Thursday 24 May 2012

GIAN NAN LÀ NỢ (An Chi - KTNN 245, ngày 10-5-1997)

Hôm nay, Tuổi trẻ có đăng bài ""Gian nan là nợ" của Phạm Xuân Nguyên, nói về thắng lợi 1 - 0 của Tuyển VN trước Tuyển Singapore. Vì đồng cảm với PXN và cũng vì quá vui, AC đưa lên đây một câu  liên quan đến mấy chữ GIAN NAN LÀ NỢ, trả lời cách nay 13 năm, Để các bạn FB đọc chơi cho vui.
ĐỘC GIẢ 1: Cụ Đào Tấn có viết: “Lao xao sóng vỗ ngọn tùng, Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.Nhưng sóng thì ở dưới nước còn tùng thì ở trên núi, vậy làm sao sóng vỗ được ngọn tùng? Chẳng có lẽ cụ sơ ý? Hay là cụ dùng ẩn dụ nào mà chúng tôi chưa biết được? Gần đây, theo thông tin trên một vài trang báo, người ta vừa tìm ra một loại cây quí hiếm có tên là thủy tùng. Phải chăng đây là một loài rong loài tảo nào mà cụ Đào Tấn muốn nhắc đến trong hai câu thơ của cụ? ĐỘC GIẢ 2: Trong một bài viết vào những năm 70 mà tôi đã quên tên tác giả và xuất xứ, người viết có tả cảnh mình được ngắm từ trên cao cánh rừng thông trong một ngày có gió. Nhìn ngọn cây rừng nhấp nhô lên xuống như những con sóng khi gió thổi qua, tác giả nhớ đến hai câu thơ của cụ Đào Tấn: “Lao xao sóng vỗ ngọn tùng Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.Tác giả nói rằng nhờ được ngắm cảnh trên nên mới thấy được cái đẹp của câu thơ, cái độc đáo của cụ Đào khi cụ liên hệ nỗi gian nan của người anh hùng với cảnh cây tùng bị sóng gió vùi dập. Rồi năm 1990 tôi có mua một cuốn lịch bàn của Nxb Văn hóa, trong đó có một tờ cũng in hai câu thơ trên đây của cụ nhưng chữ “tùng” đã bị đổi thành “trùng”. Lao xao sóng vỗ ngọn trùng, Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.Xin gởi kèm theo đây tờ lịch đó để làm bằng (tờ ngày thứ sáu, 6 tây tháng Bảy nhằm ngày 14.5 âm lịch). Gần đây tôi lại được đọc bài “Ghi chép ở từ đường Đào Tấn” của tác giả Thúy Vi đăng trên báo Sài Gòn giải phóng ngày 28.5.1994, trong đó tác giả cũng có dẫn hai câu thơ trên như sau: “Lao xao sóng vỗ ngọn tùng, Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.Lại xin gởi kèm theo đây mẩu báo có in hai câu thơ trên đây để làm bằng, trong đó chữ thứ 6 của câu sau rõ ràng là chữ “tùng”. Vậy cụ Đào đã dùng “tùng” hay “trùng” trong hai câu tuyệt tác trên đây? ĐỘC GIẢ 3: Xin cho biết trong hai câu thơ lục bát của cụ Đào Tấn nói về cây tùng và người anh hùng, có phải cụ muốn nói đến cây tùng cụ thể nào mọc gần nước mà cành nhánh sà xuống thấp nên mới bị sóng vỗ hay không (nếu ở trên núi cao thì làm sao có sóng vỗ). Lại nói đến câu tám, cụ có dùng chữ “vay”: tại sao không là “nợ phải trả” mà lại là “nợ phải vay”? Có phải là vì âm điệu hay không?
AN CHI trả lời: Nguyên văn của cụ Đào Tấn là:“Lao xao sóng vỗ ngọn tùng,Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.Người làm lịch năm 1990 của Nxb Văn hóa, vì không biết được xuất xứ của chữ tùng trong hai câu thơ trên đây nên mới tự tiện thay nó bằng chữ “trùng”, ngỡ rằng phải sửa như thế thì câu thơ mới hợp lý mà không ngờ rằng chính mình đã làm cho nó trở thành vô vị và tầm thường. Đúng thế, nếu hiểu “trùng” ở đây là “trùng dương” và “ngọn trùng” là “ngọn sóng” thì ý của câu thơ chỉ là sóng vỗ ngọn sóng lao xao mà thôi. Nhưng "sóng vỗ sóng" thì có liên quan gì đến chuyện người anh hùng phải gánh nợ gian nan? Thực ra, ở đây cụ Đào đã dùng chữ tùng vì cây tùng, ngoài việc tượng trưng cho tuổi thọ, lại còn được dùng để tượng trưng cho sự chịu đựng nữa. Chẳng thế mà tiếng Hán lại có câu “tiết tháo phương tùng quân” nghĩa là tiết tháo (kiên cường) như cây tùng và (dẻo dai) như cật tre.Truyện Kiều, câu 901 cũng có hai chữ “tùng quân” (Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân). Vậy chữ tùng của câu sáu trong hai câu lục bát của Đào Tấn đã gây liên tưởng rất hợp lý đến người anh hùng trong câu tám và thể hứng kết hợp với thể tỉ (trong ca dao) đã được cụ thực hiện một cách rất đắc địa trong hai câu thơ tuyệt cú đã trở thành phương châm, thậm chí nguyên tắc sống cho nhiều đấng nam nhi.Nhưng trở lên, chúng tôi mới chỉ làm chuyện “cãi lý” mà thôi, còn sở dĩ cụ Đào Tấn lại dám để cho sóng vỗ lên cao tới tận ngọn tùng ở trên rừng trên núi là vì thực ra cụ đã nắm vững từ ngữ ở trong tay: tiếng Hán có từ tổ chính phụ cố định “tùng đào” 松濤, có nghĩa đen là “sóng trên ngọn cây tùng”, mà văn thơ Trung Hoa đã dùng để chỉ tiếng gió rì rào qua những cây tùng trong rừng trên núi. Hai tiếng đó đã được Từ hải giảng là “tùng lâm phong động chi thanh” (tiếng gió lay động rừng tùng) còn Mathews’ Chinese-English Dictionary, nơi chữ tùng, thì dịch là “the soughing of the wind in the pines compared with the roar of the surf” (tiếng rì rào của gió qua những cây tùng, so sánh với tiếng gào của sóng cồn) hoặc, nơi chữ đào, là “wind in the pines” (gió qua những cây tùng). Thơ Âu Dương Nguyên Công đời Nguyên có câu:“Hạ liêm nguy tọa thính tùng đào", nghĩa là:Buông rèm ngồi nghiêm lắng nghe tiếng sóng tùng.” Sóng tùng ở đây chính là tiếng gió thổi qua những ngọn tùng.Vậy “sóng” của cụ Đào Tấn chính là “gió”, nghĩa là danh từ sóng cũng được cụ dùng theo ẩn dụ như trong câu thơ trên đây của họ Âu Dương, chứ không phải là theo nghĩa đen. Do đó câu:“Lao xao sóng vỗ ngọn tùng”chẳng có gì là phản luận lý hay phi luận lý cả. Và ở đây cũng chẳng có cây tùng cụ thể nào mà cành nhánh sà xuống sát mặt nước cả vì hai tiếng “tùng đào” chỉ là một lối nói đã trở thành ước lệ. Đến như cây thủy tùng, mà tên khoa học là Codium macronatum – loại cây này thực ra cũng đã được biết đến từ lâu – vốn chỉ là một giống tảo, thì làm sao địch nổi với cây tùng, cây bách trên rừng trên núi, và làm sao xứng đáng để so sánh với người anh hùng trong cuộc đời! Bây giờ xin nói về chữ “vay”, chữ “trả”. Vâng, cũng có thể là do âm điệu vì nếu dùng “trả” thì câu:“Gian nan là nợ anh hùng phải trả”đâu còn là thơ nữa. Nhưng vấn đề là dùng “trả” thì lại không hay bằng dùng “vay”: trong những người không muốn mang công mắc nợ thì nhiều người đã chủ động không vay để khỏi trả. Còn cụ Đào Tấn thì khẳng định:“Gian nan là nợ anh hùng phải vay”cho nên dứt khoát phải trảkhông trả không được vì đó là định mệnh. Đã sinh ra là anh hùng thì phải chấp nhận gian nan. Đó là cái hay của chữ “vay” vậy!

