Sunday 19 February 2012

Úp là làm gì?



Úp là cách người Việt phát âm từ up của tiếng Anh (nước bảy úp là nước giải khát có ga Seven Up) và dùng với nghĩa là lên (Đi học nước ngoài vài năm về là úp). Người sử dụng Internet hay dùng úp / úp lốt (upload) với nghĩa là tải một tập tin lên mạng: úp lại (to re-upload).
Mượn úp được thì mượn đao được: đao / đao lốt phim (to download a movie), linh đao / đao lốt (download link)...

Friday 17 February 2012

Hạt me thi là hạt gì?


Hạt me thi là hạt cỏ cà ri. Hạt cỏ cà ri gần đây được Ấn Độ xuất khẩu mạnh ra khắp thế giới vì có nhiều nghiên cứu cho rằng hạt này có tác dụng tốt trong việc điều trị nhiều bệnh hiểm nghèo, kể cả ung thư và tiểu đường. Tên của loại hạt này trong tiếng Urdu/Hindi/Nepali là methi. Vì vậy từ methi trở nên quen thuộc với nhiều người. Có nhiều khả năng me thi vào tiếng Việt qua kênh tiếng Anh, ngôn ngữ của giao dịch ngoại thương.




Tuesday 14 February 2012

Vì sao dân kỹ thuật giao thông đường bộ gọi cua chữ chi là lát xê?


Khi góc cua lớn và bán kính cong nhỏ, khúc cua được gọi là cua tay áo. Tiếng Anh là hairpin [curve / turn / bend] và tiếng Pháp là virage en épingle à cheveux, đều có thể được dịch sát là cua hình kẹp tóc.
Nhiều cua tay áo liên tiếp nhau tạo thành một đường dích dắc, gọi là cua chữ chi (chữ trong tiếng Hán, đọc theo âm Hán Việt là chi, hình dạng giống như chữ Z trong bộ chữ cái La Tinh). Thuật ngữ giao thông đường bộ tiếng Pháp gọi cua chữ chi là virage en lacets. Dân kỹ thuật Việt Nam phiên âm từ lacet thành lát xê

Monday 13 February 2012

Lạc Long Quân nghĩa là gì? - An Chi (Đương Thời Xuân Nhâm Thìn, 2012)

