Monday, 22 April 2019

Hậu phương và quân đội thời kỳ chống Mỹ, mấy kinh nghiệm cho hiện tại (Ngô Đăng Tri - Văn Hóa Nghệ An)

Hậu phương và quân đội thời kỳ chống Mỹ, mấy kinh nghiệm cho hiện tại

  •   NGÔ ĐĂNG TRI
  • Chủ nhật, 03 Tháng 5 2015 05:58
  • font size giảm kích thước chữ tăng kích thước chữ

Một vấn đề lớn trong lịch sử chiến tranh cách mạng Việt Nam thời kỳ 1954-1975 là giải quyết mối quan hệ giữa hậu phương và quân đội. Thấu hiểu đúng đắn, sâu sắc mối quan hệ giữa hậu phương và quân đội thời kỳ đó không chỉ giúp ta có cái nhìn toàn diện về nguyên nhân thắng lợi các cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà còn có thể rút ra những kinh nghiệm phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
  1. HẬU PHƯƠNG VÀ QUÂN ĐỘI THỜI KỲ 1954 - 1975
Đế quốc Mỹ có âm mưu can thiệp vào Việt Nam từ thời kỳ 1945-1946, khi ủng hộ quân Tưởng và bọn phản động (Việt Quốc, Việt Cách) kéo vào hòng lật đổ chính quyền  cách mạng non trẻ, lập chính quyền tay sai. Từ năm 1950, Mỹ công khai giúp Pháp duy trì, đẩy mạnh cuộc chiến tranh và tìm cách thay chân Pháp thống trị Đông Dương. Từ tháng 7/1954, khi Pháp thất bại, Mỹ đã ráo riết đưa Ngô Đình Diệm lên cầm quyền nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Trên thực tế đế quốc Mỹ đã dùng mọi lực lượng và thủ đoạn để thực hiện mưu đồ đó.
 Lực lượng của Mỹ huy động cho chiến trường Việt Nam (1956-đầu 1975):
+ Thời gian chiến tranh (tháng):  222 (chiến tranh thế giới 2: 42 tháng)
+ Chi phí chiến tranh(tỷ đô la):    676 (chiến tranh thế giới 2: 341 tỷ)
+ Số lượt lính tham chiến (ngàn lượt):  6.600      
+ Xí nghiệp phục vụ (ngàn):  122                    
+ Tỷ lệ quân chủng tham gia: Lục quân: 70%, Thủy đánh bộ: 60%; Hải quân:  40%; Không quân: 60%. 
Những số liệu đó chứng minh chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh lớn nhất, kéo dài nhất, tốn kém nhất của đế quốc Mỹ.
Để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược đó, Việt Nam đã rất coi trọng xây dựng hậu phương về mọi mặt để có được tiềm lực to lớn nhằm bảm đảm hậu cần cho Quân đội, nâng cao sức mạnh của của Quân đội, đẩy mạng kháng chiến đến toàn thắng.
Ở miền Bắc, về chính trị, từ 7/1954, Việt Nam đã có chủ trương thanh thủ hòa bình, củng cố miền Bắc, quyết định tập kết lực lượng từ miền Nam ra miền Bắc, xây dựng miền Bắc thanh căn cứ địa của cách mạng cả nước, làm hậu thuẫn cho đấu tranh thống nhất nước nhà. Thời kỳ 1955-1957, Việt Nam tập trung hoàn thành các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Từ năm 1958, Việt Nam chủ trương tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa để đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tháng 9/1960, Đại hội III của Đảng đã hoàn chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, xác định tuy cùng thực hiện một mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, song cách mạng miền Bắc và cách mạng miền Nam có vai trò, vị trí riêng, trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam, với việc thống nhất Tổ quốc nên phải ra sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc, làm cho miền Bắc trở thành căn cứ địa của cả nước, hậu phương cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam. Theo quan điểm đó, miền Bắc đã tăng cường công tác xây dựng Đảng, hoàn thiện bộ máy chính quyền các cấp, ban hành Hiến pháp xã hội chủ nghĩa, củng cố Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng, phát động nhiều phong trào quần chúng thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng cường quốc phòng, như phong trào: “Gió Đại Phong, sóng Duyên Hải, cờ Ba nhất”, “mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “toàn dân làm giao thông vận tải”, “tất cả vì tiền tuyến lớn miền Nam.
Về kinh tế, với tinh thần khẩn trương, đến năm 1957,  miền Bắc hoàn thành kế hoạch khôi kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, đạt được mức độ tăng trưởng như năm 1939, năm thịnh đạt nhất thời Pháp thuộc. Đến năm 1960, sau ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958- 1960), kinh tế miền Bắc có bước phát triển mới với sự xuất hiện nhiều khu công nghiệp lớn Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Thái Nguyên, Việt Trì. Từ năm 1961 đến năm 1965, miền Bắc đã ra sức thi đua thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất với hàng loạt phong trào thi đua lao động sản xuất sôi nổi. Đến đầu 1965 do Mỹ gây chiến tranh phá hoại, kế hoạch 5 năm phải tạm dừng, song cơ bản miền Bắc đã đạt đựoc các mục tiêu đề ra trong nông, công nghiệp, giao thông vận tải, cải thiện đời sống nhân dân, năng cao tiềm lực quốc phòng.
Từ năm 1965 đến năm 1972, miền Bắc thực hiện nhiệm vụ vừa sản xuất, xây dựng  vừa chiến đấu bảo vệ, đồng thời vừa làm tốt nhiệm vụ hậu phương với miền Nam và chiến trường quốc tế. Tuy bị thiệt hại nhiều, nhất là công nghiệp, giao thông vận tải, song nông nghiệp, công nghiệp địa phương miền Bắc tiếp tục phát triển. Từ năm 1973, sau khi có Hiệp định Paris, miền Bắc đã tập trung khôi phục kinh tế, xây dựng tiềm lực hậu phương, đạt nhiều kết quả lớn, đến năm 1975 đã đạt mức tăng trưởng của năm 1965 và có mặt phát triển hơn, quan hệ đối ngoại được mở rộng.
Về văn hóa, xã hội, trong thời kỳ 1954-1964, miền Bắc đã đẩy mạnh phong trào xóa nạn mù chữ, xây dựng đời sống mới, phát triển mạnh giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ học vấn cho mọi tầng lớp nhân dân. Các cơ sở vật chất về văn hóa, y tế, giáo dục được xây dựng, giao lưu văn hóa quốc tế được thúc đẩy. Trong thời kỳ 1965-1975, dù chiến tranh ác liệt, cơ sở vật chất bị tàn phá, nhưng với khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, với khí thế “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, miền Bắc đã đề cao hơn bao giờ hết tinh thần hướng ra tiền tuyến, tỉnh cảm Bắc-Nam ruột thịt...
Về quân sự,ngay sau khi hòa bình lập lại, Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chủ trương tăng cường tiềm lực quốc phòng cho miền Bắc. Từ năm 1957, yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân, đưa quân đội một bước lên chính quy, hiện đại được chú trọng. Quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, chú trọng giữ vững và tăng cường bản chất nhân dân của các lực lượng vũ trang được đề cao. Một bộ phận lớn bộ đội thường trực được phục viên chuyển ngành sang xây dựng kinh tế, hình thành 35 nông trường trường quân đội. Đợt phong quân hàm toàn quân năm 1958 có thêm 22 sĩ quan cấp tướng, 37 đại tá, 75 thượng tá. Tổng quân số thường trực được duy trì ở mức độ thích hợp: năm 1959 có 160.000 người, năm 1963 có 170.000 người (bằng 1% số dân), 16.000 công nhân viên quốc phòng, 21.000 công an vũ trang, 1,2 triệu quân dự bị, 1,4 triệu dân quân tự vệ. Đầu năm 1965 có 195.000 bộ đội thường trực, cuối 1965 lên 400.000 người. Vũ khí trang bị được nâng cấp, nhiều quân binh chủng kỹ thuật được thành lập.