Wednesday 23 May 2012

Mấy nhận xét về chữ Quốc Ngữ (Cao Xuân Hạo)

1. Trên bình diện ngôn ngữ học lý thuyết, chữ quốc ngữ không phải là một cách viết thích hợp với tiếng Việt. Nó sử dụng tự mẫu La Tinh, một hệ thống văn tự phản ánh cấu trúc âm vị học của các ngôn ngữ biến hình kiểu châu Âu, trong đó đơn vị cơ bản là “tiểu âm vị”, một đơn vị được thể hiện bằng một “âm tố”, trong khi đơn vị cơ bản của hệ thống âm vị học tiếng Việt là tiếng, hay “hình tiết” (morphosyllabème) – vốn đồng thời là đơn vị ngữ nghĩa và ngữ pháp.
Trong cuốn Âm vị học và tuyến tính (Phonologie et linéarité: Réflexions critiques sur les postulats de la phonologie contemporaine, SELAF, Paris, 1985), tôi có chứng minh rằng lý thuyết âm vị học hiện hành chỉ có giá trị đối với các ngôn ngữ “tiểu âm vị” (micro-phonématiques) như các thứ tiếng châu Âu chứ không thể dùng cho những thứ tiếng đại âm vị (macro-phonématiques) như tiếng Nhật, tiếng Malagasi, và nhất là các thứ tiếng đơn lập như tiếng Hán, tiếng Thái, tiếng Việt, trong đó cái đơn vị âm vị học tương đương về cương vị cấu trúc với âm vị Âu châu là âm tiết (tiếng) chứ không phải là âm tố. Một thứ chữ quốc ngữ, chữ “Pin yin” hay chữ “Romanji” che giấu và xuyên tạc cái cấu trúc âm vị học thực của các thứ tiếng sử dụng nó và làm cho các nhà nghiên cứu lạc hướng hoàn toàn.
2. Đó là xét trên bình diện lý thuyết ngôn ngữ học. Còn trên bình diện thực tiễn,
dùng chữ quốc ngữ cho tiếng Việt cũng không có hại bao nhiêu, vì dù sao nó cũng cho phép phân biệt đầy đủ các âm thanh cần phân biệt của tiếng Việt (1). Và mặc dầu việc vay muợn văn tự này, theo ý tôi, là một công việc có phần đáng tiếc, nó vẫn có một thuận lợi khá quan trọng ở chỗ nó đưa nước ta vào cái khối cộng đồng lớn của những nước dùng chữ La Tinh trên sách báo, giấy tờ và biển hiệu. Nhờ đó, một khi “tiếng” đã được tháo rời ra thành âm, các văn bản tiếng Việt có thể sao đúng chính tả của bất cứ từ ngữ nào (đặc biệt là các tên họ) được viết bằng chữ La Tinh hoặc đã được chuyển tự sang hệ chữ La Tinh. Điều này làm cho việc phiên âm các tên họ của người nước ngoài trở nên hoàn toàn vô ích và thậm chí rất có hại, nhất là khi ta biết rằng theo thống kê sơ bộ hơn 90 % các tên họ nước ngoài (kể cả người Pháp và người Anh) bị phiên âm sai chỉ vì người viết không biết đọc các tên họ ấy (chứ không phải vì quy tắc chính tả tiếng Việt không cho phép phiên âm đúng). Vả lại làm sao có thể biết đọc cho đúng tên họ của dăm trăm thứ tiếng trong nhân loại? Trong tình hình văn hoá của thế giới ngày nay, việc truyền thông, trao đổi được thực hiện chủ yếu là qua văn bản, cho nên chính tả quan trọng hơn phát âm rất nhiều. Cái thói phiên âm sinh ra do một định kiến hoàn toàn vô căn cứ (chưa bao giờ được kiểm nghiệm), cho rằng quần chúng ít học và học sinh không thể viết đúng và đọc đúng những từ như volt, watt, ampère hay những tên như Marx, Engels. Thật ra nhiều người trong số chúng tôi đã làm thí nghiệm trên con cái chúng tôi với những kết quả hết sức rõ ràng: chỉ cần chép một vài lần và ôn lại từ ba đến năm lần bằng cách “ám tả” theo trí nhớ là các cháu đủ thuộc vài chục tên riêng cho đến bốn năm năm sau, cùng với vài ba trăm tên khác được học thêm trong những năm kế theo. (2)
3. Kể từ những năm 20 của thế kỷ cho đến khi Cách mạng tháng Tám thành công, đã có nhiều người Pháp đề nghị cải tiến chữ quốc ngữ mà họ cho là bất hợp lý. Rồi đến khi miền Bắc được giải phóng, suốt ba năm trời đã diễn ra không biết bao nhiêu cuộc họp, đã in không biết bao nhiêu bài vở và kỷ yếu bàn về cách cải tiến chữ quốc ngữ, rồi cuối cùng người ta mới nhận ra rằng đó là một công việc không những hoàn toàn vô ích mà còn hết sức có hại, lặp lại một cách vô duyên một giai đoạn đã qua của lịch sử chính tả ở châu Âu mà ngày nay người Anh và người Pháp mỗi khi nhớ lại không khỏi cảm thấy bẽ bàng. Số là năm 1897, sau khi Hội Ngữ âm học quốc tế (IPA) ra đời và công bố hệ tự mẫu gọi là Alphabet Phonétique International, một số hội viên và hàng trăm người khác khởi động một phong trào rầm rộ cực lực lên án chính tả Anh và Pháp mà họ cho là hết sức phi lý, cần phải bỏ ngay vì đó là “một nghĩa địa của những hình thái cổ lỗ đã lỗi thời từ lâu” để thay nó bằng một thứ chữ viết phản ánh cách phát âm một cách trung thành và nhất quán, theo nguyên tắc “mỗi chữ ghi một âm và mỗi âm ghi bằng một chữ”.
May thay, với sự đóng góp của những người am hiểu ngôn ngữ hơn, người ta đã nhận ra rằng chữ viết có một chức năng khác với lời nói, chủ yếu là ở chỗ người đọc một văn bản rất khác với người tham gia đối thoại, và chữ viết được đọc bằng mắt chứ không phải nghe bằng tai, cho nên cách nhận diện từ ngữ trên một văn bản rất khác với cách nhận diện từ ngữ khi nghe một lời nói bằng miệng với sự hiện diện của người phát ngôn ngay trong khi đối thoại. Khi một hệ chữ viết đã được dùng trong vài ba thế kỷ, nó trở thành một truyền thống văn hoá. Mỗi từ ngữ dần dần có một diện mạo riêng, một Gestalt mà người ta đã quen thuộc đến mức không thể thay đổi được nữa. Và cái Gestalt thị giác do cách viết tạo nên được liên hội với cái nghĩa của từ ngữ bất chấp cách phát âm ra sao, và nhờ đó mà người đọc phân biệt được các từ đồng âm mặc dầu không có sự giúp đỡ của tình huống đối thoại hay của sự hiện diện của người đối thoại mà người kia có thể hỏi lại ngay khi không hiểu vì không biết người phát ngôn muốn dùng từ nào trong số những từ đồng âm. Đó là chưa nói rằng chính tả còn cho biết khá nhiều điều hữu ích về từ nguyên, và do đó, về nghĩa của những từ dùng căn tố Hy Lạp, La Tinh hay Sanskrit, về gốc gác của những tên riêng, và do đó, về quốc tịch hay tôn giáo của người đương sự. Cho nên từ khi có cái phong trào ”bài xích và cải cách chính tả Anh, Pháp” cho đến nay đã đúng một thế kỷ mà hai hệ thống chính tả này vẫn tồn tại y nguyên, và ngày nay họa chăng chỉ có những người không được bình thường may ra mới còn nghĩ đến chuyện cải cách chính tả Anh hay Pháp, mặc dầu so với chữ quốc ngữ, hai thứ chính tả này còn xa cách phát âm gấp bội.