Mỹ hiệu Lạc Long Quân 龍君 thường được diễn Nôm thành “Bố Rồng”, “Cha Rồng” mà không thấy ai thắc mắc rằng đây là một cách hiểu “cà thọt”: nếu chữ long là rồng thì chữ lạc bỏ đi đâu? Người chép truyền thuyết thời xưa ghi lại lời của Lạc Long Quân tự xưng “Ta là giống rồng” chẳng biết có ghi thiếu hay không. Còn nếu quả Lạc Long Quân chỉ tự giới thiệu như thế thì hiển nhiên ông ta quên nói với vợ con mình rằng Lạc Long là giống rồng gì (nếu lạc là định ngữ của long), hoặc là giống rồng và giống gì nữa (nếu lạc long là một danh ngữ đẳng lập). Còn chúng tôi thì hiểu rằng Lạc Long là Hạc và Cá Sấu.
Tên của “Lạc Long Quân” 龍君 bị đọc sai ở chữ  . Chữ  này tuyệt nhiên không có âm “lạc”. Đầy đủ nhất và cũng thuộc loại đáng tin nhất là Hán ng đi t đin của Hán ngữ đại tự điển Biên tập uỷ viên hội (Thành Đô – Hồ Bắc, 1993) đã ghi cho nó 3 âm (không kể âm hậu khởi trong tiếng Bắc Kinh, không có hình thức Hán Việt (HV) tương ứng):
– 1. mch (mạc bạch thiết  莫白切);
– 2. hc (hạ các thiết 下各切);
– 3. m (mạc giá thiết 莫駕切).
Nó không hề có âm “lạc”. Xin nhớ rằng chữ  bị đọc sai thành “lạc” này khác với chữ “lạc” trong LcVit, mà tự hình là , cũng có khi viết thành . Hai chữ này mới đúng là “lạc”. Thế mà lại có những người, có lẽ do không tra cứu, khảo chứng về tự hình, về phiên thiết, lại cứ đi phân biệt 3 chữ “lạc”: (lc  bộ chuy lc  bộ   và l(!) bộ trãi ), làm cho việc nghiên cứu về cổ sử Việt Nam thêm rắc rối. Tiêu biểu nhất là tại Hội nghị nghiên cứu thời kỳ Hùng Vương lần thứ 2, tháng 4 năm 1969, trong bài tham luận “Về Hùng Vương và xã hội Hùng Vương”, học giả Hoa Bằng cũng chính thức đọc chữ 貉 thành “lạc” khi điểm lại các chữ lạc (Xin x. Hùng Vương dựng nước, tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972, tr.287). Thực ra, ở đây, ta chỉ có hai chữ “lạc” mà thôi: lc  bộ chuy  và lc bộ  .
Vậy thì, với 3 âm “mạch”, “hạc” và “mạ” của nó, chữ  trong tên của “Lạc(?) Long Quân” phải đươc đọc như thế nào? Chẳng thấy ai đọc nó theo một trong ba âm trên đây. Ai cũng đọc nó thành “lạc” mà không ngờ rằng đây là một cách đọc sai, ít nhất cũng không phải là một cách đọc theo đúng phiên thiết.
Vậy cái sai này do đâu mà ra? Chúng tôi cho là nó chỉ có thể xảy ra từ đầu thế kỷ XX, đặc biệt là với quyển Vit-nam s-lược của Lệ Thần Trần Trọng Kim, xuất bản lần đầu tiên năm 1921. Đây là một quyển sử có ảnh hưởng sâu rộng đối với nhiều thế hệ người Việt Nam và trong nửa đầu của thế kỷ XX thì nó gần như là một quyển sách độc tôn về lịch sử tương đối đầy đủ và có hệ thống của đất nước và dân tộc. Tại tr.23 của bản do Nxb Tân Việt - Hanoi, in và phát hành tại Saigon năm 1949, Trần Trọng Kim viết:
“ Lạc-long-quân lấy con gái vua Đế-Lai tên là Âu-Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai.”
Về tên của Lạc-long-quân, cũng ở tr.23, Trần Trọng Kim còn chú thích cả chữ Hán là 貉龍君 nữa. Tuy nhiên, ta không thể hoàn toàn đổ lỗi cho Trần Trong Kim được vì các tác giả về sau có trách nhiệm phải khảo chứng, chứ không thể nghe theo ông một cách mù quáng (nếu đúng là họ đã nghe ông). Rất có thể là trước cả Trần Trọng Kim cũng đã có người/nguồn đọc như thế, nhưng chúng tôi vẫn cho rằng sở dĩ cách đọc đó trở nên phổ biến là do quyển sử của học giả họ Trần.