Thời kỳ 1965-1975 thế trận chiến tranh nhân dân được xây dựng vững chắc, có nhiều khu vực phòng thủ mạnh như Hà Nội, khu IV. Đoàn 559 được tăng cường thành Bộ đội Trường Sơn với 2 sư đoàn ô tô, 3 sư đoàn công binh, 29 trung đoàn vận tải, 6.770 xe ô tô. Đường Trường Sơn dài 16.790 km (cả Đông và Tây). Có 1.712km đường ống xăng dầu với 101 trạm bơm (kể cả ở miền Bắc lên tới 55.000km).
Miền Bắc đã tổ chức tiếp nhận một khối lượng lớn vĩ khí, trang bị quân sự do các nước chi viện, chủ yếu qua đường sắt và đường thủy. Sự giúp đỡ quân sự của Trung Quốc đối với Việt Nam từ năm 1964 đến năm 1968 là rất to lớn.
Năm/ Loại
1964
1965
1966
1967
1968
+
Súng
80.500
220.767
141.153
146.600
219.899
808.919
Pháo
1.205
4.439
3.362
3.984
6.406
19.396
Đạn (nghìn viên)
25.240
114.010
178.120
147.000
247.920
712.290
Đạn pháo
335
1.800
1.066
1.363
2.082
6.646
Radio
426
2.779
1.568
2.464
1.854
9.091
Điện thoại
2.941
9.502
2.235
2.289
3.313
20.280
Xe tăng
16
-
-
26
18
60
Tàu chiến
-
7
14
25
-
46
Máy bay
18
2
-
70
-
90
Xe vận tải
25
114
96
436
454
1.125
Quân phục (nghìn bộ)
-
-
400
800
1.000
2.200
Sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam bắt đầu được đẩy mạnh từ năm 1965 khi Liên Xô đồng ý cung cấp giúp đỡ hệ thống tên lửa đất đối không, máy bay, phi công huấn luyện và đội ngũ kỹ thuật viên nhằm bảo vệ  khu vực Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố quan trọng khác.  Ngay trong năm 1965, một số máy bay MIG 15, 17 và IL 28 đã được chuyển đến Việt Nam. Tính đến năm 1967, tổng viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam là khoảng 1,5 tỷ Rúp (hơn 1,5 tỷ USD), trong đó sự trợ giúp của Liên Xô chiếm 36,8% (608 triệu USD). Đến cuối 1967, sự trợ giúp của Liên Xô tăng lên 50% tổng giá trị giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa, trong đó sự giúp đỡ về quân sự chiếm 2/3. Năm 1968, Liên Xô đã dẫn đầu danh sánh các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ Việt Nam, với tổng giá trị đạt 542 triệu Rúp (582,2 triệu USD). Ngoài ra còn có khoảng 1.500 đến 2.500 lượt chuyên gia quân sự Liên Xô, bao gồm kỹ sư, phi công, kỹ thuật viên phụ trách hệ thống ra đa, tên lửa đã phục vụ ở Việt Nam trong thời gian chiến tranh.
Trong giai đoạn 1969-1972, tiềm lực của hậu phương miền Bắc càng được tăng lên nhanh nhờ sự viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhất là về quân sự.
Loại
1969
1970
1971
1972
+
Súng
139.900
101.800
143.100
189.000
573.800
Pháo
3.906
2.212
7.898
9.238
23.254
Đạn (nghìn viên)
119.170
29.010
57.190
40.000
245.370
Đạn pháo
1.357
397
1.890
2.210
5.854
Radio
2.210
950
2.464
4.370
9.994
Điện thoại
3.453
1.600
4.424
5.905
15.382
Xe tăng
-
-
80
220
300
Tàu chiến
-
-
7
14
21
Máy bay
-
18
2
-
20
Xe vận tải
162
-
4.011
8.758
12.931
Q. phục (nghìn bộ)
1.200
1.200
1.200
1.400
5.000
Với sự lớn mạnh của hậu phương miền Bắc và sự chi viện to lớn của các nước anh em, tiềm lực quân sự của Việt Nam được tăng cường về mọi mặt. Ngày 24/10/1973 Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng) ra đời ở Tam Điệp (Ninh Bình)...
Miền Bắc đã đánh thắng 2 cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ được địa bàn và góp phần “chia lửa” với tiền tuyến miền Nam. Cả hai lần chống chiến tranh phá hoại, miền Bắcđã bắn rơi 4.181 máy bay, có 68 B52, 13 F111, bắn cháy, chìm 271 tàu chiến. Trong đó dân quân tự vệ bắn rơi 357 chiếc máy bay, lão dân quân bắn rơi 6 chiếc, nữ dân quân bắn rơi 30 chiếc. Riêng trong cuộc chiến đấu năm 1972,  nhất là trận Điện Biên Phủ trên không 12 ngày đêm cuối 1972, miền Bắc đã bắn rơi nhiều loại máy bay hiện đại của Mỹ, trong đó có 62 B52, 10 F111, bắn chay, chìm 128 tàu chiến.
Tuy nhiên, miền Bắc cũng bị tàn phá nặng nề qua hai cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ. Trong công nghiệp, có 18% máy móc công nghiệp không sử dụng được, 26% máy móc công nghiệp bị hư hỏng, số còn lại chỉ hoạt động 6h/ngày, 91 ngày/năm. Trong nông nghiệp, diện tích trồng trọt giảm 3,6%, chi phí sản xuất tăng 75 %. Thu nhập của xã viên giảm 23,7%, lương thực bình quân đầu người từ 305 kg (1961-1965) xuống còn 252 kg (1966-1975). Giao thông vận tải chịu 60% sự đánh phá của địch. Trong những năm 1965-1968,  trung bình cứ 1 km đường bộ có 19,3 quả bom và bị đánh 4 lần, 1 km đường sắt Hà Nội- Vinh bị đánh 19,5 lần. Hàng chục vạn người bị chết. Hầu hết công trình xây dựng, cầu cống, bệnh viện, trường học... bị tàn phá.
Ở miền Nam, về chính trị,Việt Nam đã sớm có chủ trương xây dựng hậu phương tại chỗ.Năm 1954, khi thực hiện tập kết lực lượng ra miền Bắc, nhiều cán bộ đã ở lại bám cơ sở và chuyển cuộc chiến đấu sang đấu tranh chính trị, hợp pháp đòi thực hiện tổng tuyển cử hòa bình thống nhất như quy định của Hiệp định Giơnevơ. Từ 1960, sau phong trào Đồng Khởi, Việt Nam đã chủ trương bảo vệ, xây dựng các vùng giải phóng thành hậu phương tại chỗ, thành lập và sử dụng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam kiêm nhiệm chức năng chính quyền cách mạng, củng cố Trung ương cục, xây dựng Đảng Nhân dân cách mạng miền Nam, xây dựng Đoàn Thanh niên cách mạng, Hội lao động giải phóng... Đến 1969, Việt Nam đã chủ trương thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng các cấp ở vùng giải phóng và các các căn cứ du kích, các vùng tranh chấp. Mặt trận Dân tộc giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoàn miền Nam Việt Nam được nhiều nước trên thế giới công nhận, đặt quan hệ ngoại giao và ủng hộ, giúp đỡ.