4. Chữ viết không phải là phiên âm, vì ngôn ngữ không phải chỉ là âm thanh: nó còn có nghĩa nữa. Cho nên một hệ thống chữ viết lý tưởng phải phản ánh, ít nhất là một phần cái nghĩa của từ ngữ. Từ cổ đại, loài người đã có một hệ thống chữ viết gần đạt đến cái lý tưởng ấy: chữ Hán. Một bằng chứng sáng rực của tính ưu việt của chữ Hán là hiệu quả tuyệt vời của việc sử dụng nó cho một ngôn ngữ thuộc một loại hình hoàn toàn khác tiếng Hán: tiếng Nhật, một thứ tiếng đa âm tiết thuộc loại hình chắp dính (agglutinating). Khi dùng cho tiếng Nhật, nếu không kể mợt số rất ít những từ gốc Hán được người Nhật phát âm hao hao như tiếng Hán (các từ Hán – Nhật còn giữ dạng đơn âm hay chỉ biến thành song âm), chữ Hán chỉ biểu thị nghĩa, rồi thông qua nghĩa mà biểu thị âm (khi hiểu nghĩa rồi, người Nhật mới chọn giữa hai ba cách phát âm có thể bằng cách căn cứ vào văn cảnh). Dựa vào những thành quả ngoạn mục của việc dạy tiếng Anh bằng chữ Hán cho các học sinh Mỹ mắc chứng dislexia (không học được cách “đánh vần”), một số nhà ngữ học Mỹ đã thấy rõ tính ưu việt của một hệ thống văn tự phi ngữ âm và đã đi đến chỗ tin rằng đó chính là thứ chữ tương lai của nhân loại. Vả lại ai cũng biết rằng chính là nhờ chữ Hán mà người Trung Quốc, vốn nói nhiều ngôn ngữ khác nhau (về phương diện ngôn ngữ học, tiếng Bắc Kinh, tiếng Quảng Đông, tiếng Triều Châu là những ngôn ngữ khác nhau chứ không phải là những phương ngữ, vì khoảng cách giữa các thứ tiếng ấy xa hơn khoảng cách giữa các ngôn ngữ Salvian như tiếng Nga và tiếng Nam Tư (Serbo – Croatian) hay tiếng Bulgari rất nhiều), có được một công cụ giao tiếp chung. Một nhà ngữ học Pháp gọi chữ Hán là ”một thứ esperanto cho đôi mắt của các thần dân Trung Hoa”. Thứ esperanto này còn có tầm tác dụng vượt xa bờ cõi Trung Quốc: nó còn là phương tiện giao tiếp đắc lực giữa người Hán và cá sứ giả ”man tộc” như người Hàn, người Nhật, người Giao Chỉ, người Hồ, và các thứ ”rợ” khác, vốn thường bút đàm với người Hán (và với nhau) hơn là ngôn đàm.
5. Nói đến đây, tôi chắc chắn các vị hiểu tại sao chính tả tiếng Anh và tiếng Pháp “bất hợp lý” đến thế mà vẫn không thể thay đổi được. Khi lớn tiếng lên án chữ viết đương thời, những người Anh và những người Pháp cấp tiến ngày ấy cũng như những người Việt cấp tiến của thời kỳ 1954 (và ngay đến ngày nay hình như vẫn còn sót lại) chỉ chăm chăm vào một tiêu chuẩn duy nhất: ngữ âm (hay âm vị học). Họ phán xử hệ thống chính tả bằng cách đạt câu hỏi: Nó đã phản ánh thật đúng cách phát âm chưa ? Nó đã nhất quán đi theo nguyên tắc “âm và chữ tương ứng một đối một” hay chưa ? Còn những tiêu chuẩn khác thì họ không cần biết đến. Ở đây tôi chỉ xin nhắc đến tiêu chuẩn “truyền thống” hay “tập quán”. Như trên kia đã nói, khi người ta đã có nhiều thế kỷ để quen với diện mạo văn tự của các từ ngữ, cái diện mạo ấy trở thành cái hồn của chữ nghĩa. Nó biểu hiện ý nghĩa của ngôn từ không cần thông qua cách phát âm (vốn thay đổi tùy theo từng vùng), thành thử mọi mưu đồ cải cách đều là một sự xúc phạm đến truyền thống văn hoá. Viết gia (trong gia đình) thành za hay da, viết lý (trong luân lý) thành lí, viết yêu thành iêu hay iâw, viết qua thành kwa hay cwa trong nhiều thập kỷ nữa vẫn sẽ được tri giác như những lỗi của một lớp người thiếu hiểu biết, nếu không là một lớp người coi khinh hàng chục thế hệ đi trước, trong đó có những bậc thầy đã dựng nên cả một nền văn học hiện đại. Và như thế để làm gì ? Chẳng lẽ chỉ vì muốn tiết kiệm khoảng 2% luợng giấy in sách ? Chỉ cần tiết kiệm cỡ chữ “corps 10″ bằng cỡ chữ “corps 9″ cũng tiết kiệm được gấp mười lần như thế. Dĩ nhiên, một cuộc cải cách như thế sẽ không có hại gì đến mấy triệu học sinh vỡ lòng mới bắt đầu học thứ chữ mới. Nhưng ta cứ thử tính số tiền tổn phí để in lại tất cả các sách vở cần thiết cho các thế hệ học chữ mới. Và thử tính xem có sáu mươi mấy triệu người lớn trở thành mù chữ (hay ít ra cũng thành những người dốt nát chuyên viết sai chính tả do những tập quán cũ và cách đánh vần các văn bản một cách khó nhọc, ít ra là trong dăm bảy năm sau cải cách).
Nhược điểm của chữ quốc ngữ không phải ở chỗ nó chưa thật là một hệ thống phiên âm vị học, mà chính là ở chỗ nó có tính chất thuần tuý ghi âm, và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ biểu hiện nghĩa mà lẽ ra nó phải đảm đương, và nhược điểm ấy lộ rõ nhất và tai hại nhất là trong trường hợp các từ đồng âm vốn có rất nhiều trong tiếng Việt. Tuy vậy, cũng gần giống như chữ Anh và chữ Pháp, những chỗ bị người ta coi là bất hợp lý chính là những chỗ làm cho nó phân biệt nghĩa và cội nguồn của các từ đồng âm như gia và da, lý và lí (trong lí nhí) (3) v.v.
Đáng tiếc là những trường hợp như thế không lấy gì làm nhiều. Nhưng có vẫn còn hơn không, như khi ta thay chữ quốc ngữ bằng một thứ chữ thuần túy ghi âm. Bỏ chữ Hán và chữ Nôm là một tai họa không còn hoán cải đuợc nữa, nhưng ta còn có thể bổ cứu cho sự mất mát này bằng cách dạy chữ Hán như một môn bắt buộc ở trường phổ thông. Người Việt sẽ không thể giỏi tiếng Việt nếu không thấu đáo nghĩa của các từ Hán-Việt, vốn chiếm tỷ lệ hơn 70% trong vốn từ vựng tiếng Việt.
GS Cao Xuân Hạo

(Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa – NXB Giáo Dục, TP Hồ Chí Minh, 1998)
(*) Báo cáo đọc tại Hội nghị “Chữ quốc ngữ và sự phát triển của văn hoá Việt Nam”, Trường Đại học Tổng hợp, TP Hồ Chí Minh 1995
(1) Về những cái lợi và cái hại của chữ quốc ngữ, xin xem bài Chữ Tây và chữ Hán, thứ chữ nào hơn? (Kiến thức ngày nay, số 14, ngày 15-6-1994). Cũng xin xem thêm các mục dưới dây.
(2) Xin xem bài Về cách viết và cách đọc các tên riêng nước ngoài trên văn bản tiếng Việt, cũng đăng trong tập này.
(3) Xem thêm Cao Xuân Hạo, 1996

Monday 21 May 2012

Một số vấn đề về chuẩn mực hoá ngôn ngữ: Nhu-cầu mượn từ (Hoàng Tuệ)

Hành động mượn từ có thể chẳng có lí do gì chính đáng, chẳng đáp ứng một nhu cầu thực sự nào về ngôn ngữ, mà nhiều khi, chỉ là biểu hiện của ý thức không tôn trọng, không nghiêm túc đối với ngôn ngữ của dân tộc. Ở đâu cũng có sự tình này. Ở ta, rõ ràng là có khi đã như như thế. Thực ra, cái cớ lúc đầu là chưa có sẵn từ trong bản ngữ để đáp ứng ngay một nội dung mới, còn có tính chất ngoại. Thí dụ, chừng nửa thế kỉ trước, cái xe đạp là một trường hợp như thế và có người đã gọi nó là tự hành xa! Thí dụ này đáng chú ý, vì trước đây có lắm người thông tiếng Hán hễ gặp một nội dung mới từ phương Tây đến (đặc biệt là khái niệm trừu tượng về văn hoá, chính trị… nhưng cả khi là sự vật cụ thể cũng thế) thì một mặt, cự tuyệt chất liệu Pháp; mặt khác cũng không chịu tìm chất liệu Việt mà sẵn sàng dùng ngay chất liệu Hán, tức Hán Việt. Sự tình này, như đã nói, có nguyên nhân lịch sử trong quá trình tiếp xúc quá dài giữa tiếng Việt và “chữ Hán”, tức là dạng ngôn ngữ viết của tiếng Hán được tiếp tục dùng ở Việt Nam, từ khi nước ta thoát khỏi ách thống trị của Trung Hoa. Sự tình ấy đã ảnh hưởng khá rõ đến trạng thái chung của từ vựng tiếng Việt. Mặc dù thế, nếu dùng lạm từ Hán Việt, tức là mượn gốc Hán là vẫn gây ra phản ứng chống đối của người Việt Nam. Tự hành xa đã tự lúc đầu tỏ ra là một sự kém cỏi học giả, không chấp nhận được và đã nhanh chóng bị thay thế bằng xe đạp. Từ mượn gốc Pháp cũng có thể gây ra phản ứng đó. Tủ lạnh đã được hoan nghênh để thay thế fri-gi-deTi vi chắc chắn rồi sẽ chịu số phận như fri-gi-de và tự hành xathôi.
Những thí dụ trên đây về sự thay thế từ mượn bằng từ Việt chứng tỏ rằng bản ngữ là một nguồn chất liệu hình thức để thay thế, và xu hướng sử dụng chất liệu đó, một cách triệt để và sáng tạo, có ý nghĩa và tác dụng quan trọng trong sự chuẩn mực hoá bản ngữ. Tuy vậy, những thí dụ như thế trong tiếng Việt còn cho thấy là, tự khi mượn nó tới khi không mượn nữa, tức là tới khi thay thế được từ mượn bằng bản ngữ, thường là có thời gian, để nội dung đủ mức đi sâu vào đời sống và để tìm ra hình thức bản ngữ đáp ứng nội dung đó một cách đáng hài lòng. Sự thực, có khi phải tiếp tục dùng từ mượn, vì lẽ đơn giản là chưa có khả năng thay thế. Không dẫn thí dụ nhưng rất dễ thấy là trong tiếng Việt, có những bộ phận của cái xe đạp hay xe máy đã được gọi bằng từ sẵn có, hoặc từ đặt ra để thay thế từ mượn, hoặc từ mượn đồng hoá, nhưng rõ ràng là còn có những bộ phận phải tiếp tục gọi bằng từ mượn. Đó là những sự vật cụ thể. Khi là những khái niệm, những tư tưởng thì sự thay thế lại càng không phải đơn giản.
Cho nên, trong hành động mượn từ, và thái độ tiếp tục dùng từ mượn, còn phải thấy rằng có trường hợp, nhu cầu là thực sự.
Thường có hai nhu cầu chính: nhu cầu định danh chính xác và nhu cầu gợi cảm.
Tất nhiên, hoàn toàn không có căn cứ để nói rằng từ bản ngữ không đủ sức đáp ứng nhu cầu định danh chính xác. Tuy vậy, có những trường hợp, những phạm vi, khi nội dung có tính chất đặc biệt thì mượn, do chỉ có một nghĩa nên đáp ứng được tốt nhất đòi hỏi phải gọi tên cái nội dung ấy mà không gây ra lẫn lộn. Đó là, chẳng hạn trường hợp từ công-tây-nơ dẫn ra ở trên trong tiếng Việt: từ mượn này, vốn ở tiếng Anh là “container” chỉ cái chứa, cái đựng nói chung, và chỉ một loại thùng đặc biệt chuyên dùng trong vận tải; nếu thay thế nó bằng từ thùngcho đơn giản thì không thoả mãn nhu cầu định danh nói trên, bởi vì không phải loại thùng nào cũng là công-tây-nơ cả. Giống như trường hợp từ can cũng có nghĩa như là thùng và gốc ở tiếng Anh là từ “can“; nhưng để đựng dầu hoả của người này là cái can bằng kim khí hay bằng nhựa hẳn hoi, mà của người khác có thể tạm bợ một cái thùng nào đó không gọi là can được. Cái khác nhau là: chuyện can, chuyện đời sống bình thường, còn chuyện công-tây-nơ quan trọng hơn nhiều; đây là chuyện vận tải hàng hoá, theo tiêu chuẩn quốc tế của một ngành hoạt động kinh tế. Từ mượn công-tây-nơ là một thuật ngữ khoa học, một danh từ chuyên môn hay chuyên danh.
