Saturday 24 December 2011

Lễ mi xa là lễ gì?


Lễ mi xa là lễ dâng thánh thể Chúa Giê-su để cứu rỗi nhân loại. Khi thánh lễ kết thúc, chủ tế tuyên bố "Lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an". Khi hành lễ bằng tiếng La Tinh, câu này là Ite, missa est. Từ missa trong câu đó trở thành tên lễ (trong tiếng La Tinh). Tiếng Bồ Đào Nha gọi là misa. Không biết người Việt mượn âm mi xa từ nguồn nào.

Wednesday 21 December 2011

Vì sao Hội Hồng Thập Tự được đổi tên thành Hội Chữ Thập Đỏ?


Hồng Thập Tự là một từ mượn của tiếng Hán (红十字会 Hồng Thập Tự Hội, tương ứng với tên tiếng Pháp của tổ chức này là Société de la Croix-Rouge). Từ này vào tiếng Việt từ  đầu thế kỷ 20. Hội Khai Trí Tiến Đức (1931:248) cắt nghĩa hồng thập tựchữ thập đỏ, biểu hiệu của cuộc y tế trong quân đội.
Hội Hồng Thập Tự Việt Nam được thành lập tháng 11 năm 1946 và được hợp pháp hóa bằng quyết định số 77-NV/NĐ (ngày 31 tháng 5 năm 1947) của Bộ Nội Vụ. Cũng chính bộ này ra quyết định 15-NV (ngày 24 tháng 1 năm 1966) đổi tên Hội Hồng Thập Tự thành Hội Chữ Thập Đỏ. Căn cứ của việc thay đổi tên hội là quyết nghị nhất trí của đại hội đại biểu toàn quốc Hội Hồng Thập Tự Việt Nam lần thứ ba (ngày 15 tháng 12 năm 1965). Không phải tự nhiên mà Hội thấy cần phải tổ chức đại hội để thông qua một quyết định có tính lịch sử như vậy.
Do thấy trong một bài báo của Người, Bác viết “Hội Chữ thập đỏ”, báo Nhân dân thấy rất hay liền chữa lại trên một bản tin gửi đến đăng báo. “Hội Hồng thập tự Việt Nam” thành “Hội Chữ thập đỏ Việt Nam”. Ngay buổi sáng báo ra, một cán bộ ở văn phòng hội này đến gặp và phàn nàn với Ban thư ký biên tập. Anh ấy nói đại ý: “Các anh làm thế này gây cho chúng tôi không biết bao khó khăn: phải làm lại biển treo ở trụ sở hội, phải bỏ đi và in lại tất cả giấy thư, phong bì và các giấy in sẵn khác, tốn kém rất nhiều! Được phép Ban biên tập, cán bộ Ban thư ký biên tập nói rõ báo Nhân dân làm theo Bác Hồ và thấy như vậy là rất hay, rất đúng văn phong của ta. Anh cán bộ của hội bèn “bớt giận”, rồi tỏ vẻ đồng tình và cảm ơn, ra về!
Tuy nhiên tên gọi Hội Hồng Thập Tự vẫn được lưu hành trong vùng giải phóng ở miền Nam Có thể chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam muốn tránh mọi liên tưởng bất lợi cho vị thế chính trị của mình. Cũng có thể tình thế cách mạng miền Nam chưa đến lúc thuận tiện để gây xáo trộn trong sinh hoạt ngôn ngữ. Hội Hồng Thập Tự Giải Phóng được thành lập từ tháng 10/1962 tiếp tục tồn tại cho đến cuộc hội nghị 31/7/1976 mới bị giải thể và hợp nhất với Hội Chữ Thập Đỏ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Từ đó chỉ còn một danh xưng thống nhất là Hội Chữ Thập Đỏ. Từ Hồng Thập Tự hiện nay được các từ điển đánh dấu là từ cũ. (Hoàng Phê, 2006:463)

Tuesday 20 December 2011

Màu ghi là màu gì?

Màu ghi là màu xám. Gốc tiếng Pháp gris nghĩa là màu xám.
Đồng Văn Tình ngồi ở ghế bành, đầu chải gôm xanh mượt, râu ria cạo nhẵn, áo sơ mi trắng cài măng séc và caravát màu xanh nhạt, quần gabardine ghi, giầy bottine đánh xi thật bóng. (Tô Đức Chiêu, 2008:45)
Nhưng không phải ai cũng biết màu ghi là màu gì. Vì vậy người ta ghép song song ghi với xám thành ghi xám để giải thích từ mới bằng một từ sẵn có trong tiếng Việt:
Chiếc áo đỏ rực mà Mỏ Neo ép Miên phải thay thế cho màu be và ghi xám nổi bật trên nên vàng rực rỡ. (Nhiều Tác Giả, 2010tn:202, Di Li)
Các từ ghép chính phụ ghi bạc, ghi chì, ghi sáng... là kết quả dịch sao phỏng từ tiếng Pháp gris argent, gris plomb, gris clair...

Sunday 18 December 2011

Do đâu có học vị phó tiến sĩ?


Tháng 1 năm 1934, theo quyết định của Hội Đồng Dân Ủy Liên Xô, một học vị mới xuất hiện trong hệ thống giáo dục với chất lượng tương đương văn bằng Ph.D của các nước nói tiếng Anh. Người được cấp học vị này được gọi là кандидат наук. Sau năm 1950 Trung Hoa lục địa áp dụng hệ thống giáo dục kiểu Liên Xô, chuyển dịch văn bằng này là 副博士學位 (phó bác sĩ học vị). Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sao chép cả hệ thống giáo dục của Liên Xô và thuật ngữ của Trung Quốc nhưng đảo trật tự chút đỉnh thành học vị phó bác sĩ, về sau đổi lại là học vị phó tiến sĩ để phân biệt tiến sĩ với bác sĩ chữa bệnh.
Lúc mới Giải Phóng, người miền Nam nghe phó tiến sĩ cảm thấy rất lạ tai và cho rằng đó là một kết cấu sai quấy. Lý do là người Nam quen nghe phó giám đốc, phó tổng thống, phó thủ tướng... với phó đi cùng các từ chỉ chức vụ. Lúc đó chưa ai biết đó chỉ là một trong nghìn vạn dấu ấn mà ngôn ngữ Trung Quốc mới đóng lên tiếng Việt trong vòng hai mươi năm đất nước bị chia cắt.