Về kinh tế,từ năm 1960, tại các vùng giải phóng, khu căn cứ lớn, Việt Nam chủ trương phát triển sản xuất, thực hiện đảm bảo một phần nhu cầu lương thực, vũ khí tại chỗ cho bộ đội, nhân dân, nhất là ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Mặt khác đã tiếp nhận có hiệu quả sự chi viện vất chất của hậu phương miền Bắc và tìm mọi cách lấy kinh tế địch để đánh địch, vận động nhân dân các vùng tạm bị chiếm ủng hộ quân giải phóng, tiếp tế cho các căn cứ kháng chiến. Với nhiều cố gắng,  hậu phương tại chỗ ở miền Nam đã bảo đảm được một phần quan trọng nhu cầu thực phẩm, lương thực, vũ khí và  các nhu yếu phẩm cho bộ đội chủ lực, phần lớn các nhu cầu cho bộ đội địa phương và dân quân du kích. Khối lượng vật chất do hậu phương tại chỗ sản sinh ra vừa phụ vụ kịp thời cho nhu cầu của tiền tuyến vừa giảm phí tổn về vận chuyển so với số đưa từ miền Bắc vào.
Về văn hóa, xã hội, trong các vùng giải phóng, đời sống văn hóa được chú trọng xây dựng, phát triển. Quan điểm xây dựng vùng giải phóng, các căn cứ về văn hóa, xã hội phải ưu việt, tiến bộ hơn vùng tạm bị chiếm được nhấn mạnh. Với lực lượng giáo viên tại chỗ và đưa từ hậu phương lớn miền Bắc vào, hệ thống giáo dục phổ thông được xây dựng, trước hết là bậc tiểu học. Mạng lưới y tế được tăng cường với các tuyến bệnh viện bệnh xá, trại an dưỡng, trạm phẫu thuật các cấp. Các đội chiếu phim, đoàn văn công đã lưu động phục vụ bộ đội, nhân dân. Đồng thời ta  cũng chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn chiến tranh tâm lý và chống lại văn hóa phản động đồi trụy của địch, đẩy mạnh tuyên truyền tinh thần yêu nước cho nhân dân vùng địch hậu.
Về quân sự,từ năm 1960, khi có vùng giải phóng, có các chiến khu, Việt Nam đã đẩy mạnh xây dựng các đơn vị vũ trang các cấp, thành lập Quân giải phóng, Bộ chỉ huy toàn miền và của các khu, các tỉnh. Nhiều công binh xưởng được xây dựng, ra sức sản xuất vũ khí cung cấp cho lực lượng vũ trang địa phương. Việc lấy vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch để đánh địch được phát động, trở thành phong trào chung, thu kết quả hết sức to lớn. Hệ thống kho tàng, đường sá, trạm giao liên tiếp nhận sự chi viện quân sự của hậu phương lớn được tổ chức liên thông. Việc vận động nhân dân tham gia chủ lực Quân Giải phóng, đị bộ đội địa phương, làm giao thông được chú trọng. Ngày 17/5/1974, Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang) được thành lập ở Trị Thiên, ngày 20/7/1974, Quân đoàn 4 (binh đoàn Cửu Long) ra đời ở Đông Nam Bộ, ngày 27/3/1975, Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) ra đời ở Tây Nguyên.
Nhìn chung, tại các căn cứ, vùng giải phóng miền Nam và Lào, Campuchia, ta đã xây dựng được các cơ sở hậu cần vững mạnh, nơi dứng chân của các lực lượng vũ trang, đặt kho tàng, công xưởng và có năng lực để tiếp nhân sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc, trở thành hậu phương tại chỗ ngày càng lớn mạnh, bảo đảm hậu cần cho Quân giải phóng toàn Miền và cho cả chiến trường ba nước Đông Dương chiến đấu và chiến thắng.
Hạn chế trong xây dựng hậu phương bảo đảm hậu cần cho Quân đội thời kỳ 1954- 1975 là tư duy về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc còn giản đơn, mô phỏng nước ngoài, vội cải tạo một số thành phần kinh tế đang cón tác dụng, vội đẩy mạnh công nghiệp hóa khi còn thiều các điều kiện cơ bản. Quy mô sản xuất nhiều lĩnh vực chưa thích hợp, ham quy mô lớn, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh. Việc kết hợp xây dựng với bảo vệ hậu phương, chi viện tiền tuyến cả ở miền Bắc và vùng giải phóng miền Nam có lúc chưa chặt chẽ, bị lãng phí nhiều, có nơi, có lúc bị địch gây tổn thất lớn. Các tổ chức quần chúng, phong trào thi đua có nơi còn hình thức, chất lượng thấp. Tư tưởng ỷ lại, trông chờ viện trợ, chi viện từ bên ngoài còn nặng, tâm lý bao cấp thời chiến trở nên phổ biến, gây hậu quả lâu dài về sau…
       2. MẤY KINH NGHIỆM CHO HIỆN TẠI
Một số nhận xét
Thứ nhất, vấn đề mối quan hệ giữa nhân tố kinh tế với chiến tranh, hậu phương với quân đội là vấn đề cơ bản về lý luận rất cần được nắm vững trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh cách mạng, trong nghiên cứu lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hậu phương của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, xâm lược (1954-1975) tuy có những đặc điểm và quá trình xây dựng, bảo vệ, chi viện tiền tuyến độc đáo, song cơ bản là hậu phương của chiến tranh nhân dân, hậu phương trong lòng dân. Hậu phương đó tuy chưa phát triển cao về kinh tế,  song về chính trị tinh thần, văn hoá xã hội thì ưu việt hơn hậu phương đối phương và luôn luôn hướng về tiền tuyến, ra sức chi viện sức người, sức của cho quân đội.
Thứ hai,hậu phương của cuộc kháng chiến thời kỳ 1954- 1975 đã được xây dựng và bảo vệ trong hoàn cảnh hết sứ khó khăn, đều bị địch đánh phá, song đều đạt được những thành tựu to lớn, tạo được những tiềm lực quan trọng và đã làm tròn chức năng, vai trò của mình đối với tiền tuyến, cả về đất đứng chân, bàn đạp tiến công, cơ sở tổ chức, nền tảng kinh tế, nơi cung cấp nhân tài vật lực và động viên chính trị tinh thần đối với quân đội, với tiền tuyến. Vì vậy, tìm hiều sự lãnh đạo, chỉ đạo và các phong trào xây dựng, bảo vệ hậu phương, chi viện tiền tuyến thời kỳ này sẽ giúp hiểu rõ thêm nguyên nhân thắng lợi của hai cuộc kháng chiến đó và rút ra được những kinh nghiệm phục vụ hiện tại, nhất là kinh nghiệm về tư tưởng chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, kinh nghiệm về kết hợp các nhiệm vụ xây dựng với bảo vệ, xây dựng bảo vệ với chi viện, kết hợp trước mắt và lâu dài, kinh tế với quốc phòng...Tìm hiểu vấn đề mối quan hệ giữa hậu phương với Quân đội trong cuộc kháng chiến của Việt Nam  thời kỳ 1954-1975 phải quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng Quân đội nhân dân, về  chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, giải phóng dân tộc, phải nắm vứng lý luận chung đồng thời phải dựa chắc vào thực tiễn Việt Nam.
Thứ ba,thắng lợi của Việt Nam nói chung, của  Quân đội Việt Nam trongcuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nướcnói riêng có nhiều nguyên nhân, song đều có nguyên nhân quan trọng, quyết định thường xuyên là có hậu phương được xây dựng và bảo vệ vững chắc, hết sức chi viện sức người, sức của và động viên chính trị tinh thần cho tiền tuyến. Sự lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức đúng đắn, sáng tạo của Đảng, Nhà nước trong xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi viện tiền tuyến thời kỳ 1954- 1975 đã để lại nhiều kinh nghiệm có giá trị về sau, kể cả kinh nghiệm thàng công cần phát huy và kinh nghiệm không thành công cần phải tránh.