Thiết nghĩ đối với thuật ngữ thì giá trị định danh chính xác mà nó phải có là một yêu cầu cần để lên hàng đầu. Điều mà các nhà khoa học trong các ngành khoa học tự nhiên, khoa học kĩ thuật và khoa học xã hội đều muốn tránh, là tình trạng một khái niệm được định danh bằng những từ khác nhau, và một từ dùng để định danh những khái niệm không giống nhau. Cho nên, một mặt, nhà khoa học không thể không thấy yêu cầu của xã hội là chớ làm cho ngôn ngữ khoa học trở thành một thứ ngôn ngữ quá tách biệt khỏi ngôn ngữ chung của dân tộc; nhưng mặc khác, xã hội cũng không thể không thấy yêu cầu của nhà khoa học là chớ gây ra, bằng một quan niệm quá dễ dãi về thuật ngữ, những sự hiểu lầm có thể ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của khoa học. Trong tình hình hiện nay, ngành khoa học nào cũng có trình độ chuyên môn hoá sâu của nó cho nên tiếng nói quyết định trong việc xây dựng hệ thống thuật ngữ của mỗi ngành nói chung, và nói riêng, việc nên hay không nên dùng từ mượn, thay thế hay không thay thế từ mượn bằng từ của bản ngữ cần được dành cho các nhà khoa học của mỗi ngành. Tất nhiên, các nhà khoa học nên có sự cố gắng nhìn đến các nguyên tắc chuẩn mực hoá ngôn ngữ, trong khuôn khổ chuẩn mực hoá từ vựng.
Giá trị định danh chính xác của thuật ngữ, hiện nay, cũng có ý nghĩa quốc tế. Một trong các hoạt động của “Hội thuật ngữ học quốc tế” là thu thập thuật ngữ mới, của một số thứ tiếng trên thế giới (trong đó có tiếng Việt) để so sánh và phát hiện những hiểu lầm có thể sinh ra giữa các nhà khoa học ở những nước khác nhau nhưng hoạt động trong cùng một ngành. Tuy vậy, ở diện quốc tế, vấn đề thống nhất hoá hay quốc tế hoá thuật ngữ lại có một khía cạnh tư tưởng đáng chú ý là một số nước đã đi những bước trước trong một ngành khoa học nhất định, có ý muốn dùng thuật ngữ của nước mình là cái cơ sở cho thuật ngữ của những nước khác. Thí dụ, không ít người cho rằng các khái niệm của điều khiển học đã sinh ra và được hoàn chỉnh hoá trước ở Mĩ, cho nên đồng bộ thuật ngữ của ngành này ở bất cứ nước nào cũng nên mượn của Mĩ. Quan điểm ấy không phải đã được tán thành một cách dễ dàng, và cũng không ít người ở những nước khác, những nước có vai vế như Mĩ về mặt khoa học, cho rằng sự tràn lan của những “americanisme” ấy là vô lối, và cần phải nhìn lại. Những quan niệm như thế ở góc độ này hay ở góc độ kia, ở góc độ nào cũng thể hiện quan điểm tư tưởng, với ít hay nhiều màu sắc dân tộc chủ nghĩa, thậm chí sô-vanh chủ nghĩa. Vì thế, một nước đang phát triển về khoa học và đang làm công tác thuật ngữ học, như nước ta, không nên mắc vào sự tranh cãi như thế, và trong trường hợp cần phải dùng từ mượn làm thuật ngữ thì mượn của tiếng nào là chủ động lựa chọn theo tiêu chuẩn về tính chất hệ thống có thể đạt được trong tiếng Việt và theo quan điểm, như đã nói, về sự tiếp xúc ngôn ngữ càng ngày càng rộng mở giữa tiếng Việt với các thứ tiếng khác…
Về nhu cầu gợi cảm, cũng cần thấy rằng không phải chỉ từ mượn có khả năng đáp ứng, mà trái lại, ưu thế ở mặt này nói chung thuộc về từ bản ngữ. Nhưng thế nào là sự gợi cảm của từ? Có thể tạm nói rằng từ mà có sức gợi cảm là khi mà ngoài chức năng định danh, nó còn có thể tạo nên những mối liên hệ đặc biệt giữa ý thức với thực tế, trong một hoàn cảnh nhất định. Như vậy, nhu cầu gợi cảm một từ cũng có thể xem là nhu cầu về phong cách ngôn ngữ, và cũng có thể nhận thấy rằng trong những hoàn cảnh nhất định, từ mượn cũng có tác dụng riêng.
Chẳng hạn, trong tiếng Việt, thường có cách khai thác tác dụng gợi cảm của từ mượn gốc Hán, tức là từ Hán Việt. Thí dụ, từ nguyệt không phải “quốc âm” mà rất Đường thi ấy đã được Nguyễn Trãi dùng năm trăm năm trước, trong một câu thơ mà đọc lên ta cảm thấy không những có trăng, có rượu mà còn có tâm tư, có cả phong độ của một con người: “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng nghiêng chén”. Ngày nay, vẫn còn cách dùng từ nguyệt như vậy trong những câu thơ có ánh trăng, tất nhiên với sự thành công không giống nhau, và cả những lí do kĩ thuật có khác nhau, nhưng đều với cái ý thức của nhà thơ là muốn dùng một chất liệu hình thức ngoại, đã có phần đồng hoá, nhưng chưa hoàn toàn, và do đó mà chất liệu nội dung cũng có màu sắc riêng.
Ở những hoàn cách khác hẳn, cũng có thể thấy tác dụng gợi cảm của từ mượn. Thí dụ, trong nhiều ngôn ngữ, ở những hoàn cảnh có nói đến thể thao, đến việc ăn, việc mặc là cứ thấy cái thế mạnh khá rõ của từ mượn, của những từ như: gôn, pê-nan-ti… hay rô-ti, mằn thắn, va-li-de… Thực ra, những từ như thế đã rất gần với từ ngoại.
Trong phong cách khoa học, thì từ mượn dùng làm thuật ngữ do không có tác dụng gợi cảm riêng của nó, nên chính vì thế mà tạo cho phong cách này tính chất trung hoà, túc là ít gợi cảm, là đặc điểm của nó, so với phong cách thơ, phong cách nghệ thuật.
Nếu nói riêng về phong cách báo chí thì có thể khác, bởi vì phong cách này, có khi, cần phát huy tác dụng chiến đấu và thông tin, tức cũng là tác dụng gợi cảm, gợi nhiều mối liên hệ, cho nên loại từ mượn có tính chất thuật ngữ và gần với từ ngoại có thể có giá trị riêng. Thí dụ, nói lại gần như trích dẫn theo bài báo của bọn phản động quốc tế là “nhân quyền“, là “đề-tăng” (hoặc détente) thì thiết tưởng, do khác về chất liệu hình thức, nên khác về chất liệu nội dung, so với quan điểm và cách nói của ta là quyền con người, là làm dịu căng thẳng

Sunday 20 May 2012

Gá thổ đổ hồ là làm gì?


