Đèn đuốc, pháo bông, trình diễn kịch, hát tuồng, không thiếu cái gì trong ngày lễ vui này. Ông Vương Đại là một trong những chức sắc người Hoa được kính trọng nhất ở Sài Gòn; ông không những đã có những dịch vụ cống hiến lớn lao cho đồng bào ông mà còn cho chính quyền Pháp. Vì thế đương nhiên đúng khi người ta đáp lại tương ứng thông qua việc tham dự hoạt động hòa bình này mà ông là đối tượng.
Qua mu tin này thì ta biết là ông Vương Đại sinh vào tháng 12 năm 1827 ở Trung Quốc, ông đến Sài Gòn - Chợ Lớn lập nghiệp vào năm 1858, một năm trước khi Pháp đánh thành Sài Gòn.
Tư liệu, bút ký của các tác giả Pháp cuối thế kỷ 19 cho thấy trên khu phố chính Sài Gòn như đường Catinat (Đồng Khởi), người Hoa đã có nhiều cơ sở doanh thương hơn người Việt. Chung quanh ngôi biệt thự của ông Vương Đại, trước khi Pháp đến đã có các ca tiệm vi, tiệm may đồ, hàng thủ công, tiệm sửa giày, sa đồng hồ, hàng nước ngoài mà ngay cả người Pháp cũng đến mua, chưa kể ban đêm các nhà trên đường sau biệt thự ông Vương Đại là các sòng đánh bạc.
Ngoài ông Vương Đại, còn có các doanh nhân người Hoa giàu khác như Apan, Atho, Ban-Hap, v.v. [Anatole Petiton 1883]. Cửa hàng của người Hoa ở đường Catinat, đường Rigault de Genouilly dọc kinh chợ Vi, nối đến đường rue d’Adran, đều mở cửa đến 9 giờ đêm. Đường rue d'Adrian (đường Hồ Tùng Mậu ngày nay) là khu buôn bán tấp nập có nhiều cửa hàng người Hoa, Ấn nằm kế khu vực Chợ Sài Gòn cũ. Chợ này nằm dọc kênh Charner (kinh chợ Vi), nay gọi là chợ Cũ.
 
Sài Gòn - Khách sạn Cosmopolitan Hotel, nhà ông Vantai (Vương Đại) 1872 (nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 [Belleindochine 1882, Albert Morice1876]).
 
Toàn cảnh Sài Gòn – 1881. Sông Sài Gòn, rạch Bến nghé. Để ý nhà ông Vương Đại ở ngay góc sông Sài Gòn và rạch Bến Nghé (arroyo chinois) 2 tầng (không kể tầng trệt) giống như hình trong sách của bác sĩ Albert Morice [Belleindochine 1882, Albert Morice1876].

Ông Anatole Petiton đến thăm Sài Gòn, đã viết về đời sống, sinh hoạt của thành phố trong sách “La Cochinchine française: la vie à Saïgon, notes de voyage” xuất bản năm 1883 như sau [Anatole Petiton 1883]:
“Khi đi tàu đến cảng Sài Gòn, du khách có thể thấy hai nhà nổi bật là nhà Rồng (messageries maritime) và nhà của ông Vương Đại, xây hầu như ở giữa góc điểm của rạch Bến Nghé và sông Sài Gòn.
Tất cả Sài Gòn đều biết ông Vương Đại. Nhà của ông rất lớn với cột cửa vòng cong và mái hiên (portique), có thể nói nhà ông được coi như là trung tâm Sài Gòn.
Nhà có ba tầng với sân mái hiên. Đây cũng là tòa đô chánh thành phố Sài Gòn và là nơi ở của ông thị trưởng. Ông thị trưởng quả là người công chức được chu cấp ch ở tốt nhất.”
 
Sài Gòn 1872– Bên kia sông Sài Gòn là nhà Rồng (messageries maritime) – nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 [Belleindochine 1882, Albert Morice1876]

Cũng theo mô tả của ông Petiton thì kênh Chợ Vải dài khoảng vài trăm thước (gọi là kênh Rigault de Genouilly, sau đổi thành kênh Charner), bắt đầu từ sông đi vào thì ở phía bên phải là các ngôi nhà của người Âu và một vài nhà người Hoa và Ấn (người Pháp gọi người Ấn là malabar), bên trái là các ngôi nhà, chợ và những cửa hàng khác của người Hoa.
Kênh chấm dứt ở khoảng nhà thờ. Ở phía trên phần kéo dài của kênh, hai bên có ch chơi trò chơi Bowling (một thứ trò chơi của người Anh) rất hợp với việc giải trí lúc chiều tối. Nhà thờ lúc bấy giờ do đô đốc Bonard cho dựng dọc kênh chợ Vi năm 1863 sau khi vừa chiếm xong hoàn toàn Sài Gòn - Gia Định, được làm bằng gỗ hoàn thành năm 1865 chỉ là một nhà thờ tạm thời. Người Pháp đang xây một thánh đường lớn gần dinh thống đốc mới xây. Trong nhà thờ, ở gần điện thờ là các ghế ngồi dành cho người Âu, ngoài ra là các bục bằng gỗ. Người Ấn có ba đền thờ ở Sài Gòn: hai đền thờ Hồi giáo và một đền thờ Ấn giáo (Hindou).
Người Mã Lai, ít phát tán phân phối rộng nhiều ở Sài Gòn như các dân khác, họ đa số làm nghề coi sóc ngựa. Ở Singapore thông thường thì những người chăm sóc ngựa và lái xe ngựa tư nhân hay công cộng đều là người Mã Lai. Ở Sài Gòn, họ thường lái xe ngựa cho chủ mướn họ.