 Mấy kinh nghiệm cho hiện tại
Một là, sức mạnh của hậu phương quyết định sức mạnh của quân đội, hậu phương là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh. Công thức chung về mối quan hệ giữa hậu phương với quân đội luôn luôn vẫn là: CUNG CỦA HẬU PHƯƠNG phải luôn bằng hoặc lớn hơn CẦU CỦA QUÂN ĐỘI thì quân đội mới giành được chiến thắng. Vì vậy khi có chiến tranh hay lúc bình thường đều phải nhận thức đúng đắn quan điểm/ công thức đó để ra sức xây dựng, bảo vệ tiềm lực mọi mặt của hậu phương, của đất nước, tạo thế và lực bảo đảm cho quân đội giành chiến thắng. Không có thực lực (vật chất, nhân lực, kỹ thuật, trình độ lãnh đạo, chỉ huy, ý chí tinh thần, địa bàn…) thì quân đội không thể giành thắng lợi trên chiến trường, trong bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải và không phận của quốc gia.
Hai là, xây dựng, bảo vệ hậu phương, huy động sức mạnh hậu phương cho quân đội, cho chiến tranh phải toàn diện cả về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá, khoa học kỹ thuật... Phải quán triệt quan điểm dựa vào dân, dựa vào sức mình là chính, đồng thời ra sức tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Hậu phương của ta phải là hậu phương của chiến tranh nhân dân, phải có chế độ chính trị, văn hoá. xã hội ưu việt, tiến bộ hơn hậu phương địch, dần dần có kinh tế, quốc phòng lớn mạnh mới đủ sức bảo đảm hậu cần cho quân đội, cho tiền tuyến chiến thắng.
Ba là,muốn có hậu phương, nhất là những vùng hậu phương chiến lược vững mạnh phải ra sức bảo vệ, giải phóng những nơi “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, nơi đã từng là căn cứ địa hậu phương trong các cuộc kháng chiến trước đó (như Việt Bắc, Thanh- Nghệ- Tĩnh, Trường Sơn- Tây Nguyên, Đông Nam Bộ…), đồng thời phải căn cứ vào thực tế mỗi thời kỳ, mỗi khu vực để tạo đất đứng chân, căn cứ địa, hậu phương chiến lược phù hợp với các đối tượng và hướng tác chiến, với nhu cầu mới của chiến tranh, của Quân đội, với loại hình tiền tuyến là vùng biển đảo xa đất liền. Nói chung phải hết sức chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong xây dựng, bảo vệ hậu phương tại chỗ, hậu phương chiến lược cũng như hậu phương quốc tế.
Bốn là,xây dựng, bảo vệ hậu phương, bảo đảm hậu cần cho Quân đội là một quá trình từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn. Phải kết hợp tốt các nhiệm vụ xây dựng với bảo vệ và chi viện, không coi nhẹ nhiệm vụ nào, song tùy từng thời kỳ từng nơi mà có sự tập trung cho mỗi lĩnh vực. Nhìn chung xây dựng phải đi liền với bảo vệ, xây dựng là cơ sở để bảo vệ và chi viên, phải trên cơ sở bồi dưỡng sức dân mà huy động sức dân, phải làm tốt công tác hậu phương quân đội, hậu phương sau chiến tranh để “làm kế sâu rễ bền gốc” cho quân đội, cho sự nghiệp bảo vệ đất nước lâu dài.
Năm là, chiến tranh càng hiện đại, vai trò của nhân tố kinh tế, hậu phương đối với quân đội, với tiền tuyến càng tăng lên. Chiến tranh càng hiện đại, thời gian diễn ra ngắn, nhưng mực độ hao tổn lớn và nhanh, nhất là đối với nguồn nhân lực kỹ thuật, vũ khí đắt tiền, nên quân đội, tiền tuyến càng lệ thuộc vào hậu phương, song hậu phương lại bị đánh phá khó đáp ứng được. Do đó phải có sự kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế từ thời bình, từ trước chiến tranh, trong phạm vi toàn quốc cũng như mỗi khu vực, mỗi địa phương để quân đội không bị động, hậu phương không rối loạn khi có chiến sự. Mặt khác phải kết hợp tốt giữa quảng bá, tuyên truyền tiềm lực quốc phòng của hậu phương, của đất nước với che dấu sức mạnh và cài bẫy về thế trận phòng thủ của Quân đội, tránh sự bộc lộ không cần thiết về tiềm lực, về thế trận.
Sáu là,trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện tại, nhiều vấn đề tuy đã khác  trước, song nhân tố quyết định thường xuyên của hậu phương đối với sức mạnh của quân đội, với thắng lợi của chiến tranh vẫn là tiềm lực của hậu phương. Xây dựng hậu phương trong thời kỳ mới vẫn phải chú trọng cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, kỹ thuật, quân sự, phải kết hợp kinh tế với quốc phòng và ngại giao, kinh tế với văn hoá, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Việc nắm vững quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng về mối quan hệ giữa hậu phương với quân đội, hậu phương với tiền tuyến là rất cần thiết đối với các thế hệ đương đại. Nó không chỉ giúp hiểu thấu đáo, sâu xa một nguyên nhân thắng lợi của các cuộc kháng chiến thời kỳ 1954- 1975 mà còn có ý nghĩa thực tiễn thiết thực đối với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo hiện nay của Việt Nam./.                                                                                                    
(http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/hau-phuong-va-quan-doi-thoi-ky-chong-my-may-kinh-nghiem-cho-hien-tai)

Tuesday, 9 April 2019

Về khái niệm “công lý” trong chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tại Việt Nam (Nguyễn Xuân Tùng)


Về khái niệm “công lý” trong chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tại Việt Nam

12/10/2012
Đặt vấn đề
Công lý là một khái niệm xuất hiện trong lĩnh vực triết học từ thời Hy Lạp cổ đại và được phát triển mạnh mẽ trong nền khoa học pháp lý ngày nay. Những tư tưởng, khát vọng về một nền công lý đích thực đã được Nguyễn Ái Quốc - người sáng lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà truyền bá về Việt Nam từ năm 1925 trong tác phẩm “Bản án Chế độ thực dân Pháp”(Chương VIII - Công lý). Với nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công lý, ngay sau khi thành lập nhà nước cách mạng nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm đến nhiệm vụ của chính quyền nhân dân trong việc bảo vệ và thực thi công lý.  Điều 47 Sắc lệnh số 13 của Chủ tịch nước ngày 24 tháng 01 năm 1946 quy định cách tổ chức toà án và các ngạch thẩm phán trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã khẳng định “Các vị thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý”. Điều 25 Sắc lệnh này quy định: Khi các Phụ thẩm nhậm chức, tại phiên toà đầu, ông Chánh án sẽ mời các Phụ thẩm tuyên thệ, nội dung lời tuyên thệ là “Tôi thề trước Công lý và nhân dân rằng tôi sẽ suy xét cẩn thận những án đem ra xử, không hề ăn hối lộ, vị nể, vì sợ hãi hay vì tư lợi hay thù oán riêng mà bênh vực hay làm hại một bị can nào. Tôi sẽ cứ công bằng mà xét định mọi việc…”. Có thể nói, công lý và bảo vệ công lý đã trở thành vũ khí tư tưởng, chính trị, pháp lý sắc bén ngay từ những ngày đầu của Nhà nước cách mạng nhân dân.