Gá thổ là chăn dắt gái mại dâm. Nhà thổ là nhà chứa gái.
Hồ là cái hộp đựng tiền xâu trong sòng bạc. Đổ hồ là mở sòng bạc.
Đó là những nghề bị ông bà ta ngày xưa xem là bất lương.

Chũ "bị" và con đường Việt hóa các từ gốc Hán (Lê Xuân Mậu)

Tác-giả: Lê-Xuân-Mậu
(Tạp chí Tài hoa trẻ)
Một chút lai lịch
Đúng ra thì phải “vẽ” ra cái chữ Hán này để khỏi lầm với ít nhất là ba, bốn chữ khác cũng đọc là “bị” (theo các ông Đào Duy Anh và Nguyễn Văn Khôn) nhưng làm thế là không cần lắm với nhiều bà con mình. Cái chữ “bị” nói đến ở đây thực ra có đến ba nghĩa. Hai nghĩa khác ta không đưa vào tiếng Việt là: cái mềm, khắp đến. Còn nghĩa “chịu, mắc phải” xin được nói sau.
Một điều đáng nói nữa là cái chữ này có tới hai cách đọc khi sang Việt Nam theo phát hiện của ông Nguyễn Tài Cẩn (*). Đó là cách đọc “bị” và cách đọc “phải” mà ta thường cho là thuần Việt.
Một bước tiền trạm
Theo ông Nguyễn Tài Cẩn, xưa kia tiếng Việt chưa có hình thức diễn đạt sắc thái đánh giá tiếp nhận tốt xấu, hoặc may rủi. Người ta đã mượn của tiếng Hán yếu tố được một hình thức phát âm một chữ, sau này âm Hán Việt đọc là đắc (đắc thắng, đắc ý, đắc cử…) để diễn đạt sắc thái đánh giá “tốt, may”: được khen, làm được… Và họ mượn yếu tố phải để diễn đạt sắc thái đánh giá xấu, rủi: phải phạt, giẫm phải gai…
Sự việc đó diễn ra trước khi có âm Hán Việt (mượn từ thời Đường) nên thường các chữ “được”, “phải” đều coi như từ thuần Việt. Khi đã có anh em sinh đôi (phải) diễn đạt ý nghĩa đánh giá tiếp nhận “rủi, xấu” thì bị không được mượn vào tiếng Việt nữa (vì không cần). Bị chỉ được mượn vào tiếng Việt với tư cách là một từ tố nằm trong vài từ ghép như bị cáo, bị động, (số) bị trừ, (số) bị nhân…
Đến lúc phải vào
Đó là tình hình trước đây chừng vài ba thế kỷ, sau đó thì bị phải vào, tức là tiếng Việt phải mượn nó để diễn đạt ý nghĩa đánh giá sự tiếp nhận “xấu, rủi”. Tại sao có bước ngoặt ấy?
ấy là vì có sự quá tải của chữ “phải”! Phải làm nhiều việc quá, dễ sinh nhầm lẫn. Phải đã chỉ cái sắc thái chịu sự “rủi, xấu” lại còn phải thể hiện thêm ý nghĩa “cần thiết phải”, “buộc phải làm” (Tôi phải ra ga). Nó lại còn phải thể hiện ý “đúng” (Anh phải, nó trái).
Thế là để khỏi lầm, người ta chuyển giao trách nhiệm diễn đạt sắc thái tiếp nhận “xấu, rủi” sang cho bị là chính. Do đó ngày nay, chủ yếu sắc thái này được thể hiện bằng từ bị: bị phạt, bị đòn, bị đánh, bị ế, bị điểm xấu… Tuy nhiên, do bị ở chữ Hán chỉ đi trước động từ, danh từ… nên vào tiếng Việt nó cũng chỉ ở vị trí đó. Cho nên, “phải” vẫn còn được lưu giữ ở một vài cụm từ đã dùng quen như phải gió, phải biết, phải vạ, phải một bữa đó… Đặc biệt, trong những trường hợp đối ứng với được đi sau động từ thì phải vẫn phải có mặt như kiểu: ăn được/ ăn phải, vớ được/ vớ phải…
Thực sự hòa nhập
Khi đã vào tiếng Việt lâu dài, bị đã hòa nhập cùng cộng đồng ngôn ngữ Việt. Nếu không biết chữ Hán, mấy ai biết cái chữ bị quen thuộc này lại là ngoại lai! Thế cho nên, bị hoạt động cũng thoải mái lắm. Nó không chỉ đi trước các động từ, tính từ, danh từ… mà còn cả các cụm động từ – bổ ngữ, cụm chủ vị (bị đau chân, bị vỡ sọ, bị người ta chê cười, bị vợ ăn vạ…) nghĩa là tất cả kết cấu làm được bổ ngữ chỉ đối tượng trực tiếp của nó.
Chữ bị này hoạt động mạnh mẽ quá nên nhiều lúc dường như nó không còn là một động từ nữa, nó “hư hóa” đi. Nó chỉ như một yếu tố “ngữ khí”, nhấn mạnh cái sắc thái đánh giá: cái áo này bị xanh rồi, lòng luộc bị dai (bỏ đi, nội dung thông báo không khác)…
Đặc biệt gần đây, trong khẩu ngữ còn có lối nói đùa cợt thân mật, trẻ trung và cả hài hước nữa, khi người ta thể hiện một sự đánh giá theo hướng “tốt, may” như kiểu: Cô ấy hơi bị xinh đấy! Giọt nước hơi bị trong!… Chưa biết rồi đây, cộng đồng sử dụng tiếng Việt chúng ta có chấp nhận cái bước ngoặt nghịch ngợm này của chữ bị hay không, xin cứ tạm ghi nhận.
Đôi điều nhận xét
Dõi theo bước đường nhập Việt của cái chữ bị gốc Hoa này, ta có thể thấy có nhiều chữ gọi là “thuần Việt” nhưng thực ra cũng là từ mượn. Chả nên quá phân biệt đối xử để kỳ thị các từ mượn hợp lý. Có một điều rất lý thú là khi mượn từ, người Việt ta có sàng lọc: Không mượn các nghĩa không cần (bị cũng có nghĩa là cái mền), không để lẫn lộn sắc thái tốt, xấu như ở ngôn ngữ gốc (Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh còn ghi bị tuyển cử nhân = người được nhân dân tuyển cử).
Điều thứ hai dễ nhận là việc du nhập của các từ mượn được cộng đồng chấp nhận, sử dụng đều do nhu cầu nội tại của hệ thống tiếng Việt và tuân theo các quy tắc khá chặt chẽ (như cần thì mượn, không thì thôi, vừa phải tiết kiệm lại vừa phải phân công giữa các từ để tránh hiểu lầm, khó cho giao tiếp…).
Điều thứ ba là khi đã mượn từ, dân mình rất thoáng, không định kiến, coi bình đẳng như các từ khác để nó thỏa sức hoạt động như con dân tiếng Việt thực thụ.
Vì vậy, chẳng nên như một số trong chúng ta bị phong cách nhà nho gò bó, “chiếu trải không ngay ngắn không ngồi”. Khi gặp từ Hán Việt là giở sách cổ ra đối chiếu chê chỗ này chệch âm, chỗ kia sai nghĩa cũ, và để rồi không bao giờ chấp nhận những cách dùng khá hay, nhưng chưa được ghi vào từ điển, sách ngữ pháp. Rõ ràng như thế là không tôn trọng cái thực tiễn của các từ ngữ sống động trong đời sống.
Lê Xuân Mậu
(Tạp chí Tài hoa trẻ)

