Vạch trần “những con cờ đen”: Bắt tên nội gián Nguyễn Thúc Tuân
Khẩn trương khai thác hồ sơ địch để lại và số đối tượng bị bắt kết hợp với công tác trinh sát nghiệp vụ, các đơn vị chức năng tỉnh Bình Trị Thiên (cũ), mà chủ yếu là lực lượng Công an, đã từng bước làm rõ về kẻ phản bội, tên nội gián nguy hiểm này.
Từ năm 1955, ngay sau khi thiết lập tổ chức mang tên Đoàn công tác đặc biệt miền Trung (ĐCTĐBMT), Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm chủ trương sử dụng một số cán bộ của ta bị bắt nhằm âm mưu tiếp tục chống phá Cách mạng. Trong số đầu hàng phản bội có Lê Văn Tu, tức Hoàng Nguyên, đã khai báo chi tiết về T., cán bộ hoạt động tình báo Liên khu V trong phong trào hướng đạo tại Thừa Thiên Huế. ĐCTĐBMT đã cho nhận diện và bố trí giám sát mọi quan hệ, hoạt động của T..
Ngày 2//958, chúng đã bố trí bắt T. tại nhà thuốc Ngọc Diệp trên đường Trần Hưng Đạo, thành phố Huế. Trưởng Cơ quan Đặc biệt Huế Lê Văn Dư cùng hai phụ tá là Lê Khắc Lự và Lê Phước Thưởng (đều là cán bộ Cách mạng đã đầu hàng, phản bội) liên tục thẩm vấn T.. T. đã khai báo hoạt động của mình và nhận công tác với địch chống lại Cách mạng.
Sinh ngày 1//914 tại Thừa Thiên Huế, T. xuất thân trong một gia đình quan lại Nam Triều (cũ), tham gia Cách mạng và được vào Đảng Cộng sản. Từ tháng 8/1945, hoạt động trong cơ quan tình báo Liên khu V tại Huế. Đã được Cách mạng cho dự học các lớp chính trị, nghiệp vụ. Nội dung thể hiện trong các tài liệu lưu trữ cho thấy T. đã khai chi tiết toàn bộ hệ thống tổ chức của Ủy ban Kháng chiến Liên khu V, số lượng và tình hình đảng viên trong chi bộ, cấp ủy và các cơ quan khác mà y biết. Đặc biệt nghiêm trọng là T. đã khai toàn bộ kế hoạch tình báo của Liên khu V giao cho y thực hiện, gồm nhiệm vụ, ý đồ chiến lược, thời gian tiến hành và nội dung, phương châm, phương pháp hoạt động trong lòng địch.
T. khai báo tỉ mỉ về các đường dây, cán bộ làm giao liên trong tổ chức và các cơ sở nội tuyến của ta ở Huế. Trong đó có đồng chí Phan Mạnh Lương, cán bộ tình báo được phái từ Hà Nội vào hoạt động tại Huế từ năm 1954 và đang làm việc tại Liên vụ Thông tin Hoa Kỳ (USIS). T. còn chỉ điểm cho địch biết một số cán bộ của ta được phái vào hoạt động tình báo ở Huế, Đà Nẵng, Nha Trang…
Từ tin tức khai báo và qua một số thử thách ban đầu, địch đã kết luận: T. "thành khẩn và chuyển hướng tốt", đủ khả năng để chúng thực hiện ý đồ chiến lược "đánh" vào nội bộ "Cộng sản". Theo đó, T. được ĐCTĐBMT xác lập hồ sơ theo đúng thủ tục một mật báo viên quan trọng.
Tháng 2/1958, T. nhận nhiệm vụ của địch và rời trại giam Tòa khâm dưới hình thức "phóng thích", trở lại bình phong hành nghề tại hiệu thuốc Ngọc Diệp và hoạt động trong phong trào hướng đạo của Huế. Mọi hoạt động của T. đều đặt dưới sự điều khiển trực tiếp của các tên Dư, Thưởng, Lự. Do tạo được vỏ bọc hợp pháp và với kinh nghiệm nghề nghiệp đã được trang bị nên T. nhanh chóng gây được ảnh hưởng và uy tín đối với cán bộ cấp trên cũng như trong phong trào của quần chúng Cách mạng.
Cảnh giác với âm mưu của địch và do chủ trương sách lược của ta trong giai đoạn đó nên việc T. tự tìm bắt liên lạc với cán bộ cơ sở của ta đang hoạt động nội thành không thực hiện được. Vì vậy, một mặt T. phải trường kỳ mai phục, chờ thời cơ, đồng thời thực hiện chỉ đạo của địch đi sâu vào tổ chức hướng đạo Huế nắm tình hình các phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên, nắm xu hướng và tư tưởng của một số trí thức có tên tuổi. T. coi đây là một thử thách nên đã hăng hái hoạt động và đã cung cấp cho địch nhiều tin tức quan trọng để chúng sử dụng đàn áp phong trào Cách mạng, lùng bắt cán bộ, gây nhiều tổn thất cho ta. Mặt khác chúng còn chú ý tạo điều kiện để T. được tiếp xúc với nhiều sĩ quan Mỹ, ngụy để học tập và củng cố tư tưởng chống phá Cách mạng.