Qua quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn sau 20 năm đổi mới, một trong những nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN đã được Đảng và Nhà nước ta thừa nhận là yêu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Trên cơ sở đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã một phần hiện thực hoá nội dung đặc trưng nói trên với yêu cầu hệ thống tư pháp phải được hoàn thiện để hướng tới mục tiêu bảo vệ công lý, lẽ phải, lẽ công bằng. “Các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của người dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người”, “Xây dựng nền tư pháp vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý…”. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta (năm 2011) cũng đã tiếp tục khẳng định yêu cầu bảo vệ công lý trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Từ định hướng quan trọng này, Dự thảo Hiến pháp năm 1992 (Sửa đổi) của Uỷ ban Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 đã dự kiến bổ sung, làm sáng tỏ nhiệm vụ của Toà án nhân dân trước yêu cầu bảo vệ công lý: “Toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Như vậy, trước yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, công lý và bảo vệ công lý đã trở thành một trong những mục tiêu cơ bản, xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta và là một giá trị tiến bộ xã hội nhân văn, bền vững được toàn xã hội thừa nhận và hướng tới.
1. Khái niệm “công lý” trong nền khoa học pháp lý thế giới.
Khái niệm công lý là khái niệm thu hút được nhiều sự quan tâm và tranh luận của các nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực triết học, đạo đức học, chính trị học, luật học và tôn giáo trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của nền văn minh nhân loại. Theo cách hiểu truyền thống, công lý là khái niệm chỉ áp dụng trong quá trình tương hỗ, khi hành động của một cá nhân này hướng tới người khác. Câu hỏi về công lý (justice) và bất công (injustice) chỉ xuất hiện khi có nhiều cá nhân và có những sự kiện thực tế liên quan đến quá trình tương tác với người khác. Trong nền khoa học pháp lý thế giới, công lý là khái niệm có nội hàm khá năng động, tuỳ thuộc vào từng nền văn hoá và từng giai đoạn phát triển của xã hội trong lịch sử.
Từ góc độ lịch sử, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra các phân đoạn phát triển của công lý. Theo đó, công lý trong giai đoạn thứ nhất của xã hội sơ khai được thể hiện khá rõ nét bằng sự trả thù cá nhân, bằng luật báo thù, dĩ oán báo oán. Công lý đã luôn được coi là vấn đề cốt tử trong tâm thức của các nhà làm luật từ thời cổ đại. Trong bộ luật Hammurabi của nhà nước lưỡng hà được ban hành trong khoảng thời gian từ năm 1792 đến năm 1750.TCN, công lý được được hiểu là yêu cầu áp dụng hình phạt ngang bằng với thiệt hại mà kẻ phạm tội gây ra, đó chính là nguyên tắc báo thù Talion (mắt đền mắt, răng đền răng). Theo đánh giá, đây là một bộ luật mà nguyên tắc Talion được áp dụng một cách triệt để, tàn khốc và cứng nhắc một cách cực đoan. Ví dụ một người thợ xây làm chết con của chủ nhà thì con của người thợ xây phải bị giết theo nguyên tắc báo thù Talion.[1]
Giai đoạn thứ hai của sự phát triển nhận thức về công lý là thay sự báo thù bằng bồi thường, phạt vạ, để nhằm giữ yên ổn, hoà hảo trong nội bộ các bộ tộc, bộ lạc. Một ví dụ sinh động về cách phạt vạ khá cẩn thận, tỉ mỉ của người Abysinie trong giai đoạn này như sau: “Nếu một đứa nhỏ trên cây té xuống đúng vào một đứa bạn của nó, làm cho đứa này chết thì mẹ của đứa chết có quyền sai một đứa khác leo lên cây rồi buông tay cho rớt xuống đúng đầu đứa phạm tội”. Đến giai đoạn thứ ba, để ngăn chặn các cuộc trả thù cá nhân, toà án đã được thành lập để thẩm định, đánh giá các mức độ thiệt hại, từ đó hoà giải, điều đình, phân xử các xung đột giữa các cá nhân trong xã hội. Công lý và tư pháp xét xử đã vững bước song hành từ những bước phát triển của lịch sử văn minh nhân loại như vậy.[2]
Trong nền văn minh Hy Lạp cổ đại - cái nôi của văn minh phương Tây, công lý được cho rằng bắt nguồn từ trật tự xã hội, một xã hội ổn định, có trật tự sẽ thúc đẩy sự phát triển của công lý và ngược lại, một nền công lý mạnh mẽ sẽ thúc đẩy một xã hội trật tự, ổn định. Plato, nhà triết học Hy Lạp xuất sắc, đã đặt những luận giải của mình về công lý chủ yếu trong các tranh luận về vấn đề đạo đức. Khi bị chỉ trích với các luận điểm cho rằng đạo đức là phát minh của kẻ yếu nhằm vô hiệu hoá quyền lực của kẻ mạnh và công lý không phải là đạo đức của người xuất chúng mà là thứ đạo đức nô lệ, người ta chỉ trích sự bất công chỉ khi người ta là nạn nhân chứ không phải bị lương tâm cắn rứt. Sức mạnh chính là lẽ phải và công lý chính là quyền lợi của kẻ mạnh. Đáp lại những luận điểm nêu trên, Plato cho rằng đây là những vấn đề đạo đức căn bản, những lý thuyết căn bản về luân lý. Ông nhấn mạnh công lý là một sự quan hệ giữa cá nhân, tuỳ thuộc vào tổ chức xã hội và do đó cần được nghiên cứu đồng thời, song song với cơ cấu xã hội chứ không thể được nghiên cứu như một thái độ cá nhân. Chúng ta chỉ có thể hình dung một quốc gia công bằng thì chúng ta mới đủ yếu tố định nghĩa một cá nhân công bằng. Theo Plato, công lý là một khái niệm thể hiện phẩm hạnh và sự hài hoà của cộng đồng, là kết quả của sự đồng tâm hợp tác giữa những cá nhân có đức hạnh tham gia giải quyết các vấn đề của cộng đồng và quốc gia. Công lý liên quan trực tiếp đến sự tiết chế và khả năng tự kiểm soát của mỗi cá nhân. Công lý là một vấn đề giản dị nếu con người cũng giản dị, rời xa lòng tham lam và sự xa hoa và sống theo đúng chức phận của mình. Công lý xuất phát từ sự hài hoà và nó hướng tới những người khác thông qua những hành vi nhân hậu và tử tế.[3]
 Còn theo Aristotle, một trong những người thầy có ảnh hưởng nhất đối với bộ môn triết học chính trị, thì công lý cốt ở việc đối xử bình đẳng với những người ngang nhau và bất bình đẳng với những người không ngang hàng, tương xứng với sự khác nhau về địa vị của họ. Theo ông, công lý được chia thành “công lý cải tạo” - nơi mà toà án sửa chữa một lỗi lầm do một bên phạm phải đối với bên khác và “công lý phân phối” - cách thức, nỗ lực cố gắng để công bằng với mỗi người, đúng theo những gì mà người đó xứng đáng. Theo Aristotle, công lý phân phối chính là mối quan tâm chủ yếu, hàng đầu của các nhà lập pháp. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng luật pháp và công lý là hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất, thậm chí, trong một số xã hội, luật pháp đôi khi đi chệch hướng hoặc đối nghịch với công lý.[4]
Người La Mã tiếp tục phát triển khái niệm về công lý với nhận định rằng luật pháp là tổng hợp các quyền cá nhân. Công lý được xem là yêu cầu bắt buộc trao cho con người những quyền của họ. Tuy nhiên, người La Mã cũng không còn coi công lý là một chức năng của xã hội mà coi công lý là một nội dung và là khía cạnh pháp lý của xã hội. Nội dung này được thể chế hoá trong các chức năng của các thiết chế bảo vệ các quyền của từng cá nhân đơn lẻ hơn là dành sự quan tâm xã hội cho tất các công dân. Khái niệm về công lý tương giao ra đời khi sự trao đổi các giá trị, lợi ích giữa các cá nhân phát triển một cách mạnh mẽ với nguyên tắc là tôi trao một lợi ích cho bạn thì bạn trao một lợi ích cho tôi. Một hợp đồng trao đổi là một hành động của công lý tương giao tự nguyện mà trong đó mỗi người đều nhận được những giá trị lớn hơn với giá trị tương ứng mà anh ta đã trao đi. Mục đích của công lý tương giao là duy trì sự bình đẳng về quyền giữa các cá nhân, bảo vệ sự tự do và nhấn mạnh trách nhiệm của từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Trong truyền thống pháp luật tự nhiên, công lý được hiểu là yêu cầu, đòi hỏi mỗi cá nhân hoặc nhóm được hưởng những gì mà họ xứng đáng. Công lý là quyền mà tạo hoá ban cho con người. Đây là khái niệm mang tính tổng quát và tuyệt đối, các quy định luật pháp, các nguyên tắc, luật lệ, quy tắc chỉ là những cố gắng nhằm hệ thống, hiện thực và cụ thể hoá khái niệm này. Công lý chỉ có thể giành được thông qua chế độ pháp quyền chứ không phải thông qua sự cai trị của con người. Không có công lý thì sẽ không có những đạo luật khách quan và hệ quả là các cá nhân sẽ lệ thuộc vào kẻ cai trị. Chế độ pháp quyền ở đây được hiểu là nhà nước phải bị chế ước bởi những quy định đã được ấn định trước hoặc được đoán định trước và mọi người đều bị quản lý bởi cùng các đạo luật.  