Vậy thì giữa ba âm mạchhạc và mạ, chữ 貉 phải được đọc theo âm nào? Chúng tôi  cho rằng đó là âm “hạc” vì thiển nghĩ cái tên “Hạc Long Quân” hẳn phải có liên quan đến địa danh Bch Hc 白鶴, mà Đi Nam quc s din ca có nhắc đến:
Hùng Vương đô  Châu Phong
y nơi Bch Hc, hp dòng Thao Giang.
Đt tên là nước Văn Lang,
Chia mười lăm b bn chương cũng lin.
Bốn câu thơ này gợi ý cho chúng ta rằng ông Hạc Long Quân xuất thân nơi đất Bạch Hạc (mặc dù chữ “hạc” viết khác – ở đây, ta chỉ nói về mặt âm) là chuyện có lý vì Bạch Hạc thời xưa là một vùng sông nước mênh mông nên ở đó mới có nơi được đặt tên là Đng Đình (để ví với Động Đình hồ bên Tàu chăng?). Trong Truyn thuyết Hùng Vương (in lần II, có sửa chữa, Chi hội Văn nghệ dân gian Vĩnh Phú, 1972), Nguyễn Khắc Xương đã chú thích rõ:“ Động Đình ở đây ( trong truyền thuyết “Hùng Hải trị nước” – AC) chỉ địa phận Hưng Hoá ngày nay, từ ghềnh Ngọc Tháp về tới bến Trung Hà thuộc sông Thao. Vùng này hàng năm vào mùa nước thường bị ngập lụt, lại có nhiều đầm hồ.” (tr.36). Hiện ta đang có một cụm địa danh đáng chú ý. Ngoài vùng đầm hồ Động Đình, ta lại có núi Động Đình, thuộc tỉnh Hưng Hoá, mà Đại Nam nhất thống chí đã chép như sau: “Cách châu Yên 6 dặm về phía Nam, núi rất cao, ngọn núi trùng điệp, khe ngòi bọc quanh, năm Tự Đức thứ 3 liệt vào hàng danh sơn, chép trong điển thờ.” (Bản dịch của Phạm Trọng Điềm do Đào Duy Anh hiệu đính, tập IV, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1992, tr. 305). Ta lại có địa danh Hạc Trì, nay là tên một huyện của tỉnh Phú Thọ. Rất có thể là do người chép truyền thuyết biến Động Đình ta thành Động Đình Tàu nên mới sinh ra chuyện biên giới nước Văn-lang “Bắc giáp hồ Động-đình (Tàu), Nam giáp nước Hồ-tôn, Tây giáp Ba-thục, Đông giáp biển Đông-hải”, như đã chép trong Lĩnh Nam chích quái. Chứ chúng tôi thì cho rằng Văn Lang là một nước ra đời “tại chỗ” – vùng trung du Bắc Bộ – chứ không phải tít tận bên Tàu. Vâng, tại chỗ, với những di chỉ khảo cổ học thuộc Văn hoá Phùng Nguyên, Văn hoá Đồng Đậu, Văn hoá Gò Mun, v.v..
Chúng tôi muốn đi theo hướng tiếp cận này, chứ không tin theo thuyết của Đào Duy Anh cho rằng hình chim trên trống đồng Ngọc Lũ là hình chim Lạc, mà ông đã cất công phân tích và chứng minh trong mục “Lai lịch người Lạc-việt”, thuộc chương III của Cổ sử Việt Nam (Nxb Xây Dựng, Hà Nội, 1955, tr.51-56), rồi sau đó nhiều tác giả cũng đã mặc nhận mà nói theo, cơ hồ tạo nên cái thuyết hoàn toàn vô căn cứ hiện hành “hình chim trên trống đồng là hình chim Lạc”. Đào Duy Anh viết:
“Chữ lạc  hay X (Xin xem Ảnh 1 - chữ này không lên được),  có khi viết là 駱, là chỉ một loài hậu điểu ở miền Giang Nam, tương tự với loài ngỗng trời. Có thể chim lạc là vật tổ của người Lạc Việt.” (Sđd, tr.53).
Thực ra, chữ lạc  X  này của Đào Duy Anh lại không tồn tại; còn hai chữ kia (雒  駱) thì không có cái nghĩa mà ông đã nêu vì cái nghĩa này lại thuộc về chữ lạc  bộ điểu  (chứ không phải bộ chuy hay bộ  ).