Cuối năm 1965, lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh và sự mất cảnh giác của ta, T. đã móc nối được với đường dây liên lạc của tổ chức Đảng tại thành nội Huế và trở thành cán bộ của đường dây này. Ngay lập tức, T. thông báo cho Lê Văn Trốn (mới được địch bố trí trực tiếp điều khiển T.) và báo công luôn bằng một số tin tức ban đầu về tình hình đường dây này mà y nắm được. Cũng từ đó, một số chủ trương và chỉ đạo kế hoạch đấu tranh của phong trào Cách mạng đã gặp nhiều khó khăn, có lúc bị tổn thất nặng.
Các chiến sĩ An ninh đang thu thập tài liệu của địch tại chi khu quân sự Gio Linh - Quảng trị, năm 1972. Ảnh: Tư liệu. |
Tháng 6/1967, Cố vấn Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA) David Hayes từ Sài Gòn ra Thừa Thiên Huế chỉ đạo Ty Cảnh sát Quốc gia nhanh chóng thành lập toán tình báo đặc biệt, lấy bí số là T115, do Trốn làm trưởng toán và T. trở thành một trong 10 đầu mối tình báo viên của toán này. T. được giao nhiệm vụ xâm nhập nội bộ các tổ chức Cách mạng dưới sự điều khiển trực tiếp của cố vấn Mỹ và Trốn, có quy ước liên lạc riêng. Kể từ đây, T. vừa làm việc cho CIA (thông qua T115), vừa làm việc cho cơ quan Cảnh sát Đặc biệt ngụy.
Tuy vậy, ĐCTĐBMT vẫn nuôi ý đồ tình báo chiến lược là đưa T. chui vào đơn vị hoạt động bí mật của ta. Năm 1968, T. được đưa ra khu căn cứ Cách mạng để tham gia thành viên của liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ Huế. Kẻ địch xác định đây là cơ hội để T. trở thành con bài dự trữ nằm trong các ý đồ hậu chiến của chúng sau này. Tháng 9/1968, khi đã được ra Bắc an dưỡng và học tập, T. vẫn tìm mọi cách để ngấm ngầm tạo dựng vỏ bọc kín đáo hơn chờ cơ hội leo cao, chui sâu.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, T. trở lại Huế và được giao chức vụ Ủy viên Ủy ban nhân dân Cách mạng kiêm Trưởng phòng Thể dục Thể thao Thừa Thiên. Ở cương vị công tác mới, T. càng có điều kiện "đánh bóng" mình, tạo uy tín để củng cố địa vị.
Khi chính thức trở thành đại biểu Quốc hội thống nhất (Khóa VI) và được giao chức vụ Ủy viên Ủy ban nhân dân kiêm Trưởng ty và Phó bí thư Chi bộ Ty Thể dục Thể thao (thời đó đảng viên còn ít, nhiều cơ quan cấp sở, ty chưa đủ yếu tố thành lập Đảng bộ), T. đã lợi dụng quyền hành để thực hiện một số hoạt động che giấu tội ác quá khứ của bản thân và âm mưu lôi kéo tụ tập tay chân bằng cách chứng nhận lý lịch "có hoạt động Cách mạng" cho một số phần tử địch trước đây để đưa chúng vào làm việc trong các cơ quan nhà nước, đoàn thể Cách mạng…
Sau khi dựng lại quá trình phản bội của T. thông qua các nguồn tài liệu và thẩm tra các đầu mối T. đang củng cố, Cơ quan an ninh đã tập hợp báo cáo kịp thời lên Trung ương Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ngày 31/8/1978, Công an Bình Trị Thiên (cũ) thực hiện chỉ đạo của Bộ đã thi hành Quyết định số 312/NQ/QH6 ngày 25/8/1978 của Quốc hội, bắt khẩn cấp Nguyễn Thúc T. và công khai mở cuộc điều tra.
Trước những chứng cứ, tài liệu xác đáng, T. đã phải khai báo toàn bộ quá trình làm tay sai cho địch. Ngày 27/4/1980, tại Huế, Tòa án nhân dân mở phiên tòa công khai xét xử Nguyễn Thúc T. can tội làm gián điệp cho Mỹ - ngụy, và phạm tội gián điệp (Điều 5 pháp lệnh trừng trị các tội phản Cách mạng). Trước sự chứng kiến của đông đảo quần chúng nhân dân, Tòa tuyên phạt T. mức án 18 năm tù giam. Đồng bọn của y cũng lần lượt bị bắt và bị xử phạt thích đáng.
Khám phá, triệt tiêu đầu mối nội gián Nguyễn Thúc T. đã góp phần vô hiệu hóa một mũi trong kế hoạch tình báo chiến lược sau chiến tranh của địch. Đó là một chiến công lớn của quân và dân Bình Trị Thiên mà Lực lượng Công an là nòng cốt. Sự kiện trên cũng là bài học xương máu về tinh thần cảnh giác cách mạng trong mọi tình huống - thời chiến tranh cũng như trong hòa bình xây dựng đất nước. Nếu không, sẽ khó tránh khỏi hậu quả khôn lường.
* Theo lời kể của Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân Nguyễn Đình Bảy - tự Bảy Khiêm
https://cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Bai-cuoi-Bat-ten-noi-gian-Nguyen-Truc-Tuan-i362394/