Truyền thống pháp luật tự nhiên cho rằng công lý và bất công không phụ thuộc vào luật thực định (human/positive law). Augustine, nhà triết học có ảnh hưởng lớn đầu tiên thời trung cổ, cho rằng công lý cao hơn nhà nước và là vĩnh cửu. Công lý tự nhiên cao hơn luật pháp. Luật pháp không công bằng thì không phải là luật pháp (Unjust laws are not laws). Thomas Aquinas, nhà triết học và thần học Italia trong truyền thống kinh viện chủ nghĩa, cũng cho rằng trong thực tế những đạo luật nhân định có thể công bằng hay không công bằng. Công lý là khái niệm cơ sở, có nội hàm rộng hơn khái niệm luật pháp. Những giá trị của công lý cung cấp những tiêu chí quan trọng cơ bản để đánh giá, thẩm định các đạo luật thực định. Một đạo luật công bằng là một đạo luật dựa trên và không đối lập với các quyền tự nhiên. Bất công chính là những hành vi liên quan đến việc vi phạm các quyền tự nhiên như các tội giết người, hành hung, trộm cắp, bắt cóc, nô lệ, hiếp dâm, gian lận hoặc các hành vi gây ảnh hưởng sai lệch nhất định đến sự phân phối thịnh vượng, thu nhập. Không có cách phân phối cụ thể nào được coi là công bằng hoặc không công bằng từ sự lựa chọn của các cá nhân. Sự phân phối lợi ích và chi phí chỉ được coi là công bằng nếu người đó được tự do lựa chọn trao đổi với người khác.
Luật pháp và công lý có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Luật pháp phục vụ công lý nếu nó giúp tạo dựng sự bình yên và bảo vệ các quyền cá nhân của con người bị vi phạm. Công lý không có sự nâng đỡ của luật pháp sẽ trở lên yếu đuối, mờ nhạt. Luật pháp không dựa trên các giá trị của công lý sẽ trở lên tàn bạo, hà khắc. Đạo luật Đracông năm 621 TCN là một ví dụ điển hình về sự khắc nghiệt của luật pháp khi nó không dựa trên nền tảng những giá trị công lý, ví dụ như chỉ phạm tội trộm cắp vặt như lấy trộm rau quả cũng bị xử tử, từ đó, “luật Đracông” trở thành thuật ngữ được dùng để chỉ những bộ luật hoặc pháp lệnh hà khắc, tàn bạo, phi nhân tính.[5] Do Luật pháp có thể tự nó lạm dụng quyền lực để vi phạm các quyền con người hoặc nhằm vi phạm các quyền của bên thứ ba nên luật pháp, ngoài việc thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị xã hội, cần phải phản ánh được đầy đủ nhu cầu, lợi ích của toàn xã hội, phải “vang vọng tiếng dân” và phải chuyển tải đầy đủ những giá trị tiến bộ của lương tri, đạo đức, các giá trị nhân văn, nhân đạo, dân chủ, công lý, công bằng, lẽ phải, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người.
Tính công bằng trong quá trình áp dụng luật pháp cũng có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ công lý.       Một đạo luật được coi là áp dụng một cách công bằng  nếu nó được áp dụng một cách công khai, minh bạch, không thiên vị và nhất quán. Bất công sẽ xảy ra nếu những trường hợp tương tự như nhau không được xử lý bằng một cách thức như nhau. Luật pháp cần xử lý với các trường hợp như nhau với cách thức như nhau trừ khi có các tình tiết khác.
Trong xã hội hiện đại, những giải thích về công lý có khuynh hướng tập trung vào công lý phân phối với mục tiêu làm thế nào để xã hội có thể phân phối một cách công bằng nhất những gánh nặng và phúc lợi của đời sống xã hội, từ đó đã đưa khái niệm công lý mang tính thực tiễn và chính trị hơn là một quan niệm siêu hình trước đây. F.A. Hayek, một trong những kiến trúc sư chính của cuộc xây dựng lại chủ nghĩa tự do, khẳng định sự tương đồng giữa tính “mù” của công lý và cạnh tranh, theo ông, công lý và cạnh tranh đều không thiên vị ai và pháp luật chính là công lý hình thức.[6] Còn John Rawls, đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa tự do của Mỹ, đã định nghĩa công lý là lẽ phải, điều thiện và là phẩm hạnh tối cao của con người. Công lý là sự công bằng và công lý chính là chuẩn mực của một xã hội lý tưởng. Chuẩn mực của công bằng trong một thể chế xã hội cụ thể chính là nguyên tắc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ cho mỗi cá nhân. Theo ông, công bằng chỉ có được khi con người tự nguyện cùng tham dự vào quá trình hợp tác xã hội để làm sao mỗi cá nhân giành được lợi ích nhiều hơn so với khi họ sống đơn lẻ.[7]
Trong tác phẩm xuất bản gần đây tại Việt Nam “ Công lý: Đâu là việc đúng nên làm?”[8], giáo sư Michael Sandel của Đại học Harvard cho rằng câu hỏi một xã hội có công bằng hay không chính là câu hỏi về cách phân phối những điều chúng ta được hưởng thụ: Thu nhập và sự giàu có, Trách nhiệm và quyền lợi, Quyền lực và cơ hội, Chức vụ và danh dự. Một xã hội công bằng phân phối những thứ này đúng cách, mỗi người nhận đúng phần mình đáng được hưởng. Nhưng câu hỏi khó khăn là ai xứng đáng được hưởng gì và vì sao? Từ cách đặt vấn đề này, người ta đã xác định ba cách phân phối theo 03 cách tiếp cận về phúc lợi, tự do và đạo đức.
(1) Xuất phát điểm từ yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng chung, từ đó đóng góp, mang lại phúc lợi cho  mỗi người, thuyết vị lợi, một triết thuyết quan trọng đã lý giải một cách sâu sắc nhất về công lý từ khía cạnh tại sao và bằng cách nào chúng ta nên tối đa hoá hạnh phúc, tìm kiếm hạnh phúc lớn nhất cho nhiều người nhất.
(2) Cách tiếp cận thứ hai là triết thuyết về tự do với mục đích cố gắng kết nối công lý với tự do. Cách tiếp cận này đặt trọng tâm và nhấn mạnh cần phải tôn trọng các quyền cá nhân. Tư tưởng công lý có nghĩa là tôn trọng một số quyền phổ quát (một số quyền tự do của con người) được chấp nhận ngày càng rộng rãi trên thế giới ngày nay.