Cảnh chợ Sài Gòn 1872, để ý có 2 người Ấn (malabar) và một người Hoa trong chợ - nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 [Belleindochine 1882, Albert Morice1876].

Còn các xe ngựa công cộng thì được điều khiển bởi những người Ấn từ vùng bờ biển Malabar, Pondichéry (một nhượng địa của Pháp ở Ấn Độ) hay từ Singapore. Vì người ta thường thấy họ đánh xe ngựa công cộng ở Sài Gòn nên họ gọi loại xe ngựa này là xe Malabar. Những người malabar chăm sóc ngựa rất tốt và tài tình, họ có phương pháp độc đáo rất hay để dỗ ngựa. Họ thường dùng bàn tay vỗ nhẹ vào ngựa, làm như cho ngựa tin rằng họ rất ganh tị là ngựa có bộ da mà họ muốn lấy. Người Malabar cũng làm nghề chăn nuôi bò, để lấy và bán sữa (có người xấu miệng nói là sa bò thật sự là nước từ dừa cái dập nát pha với nước). Ở Sài Gòn ngay cả vào những thập niên đầu thế kỷ 20, vẫn còn thấy nhiều con bò ăn cỏ ở một số lề đường công viên gần trung tâm thành phố do người Ấn nuôi.
 
Vùng Malabar - nhượng địa của Pháp ở Ấn Độ (Nguồn: http://historicalrama.org/historicalrecords.html)
Người malabar còn có một nghề đặc biệt nữa là đổi tiền. Một đồng (piastre) theo giá chính phủ đổi là 5 franc 55, nhưng họ đổi được giá cao hơn là 5 fr 65 và đôi khi đổi lên đến khoảng 6 francs. Họ làm dịch vụ thương mại này với người Hoa ở Chợ Lớn, vì người Hoa thường cần một số lượng tiền đồng (piastre) lớn để có thể mua nhiều gạo từ các tỉnh. Người malabar còn một nghề thứ tư ở Sài Gòn - đó là nghề gác-dan và họ cũng được tuyển dụng làm cảnh sát. Cộng đồng người malabar là cộng đồng công nhân làm lụng và rất cần kiệm: tiền họ kiếm được thường được cất dấu và không xuất ra nữa. Họ có thể lực tốt: cao, khỏe và thon. Họ thường đeo đồ trang trí ở cổ tay, trên cổ, cổ chân, tất cả đều bằng vàng thật; đối với họ đồ trang trí giả bị cấm dùng.


 
Thương gia người Hoa 1872 - nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 [Belleindochine 1882, Albert Morice1876].

Lời kết:
Sài Gòn là một thành phố của nhiều lưu dân đến để tạo ra một sắc thái riêng. Ngay từ đầu, Sài Gòn đã là một thành phố đa chủng tộc, đa văn hóa. Người bản xứ Mạ, Stieng, người Khmer, người Chăm, người Hoa từ các tỉnh Quảng Đông, Triều Châu, người Việt từ các tỉnh miền Trung, và sau này người Pháp, Ấn độ (Malabar), Phi (Tagal) đến, tất cả đã để lại những sắc thái văn hóa, kiến trúc, ngôn ngữ, giai thoại… để tạo thành người Sài Gòn với đặc tính thực dụng, hòa hợp, trọng lẽ phải, tôn trọng sự khác biệt và mang tính chất “trọng nghĩa khinh tài” của vùng đất Nam Bộ. Sài Gòn từ cuối thế kỷ 19 đã là thành phố toàn cầu (global city) không phải đợi đến thế kỷ 21 của thời đại toàn cầu hóa hiện nay.