Vậy ta không có bất cứ căn cứ xác thực nào để gọi đó là chim Lạc cả. Huống chi, trên đồ đồng, mà ngay cả trên trống đồng Ngọc Lũ, đâu phải chỉ có hình khắc của một loài chim! Ta chỉ có thể căn cứ vào những hình khắc đó mà đoán định rằng phần lớn – chứ không phải tất cả – những con chim có hình được đúc là những con thuộc bộ Cò (Ciconiiformes, cũng được dịch là bộ Hạc), có chân dài, mỏ dài và cổ dài. Theo chúng tôi thì trong những hình chim lớn nhất ở vành thứ 10 (từ trong ra) trên mặt trống đồng Ngọc Lũ có hình của con Hạc (Ảnh 2).
Tóm lại, chữ hạc  ở đây có thể “thông” với chữ hạc  về mặt ngữ âm và trong tâm thức của người ghi chép truyền thuyết thì đây chỉ là cái tên  của một loài chim thuộc bộ Hạc mà thôi.
Đến như chữ long   thì chẳng có khó khăn gì để tái lập âm HV xưa của nó là luồng, đồng âm với luồngtrong tiếng Tày-Nùng hiện đại, cũng có nghĩa là rồng. Trong quá khứ xa xăm thì chữ này vốn dùng để chỉ co cá sấu, như chúng tôi đã trình bày trong bài “Con rồng chẳng qua là con cá sấu lên đời”, trênKiến Thức Ngày Nay Xuân Canh Thìn (năm 2000), với bút hiệu Huệ Thiên. Vậy không phải ngẫu nhiên mà luồng là một trong hai âm tiết của thuồng luồng mà thuồng luồng là một giống cá sấu. Thật vậy, trong Cổ sử Việt Nam (Nxb Xây dựng, Hà Nội, 1955), Đào Duy Anh đã viết: “Người mình gọi concrocodile (một loài cá sấu nhỏ – AC) là thuồng luồng mà sách chữ Hán của ta cũng gọi là giao long. Về sau trong các sông ở Bắc nước ta, giống crocodile thành hiếm, thỉnh thoảng thấy một con, người ta cũng gọi là thuồng luồng, nhưng người thường không biết hình dạng nó thế nào nên tưởng tượng nó là một giống thủy quái hình dạng như rắn” (Sđd, tr.26). Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb KHXH, Hà Nội, 1967) cũng giảng thuồng luồng là “cá sấu” (nghĩa 2), bên cạnh nghĩa 1 là “loài vật dữ ở dưới nước, hình rắn, hay hại người”. Con luồng(<long s=""> này cũng có mặt trên trống đồng Ngọc Lũ, ở vòng tròn trong cùng trên mặt trống. Ta thấy giữa những cánh sao của ngôi sao 14 cánh là những hình quạt bằng nhau, giữa mỗi hình quạt có hình một mũi tên chỉa về phía tâm của hình tròn, mỗi bên có một cái hình tựa như một quả trứng nhỏ (Ảnh 3). Mỗi hình quạt đó chính là một cái đầu cá sấu nhìn trực diện cách điệu hoá từ cái đầu của một con cá sấu thật chỉ nổi lên khỏi mặt nước với hai con mắt (là hai “quả trứng” trong Ảnh 2) còn thân hình của nó thì trầm ở dưới nước (Ảnh 4).</long>
Trang mạng http://vi.oldict.com cũng khẳng định rằng “Tô-tem của người Việt nguyên thuỷ là con cá sấu.”
Thế là trong tên của Lạc Long Quân, ta thấy có Hạc và Cá Sấu, đều là hai loài động vật mà tập tính sinh hoạt đã tìm thấy ở môi trường của vùng đầm hồ Động Đình và sông Thao những điều kiện  hoàn toàn thích nghi. Lạc Long Quân là vua của vùng đầm hồ Động Đình, nơi đó, đứng đầu các loài sống dưới nước là Cá Sấu còn đứng đầu các loài có thể bay trên trời là Hạc. Ý nghĩa của cái tên Lạc Long Quân, theo chúng tôi, là như thế.