Vì sao hoa tu líp có nhiều tên thế?


Người Pháp đem hoa tu líp vào Việt Nam. Tên hoa này tiếng Pháp là tulipe.
Hồi đầu thế kỷ 20 từ điển Đào Duy Anh (1950:1835) dịch tên hoa này bằng một từ mượn của tiếng Trung Quốc là uất kim hương (鬱金香). Từ uất kim hương thông dụng ở miền Nam Việt Nam  cho đến năm 1975. Bản dịch quyển La Tulipe Noire của Alexandre Dumas ra mắt bạn đọc Việt Nam dưới nhan đề là Hoa Uất Kim Hương Đen.
Trong khi đó ở miền Bắc, trong một nỗ lực thanh lọc từ Hán Việt khỏi ngôn ngữ và đời sống, Lê Khả Kế (1978:181) dịch tulipehoa vành khăn. Cái tên này rất thích hợp với hình dạng của hoa. Bản thân từ tulipe (xuất hiện năm 1611 trong tiếng Pháp) vốn là hậu thân của từ tulipan (xuất hiện năm 1600) mà từ tulipan này lại có nguồn gốc là một từ Thổ Nhĩ Kỳ tülbend, nghĩa là cái khăn đội đầu.
Một số người biết tiếng Pháp gọi tên hoa là tuy líp. Cái tên này sau một thời gian thử thách cũng vào được từ điển (Alikanôp, 1977:472; Nguyễn Như Ý, 1999:1751; Hoàng Phê, 2006:1066). Một dạng khác là tu líp có thể xem là mượn âm Pháp hay đọc tiếng Anh (tulip) theo kiểu Việt Nam đều được. Dạng này cũng đã vào từ điển (Hoàng Phê, 2006:1063). Gần đây lại xuất hiện tiu líp, chắc chắn là mượn âm tiếng Anh, chưa vào được từ điển nhưng có thế mạnh riêng của nó.
Năm cái tên cho một loài hoa chỉ là hệ quả của những sức mạnh chi phối lịch sử nước nhà trong mấy mươi năm qua.

Friday 16 December 2011

Răm li là cái gì?

Dân xây dựng gọi vạt gỗ đóng trần là răm li. Đó là một từ gốc Pháp (lambris de  plafond). Khi từ này vào tiếng Việt, đã xảy ra hiện tượng lẫn lộn /r/ và /l/. Hai âm này đều âm lỏng. 

Thursday 15 December 2011

Đèn măng xông là đèn gì?

Từ điển không có măng xông, chỉ có măng sông (Lê Văn Đức, 1970b:893; Nguyên Tử Lực Cuộc, 1970:221; Nguyễn Như Ý, 1999:1101; Nguyễn Kim Thản, 2005:1031). Trên thực tế xưa nay, trong Nam cũng như ngoài Bắc, từ trong nước ra đến hải ngoại, người ta dùng cả măng xôngmăng sông, không coi dạng nào là sai:
* Tường nhà quét vôi xanh, gạch chỉ xanh, lại được ngọn đèn măng sông ánh sáng cũng xanh xanh. (Nguyễn Công Hoan, 2005:44)
* Tại một khúc vắng bên kia sông như thế, trong một căn chòi kín đáo có rất nhiều dừa nước bao quanh, Út Thêm và Hoàng đang ngồi cạnh nhau trong ánh sáng mờ mờ của một chiếc đèn măng sông treo ở ngoài hiên. (Chu Lai, 2008:159)
* Ngọn đèn măng sông treo lơ lửng ở trần nhà, gian giữa của ngôi trường ba gian, từng đàn mối bay vèo vèo quanh điểm sáng, rớt lả tả trên những cái ly, những đĩa kẹo và thuốc lá bày biện gọn ghẽ trên hai dãy bàn dài. (Nguyễn Ngọc Ngạn, 1994:154)
* Lấy cái đèn măng xông buồng bên mang sang đây đi, em! (Vũ Trọng Phụng, 2006s:561)
* Tuy chợ nhóm suốt đêm nhưng thắp sáng chủ yếu bằng đèn dầu, ngoại trừ một số sạp lớn thì có đèn măng-xông. (Võ Đắc Danh, 2008t:61)
* Người cầm đèn măng-xông trả lời gọn lỏn. (Nguyễn Tường Thiết, 2008:49)
Măng sông / măng xông là từ gốc Pháp (manchon). Đèn măng sông tiếng Pháp là lampe à manchon. Măng sông là tấm lưới dùng để bao quanh ngọn lửa đèn, chẳng những không bị cháy mà còn có tác dụng làm tăng độ sáng. Thứ lưới đặc biệt này được dệt bằng sợi gai, sợi bông hoặc sợi tơ nhân tạo visco, tẩm muối ni-trát tho-ri và ni-trát xê-ri.
Măng sông / măng xông là từ mượn âm cho nên viết cách nào tiện cho mình là được chứ cần gì phải bắt chước thật giống tiếng Pháp? Vả lại có ghi cách nào đúng được với âm gốc? Còn vì sao các nhà làm từ điển chọn măng sông mà không chọn măng xông thì đó lại là một chuyện khác.