(3) Từ khía cạnh khuyến khích đạo đức, triết thuyết về công lý nhấn mạnh những giằng xé, mẫu thuẫn khó khăn trước những nhận định, đánh giá về đạo đức và lối sống tốt đẹp. Công lý phải gắn liền với những đức tính và quan niệm về lối sống tốt đẹp.
Các nghiên cứu ngày nay liên quan đến công lý trong lĩnh vực tư pháp xét xử cho rằng các thủ tục tố tụng chính là những cơ chế, những công cụ xã hội giúp các cá nhân tiếp cận được công lý. Nếu các cơ chế tố tụng không đủ mạnh và hiệu quả thì có thể làm vô hiệu hoá quá trình thực thi các quyền cơ bản của các cá nhân. Các cơ chế tố tụng phải đáp ứng ứng kịp thời, đầy đủ yêu cầu của xã hội và phải thực sự là người đầy tớ phục vụ, thúc đẩy công lý chứ không phải là ông chủ của công lý. Lý thuyết tìm kiếm sự thật (The truth-finding theory), một trong những học thuyết có nhiều ảnh hưởng trong lĩnh vực tố tụng tại các quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển, cũng nhấn mạnh rằng mặc dù các cơ chế tố tụng đều hướng tới việc tìm ra sự thật khách quan của vụ việc nhưng công lý và sự thật khách quan của vụ việc không hoàn toàn đồng nhất. Công lý là một điều gì đó rộng lớn và có ý nghĩa sâu sắc hơn so với sự thật. Sự thật khách quan của vụ việc chỉ là một trong những thành tố cơ bản của công lý.[9] Trong quá trình cải cách cơ chế tố tụng, các nghiên cứu cho rằng công lý có ba yếu tố định tính cơ bản: Thứ nhất, khả năng tìm ra sự thật và tính chính xác của quyết định của toà án. Thứ hai, thời gian tiếp cận công lý phải đảm bảo, công lý bị trì hoãn là công lý bị từ chối (justice delayed is justice denied). Thứ ba, chi phí tài chính cho quy trình tiếp cận công lý phải đảm bảo tính hợp lý, không mang tính chất rào cản đối với quá trình tìm kiếm công lý của các tổ chức và cá nhân. Đây chính là những tiêu chí cơ bản được dùng để đánh giá mức độ thành công các cuộc cải cách tư pháp xét xử của các quốc gia trên thế giới.[10]
Tại Hoa Kỳ, nền khoa học pháp lý có sự phân biệt khá sâu sắc giữa “công lý theo thủ tục” và “công lý theo bản thể”. Nếu một người giết hại người khác, công lý bản thể (công bằng về nội dung) đòi hỏi kẻ sát nhân phải bị trừng phạt theo đúng pháp luật. Tuy nhiên, nếu kẻ sát nhân bị tra tấn một cách bất hợp pháp để phải thú tội thì công lý thủ tục đã không được thực thi. Trong trường hợp đó, theo truyền thống pháp luật phương Tây, công lý theo thủ tục sẽ thắng công lý theo bản thể.[11]
2. Khái niệm “công lý” tại Việt Nam.
Trong xã hội Việt Nam phong kiến, khát vọng công lý luôn lan toả trong những thành ngữ, tục ngữ phê phán thói hư, tật xấu của đội ngũ quan lại phong kiến từ xa xưa: Nén bạc đâm toạc tờ giấy (Công lý bị đồng tiền chi phối), Đất thấp trời cao (Hoàn cảnh trớ trêu, người có địa vị thấp hèn khó có thể giãi bày, kêu oan với bề trên), Quan châu có quyền đốt đuốc, thiên hạ không được thắp đèn (Nhận xét về sự bất công giữa kẻ có chức quyền và nhân dân), Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ (Nhận định về tệ tham nhũng của quan lại phong kiến)… Có thể nói, công lý, lẽ phải và sự công bằng đã trở thành khát vọng ngàn đời nay của người dân Việt Nam.
Những tư tưởng về một nền công lý đích thực, chân chính đã được truyền bá vào Việt Nam kể từ khi Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, tiến hành cuộc đấu tranh nhằm vạch trần nền “công lý thực dân” giả tạo: “Ở Đông Dương có hai thứ công lý. Một thứ cho người Pháp, một thứ cho người bản xứ. Người Pháp thì được xử như ở Pháp. Người An Nam thì không có hội đồng bồi thẩm, cũng không có luật sư người An Nam. Thường thường người ta xử án và tuyên án theo giấy tờ, vắng mặt người bị cáo. Nếu có vụ kiện cáo giữa người An Nam và người Pháp thì lúc nào người Pháp cũng có lý cả mặc dù tên này ăn cướp hay giết người…”. Người cũng lên án chế độ cai trị hà khắc, tàn bạo, phi nhân tính, phi pháp quyền của Chính phủ Pháp tại thuộc địa Việt Nam. Bằng ngòi bút sắc sảo, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra một hình ảnh về chế độ phi pháp quyền, vô nhân đạo và phản tiến hoá mà người Pháp áp đặt tại Việt Nam: “Công lý được tượng trưng bằng một người đàn bà dịu hiền, một tay cầm cân, một tay cầm kiếm. Vì đường từ Pháp đến Đông Dương xa quá, xa đến nỗi sang được tới đó thì cán cân đã mất thăng bằng, đĩa cân đã chảy lỏng ra và biến thành những tẩu thuốc phiện hoặc những chai rượu ty, nên người đàn bà tội nghiệp chỉ còn lại độc cái kiếm để chém giết. Bà chém giết đến cả người vô tội, và nhất là người vô tội”.
Khát vọng và tình yêu công lý đó đã được Đảng ta tiếp tục vận động, tuyên truyền và thắp sáng thành ý nguyện của dân tộc ta, của nhân dân ta. Trong bài thơ làm công tác binh vận “Là thi sĩ’ năm 1942, đồng chí Trường Chinh với bút danh Sóng Hồng đã viết:
                             Là thi sĩ phải là hồn cao khiết,
                             Chí kiên cường và sứ mệnh cao siêu;
                             Ca tự do, tiến bộ với tình yêu
                             Yêu nhân loại, hoà bình và công lý.
Chính tình yêu công lý, khát khao công lý này đã làm thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân ta, đưa dân tộc ta, nhân dân ta đến Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 - một cuộc hồi sinh vĩ đại của một dân tộc đoàn kết sau gần 100 năm người dân Việt Nam phải sống dưới xiềng xích thực dân.
Ngày nay, câu chuyện về lẽ phải, về lương tri và công lý vẫn tiếp tục là một đề tài nóng bỏng giành được sự quan tâm sâu sắc trong xã hội Việt Nam. Người ta vẫn sôi nổi bàn luận những câu chuyện về thói hư tất xấu như “Một trăm cái lý không bằng một tý cái tình” với cái kiểu “công lý của làng - công lý tình cảm” ấu trĩ và yếu ớt, với tâm lý co cụm, bấu víu và đan kết trong tình cảm của người Việt để rồi không minh định được cái đúng cái sai, cái thiện cái ác. Người ta cũng còn mạnh mẽ phê phán cái thói “Cậy thế, ỷ quyền”, “Nhất thân, nhì quen” với nhận định: Ỷ lại, cậy thế, cậy quyền sẽ chỉ làm lụi bại ý chí, đạo đức và nhân cách của các thế hệ trẻ trong xã hội. Xử lý một cách triệt để những hiện tượng tiêu cực này cần lắm những Bao Công thời hiện đại, và cũng không thể thiếu sự giúp đỡ của mọi công dân. Có như vậy thì xã hội mới thực sự đi lên, chiếc cân công lý mới thực sự công bằng đối với mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội…[12]
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một số quan điểm nghiên cứu đã cho rằng pháp luật không chỉ đơn thuần là sản phẩm “độc quyền” của nhà nước mà trước hết phải là sự kết tinh thiêng liêng những giá trị cao quý trong xã hội, dựa trên nền tảng dân chủ, nhân bản, lương tri và đạo lý mà không một ai bác bỏ được để trở thành lẽ phải đương nhiên như tự do, bình đẳng, công lý, công minh. Nhà nước phải thừa nhận và phục tùng lẽ phải và công lý, lấy đó làm thước đo để hướng tới sự phù hợp và hoàn thiện để củng cố lòng tin của nhân dân vào sự công minh của mình.[13] Công lý chính là sự nhận thức đúng đắn và hành động đúng vì chân lí, vì công bằng và lẽ phải, phù hợp với lợi ích chung, với đạo lí của nhân dân, được xã hội và pháp luật thừa nhận.