Ảnh 1 .- Đây là chữ của ĐDA, trong bài ghi bằng chữ X.
Ảnh 2.
Ảnh 3.
Ảnh 4.

Saturday 11 February 2012

Từ hoàn cảnh xuất hiện trong hoàn cảnh nào?


Hoàn cảnh là một từ mượn của tiếng Hán (環境) qua âm Hán Việt. Việt Nam Tự Điển là quyển từ điển đầu tiên ghi nhận từ này với nghĩa là cảnh ngộ ở chung quanh mình (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:241). Căn cứ vào một bài viết của Thượng Chi, tức Phạm Quỳnh, ở Nam Phong Tạp Chí, ta có thể đoán là từ này phải vào tiếng Việt trước năm 1924 (Thượng Chi, “Hoàn cảnh”, Nam Phong Tạp Chí số 90, 1924:471), 

Friday 10 February 2012

Lưu manh là gì? An Chi ( Năng Lượng Mới số 58 ,30 - 9 - 2011).

Bạn đọc : Xin ông cho biết nghĩa gốc của hai tiếng lưu manh. Chữ manh ở đây có phải cũng là manhtrong thong manh, và manh mối không, thưa ông? (Trần Văn Bá).
An Chi : Trước nhất xin nói về nghĩa của từng thành tố. Chữ manh 氓 có hai nghĩa mà Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993) đã cho như sau:
“1.– Dân; cổ đại xưng bách tính (Người dân; xưa chỉ trăm họ).” Mao Trạch Đông hoạ thơ Quách Mạt Nhược (“Hoạ Quách Mạt Nhược đồng chí”) có câu:
Tăng thị ngu manh do khả huấn
Yêu vi  quỉ hoặc(quắc) tất thành tai.
Dịch ý:
Sư cũng dân lành còn sửa được
Yêu tinh là quỉ dấy tai ương.
Trong bài “Manh” thuộc phần “Vệ phong” của Kinh Thi, mà câu đầu tiên là “Manh chi si si”, chữ manhcũng có nghĩa này. Đây là một bài thơ trữ tình hay nhất và sớm nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc.
“2.– Dã dân. Chu triều chỉ cư trú tại bỉ dã địa khu tùng sự nông nghiệp sinh sản đích nô lệ.”(Dân quê. Thời Chu, chỉ những người nô lệ cư trú tại những vùng quê để sản xuất nông nghiệp).
Âm xa xưa của chữ manh 氓 trong tiếng Việt là mống, còn được giữ lại trong những lối nói mang tính quán ngữ như: không mống nào chạy thoátchết không còn một mống. Nó chẳng có liên quan gì đến chữ manh trong thong manh cả. Thong manh là biến thể ngữ âm của thanh manh 青盲, một chứng bệnh về nhãn khoa. Vậy, một đằng là manh 氓 bộ thị  , một đằng là manh bộ mục, chẳng liên quan gì đến nhau. Mà nó cũng chẳng liên quan gì đến chữ manh trong manh mối vì, ở đây, chữ manh là một hình vị Hán Việt chính tông mà chữ Hán là , có nghĩa là “khai mào”, “khởi đầu”, “dấy lên” như có thể thấy trong một cấu trúc khá quen thuộc là manh nha. Một đằng thuộc bộ thị , một đằng thuộc bộ thảo (), nên cũng chẳng liên quan gì đến nhau.
Lưu 流 có nghĩa gốc là trôi, chảy, rồi nghĩa phái sinh là du thủ du thực, rày đây mai đó.
