Monday 5 December 2011

Vì sao đàn ông (Việt Nam) ngày nay ngoại tình nhiều hơn xưa?


Câu trả lời là vì đàn ông nước ta ngày xưa không biết ngoại tình là gì.

Ngoại tình là từ Việt mượn Hán (外情). Génibrel (1898:527) dịch sang tiếng Pháp là adultère, tội ngoại tìnhcrime d’adultère và con ngoại tình là enfant adultérin. Không thể tìm được cách dịch chuẩn xác hơn, nhưng sự thật là adultère của Pháp và ngoại tình của Việt Nam có chỗ không giống nhau.

Trong tiếng Pháp thời bấy giờ không chung thủy với vợ hay chồng (violement de la foi conjugale) đều là adultère (Dictonnaire de l’Académie, 5e édition (1789) và 7e édition (1935)). Các từ điển tiếng Pháp hiện nay (Petit Robert 2007) tránh cách định nghĩa mang màu sắc tôn giáo (foi = đức tin / niềm tin), nói rõ là rapport sexuel volontaire d'une personne mariée avec une personne autre que son conjoint (quan hệ tình dục tự nguyện giữa một người đã kết hôn với người không phải là người phối ngẫu của mình).

Ngoại tình trong từ điển của Huình Tịnh Của (1868b:98) được cắt nghĩa là có tình ý riêng với trai, tội hòa gian. Cho đến đầu thế kỷ 20 người ngoại tình vẫn cứ là người đàn bà có chồng mà còn có tình riêng với người khác (Đào Duy Anh, 2005:538), người đàn bà có chồng mà dan díu vụng trộm với người ngoài (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:389). Với định nghĩa như vậy, không có chuyện đàn ông ngoại tình.

Định nghĩa ngoại tình từ giữa thế kỷ 20 có phần công bằng hơn cho phụ nữ. Lê Văn Đức (1970b:1024) coi ngoại tình là trai gái với người khác (khi đã có vợ hay có chồng). Như vậy từ giữa thế kỷ 20, tỷ lệ đàn ông ngoại tình đang ở số không tuyệt đối tăng vọt đột biến: ông nào đã có vợ mà nuôi bồ nhí cũng là ngoại tình rồi chứ không cần phải dính đến phụ nữ đã có chồng.

Các định nghĩa lỏng lẻo hiện nay lại càng bất lợi hơn cho đàn ông. Chỉ cần có quan hệ yêu đương bất chính khi đã có vợ hay có chồng (Nguyễn Như Ý, 1999:1202; Hoàng Phê, 2006:684) cũng có thể bị xem là ngoại tình. Khi đã có vợ mà còn lên mạng chát, hẹn hò với em, thư qua điện thoại lại... thì hãy coi chừng vì tất cả những trò ấy đều là quan hệ yêu đương bất chính. Đàn ông Việt Nam bây giờ lại khổ hơn đàn ông Pháp.

Sunday 4 December 2011

Ma lanh là con ma gì?


Ma lanh không phải là ma nhanh hay ma chậm gì hết. Ma lanh là một từ gốc Pháp (malin) vào tiếng Việt với nghĩa là láu lỉnh, láu cá.
Từ ngô nghê Quách Tĩnh đến hào sảng Tiêu Phong, từ lưỡng lự Dương Quá đến ma lanh Lệnh Hồ Xung, tất thẩy đều quay cuồng trong mớ lẫn lộn giá trị làm họ vô cùng hoang mang chẳng biết đâu là xuôi đâu là ngược. (Nguyễn Việt Hà, 2007:246-247)
Thanh Nghị (1967:869) có lẽ là quyển từ điển ghi nhận ma lanh sớm nhất.


Ma lanh còn một người anh em nữa là ma le.

Bà Từ Dụ sinh con gái, bà Trương Đăng Quế sinh con trai, nên ông Quế đã ma le đút tiền cho các cung nhân để tráo vào cho con mình sau này làm vua. (Lý Nhân Phan Thứ Lang, 2006:35)

Vì sao người đàn ông chăn dắt gái mại dâm không phải là ma cậu mà là ma cô?


Ma cô không phải là ma bà cũng chẳng phải ma ông. Ma cô là một từ gốc Pháp (maquereau) vào tiếng Việt với nghĩa là kẻ hành nghề dắt gái:
* Mấy phút sau, hai gã ma cô bảo kê cho mấy cô gái phóng xe đến đập cửa. (Tiêu Dao Bảo Cự , 2004:134)
Từ ma cô vào tiếng Việt từ những năm 30 của thế kỷ trước (Gustave Hue, 1937:540, Đào Duy Anh, 1950:1012) và ở yên trong từ điển từ ấy đến nay bất kể mọi đổi thay chế độ, thời cuộc. (Thanh Nghị, 1967:869;, Lê Văn Đức, 1970b:874; Nguyễn Như Ý, 1999:1079; Nguyễn Kim Thản, 2005:1007; Chu Bích Thu, 2006:150; Hoàng Phê, 2006 :603). Ma cô nhập tịch Việt lâu rồi, không mấy ai nhớ đến nguồn gốc của nó nữa, nghĩ đã là ma ắt phải xấu xa. Nhiều khi những kẻ trông hung ác, côn đồ cũng bị gọi là ma cô mặc dù không hành nghề chăn dắt gái.
* Trông tướng ông ấy ma cô lắm, dì cẩn thận đấy. (Huệ Ninh, 2008:22)