Saturday 19 May 2012

Cấp giấy chứng minh cho bốn chữ cái (Nguyễn Đức Dương, Tuổi Trẻ 7/5/2012)

Hôm 3-5, TS giáo dục học Lê Vinh Quốc có bài viết nhận xét “bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành” là thiếu “chính xác và nhất quán”.
Do đâu mà bộ ký tự hết sức ổn định gồm 29 chữ cái hiện hành, một công cụ vừa tiện dụng vừa khoa học để ghi lại một cách trung thực bộ mặt ngữ âm của tiếng Việt và từng được nhiều nhà ngữ học tên tuổi cả trong lẫn ngoài nước (như Cao Xuân Hạo, Laurence C. Thompson, các giáo sư Hoàng Phê, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Văn Lợi...) đánh giá rất cao lại bị chê trách nặng lời đến thế?
Câu trả lời chắc tự nó sẽ đến nếu chúng ta không hiểu công dụng chủ chốt của các bảng chữ cái và giá trị của bốn ký tự “bị dùng lậu” F, J, W và Z, như TS Quốc từng hiểu.
Thật thế, theo TS Quốc thì “tính khoa học” và “tính nhất quán” của một bảng chữ cái vốn được thể hiện rõ nhất và cơ bản nhất qua khả năng đánh số thứ tự các hàng ghế trong rạp hát hay rạp chiếu bóng, trong toa xe hay trên sân vận động, cũng như qua khả năng đánh số thứ tự các đề mục/tiểu mục trong những báo cáo khoa học hay công tác, hoặc qua khả năng gọi tên hình này hình nọ ở môn hình học.
Trong khi đó giới ngữ học lại quen đánh giá tính khoa học và tính nhất quán của một bảng chữ cái qua khả năng ghi lại đủ chân thực, đủ chân xác bộ mặt ngữ âm của các từ ngữ trong một thứ tiếng, vì theo họ hình dung đây mới là công dụng chủ chốt nhất và hệ trọng nhất của các bảng chữ cái. Cách nhìn nhận vấn đề khác nhau tất đưa đến các kết quả đánh giá khác nhau. Đó là điều dễ hiểu, cho nên chắc hẳn chúng ta khỏi phải bàn nhiều. Bởi thế, tiếp theo đây có lẽ chúng ta nên dành thì giờ để bàn đến chuyện: làm cách nào để cấp “giấy chứng minh” cho bốn chữ cái “bị dùng lậu”?
Thực tế ngôn ngữ cho thấy từ mấy thập niên gần đây, trên các văn bản viết bằng chữ quốc ngữ, bốn ký tự F, J, W, Z đã được dùng công khai và ngày một nhiều để ghi các ký hiệu trong mấy môn vật lý, hóa học, toán học... (F, J, W, Hz...), để viết các dạng tắt tên riêng của các tổ chức nước ngoài (FAO, WHO...), để viết các thuật ngữ khoa học - công nghệ (kim loại wonfram, định dạng file, các trang web), để viết các nhân danh/địa danh nước ngoài (California, Zagreb, Washington...), để ghi các từ ngữ nước ngoài dùng trong giao tiếp thường nhật (quần jeans áo jacket, võ judo...).
Trong các cuộc thảo luận về việc sử dụng bốn ký tự trên trong văn bản tiếng Việt thì hầu hết ý kiến đều tán thành việc dùng những ký tự ấy cho ba trường hợp đầu, nhưng dùng cho hai trường hợp cuối lại gây nên lắm cuộc tranh luận sôi nổi mà đến nay vẫn chưa ngã ngũ.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, ngay từ bây giờ chúng ta nên cấp “giấy chứng minh” cho bốn ký tự ấy thì hơn, bởi sớm muộn nước ta cũng sẽ hội nhập ngày càng sâu thêm vào cộng đồng thế giới, và các thế hệ đi trước càng đón đầu sớm bao nhiêu thì các thế hệ đi sau càng đỡ thiệt thòi bấy nhiêu.
NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG

Có bị kỳ thị hay không (An Chi - Năng Lượng Mới số 121 ,18-5-2012)