Hai tiếng trên ghép lại thành danh ngữ lưu manh 流氓, được n ngữ đại tự điển giảng là: “Nguyên chỉ vô nghiệp du dân, hậu lai chỉ phẩm chất ác liệt, bất vụ chính nghiệp, vi phi tác đãi đích nhân.” (Vốn chỉ lưu dân không nghề nghiệp; về sau chỉ những kẻ phẩm chất dữ dằn, không làm việc chính đáng, làm bậy làm càn).
Thế là lưu manh vốn có nghĩa trung hoà, nhưng nay thì hai tiếng này có nghĩa là kẻ du thủ, du thực, rày đây mai đó, không có công việc làm ăn, rồi nghĩa bóng là đứa du côn, bất lương. Tuỳ theo ngữ cảnh mà nó có thể được dùng như danh từ hoặc tính từ. Với tư cách tính từ, nó hoàn toàn tương ứng với tiếng Anh rogue trong ngữ đoạn rogue state (= quốc gia lưu manh) mà chính quyền Reagan của Hoa Kỳ từng dùng hồi thập kỷ 1980 để chỉ chế độ và chính sách của ông Muammar Kadhafi ở Libya. Sau vụ đánh sập Toà tháp đôi WTC ngày 11-9-2001 ở New York, thì ngày 16-9 năm đó, chính quyền G.W.Bush đã công bố danh sách một số “quốc gia lưu manh” bao gồm: CHDCND Triều Tiên, Pakistan, Irak, Iran, Afghanistan và Libya. Chẳng biết có lưu manh hay không nhưng nhãn tiền thì các quốc gia này không đi xâm lược ai. Chứ hiện nay thì Hoa Kỳ, Anh, Pháp, EU và NATO hẳn hoi là những quốc gia và tổ chức lưu manh, ngang nhiên quẳng sọt rác nghị quyết 1973 của Liên Hiệp Quốc cho phép lập vùng cấm bay ở Benghazi đê oanh tạc Libya mà ăn cướp dầu hoả, vàng và tiền của nhân dân và quốc gia này.
Hiện nay, hai tiếng lưu manh cũng được dùng làm định ngữ đê chỉ một khuynh hương văn học: văn học lưu manh, mà dưới đây, chúng tôi xin dẫn một đoạn của báo Tuổi Trẻ để giới thiệu với bạn đọc:
“Như thế, khái niệm “lưu manh" từ chỗ tụt quần áo trần truồng và xả ra ngôn từ rác rưởi, dễ bị nhận diện, đã trở thành lưu manh trong lý tưởng, lối sống, và kinh khủng hơn là lưu manh trong các giá trị, ví dụ như: thưởng thức nghệ thuật xong sẽ đưa ra các lời bình luận thấp kém, phản bác, công kích nghệ sĩ; ngắm tượng Vệ Nữ xong chỉ phát hiện nàng này không mặc quần lót; gặp một cô giáo quên mình cứu học sinh thì chỉ nghĩ giá như cô giáo này làm điếm sẽ kiếm được nhiều tiền hơn; nhìn xã hội phong kiến chỉ thấy niềm vui sướng được ngủ với hàng đàn mỹ nữ mà không bị pháp luật sờ gáy; sống ích kỷ với thú vui bản thân bất chấp đạo đức xã hội lại được coi như đi tìm kiếm cái tôi đích thực, cái tôi cô đơn, khác biệt...
Từ điển văn học online của Trung Quốc đưa ra một định nghĩa, theo đó, văn học lưu manh gần như buộc phải có hai thành tố cốt lõi là sex và báng bổ.
“Văn học lưu manh được đông đảo độc giả và nhà phê bình quan tâm, là bởi mỗi tác phẩm đều kéo theo sau nó rất nhiều lời phê phán lẫn tung hô của nhiều hạng người khác nhau trong xã hội.”
Nói chung thì lưu manh đại khái là như thế.