3. Về khái niệm công lý trong Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tại Việt Nam.
Những giá trị của công lý có thể được nhận diện trong các chính sách bảo đảm công bằng xã hội, công bằng trong phân phối thu nhập, cơ hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội nhằm thoả mãn một cách hợp lý những nhu cầu của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá nhân, xuất phát từ khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Những giá trị của công lý cũng hiện thân trong các yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch và đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Trong cả lý luận và thực tiễn, những quyền cơ bản của cá nhân có thể bị vô hiệu hoá hoặc bị từ chối thực thi do các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ chế tố tụng không đáp ứng được đầy đủ và kịp thời yêu cầu phát triển của xã hội. Các cơ quan tiến hành tố tụng và các thủ tục tố tụng luôn được xác định là những yếu tố quan trọng  trong quá trình giúp các tổ chức, cá nhân tìm kiếm, tiếp cận công lý. Ở mỗi quốc gia với các nền văn hoá pháp lý khác nhau sẽ tìm kiếm những phương thức khác nhau để đạt được mục tiêu này như cơ chế đối tụng (adversary system) của hệ thống luật án lệ hay cơ chế tố tụng thẩm vấn(inquisitorial system) của hệ thống dân luật.
Trong lĩnh vực tư pháp, công lý và bảo vệ công lý được xác định là một trong những mục tiêu cơ bản của Chiến lược cải cách tư pháp của Việt Nam đến năm 2020. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định yêu cầu xây dựng cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý và quyền con người. Chiến lược cũng xác định rõ mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh và bảo vệ công lý. Hoạt động tư pháp mà trong đó toà án được xác định giữ vị trí trung tâm và công tác xét xử là hoạt động trọng tâm cần phải được tiếp tục cải cách, nâng cao chất lượng, bảo đảm có hiệu lực và hiệu quả caoThủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp cần tiếp tục được đổi mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý. Các thủ tục, quy trình tố tụng cần tiếp tục được rà soát, hoàn thiện nhằm tạo một cơ chế tiếp cận công lý hữu hiệu, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Như vậy, khái niệm công lý trong Chiến lược cải cách tư pháp là công lý trong lĩnh vực tư pháp xét xử. Công lý ở đây được hiểu là yêu cầu xử lý các vụ việc bằng các thủ tục tố tụng công bằng, hợp pháp nhằm bảo vệ lợi ích của xã hội và bảo vệ các quyền con người một cách nghiêm minh. Công lý trong tư pháp xét xử không chấp nhận hiện tượng còn để xảy ra tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố và xét xử. Công lý trong tư pháp xét xử cũng đòi hỏi sự đồng thuận cao của xã hội đối với cơ chế tố tụng, cơ quan tư pháp và các bản án, quyết định của cơ quan tư pháp. Các giá trị cao cả của lẽ phải, đạo lý, lương tâm, lương tri, đạo đức, sự vị tha, lòng trắc ẩn và các giá trị tiến bộ xã hội khác cần phải là điểm tựa, là các chuẩn mực để soi rọi các bản án, quyết định của cơ quan tư pháp. Gần đây, trên website của Tạp chí Xây dựng Đảng, khi đánh giá văn bản số 1594/MTTW-BBT ngày 12 tháng 8 năm 2011 của Ban thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gửi Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Chánh án Toà án nhân dân tối cao kiến nghị đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra bà Trần Ngọc Sương - nguyên Giám đốc Nông trường Sông Hậu về tội danh “lập quỹ trái phép” và xử lý sai sót của bà trong lĩnh vực tài chính bằng các biện pháp hành chính và dân sự, bài viết trên Tạp chí đã có một nhận định sâu sắc trong quá trình phát triển nhận thức về công lý tại Việt Nam: Lương tri không thay được pháp luật lại càng không thể đứng trên pháp luật. Nhưng nó là cái duy nhất mách bảo giải pháp đúng trong tình huống phức tạp. Cao hơn, lương tri làm cho mọi hành vi xã hội được thừa nhận và có tình người.[14]
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Đảng ta cũng đã khẳng định những hạn chế, bất cập của tư pháp xét xử trong quá trình giúp các tổ chức, cá nhân tiếp cận công lý. Đó là chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí còn có hiện tượng sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu. Những bất cập nói trên đã ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của các cơ quan tư pháp trong quá trình bảo vệ công lý. Nhận thức đầy đủ về công lý và yêu cầu bảo vệ công lý và quyền tiếp cận công lý của các tổ chức và cá nhân, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Đảng ta đã khẳng định những phương hướng cải cách cơ bản sau trong lĩnh vực tư pháp:
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Thứ hai, tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hoá mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp.
Thứ ba, xây đựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hoá tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ, tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh.
Thứ tư, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư pháp./.  
Ths. Luật so sánh Nguyễn Xuân Tùng - Trưởng phòng Công tác cán bộ Vụ TCCB


[1] Nguyễn Anh Tuấn: Khảo lược Bộ luật Hammurabi của Nhà nước lưỡng hà cổ đại, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2008.
[2] Will Durant: Nguồn gốc văn minh, Nhà Xuất bản văn hoá thông tin, năm 2006.
[3] Will Durant: Câu chuyện triết học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2009.
[4] Raymond Wacks: Triết học luật pháp (Phạm Kiều Tùng dịch), Nhà xuất bản tri thức, năm 2011.
[5] Vũ Dương Minh (chủ biên): Lịch sử văn minh thế giới, Nhà xuất bản giáo dục, năm 2007.
[6] F.A. Hayek: Đường về nô lệ (Phạm Nguyên Trường dịch), Nhà xuất bản tri thức, năm 2009.
[7] John Rawls: Theory of Justice, The Belknap Press of Havard University Press, 1977.
[8] Michael Sandel: Justice:What’s the Right Thing to Do?: Công lý: Đâu là việc đúng nên làm?, Nhà xuất bản Trẻ, năm 2011.
[9] M.P. Golding: On the Adversary system and Justice, in Bronaugh, ed, Philosophical Law – Authority, Equality, Adjudication, Privacy, 1978.
[10] Adrian Zuckerman: Justice in Crisis, from Civil Justice in Crisis: Comparative Perpectives of Civil Procedure (1999).
[11] Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Vũ Công Giao (Đồng chủ biên): Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến      (Một số tiểu luận của các học giả nước ngoài), Nhà xuất bản Lao động – xã hội, năm 2012, trang 33.
[12] Nhiều tác giả: Người Việt- Phẩm chất và thói hư tật xấu, Nhà xuất bản Thanh niên - Báo Tiền phong, năm 2008.
[13] TS. Huỳnh Văn Thới: Pháp luật được “đặt ra” hay “tìm ra”?, Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh tại  http://phapluattp.vn/20100127110026883p1118c1119/phap-luat-duoc-dat-ra-hay-tim-ra.htm
[14] Nguyễn Thuý Hoàn: Đắc nhân tâm, Tạp chí Xây dựng Đảng tại http://www.xaydungdang.org.vn/Home/ykiendangvien/2011/4103/Dac-nhan-tam.aspx