Từ maquereau còn được phiên âm thành mặt rô. (Chu Bích Thu, 2006:150) hoặc mặc rô. Cũng như người anh của nó là ma cô, từ mặt rô ngoài nghĩa kẻ chăn dắt gái mại dâm phát triển thêm một nghĩa không có liên quan gì đến nghề tú ông:
Các chiêm tinh gia không khoái chuyện tiên tri này và thay vì trả lời sự thách thức của Gosh đã cho gọi bọn “mặt rô” (bouncers) đến tống tiễn ông vào bệnh viện. (Dương Ngọc Dũng, 2008:61)

Nguyễn Như Ý (1999:1083) có ghi nhận một dạng khác phiên âm từ maquereaumạc cờ rô và giải nghĩa là như ma cô. Có vẻ như mạc cờ rô không được phổ biến bằng ma cômặt rô. Có thể mạc cờ rô (ma cô) vừa bị xung đột đồng âm với mạc cờ rô (macro) của dân chụp ảnh vừa xung đột đồng nghĩa với ma cô / mặt rô nên không bứt lên nổi trong cuộc cạnh tranh.

Friday 2 December 2011

Ma mút có xấu không?

Nguyễn Kim Thản (2005:1008) chỉ có ma mút nghĩa là giống voi hóa thạch khổng lồ sống ở kỷ đệ tứ.
Hoàng Phê (2006) là tác giả duy nhất phân biệt ma-mút X. mammuth, với nghĩa là voi không lồ hóa thạch, kỉ đệ tứ (Hoàng Phê, 2006:607) với ma mút dùng trong khẩu ngữ, nghĩa là con ma mặt mũi rất khó coi, thường dùng để ví người mặt mũi xấu xí quá. Xấu như ma mút (Hoàng Phê  2006:602).


Từ ma mút vào tiếng Việt đã lâu, cách đây ít nhất là 90 năm:

Như các nhà bác-học đã phát-minh được một giống voi cổ gọi là “ma-mút” (mammouth), giống này may tìm được nguyên cả xác lấp trong bãi nước-đá đất Sibérie, không thối-nát gì cả, xét ra thời đã khác đời trước và gần giống con voi ta bây giờ . (Nam Phong Tạp Chí số 51, 1921:462, Hồng Nhân)


Danh từ khoa học của Đào Văn Tiến (1945:58) có lẽ là quyển từ điển đầu tiên ghi nhận từ ma-mút. Con vật to lớn dềnh dàng này còn được gọi là cổ tượng (Nam Phong Tạp Chí số 119, 1927:27,  Thượng-Chi) hay khổng tượng (Thanh Nghị, 1967 :776). Các từ điển tiếng Việt phổ thông từ Hội Khai Trí Tiến Đức (1931) đến Thanh Nghị (1967b), Lê Văn Đức (1970), Ban Tu Thư Khai Trí (1971) đều không có mục từ nào về/nhắc đến ma mút.

Ngay từ lúc mới nhập tịch Việt Nam, ma mút đã được dùng để chỉ những người có ngoại hình xấu xí:
* Bởi vì cái nguyên-nhân chủ-quan thì cứ xét về phần trọng-yếu riêng, nên những sự-vật đẹp và những hình-thức đẹp của giống người dã-man cho làm đẹp, tự người văn-minh xem ra thì xấu như ma-mút. (Nam Phong Tạp Chí số 117, 1927:462,  Đông-Châu)
* Thế chả nhẽ anh lấy một người như ma mút thì mới vừa lòng em ư? (Lê Lựu, 2006:244)
Không phải người Việt nào cũng biết ma trong ma mút thuần túy chỉ là âm tiết đầu của từ mammouth tiếng Pháp. Vì vậy người ta có khuynh hướng quy nó về ma của ma quỷ, ma da, ma xó... và của các thành ngữ xấu như ma, xấu ma chê quỷ hờn... Nhưng nếu ma mút là ma thì nó mút cái gì?

Thursday 1 December 2011

Ngoại tịch quân đoàn là gì?



Ngoại tịch quân đoàn là một trong nghìn vạn từ ngữ mới xuất hiện gần đây trong tiếng Việt qua kênh dịch thuật Trung-Việt. Một số dịch giả lười tra từ điển, chọn cách chuyển âm Hán Việt cho nhanh, chẳng hạn外籍軍團 được phiên thành ngoại tịch quân đoàn còn ngoại tịch quân đoàn là gì thì người dịch để cho người đọc tùy nghi.