Monday 6 February 2012

“Tràm Chim”, một cái tên “méo mó” và vô nghĩa _ An Chi (Năng Lượng Mới số 66 (28 - 10 - 2011).

Bạn đọc : Tuổi Trẻ ngày 16-10-2011 (trang Du Lịch) có bài viết rất lý thú của Dương Thế Hùng nhan đề “Ngắm chim mùa nước nổi” với phần mào đầu:
“Trời mưa rỉ rả. Nước lũ lên cao. Điều đó càng hấp dẫn du khách tìm tới vườn quốc gia Tràm Chim (Tam Nông, Đồng Tháp). Ở đó có gì hay? Giám đốc Trung tâm du lịch Tràm Chim Đặng Văn Chuyên ra vẻ bí mật: Cứ đi rồi biết. Đảm bảo toàn «hàng độc».”
Nhưng có một thứ “hàng độc” làm cho tôi thắc mắc hơn 20 năm nay mà chưa thấy ai giải đáp cho ra lẽ. Đó là chính cái địa danh “Tràm Chim”, một cách đặt tên kỳ lạ.(Thái Bá Thành).
 An Chi : Xét theo nghĩa của từng thành tố thì “Tràm Chim” (với khái niệm “tràm” là cây tràm, được mô tả trong bài của Dương Ngọc Hùng) là một cấu trúc vô nghĩa, giống hệt như: 
       – Danh ngữ *Xoài Chim mà lại được dùng để chỉ một vườn xoài nào đó có rất nhiều chim thường xuyên về trú ngụ;
– Danh ngữ *Mít Chim mà lại được dùng để chỉ một vườn mít nào đó có rất nhiều chim thường xuyên về trú ngụ;
– Danh ngữ *Nhãn Chim mà lại được dùng để chỉ một vườn nhãn nào đó có rất nhiều chim thường xuyên về trú ngụ; v.v. và v.v..
Trong tiếng Việt, một danh từ chỉ một giống cây  nhất định (như: mítnhãntràmxoài, v.v.) không bao giờ được dùng theo hoán dụ để chỉ một khu rừng, một ngôi vườn, một diện tích nhất định, v. v., có trồng loại cây đó. “Tràm Chim” là một cấu trúc đã bị từ nguyên dân gian gò ép thành một danh ngữ “méo mó” và vô nghĩa vì đã đi ngược lại quy tắc trên đây. Một vài nguồn và tác giả, có lẽ do cũng thấy sự vô lý này nên đã  đổi “Tràm” thành “Chàm” nhưng “Chàm Chim” thì cũng chẳng kém vô nghĩa tí ti nào. Hình thức gốc chính xác của nó vốn là một danh ngữ nằm trong thế đối vị với những:
–      sân chim;
–      vườn chim;
–      rừng chim;
–      láng chim;
–      đầm chim; v.v..
trong đó sânvườnrừngláng, đầm, v. v., là những danh từ chỉ những vùng đất hoặc nước thường là rộng lớn có thể làm nơi kiếm ăn và/hoặc trú ngụ cho một số lượng lớn các loài chim. Ta còn có thể đi xa hơn nữa mà chứng minh rằng danh từ gốc đã bị cái từ “tràm” này thoán vị vốn là một danh từ chỉ một vùng nước rộng và cái danh ngữ gốc mà nó là trung tâm thì nằm chung trong một trường nghĩa với những:
–      Bàu Cò;
–      Đầm Đơi;
–      Láng Le; v.v.. nữa.
Đó chính là danh ngữ chằm chim mà chằm là trung tâm còn chim là định ngữ. Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học (Vietlex) do Hoàng Phê chủ biên (Nxb Đà Nẵng & Vietlex, 2007) giảng chằm là “vùng đất thấp và rộng bỏ hoang, thường bị ngập nước”. Do điều kiện sinh thái của nó mà có những cái chằm đã trở thành nơi trú ngụ thường xuyên của nhiều giống loài chim chóc khác nhau, hoặc có khi vì những đặc điểm riêng mà nó chỉ được (chủ yếu) một loài đến ở, và tên cũng đã được ghi vào từ vựng, chẳng hạn như chằm nhạn, xuất hiện muộn nhất cũng là vào cuối thế kỷ XVIII, vì nó đã được ghi nhận trong Dictionarium Anamitico Latinum của Pierre Pigneaux de Béhaine (viết tay, 1772-73), rồi sau đó trong quyển từ điển cùng tên của J.L.Taberd (Serampore, 1838). Danh ngữ chằm nhạn đượcĐại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng là “chỗ nhạn ở, đầm nhạn ở”. Vậy thì, cùng một lối giảng đơn giản này, ta có thể nói chằm chim là “chỗ chim ở, đầm chim ở”. Đây chính là hình thức ngữ âm gốc và nội dung ngữ nghĩa gốc của dạng méo mó hiện tại “Tràm Chim”. Nhưng tại sao Chằm Chim lại có thể trở thành “Tràm Chim”? Xét về mặt ngữ học, đặc biệt là về hệ thống âm vị của tiếng Nam Bộ, thì đây chẳng phải là chuyện gì khó giải thích. Nhưng trước nhất, chúng tôi muốn mời bạn và bạn đọc đến với cái bằng chứng gián tiếp rất thú vị mà TS Huỳnh Công Tín cung cấp cho chúng ta. Ông đã viết:
“Tên hành chính và tên quen gọi ngày nay “Tràm Chim” thường được cắt nghĩa là nơi ấy có tràm và trong tràm có chim về trú ngụ. Nhưng nhớ từ khi lớn lên, có chút cảm nhận thì nghe nói về “Trầm Chim”, vùng đất xa xôi nào đó nhưng không rõ là xa tận đâu. Khi đậu vào Đệ thất (lớp 6 ngày nay), tôi may mắn có ba người bạn quê Trầm Chim; nhưng chưa một lần đến quê bạn trong thời gian học trung học. Hỏi bạn “Trầm Chim” là gì thì bạn bảo không biết, chỉ nói nơi ấy rất nhiều chim ( … ) Trên 30 năm chia tay bạn, giờ mới có dịp đến Tràm Chim, tìm gặp lại bạn cũ, hai người còn sống, một người đã mất; tôi cũng hỏi lại về địa danh cũ “Trầm Chim”. Có phải đọc trại từ “Tràm Chim” mà thành “Trầm Chim” hay không, hoặc ngược lại? Hai người lừng khừng, không dứt khoát, nhưng vẫn quả quyết người xưa nói “Trầm Chim”, mà không biết tại sao.”
Trên đây là một đoạn trong bài “Sếu Tam Nông” của quyển  Cảm nhận bản sắc Nam Bộ, tập 2 (in vi tính), mà TS Huỳnh Công Tín đã có nhã ý cho chúng tôi được đọc trước. Cứ theo ký ức tuổi thơ của tác giả, rồi lời khẳng định sau này của mấy người bạn, thì hiển nhiên là người dân sở tại đã từng gọi Tràm Chim là “Trầm Chim” mà đây chính là cái khâu trung gian giữa Chằm Chim và Tràm Chim. Và chúng tôi cho rằng sẽ rất lý thú nếu Trung tâm du lịch Tràm Chim tổ chức những chuyến điền dã để cho du khách về nguồn của hai tiếng “Tràm Chim” mà tìm hiểu về lai lịch của nó ở những người cố cựu. Còn trước mắt thì ta đang có biểu thức:
–      Chằm Chim → Trầm Chim → Tràm Chim,
trong đó “Trầm Chim” chính là Chằm Chim đã bị thao tác siêu chỉnh (hypercorrection) làm cho biến dạng. Ông Huỳnh Công Tín và những người bạn của mình là những người thuộc về nửa sau của thế kỷ XX, thời điểm mà danh từ chằm  không còn thông dụng nữa, dĩ nhiên là đối với cả những người có học thức. Những người này (nhà văn, nhà báo, nhà giáo, v.v.) cho rằng chằm là một cách phát âm của người bình dân, ít học đối với từ trầm – quả nhiên người bình dân Nam Bộ vẫn phát âm “trầm” thành “chằm” – vì phải là “trầm” (chìm, đắm, v.v.) thì mới liên quan đến chuyện nước, chuyện ngập, v.v.. Vì vậy nên dân có học mới “siêu chỉnh” chằm thành “trầm” và chằm chìm đã trở thành “trầm chim”. Cho đến cách đây trên 20 năm, khi đất nước mở cửa, du lịch phát triển, công cuộc bảo vệ môi trường sinh thái càng ngày càng được chú trọng, internet càng ngày càng phổ biến, v.v., thì “trầm chim” lại đổi đời một lần nữa mà sự siêu chỉnh lần này cũng là công sức của nhà văn, nhà giáo, nhà báo, chủ yếu dĩ nhiên là các nhà báo. Họ cho rằng “trầm” thì vô nghĩa vì tại “trầm chim” chỉ có “tràm” bạt ngàn mà thôi. Vì thế nên họ đã đẻ ra cái danh ngữ “tràm chim” mà không biết rằng đây là một cái quái thai của ngôn ngữ, như đã khẳng định ngay từ đầu câu trả lời này.
        Gút lại, xin khẳng định rằng “tên cúng cơm” của Vườn Quốc gia Tràm Chim chỉ đơn giản và chính xác là Chằm Chim chứ không phải “Trầm Chim” hay “Tràm Chim” gì cả.