Bạn đọc : Nói về bảy chữ cái Ă, Â, Đ, Ê, Ô, Ơ và Ư, trong bài “Những chữ cái bị kỳ thị” đăng trên Tuổi Trẻ  ngày 3-5-2012, TS Giáo dục Lê Vinh Quốc viết:
“Nếu chỉ sử dụng để đánh vần (hay ghép vần), đọc, viết hay biên soạn từ điển thì những chữ biến thể này dường như không có vấn đề gì phải bàn. Nhưng khi sử dụng chúng trong những trường hợp khác lại có vấn đề phát sinh.”
Xin hỏi ông An Chi có nhận xét gì về “những trường hợp có vấn đề phát sinh” mà TS Lê Vinh Quốc đã nêu.
                                                                                      (Nguyễn Hữu Huỳnh Đức – Thành phố Vũng Tàu).
An Chi : Về “những trường hợp có vấn đề phát sinh”, TS Lê Vinh Quốc đã viết như sau:
“Khi cần sắp xếp một hệ thống nào đó theo vần chữ cái, người ta chỉ dùng các chữ cái Latin gốc mà không dùng đến các chữ biến thể đó. Chẳng hạn, khi dùng bảng chữ cái để ghi ký hiệu các hàng ghế của hội trường, nhà hát, rạp chiếu bóng, sân vận động hay tàu xe, người ta đều ghi theo thứ tự như sau: A, B, C, D, E, G (...) O, P, Q (...), T, U, V, X, Y... Như vậy tức là các chữ biến thể (Ă, Â, Đ, Ê, Ô, Ơ, Ư) đã hoàn toàn bị loại bỏ.
“Khi cần trình bày các luận điểm theo thứ tự vần chữ cái, người ta cũng thản nhiên bỏ qua những chữ đó. Trong các môn học ở nhà trường, khi cần dùng bảng chữ cái để trình bày các ký hiệu hay công thức, những chữ này không bao giờ được áp dụng. Chẳng hạn ở môn hình học luôn có các tam giác A - B - C, nhưng chưa bao giờ có tam giác A - Ă - Â!”
Về ý kiến trên đây của TS Lê Vinh Quốc,  nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương đã châm biếm nhẹ nhàng:
“Theo TS Quốc thì “tính khoa học” và “tính nhất quán” của một bảng chữ cái vốn được thể hiện rõ nhất và cơ bản nhất qua khả năng đánh số thứ tự các hàng ghế trong rạp hát hay rạp chiếu bóng, trong toa xe hay trên sân vận động, cũng như qua khả năng đánh số thứ tự các đề mục/tiểu mục trong những báo cáo khoa học hay công tác, hoặc qua khả năng gọi tên hình này hình nọ ở môn hình học.
“Trong khi đó giới ngữ học lại quen đánh giá tính khoa học và tính nhất quán của một bảng chữ cái qua khả năng ghi lại đủ chân thực, đủ chân xác bộ mặt ngữ âm của các từ ngữ trong một thứ tiếng, vì theo họ hình dung đây mới là công dụng chủ chốt nhất và hệ trọng nhất của các bảng chữ cái.” (Cấp “giấy chứng minh” cho bốn chữ cái, Tuổi Trẻ, ngày 7-5-2012).
Nhưng TS Quốc thì kết luận: “Nếu xét về tính khoa học của một ngôn ngữ thì việc 7/29, tức gần 1/4 số chữ cái không được sử dụng trong các trường hợp nêu trên lại cho thấy sự không bình thường của bảng chữ cái chính thức: những chữ cái biến thể không được coi là bình đẳng với những chữ khác.”
Nếu ta được phép diễn ra cho rõ cái ý châm biếm của nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương thì “các trường hợp nêu trên” lại thuộc những lĩnh vực phi ngôn ngữ nên ở đây chẳng làm gì có chuyện “những chữ cái biến thể không được coi là bình đẳng với những chữ khác”.
Đó là ta còn chưa nói đến sự nhầm lẫn nghiêm trọng của TS Lê Vinh Quốc khi ông viết:
“Đến nay, các nhà ngôn ngữ học vẫn không hiểu vì sao khi sáng tạo ra chữ quốc ngữ, linh mục Alexandre de Rhodes đã loại bỏ bốn chữ cái gốc Latin nêu trên (tức bốn chữ F, J, W, Z – AC) để rồi phải dùng PH thay cho F, dùng GI thay cho J và dùng D để ghi cái âm đáng lẽ thuộc về Z; rồi lại phải chế ra chữ Đ để ghi cái âm vốn thuộc về D?”
Thực ra thì chính TS Quốc không hiểu chứ đâu phải “các nhà ngôn ngữ học vẫn không hiểu”. Trước nhất, và sai từ gốc, là TS Quốc không biết rằng A. de Rhodes không phải là người đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Vâng, không hề. Thứ đến, là về sự chế tác các chữ hoặc chữ kép PH, GI, D (thay cho Z) và Đ (để ghi cái âm vốn thuộc về D), ông cũng nói sai.
Về PH, chính A. de Rhodes đã viết như sau:
“F, hay đúng hơn là ph, bởi vì không đòi phải giề hai môi như của chúng ta, nhưng đúng hơn là, trong khi đọc hay phát âm, thì nhếch môi cách nhẹ nhàng với một chút hơi thở ra, vì thế trong từ điển chúng tôi không dùng chữ f, mà dùng chữ ph, bởi vì các sách đã chép từ lâu đều sử dụng như vậy.” (Từ điểnAnnam-Lusitan-Latinh, Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính phiên dịch (phần “Báo cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh”, tr.6), Nxb Khoa học xã hội, 1991).
Khi mà “các sách đã chép từ lâu đều sử dụng như vậy”, như chính A. de Rhodes đã thừa nhận, thì hiển nhiên chữ kép PH cũng đâu phải do ông ta đặt ra. Và sự chế tác này có lý do ngữ học thực tế và xác đáng của nó, như chính A. de Rhodes đã giải thích và như sau đó 344 năm, Nguyễn Tài Cẩn đã chứng minh và khẳng định:
“ Lên đến thế kỉ 17 ta chỉ thấy cách phát âm tắc bật hơi Ph. K.J. Gregerson đã nghiên cứu kĩ cuốn từ điển 1651 (tức cuốn của A. de Rhodes – AC), đối chiếu cách miêu tả của A. de Rhodes với các văn bản Quốc ngữ cổ, với các cách nói địa phương, và đã đi đến kết luận như vậy.” (Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Sơ thảo), Nxb Giáo dục, 1995, tr.96).
Vậy cho đến thời của A. de Rhodes thì PH dùng dể ghi phụ âm tắc bật hơi chứ đâu có phải là một phụ âm xát  vô thanh mà TS Quốc đòi những người đặt ra chữ kép đó phải thay nó bằng F.
Về GI thì A. de Rhodes cho biết như sau khi nói về chữ G :
“G được sử dụng giống như chúng ta, thí dụ gallina (con gà mái); tuy nhiên cần ghi nhận điều này, khi viết ghe và ghi thì chúng tôi theo lối chính tả của Ý vì nó tiện lợi hơn cho ngôn ngữ này,cũng thế cả những tiếng giagiogiơgiu và giư đều phải phát âm theo kiểu Ý, vì như vậy, xem ra tiện lợi hơn. Vả lại trong các sách đã biên soạn thì thói quen đó đã thịnh hành (…)”. (Chỗ đd, tr.6-7).
Rõ ràng, như chính A. de Rhodes đã thừa nhận, cách ghi GI cũng chỉ là do chính ông ta đã làm theo những người đi trước và trong trường hợp này thì họ đã mượn cách ghi âm của chữ Ý là GI. Bảng chữ cái chính thức của tiếng Ý không có J nên đòi phải dùng chữ này thay cho GI là một điều không thực tế.
Về chữ D, mà TS Quốc cho là dùng để ghi cái âm đáng lẽ thuộc về Z, thì ý kiến của ông cũng sai nốt. Vào cái thời tương ứng với lúc (hoặc trước lúc) chế tác chữ quốc ngữ thì Nguyễn Tài Cẩn cho ta biết D có hai nguồn gốc : một là từ *t của tiếng Hán và hai là từ thanh mẫu dương (hay di) với âm trị là *j. (Sđd, tr.63). Dĩ nhiên là *t không thể ghi bằng Z đã đành mà cả *j cũng không thể ghi bằng Z. Đáng chú ý là hiện nay, trong Nam vẫn phát âm D thành [j].
Còn về mối quan hệ “anh em” giữa D và Đ thì Nguyễn Tài Cẩn đã chứng minh để khẳng định rằng xưa kia chúng vốn có cùng một nguồn gốc (Sđd, tr.63). Vậy cũng không có gì lạ nếu mấy ông cố đạo đã ghi hai cái âm cùng gốc bằng hai chữ cái cùng một “khuôn hình”.
Tóm lại, bài của TS Lê Vinh Quốc là một bài không có chất lượng về phương diện ngữ học; đặc biệt việc ông đưa ra “những trường hợp có vấn đề phát sinh” thì lại là những trường hợp tuyệt đối chẳng liên quan gì đến việc sử dụng “bảy chữ cái bị kỳ thị” về mặt ngôn ngữ.