Thật ra外籍軍團chính là một lực lượng nằm trong tổ chức của quân đội Pháp mà người Việt đã quen gọi là quân lê dương. Tên tiếng Pháp của nó là légion étrangère, dịch sát nghĩa là binh đoàn ngoại tịch. Lực lượng này được thành lập năm 1831, tuyển mộ mọi phần tử bất hảo, không phân biệt quốc tịch, đưa sang An-giê-ri làm nhiệm vụ bảo vệ hệ thống thuộc địa của Pháp tại đây. Người đăng lính muốn khai tên gì cũng được (công dân Pháp hiện nay vẫn có thể tòng quân bằng tên giả và quốc tịch ma). Một tên tội phạm đã gia nhập quân lê dương thì không còn cảnh sát xứ nào có thể mò ra hay với tới hắn ta được nữa.  Sau một năm phục vụ, người lính có thể lấy lại tên thật. Sau ba năm, người lính có thể xin vào quốc tịch Pháp với điều kiện là phải dùng tên thật, không còn vấn đề gì với pháp luật và đã phục vụ trong binh chủng với đầy đủ danh dự và lòng trung thành. Nếu không đủ niên hạn nhưng đã bị thương cũng có thể xin vào quốc tịch theo một điều luật quy định bất cứ ai đã đổ máu vì nước Pháp đều là người Pháp  (Français par le sang versé). Do những quyền lợi đặc biệt đó, lực lượng lê dương là một địa chỉ khá hấp dẫn cho những ai muốn làm lại cuộc đời. Cũng do những đặc điểm đó, lính lê dương nổi tiếng là dữ dằn, thiện chiến. Nghe đến lính lê dương là thấy ớn rồi chứ ngoại tịch quân đoàn là gì... khó cảm nhận quá. 

Monday 28 November 2011

Hiện tượng lẫn lộn l-n có xảy ra với từ vay mượn không?

Từ cinéma của tiếng Pháp vào tiếng Việt thành xi nê ma (phát âm gần với từ gốc) và xi la ma (lẫn lộn l-n). Cả hai dạng cùng tồn tại trong thực tế cho đến ngày nay:
Nó là một thứ quá độ để văn nhân rụt dè (sic) thò chân sang xi nê ma (Nguyễn Việt Hà, 2007:106)
Ngày ấy phim còn câm và chưa gọi là xem phim, mà là xem xi-la-ma, xem chớp bóng, chớp ảnh và trên báo viết nghệ thuật điện ảnh, nghệ thuật màn ảnh, màn ảnh, kịch bóng. (Tô Hoài, 2010c:54).
Xi la ma còn có mặt trong thành ngữ nhậy như xi la ma, nghĩa là nhanh như chớp:
Bà Hương bán con gái để chuộc nhà, nên cưới xin mới làm nhậy như xi la ma (Tô Hoài, 2007:196)
Nhưng chỉ có xi nê ma được đưa vào từ điển (Nguyễn Như Ý, 1999:1860)


Hiện tượng lẫn từ l sang n cũng xảy ra ở từ ngữ gốc nước ngoài chẳng hạn như cá hắc mô ly bị gọi thành cá héc-mô-nimũ ca lô trở thành mũ ca nô.

Sunday 27 November 2011

Đã gọi là liệt sao còn nhúc nhích được?


Trong tiếng Việt hiện nay liệt có nghĩa là không có khả năng cử động được (Nguyễn Kim Thản, 2005:948; Hoàng Phê, 2006:569). Người mắc chứng liệt dương là người mà dương vật không làm ăn gì được nữa. Người bệnh nằm liệt giường không thể bò dậy đi đâu.
Liệt xưa nghĩa là ốm đau (Huình Tịnh Paulus Của, 1896:567; Vương Lộc, 2001:99); Génibrel (1898:401) dịch ra tiếng Pháp là être malade, infirme. Nhà liệt thời xưa là bệnh xá hay y xá thời nay (Vương Lộc, 2001:119); Génibrel (1898:401) dịch là infirmerie.
Kẻ liệt với nghĩa là kẻ đau ốm, bệnh hoạn chỉ được ghi nhận trong các từ điển xưa (Huình Tịnh Paulus Của, 1896a:567;  Génibrel, 1898:401), hiện nay chỉ được sử dụng trong nội bộ Công giáo: dầu kẻ liệt là dầu thánh được ban cho người bệnh nặng với mong ước Chúa ra ơn trợ giúp người bệnh (tiếng Pháp là huile des malades, tiếng La Tinh là oleum infirmorum). Một số người tìm cách thay dầu kẻ liệt bằng dầu bệnh nhân để tránh sự lệch pha giữa ngôn ngữ của đạo và ngôn ngữ đời thường nhưng xem ra cố gắng này chưa có kết quả mấy. Bởi vậy dịch dầu kẻ liệt hay dầu bệnh nhân sang tiếng Pháp thì dễ nhưng dịch huile des malades sang tiếng Việt là cả một vấn đề nhức đầu.