Tài liệu tham khảo
Albert Morice1876: Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon).
Anatole Petiton 1883: La Cochinchine française: la vie à Saïgon, notes de voyage, Éditeur : Impr. de L. Danel (Lille).
Annuaire 1888: Annuaire de la Cochinchine pour l’annee 1886, Saigon imprimerie colonial, Date d'édition: 1865-1888.
Belleindochine 1882: Hình ảnh, tư liệu, http://belleindochine.free.fr/Saigon1882.htm
Budget 1876: Budget local: exercice / Gouvernement général de l'Indochine, Cochinchine, Impr. du Gouvernement (Saigon). http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5448883k.image.r=Wang-Tai.f97.langEN.hl
Catalogue 1878: Catalogue officiel. Tome 5 / Exposition universelle internationale de 1878 à Paris; publié par le commissariat general, Imprimerie nationale (Paris), http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k90427z.hl.r=Wang-Tai.f175.langEN
Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp 1994: De Batavia à Saigon: notes de voyage d’ un marchand chinois (1890), Archipel, Vol. 47, pp. 155-191.
E. Laffont, J.-B. Fonssagrives 1890: Répertoire alphabétique de législation et de réglementation de la Cochinchine: arrêté au 1er janvier 1889. T4 (G-J), A. Rousseau (Paris).
Eugène Bonhoure 1900: Indo-Chine, Challamel (Paris).
Excursions 1880: Excursions et reconnaissances, No. 4, Imprimerie du gouvernement, Saïgon,. http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5747850m.image.hl.r=Wang-Tai.f5.langEN.pagination
Honoré Aurillac, Cochinchine. Annamites, Moïs, Cambodgiens, Challamel aîné (Paris), 1870
Hte-. Frédéric-Thomas Caraman 1871: Sept cents millions de revenus en Cochinchine, mémoire-rapport à M. le Président de la République et à l'Assemblée nationale, suivi d'une note sur l'Algérie, A. Le Chevalier (Paris).
John Barrow 1806: A voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793: containing a general view of the valuable productions and the political importance of this flourishing kingdom, T. Cadell and W. Davies in the Strand, London. online : http://purl.pt/126
John Crawfurd 1830: Journal of an embassy from the governor of India to the courts of Siam and Cochinchina; exhibiting a view of the actual state of those kingdom by John Crawfurd. London. Henri Colburn and Richard Bentley, New Burlingtong Street.
John White 1824: A Voyage To Cochin China; by John White, Lieutenant in The United State Navy, London. http://www.archive.org/stream/voyagetocochinch00whitrich#page/n15/mode/2up
Jules Blancsubé 1879: Notes sur les réformes les plus urgentes à apporter dans l'organisation des pouvoirs publics en Cochinchine (Signé : Jules Blancsube [31 Décembre 1878]), Impr. de Ve Remondet-Aubin (Aix).
L. I. 1906: Saïgon-Souvenir, petit guide saigonnais à l'usage des passagers des débutants dans la colonie, Editeur Coudurier et Montégout (Saïgon).
Les Tablettes 1888: Les Tablettes coloniales. Organe des possessions françaises d'outre-mer, No. 45, 19/12/1888, http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5512296p.image.r=Wang-Tai.f1.langEN
Marcel Monnier, Le Tour d'Asie: Cochinchine, Annam, Tonkin, E. Plon, Nourrit et Cie (Paris), 1899.
Nguyễn Công Tánh 2009: Thay đổi tên đường của Thành Phố Sài Gòn từ năm 1928 đến năm 1993, http://motgocpho.com/forums/showthread.php?1895-L%E1%BB%8Bch-S%E1%BB%AD-Saigon
P. Cultru 1910: Histoire de la Cochinchine française, des origines à 1883. A. Challamel (Paris),.
P. Midan 1934: La Pagode des clochetons et la pagode Barbé, contribution à l'histoire de Saïgon-Cholon , Impr. de l'Union Nguyên-van-Cua (Saïgon).
Paulin Francosi Alexandre Vial 2009: Les premieres années de la Cochinchine, colonie francaise, BiblioBazaar, LLC.
Réveillère, Paul-Émile-Marie (dit Paul Branda) 1887: Ça et là. Cochinchine et Cambodge. L'âme khmère. Ang-Kor. Troisième edition, Fischbacher (Paris).
Trần Nhật Vy 2004: “Bí mật” nhà thờ Đức Bà, Tuổi Trẻ, 30/12/2004, http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/61715/Bi-mat-nha-tho-Duc-Ba.html ; http://vietbao.vn/Phong-su/Bi-mat-nha-tho-Duc-Ba/40061715/263/
Truong Vinh Ky 1885: Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur : Impr. coloniale (Saïgon).
Vương Hồng Sển 1992: Sài gòn năm xưa, , Nxb Trẻ.
X. Gaultier de Claubry 1882: Un Casse-cou, ou le Budget de la Cochinchine en 1882, Impr. de J. Le Clere (Paris).

(http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-bo/1688-nguyen-duc-hiep-vuong-dai-wang-tai-va-doi-song-sai-gon-cuoi-tk-xix.html)